• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Tìm hiểu về chính sách kinh tế mới - NEP ở Liên Xô (1921-1929)

  • Thread starter Thread starter vatuday
  • Ngày gửi Ngày gửi

vatuday

New member
Xu
0
Tìm hiểu về chính sách kinh tế mới-NEP ở Liên Xô (1921-1929)


Bài này mình tự mày mò và nghiên cứu.



A, MỞ ĐẦU

1, Lý do chọn đề tài

-Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội mà C.Mác đã nghiên cứu - xây dựng, cùng với đó là sự vận dụng học thuyết vào việc phân tích xã hội Tư bản hiện thời đã giúp Ông vạch ra các quy luật vận động phát triển của xã hội và đi đến kết luận đầy tính khoa học về sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội cao hơn - hình thái chủ nghĩa Cộng Sản, mà giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội. Nếu tính từ những mầm móng xuất hiện đầu tiên của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từ cuối hậu kỳ trung đại, thì hình thức xã hội Tư bản chủ nghĩa ra đời trên dưới 5 thế kỷ. Chỉ tính từ khi cuộc Cách mạng tư sản Nê-đéc-len thì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được hình thành cũng được gần 4 thế kỷ. Còn Chủ nghĩa xã hội khoa học thì sao? Lịch sử đã chứng minh Chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ có hơn 150 năm, và từ khi Cách mạng tháng Mười Nga, nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên được thành lập cho đến ngày nay cũng chỉ mới hơn 90 năm. Thành công của cách mạng Tháng Mười khẳng định rằng chỉ có cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của một Đảng dựa trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin giành chính quyền về tay giai cấp vô sản mới thực sự đem lại quyền lợi cho người lao động. Cách mạng Tháng Mười thành công đã hiện thực hóa lý tưởng về một xã hội mới – Xã hội chủ nghĩa, mà trước đó chỉ là những ước mơ, chứng minh trên thực tế luận điểm về: sụp đổ tất yếu của Chủ nghĩa tư bản và loài người sẽ quá độ sang một xã hội mới mà ở đó không còn người bóc lột người, và nó còn không chỉ hiện thực hóa mục tiêu cách mạng là giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, xóa bỏ chế độ tư hữu, mà còn khẳng định con đường giải phóng triệt để nhân dân lao động trên thế giới, khẳng định vai trò, sứ mệnh của lực lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp giải phóng và xây dựng xã hội của giai cấp công nhân. Sau cách mạng Tháng Mười, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhân dân Xô viết vượt qua nhiều khó khăn thử thách, với sự hy sinh to lớn cả về người và của tiếp tục bảo vệ và phát triển những lý tưởng về chủ nghĩa xã hội, phát triển Chủ nghĩa xã hội trong hiện thực.

-Lịch sử thế giới hiện đại được mở đầu bằng sự kiện Cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga, đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình lịch sử của nhân loại. Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga đã dẫn đến sự ra đời của nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới- nước Nga Xô viết nằm giữa vòng vây của các nước thù địch. Và như vậy, đặc điểm lớn của lịch sử thế giới hiện đại đó là Chủ nghĩa xã hội đã đập tan sự thống trị, riêng biệt của Chủ nghĩa tư bản trên vũ đài chính trị quốc tế. Tuy vậy muốn khẳng định giá trị và sự tồn tại có ý nghĩa của mình, Chủ nghĩa xã hội sẽ trải qua rất nhiều cuộc đấu tranh với Chủ nghĩa tư bản. Thực tế cuộc đấu tranh này sẽ diễn ra rất lâu để phân định được kết quả cuối cùng, nhưng ta có thể chắc chắn một điều, Chủ nghĩa xã hội không thể diệt vong, nó sẽ đi vào giai đoạn mới cùng tồn tại trong cạnh tranh và cùng đấu tranh hợp tác với Chủ nghĩa tư bản. Trong 100 năm của thế kỉ XX, các nước Xã hội chủ nghĩa từ không đến có, từ một nước phát triển thành nhiều nước, giành được nhiều thành tựu huy hoàng, thay đổi cả bộ mặt thế giới một cách lớn lao. Khi đó, Chủ nghĩa xã hội được xây dựng theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Một mô hình đã phát huy tác dụng và vai trò tích cực nhất định trong khoảng thời gian dài của lịch sử. Nhưng cho đến những năm của 80 của thế kỉ XX, tình hình thế giới đã có những thay đổi sâu sắc thì mô hình nay rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, dẫn đến sự sụp đổ của Chủ nghĩa xã hội của Đông Âu và Liên Xô. Từ đó, làm xuất hiện các quan điểm phủ nhận chế độ Xã hội chủ nghĩa cũng như khẳng định sự trường tồn vĩnh viễn của Chủ nghĩa tư bản. Nhưng rõ ràng cuộc khủng hoảng đó chỉ bác bỏ mô hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội theo kiểu Liên xô và Đông Âu lúc bấy giờ là không phù hợp, chứ không thể là sự bác bỏ hoàn toàn Chủ nghĩa xã hội với tư cách là xã hội cao hơn Xã hội tư bản chủ nghĩa. “Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của Chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất văn minh, hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản”[1]. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái quy luật (muốn xóa bỏ ngay kinh tế hàng hóa, áp dụng ngay cơ chế kinh tế phi thị trường), không năng động, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết nên kết quả đã không thành công.
-Nghiên cứu và học tập về nước Nga Xô viết giai đoạn này dưới góc độ của khoa học Lịch sử, ta không thể không nói đến chính sách kinh tế mới (NEP) một chính sách kinh tế đã đem lại những thắng lợi bước đầu trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ơ nước Nga- Liên xô. Những thành công đó đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Bônsêvích, gắn liền với tên tuổi Lenin. Sẽ là không ngoa khi ta nói, “nếu không hiểu về chính sách kinh tế mới (NEP) ta sẽ không hiểu gì về lịch sử nước Nga Xô viết giai đoạn đầu của quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội”. Ngày nay tất cả các nước đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường được sử dụng với mục đích khác nhau. Nếu như ở các nước tư bản chủ nghĩa thì đó là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, còn ở nước ta thỉ kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Và như vậy, chính cuộc khủng hoảng đó đã giúp cho chúng ta có thời gian để nhận thức rõ hơn về Chủ nghĩa xã hội và con đường tiến đến Chủ nghĩa xã hội. Nếu như cách mạng công nghiệp thế kỉ XVIII- XIX đã khẳng định vị thế và sự xác lập của phương thức sản xuất mới đó là Chủ nghĩa tư bản đối với chế độ Phong kiến thì rõ ràng cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật ngày nay đang tạo nên những tiền đề vật chất để thay thế Chủ nghĩa tư bản bằng Chủ nghĩa xã hội tiến bộ hơn. Ngay từ khi học môn Lịch sử thế giới hiện đại, em đã có những thắc mắc về vấn đề liên quan đến quá trình xây dựng mô hình Xã hội chủ nghĩa ở nước Nga- Xô viết, và khi nhắc đến giai đoạn đầu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nước Nga-Liên Xô lúc này ta lại không thể bỏ qua chính sách khinh tế mới (NEP). Và đến khi được học chuyên đề “Đường Lối Đổi Mới Ở Việt Nam” Thì những vấn đề liên quan đến chính sách ấy lại tăng lên. Một điều hiển nhiên, để tiến hành đổi mới đất nước, đưa nền kinh tế phát triển một cách cân đối, cân bằng với sự phát triển về xã hội buộc các nhà lãnh đạo phải có cái nhìn sáng suốt, nghiên cứu một cách ngiêm túc những lý luận về Chủ nghĩa Xã hội cũng như thực tiễn quá trình xây dựng mô hình phát triển kinh tế của các nước đi trước mà tiêu biểu là nước Nga Xô viết “Đưa ra và luận giải những nội dung căn bản trong chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin, đồng thời chỉ rõ ý nghĩa to lớn của nó không chỉ đối với công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế ở nước Nga-Xô viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, mà còn đối với công cuộc phát triển kinh tế ở Việt Nam trong những năm đổi mới".[2]
-Tình hình nước ta vào những năm 80 của thế kỉ XX đặt ra rất nhiều vần đề về kinh tế cũng như Xã hội, đòi hỏi các nhà lãnh đạo phải nhìn vào sự thật của vấn đề để có những giải pháp chiến lược mang tính dài hơi, những lý luận, thực tiễn khoa học rất cần phải được tận dụng triệt để. Do đó việc tìm hiểu và nghiên cứu về những chính sách kinh tế mà nước Nga Xô viết đã áp dụng là một điều rất cần thiết, nó không chỉ giúp ta có cái nhìn cận cảnh hơn về lịch sử nước Nga Xô viết giai đoạn này mà còn cung cấp cho ta những bài học, lý luận thực tiễn sâu sắc, từ đó giúp ta có những chính sách đúng đắn hơn, phù hợp hơn về thực tế lịch sử nước ta[3]. Trong quá trình xây dựng Xã hội chủ nghĩa hiện nay, Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

“Vận dụng chủ nghĩa Mác lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng Đảng. Việc Đảng luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta”[4]. Như vậy việc nghiên cứu và tìm hiểu về những chính sách kinh tế đã từng được sử dụng ở nước Nga Xô viết càng có ý nghĩa thực tiễn hơn bao giờ hết. Nó giúp ta thêm tin vào sự lựa chọn của Đảng, đó là kiên định đi theo con đường Xã hội chủ nghĩa. Tuy có nhiều cam go, thăng trầm và thử thách nhưng rồi tất yếu sẽ thành công.

2, Phạm vi nghiên cứu đề tài

-Chính sách kinh tế mới NEP được ra đời và áp dụng ở nước Nga năm 1921, đến năm 1922 thì Liên bang Xô viết ra đời, và chính sách này tiếp tục sử dụng trong toàn Xô viết cho đến năm 1929. Như vậy, không gian lịch sử có sự thay đổi, ban đầu chính sách kinh tế mới chỉ sử dụng trong nước Nga Xô viết nhưng đến năm 1922 thì được áp dụng cho toàn các Xô viết. Tuy nhiên vai trò và tác động của nước Nga khi thực hiện chính sách này là hết sức sâu sắc và mang tầm ảnh hưởng rộng lớn cho toàn Liên bang Xô viết. Do vậy đề tài này em sẽ tập trung vào những sự kiện chọn lọc của nước Nga có tác động đến các khu vực khác để phân tích và nhận định.

-Khi tìm hiểu về chính sách kinh tế mới (NEP), em sẽ tiếp cận chủ yếu trong khoảng thời gian từ năm 1921 đến năm 1929. Tuy nhiên, để thấy được mối liên hệ biện chứng của các sự kiện cụ thể. Em sẽ đề cập đến tình hình nước Nga Xô viết trước và sau khi thực hiện chính sách Kinh tế mới. Điều này hoàn toàn phù hợp với phép biện chứng duy vật lịch sử. Vấn đề đặt ra ở đây đó là Chính sách Kinh tế mới có những nội dung như thế nào? Ra đời trong hoàn cảnh nào? Tác động cũng như ý nghĩa của nó đối với sự phát triển của nước Nga và Xô viết ra sao? Và liên hệ với thực tiễn của nước ta hiện nay thế nào?.. Sẽ là nội dung chính của bài tiểu luận. Ở đề tài này, em sẽ tiếp cận vấn đề dưới góc độ tìm hiểu và tổng quát góp phần nhỏ vào việc nghiên cứu về lịch sử nước Nga-Liên xô giai đoạn đầu của quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội.

3, Phương pháp nghiên cứu đề tài

-Bài tiểu luận này em nghiên cứu bởi 2 phương pháp chính dưới quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lenin, đó là Phương pháp lịch sử tức là em sẽ tìm hiểu vấn đề theo đúng với trình tự thời gian nó diễn ra, điều này sẽ giúp ta tiếp cận vấn đề theo đúng với sự nối tiếp các chuổi sự kiện, tạo nên mối liên hệ nhất định giữa chúng với nhau. Phương pháp này được em sử dụng khi dựng lại hoàn cảnh ra đời và quá trình thực tiễn của chính sách kinh tế mới.

Phương pháp logic được em sử dụng khi viết những đoạn tiểu kết, đan xen những đánh giá có tính khoa học của các nhà nghiên cứu từ những nguồn tài liệu mà em tìm được để góp phần nhỏ vào việc nhìn nhận chính sách kinh tế mới này một cách cụ thể nhất đúng với những gì nó đã tồn tại.

4, Lược sử nghiên cứu đề tài

-Tìm hiểu về chính sách kinh tế mới (NEP) là một đề tài đã được các nhà sử học nghiên cứu rất nhiều, tuỳ theo từng khía cạnh của đề tài (đó có thể là tìm hiểu dưới góc độ về kinh tế chính trị, nghiên cứu về những chính sách của Lenin, viết thông sử.v.v) mà những thành quả khoa học đó đã được khẳng định giá trị qua thời gian.

Tác phẩm Chính sách kinh tế mới của Lênin và vận dụng vào điều kiện ở nước ta, Nxb tp Hồ Chí Minh, 1988 của Trần Ngọc Hiên đã đề cập khá đầy đủ những nội dung qua trọng của Chính sách kinh tế mới, phân tích một cách sâu sắc các mối liên hệ giữa các khu vực kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, ngoại thương, tài chính tiền tệ…) Đặc biệt, tác phẩm này đã phân tích và nhận định những tác động của chính sách đối với sự phát triển kinh tế xã hội cho thấy được sự học tập mô hình xây dựng CNXH và sự vận dụng theo những cách linh hoạt vào thực tế tình hình nước ta một cách có chọn lọc.

Tác phẩm Hai Chủ Nghĩa Một Trăm Năm, của Tiêu Phong. Tác phẩm là công trình nghiên cứu của một nhà nghiên cứu lịch sử học của Trung Quốc do nhà xuất bản Chính Trị quốc gia xuất bản đã có những nghiên cứu và nhận định rất hay về việc xây dựng mô hình CNXH trong thời đại ngày nay, sự cần thiết của việc xây dựng mô hình kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Tuy nhiên tác phẩm được viết dự trên quan điểm của riêng tác giả, nên một số vấn đề lịch sử được nhìn nhận dưới góc độ khác nhiều với quan điểm nghiên cứu lịch sử ở nước ta.

Do vậy, với trình độ kiến thức của một sinh viên học tập môn khoa học Lịch sử, em chỉ tổng hợp và chọn lọc những nhận định và đánh giá có giá trị khoa học ở những bài nghiên cứu trước đây.

5, Bố cục đề tài

-Dựa vào nguồn tài liệu mà em có được, và nhựng kiến thức em tiếp thu được trong quá trình học tập, em sẽ chia bố cục bài tiểu luận ra bốn phần chính. Phần thứ nhất sẽ là lời mở đầu, giới thiệu ngắn gọn về nội dung và bố cục nghiên cứu đề tài. Phần thứ hai sẽ trình bày nội dung chính của đề tài, ở phần này em sẽ chia ra 2 mục lớn. Đề cập đến hoàn cảnh ra đời chính sách kinh tế mới ở nước Nga-Xô viết sẽ là mục thứ nhất, mục thứ hai sẽ nói đến nội dung và quá trình thực tiễn của chính sách. Phần thứ ba sẽ là phần kết luận, ở phần này em sẽ dựa trên những thành quả nghiên cứu khoa học của các nhà nghiên cứu trước đây và những nhận định của riêng em để đưa ra những nhận xét mà theo riêng cá nhân em là xác đáng và rõ ràng nhất về chính sách kinh tế mới (NEP). Đồng thời, trong phần này em sẽ đưa vào một mục nhỏ nói đến sự liên hệ giữa chính sách kinh tế mới với thực tiễn tình hình ở Việt Nam những năm đầu của thời kỳ Đổi mới cũng như tình hình hiện nay, góp phần nhỏ vào những lý luận mang tính khoa học và chân thực vào quá trình Đổi Mới ở nước ta. Và phần cuối cùng sẽ đề cập đến những danh mục tài liệu được em sử dụng trong quá trình nghiên cứu.



B, NỘI DUNG

I, HOÀN CẢNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI (NEP) Ở NƯỚC NGA- LIÊN XÔ ( 1921-1929).

1, Khái quát tình hình nước Nga từ sau Cải cách Nông nô đến chiến tranh can thiệp của các nước đế quốc (1861-1920).

- Sau cuộc cải cách nông nô năm 1861, nền kinh tế Nga phát triển theo con đường Tư bản chủ nghĩa (TBCN). Theo Lênin, ở nước Nga trước Cách mạng Tháng Mười, Chủ nghĩa tư bản (CNTB) phát triển chưa vững mạnh, còn đi sau các nước Tây Âu, nhưng Nga đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Lúc này ở nước Nga đã đạt được trình độ cao về tổ chức sản xuất công nghiệp, do đó nền kinh tế quốc dân có tốc độ phát triển nhanh chóng. Cùng thời điểm này, Anh, Pháp, Đức lại đầu tư rất mạnh vào Nga, riêng Pháp là 5 tỉ rúp, vốn của Anh, Pháp chiếm 45% - 60% tư bản cổ phần ở Nga. Vì vậy, nhiều ngành công nghiệp quan trọng phát triển rất nhanh như luyện kim, khai khoáng, cơ khí, dầu khí... tỷ trọng công nghiệp của Nga chiếm 4% sản phẩm công nghiệp và đứng thứ 5 thế giới. Nhưng nước Nga, tuy bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, song vẫn là tư bản loại yếu, lệ thuộc vào tư bản phương Tây.

Cuối thế kỷ XIX những tổ chức độc quyền đầu tiên được hình thành ở Nga và đến đầu thế kỷ XX nước Nga thực sự bước sang chủ nghĩa đế quốc như các nước tư bản khác, nhưng ở Nga vẫn còn tồn tại các tàn tích của chế độ phong kiến nông nô, chế độ chuyên chế chưa được xóa bỏ. Vì vậy, đế quốc Nga mang tính chất đế quốc phong kiến quân phiệt.

Quy luật về sự phát triển không đều của CNTB trong giai đoạn độc quyền đã đưa đến hệ quả là cách mạng Xã hội chủ nghĩa không thể cùng một lúc ở nhiều nước, mà có thể thắng lợi trước tiên ở một số nước, hoặc thậm chí ở một số nước tư bản đơn lẻ có trình độ kém phát triển nhất. Nước này phải là khâu yếu nhất trong hệ thống Chủ nghĩa tư bản, là nơi hội tụ mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản được bộ lộ một cách gay gắt nhất, đồng thời giai cấp vô sản và đảng tiên phong nó có khả năng lãnh đạo cách mạng nhất. Nước Nga lúc này đã hội tụ những yếu tố đó, năm 1914 chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Nga hoàng đẩy nhân dân vào cuộc chiến tranh này. Cuộc chiến tranh đã tàn phá nước Nga, làm cho nền kinh tế bị kiệt quệ: tiềm lực công nghiệp chỉ còn một nửa mức trước chiến tranh, sản lượng nông nghiệp bị giảm 20%, chỉ còn lại 1/2 chiều dài đường sắt và các phương tiện vận tải, lạm phát nghiêm trọng, năm 1916 nạn đói khủng khiếp xảy ra. Và như vậy, chiến tranh như là một liều thuốc thử thách sức đề kháng của một chế độ, một đất nước. Lúc này, chính cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm bộc lộ mọi sự yếu kém của nước Nga.

Khi mà những mâu thuẫn xã hội không thể dung hòa thì tất yếu những cuộc cách mạng nổ ra và đem đến sự thành lập chính quyền mới. Thành công của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười (Cách mạng Tháng Mười nổ ra ngày 7-11-1917 nhưng theo lịch của nước Nga là ngày 25-10). Đó là một cuộc cách mạng có ý nghĩa lịch sử trọng đại không chỉ đối với nước Nga, mà còn đối với toàn thế giới, mở ra thời đại mới - thời đại quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.Ngay khi vừa nắm chính quyền, những người Cộng sản Xô viết đã thực hiện “Sắc lệnh ruộng đất” nhằm thỏa mãn những nguyện vọng từ lâu đời của nông dân Nga, đây là một chính sách với nội dung chủ yếu là tịch thu ruộng đất cũng như nông cụ của địa chủ, một phần của phú nông để phân chia lại cho nông dân, và chính sách này đã xóa bỏ những khoản tiền lĩnh canh phải nộp hàng năm của nông dân, xóa được những khoản nợ ngân hàng lớn của nông dân. Đem đến niềm tin và sự ủng hộ rất lớn từ những người bần nông, nông dân, trung nông.v.v. Đây là thắng lợi của cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, củng cố chính quyền Xô viết và sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích. Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười và sự ra đời của nhà nước Xô viết đã làm cho các nước đế quốc hết sức lo lắng. Cuối năm 1918 quân đội 14 nước đế quốc cấu kết với các lực lượng phản cách mạng trong nước mở cuộc tấn công nhằm tiêu diệt nước Nga Xô viết (chủ yếu là Anh, Pháp, Mỹ và Nhật) chúng đã nhanh chóng tập hợp lại cùng với những thế lực cũ (tư sản, địa chủ, giớ sĩ quan quân đội sa hoàng, các chính đảng của Mensêvích. Trăm Đen, KD..được gọi chung là bọn Bạch Vệ) để chống phá nhà nước XHCN non yếu. Tháng 11-1918, Hội đồng quốc phòng công nông được thành lập do Lênin đứng đầu. Để đối phó với tình hình đó, đầu 1919 chính quyền Xô viết đã thực hiện chính sách “Cộng sản thời chiến”. Nhà nước kiểm soát toàn bộ nên công nghiệp: quốc hữu hóa đại công nghiệp và công nghiệp vừa và nhỏ nhằm tích lũy hàng tiêu dùng tiếp tế cho quân đội. Trưng thu lượng thực thừa của nông dân. Nhà nước độc quyền lúa mì. Năm 1920 chế độ này được áp dụng với cả khoai tây, rau đậu và nhiều nông phẩm khác. Thi hành chế độ cưỡng bức lao động. Nhờ thực hiện Chính sách "cộng sản thời chiến" mà Nhà nước Xô-viết mới có lương thực để cung cấp cho quân đội và nhân dân, bảo đảm đánh thắng thù trong giặc ngoài. Khi đánh giá về chính sách đó, Lênin đã khẳng định “Trong điều kiện chiến tranh mà chúng ta đã lâm vào thì về cơ bản chính sách đó là đúng.

Bắt đầu từ sáng kiến vĩ đại của công nhân đường sắt và sau đó được công nhân cả nước hưởng ứng, khí thế lao động của quần chúng được lên cao: "Ngày thứ bảy lao động Cộng sản chủ nghĩa" được thực hiện trên toàn nước Nga. Đến cuối năm 1920 Nga đẩy lùi sự can thiệp của các nước đế quốc, bảo vệ chính quyền non trẻ. Cuộc nội chiến kết thúc bằng thắng lợi của chính quyền Xô viết, thành quả của cuộc cách mạng tháng Mười Nga được giữ vững.

Ngay trong thời kỳ này, Lênin đã tổ chức lại toàn bộ nền kinh tế, trên cơ sở sử dụng năng lượng điện, xây dựng kế hoạch điện khí hóa nước Nga - kế hoạch kinh tế quốc dân dài hạn đầu tiên của Liên Xô: quy định 10 - 15 năm thay đổi bộ mặt của nước Nga, cải tạo nền kinh tế về cơ bản, đặt nền móng vững chắc cho CNXH.

Chính sách "cộng sản thời chiến" hoàn toàn không phải là một chính sách kinh tế tất yếu của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, mà chỉ là một chính sách tạm thời. Nên việc kéo dài thời gian thực hiện chính sách đó trong khoảng thời gian sau khi kết thúc nội chiến và can thiệp, đã làm cho nền kinh tế nước Nga bị lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng.

2, Tình hình nước Nga sau khi kết thúc chiến tranh và quá trình hình thành chính sách Kinh tế mới (NEP).

Từ cuối năm 1920 đầu năm 1921, nước Nga –Xô viết bước vào thời kỳ hoà bình xây dựng lại đất nước. Tuy vậy, những năm tháng chiến tranh đế quốc can thiệp, và cuộc nội chiến kéo dài đã để lại cho nước Nga những dấu ấn hết sức khó khăn. Tình hình quốc tế lại vẫn còn các nước thù địch chống lại nước Nga-Xô viết non trẻ. Tuy vậy nước Nga lúc này đã có những thắng lợi nhất định trên mặt ngoại giao, các hiệp ước hữu nghị được ký kết với hàng loạt các nước láng giềng, nổi bật nhất đó là việc hiệp ước Xô- Đức được ký kết, nối lại quan hệ ngoại giao, huỷ bỏ những yêu sách đối với nhau trước đây (như bồi thường về chiến tranh, về những khoản nợ cũ và những thiệt hại do chính sách quốc hữu hoá đã đem đến cho các nước ngoài đầu tư vào nước Nga xô viết trong đó có nước Đức) thắng lợi trên mặt ngoại giao đã góp phần to lớn vào việc đập tan những âm lâu dài của các nước đế quốc mong muốn thành lập một mặt trận chung chống lại nước Nga. Đồng thời, thắng lợi này còn cổ vũ mạnh mẽ đến tinh thần nhân dân và các nước yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Thuận lợi là vậy, nhưng khó khăn cũng không ít. Đất nước Xô Viết bước ra khỏi chiến tranh và chuyển sang giai đoạn xây dựng trong hòa bình từ những điều kiện cực kỳ khó khăn. Sự tàn phá về kinh tế đạt đến mức độ chưa từng có trước đó. Những hậu quả nặng nề của 7 năm chiến tranh đã làm cho tình hình kinh tế và xã hội trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết.

Tình hình trong nước thời kỳ này vô cùng phức tạp. Các từ như “đổ nát” và “sự rối loạn hoàn toàn trong quản lý và kinh tế” là những khái niệm được dùng hết sức phổ biến. Nó đã phản ánh rất đúng tình hình lúc bấy giờ. Các cuộc chiến đã đem lại những tổn thất không thể so sánh khó bù đắp nổi: “hơn 10 triệu người chết, hơn 4 triệu người bị thương tật; đầu năm 1921 sản lượng công nghiệp chỉ bằng 17% của năm 1913 (giảm gần 6 lần ), khai thác than đá và dầu mỏ giảm từ 2,5-3 lần, sản lượng gan giảm 30 lần., còn giá trị chỉ bằng 13,8%; sản xuất công nghiệp trong nước bị giảm đi đáng kể. các cơ sở năng lượng bị phá huỷ. Ngành luyện kim thì giảm đi 22 lần so với trước chiến tranh”[5].

Giao thông vận tải hầu như không còn đủ sức duy trì những mối liên hệ bình thường giữa các vùng trong nước. “Hơn 70.000 km đường sắt, 61% số đầu máy và 28% số toa xe bị phá huỷ”[6]. “Thu nhập quốc dân của đất nước giảm từ 11 tỷ rúp (1917) xuống còn 4 tỷ rúp ( 1920). Nông nghiệp cũng bị tàn phá nặng nề. Sản lượng nông nghiệp chỉ còn khoảng một nửa so với thời kìa trước chiến tranh, diện tích đất canh tác năm 1921 chỉ bằng 60% diện tích trước khi chiến tranh diễn ra, mức thu hoạch chỉ bằng 47%”[7]. Tình hình trong lĩnh vực này cũng ngày càng xấu đi nghiêm trọng, diện tích gieo trồng, sản lượng ngũ cốc, sản phẩm chăn nuôi đều giảm. Tổng sản lượng nông nghiệp năm 1921 chỉ bằng 60% năm 1913, bình quân lương thực đầu người năm 1920 là 246kg, trong khi trước chiến tranh là 405kg. Tình trạng phân tán và tản mạn của những người tiểu sản xuất, sự nghèo đói, vô văn hoá và mù chữ của họ cùng với mối liên hệ trao đổi hàng hóa giữa thành thị và nông thôn bị ngừng trệ..v.v đã cản trở công việc tái thiết lực lượng sản xuất vốn đã bị tàn phá trước đó một cách nặng nề. Thêm vào đó là nạn mất mùa năm 1920, nạn dịch súc vật; vì vậy tăng thêm những vùng bị đói, việc đó lại càng cản trở việc khôi phục giao thông và công nghiệp. Tình trạng thiếu hàng hóa, bệnh tật…lan tràn khắp nơi.. Do không có đủ bánh mì và các thực phẩm thiết yếu khác, các thành phố và các trung tâm công nghiệp đã lâm vào tình trạng thiếu đói trầm trọng. Nhiều công nhân đã bỏ về nông thôn để kiếm sống. Theo sau nạn đói là sự hoành hoành của các loại dịch bệnh nguy hiểm.

Tình trạng suy sụp trong kinh tế đã kéo theo những hậu quả xã hội nghiêm trọng. Do thiếu nguồn nguyên liệu và nhiên liệu nên một số nhà máy phải đóng cửa, ngừng hoạt động hoặc là hoạt động cầm chừng. Nhiều công nhân phải vì thế mà quay về nông thôn…làm số lượng công nhân giảm đi số lượng lớn một cách nhanh chóng, tạo nên sự phân hoá giai cấp và nếu kéo dài tình trạng náy thì rõ ràng sẽ làm suy yếu cơ sở giai cấp của chuyên chính vô sản “ Nước Nga ra khỏi cuộc chiến tranh trong tình trạng rất giống với một người bị đánh đập gần chết: 7 năm bị tra tấn, và lạy chúa, còn phải chống nạn lết đi nữa”[8]
Bên cạnh những khó khăn về kinh tế, từ mùa xuân năm 1921 xuất hiện thêm những khó khăn có tính chất nghiêm trọng về chính trị. Trong các tầng lớp nhân dân, tình trạng bất bình và phản đối ngày càng tăng lên. Tình hình ngày càng trở nên phức tạp hơn khi những thành phần chống đối, là kẻ thù của cách mạng đã cố lợi dụng sự bất bình trong nông dân nhằm hướng đến mục đích của mình.

Tháng 3 năm 1921 thủy binh đóng ở cảng Kronstadt làm binh biến với khẩu hiệu “ủng hộ các xô viết không có người cộng sản” ngay trong lúc đại hội X Đảng Cộng sản Nga đang diễn ra. Tình hình quốc tế lại không kém phần khó khăn phức tạp khi các lực lượng chống đối vẫn chưa từ bỏ các chính sách thù địch chống nước Nga Xô Viết. Bên cạnh đó những khó khăn có tính chất nghiêm trọng về chính trị cũng không ngừng nảy sinh. Trong nông dân, tình trạng bất bình không ngừng diễn ra. Chính sách cộng sản thời chiến với việc trưng thu toàn bộ lương thực thừa trong thời chiến là điều cần thiết thì bây giờ, thời đại hòa bình chính sách ấy đối lập với lợi ích của nông dân và gây cản trở cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Thời điểm này nông dân muốn được tự do sử dụng sản phẩm lao động của mình tự do trao đổi trên thị trường, tự do mua hang công nghiệp…. với dựa vào những vấn đề đó, bọn phản cách mạng trong nước đã không ngừng hoạt động chống phá, kích động sự bất bình trong công và nông dân để âm mưu chống lại nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Không chỉ dừng lại ở đó, cuộc khủng hoảng đã thể hiện ngay cả trong nội bộ của hàng ngũ lãnh đạo Đảng, xuất hiện một số nhóm, cá nhân chống đối lại đường lối lãnh đạo của Lenin. Hàng loạt cuộc nổi loạn diễn ra khắp cả nước- ở Ukraina, ở Đông Nam, Xibia, Pôn vôn gia và các tỉnh miền Trung và hàng loạt các cuộc nổi dậy chống chính quyền khác. Khẳng định sự “hoang mang, dao động, ngã nghiêng” như vậy “Chính sách cộng sản thời chiến” với một tư cách là một biện pháp để tiếp tục con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội đã chứng tỏ không còn phù hợp nữa. Nhận định về vấn đề này Lenin nói “ Để chiến thắng quân thù, chúng ta phải làm như vậy…(chính sách Cộng sản thời chiến) nhưng trong lĩnh vực kinh tế chúng ta đã bị một loạt những thất bại” Trong điều kiện đang thi hành chính sách kinh tế cũ, thì việc tìm kiếm một chính sách kinh tế khác phù hợp hơn ngày càng khẩn trương, ráo riết và gay gắt trong cuộc đấu tranh tư tưởng. Ở đây không phải tất cả những nhóm này phản cách mạng, không đứng về phái quần chúng nhân dân, mà nên hiểu ngoài những bọn “cơ hội” chống lại đường lối cách mạng, chống lại đường lối của Lenin. Vẫn có những nhóm tuy không ủng hộ đường lối lãnh đạo của Lenin, nhưng họ vẫn hướng mục tiêu nước nhà đến với Chủ nghĩa xã hội, tức là vẫn chung một mục đích cuối cùng nhưng cách tiến hành xây dựng con đường phát triển bằng cách khác. Họ vẫn là thành phần quan trọng trong nội bộ lãnh đạo, chính vì vậy việc họ đóng góp ý kiến và tranh luận của họ tuy có những vấn đề bổ sung cho chính sách kinh tế mới sau này nhưng vẫn còn mang nặng tư tưởng của phản Cách mạng. Với những ý kiến đó, Lenin đã không chỉ vạch rõ tính vô căn cứ về mặt lý luận mà cả tác hại về chính trị của nó, vì nó đã xác định không đúng các mối quan hệ giữ những giai cấp với nhau, họ đòi nhà nước phải chịu sự chi phối của giai cấp công nhân, chịu sự chi phối của công đoàn. Tức là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và nhà nước vô sản đối với kinh tế.

Ngày 12/1/1921, sau khi thảo luận với nông dân, ban chấp hành Trung ương Đảng đã cho thành lập một Uỷ ban có nhiệm vụ nghiên cứu và xem xét tất cả những biện pháp có thể để “thực hiện nhanh chóng một kế hoạch nhằm giảm bớt tình cảnh của nông dân ở một số tỉnh bị mất mùa”. Mốc quan trọng nhất trong công tác nghiên cứu các nguyên tắc của chính sách kinh tế mới là “bản dự thảo các luận điểm về nông dân”. Nội dung trong đó là tất cả những biện pháp đưa ra có thể để củng cố mối quan hệ kinh tế giữa các giai cấp trong nước, mà chủ yếu lúc bấy giờ là công nhân và nông dân. Một tháng sau, trong bản báo cáo tại Đại hội Đảng Cộng Sản Nga lần thứ X, Lenin đã trình bày đầy đủ quan điểm mới về con đường củng cố liên minh công nông về mặt kinh tế trong điều kiện quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội Xu hướng vận dụng các biện pháp kinh doanh Xã hội chủ nghĩa mới về nguyên tắc. (tức là những chính sách kinh tế tiền thân của chính sách kinh tế mới) ngày càng bộc lộ rõ nét hơn thông qua những bài phát biểu trên đài và việc Lenin đã ghi chép lại những nghiên cứu của mình gửi đến các đồng chí Uỷ viên trung ương Đảng…..

Như vậy tình hình cấp bách đó đòi hỏi Đảng và nước Xô viết phải có những hành động cụ thể nhằm khắc phục khủng hoảng khôi phục phát triển kinh tế củng cố lại lực lượng nước cộng hòa Xô viết- Đại hội X đảng Bôn sê vích đã thông qua nghị quyết quan trọng chuyển từ chính sách cộng sản thời chiến sang chính sách Kinh tế mới.

II, NỘI DUNG, QUÁ TRÌNH VÀ KẾT QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI (NEP) Ở NƯỚC NGA-LIÊN XÔ (1921-1929)
1, Nội dung cơ bản của chính sách Kinh tế mới (NEP).

Ngay tại đại hội Đảng X, Lenin tuyên bố thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP) với những biện pháp cụ thể sau:

a, nông nghiệp:

Trước hết, “Chính sách thuế lương thực”, mà nội dung cơ bản là: Bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa được ban hành từ “chính sách Cộng sản thời chiến” mà thay vào đó là thuế lương thực. Tức là nông dân canh tác nông nghiệp chỉ phải nộp cho nhà nước một khoản thuế gọi là thuế lương thực, thay cho việc trưng thu-trưng mua trước đây (mức thuế lương thực chỉ bằng 1/2 so với mức trưng thu-trưng mua), phần lương thực dư thừa nông dân có quyền trao đổi tự do trên thị trường. Điều này đồng nghĩa với việc lập lại thị trường lương thực tự do: nông dân được phép sử dụng lương thực thừa sau khi đóng thuế cho nhà nước.

b, công-thương nghiệp

Nội dung tiếp theo của chính sách kinh tế Mới đó là đánh vào Công nghiệp. Những xí nghiệp nhỏ trước đây bị quốc hữu hóa, đến nay cho tư nhân thuê hay mua lại để kinh doanh tự do (chủ yếu là xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng). Tức là thừa nhận quyền kinh doanh của người tư nhân ở mức độ nhỏ trong lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp, tuy nhiên để kìm chế sự phát triển của các xí nghiệp ngoài ý muốn, các xí nghiệp không được mướn quá 5 công nhân. Nhà nước cho phép phát triển mạnh tiểu, thủ công nghiệp.

Đồng thời cho phép việc mở rộng trao đổi hàng hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp (thương nghiệp được phát triển trong sự kiểm soát nhất định của nhà nước) cho thương nhân được tự do hoạt động nhưng chủ yếu trên lĩnh vực bán lẻ để góp phần khôi phục kinh tế, củng cố lại lưu thông tiền tệ trong nước, chú trọng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, phát triển kinh tế hàng hóa.

Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và đặc biệt là việc thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh trong các xí nghiệp quốc doanh.

2, Quá trình thực hiện và kết quả của chính sách kinh tế mới (NEP) từ năm 1921-1929.

Từ ngày 8 đến ngày 16 tháng 3 năm 1921, Đảng Bôn sê vích tiến hành đại hội lần thứ X. Chương trình nghị sự của đị hội gồm có các báo cáo của ban chấp hành trung ương, những vấn đề về thống nhất Đảng, về công đoàn, vấn đề dân tộc, vấn đề thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực thừa bằng thuế lương thực. Thuế này được quy định từ trước mùa gieo hạt. sau khi hoàn thành nghĩa vụ đóng thuế nông dân được toàn quyền sử dụng nông sản còn lại. Sau đại hội X của Đảng Cộng sản Nga, vào ngày 21/3/1921. Ban chấp hành Trung ương Liên xô toàn Nga tuyên bố pháp lệnh về “đánh thuế hiện vật để thay thế cho chế độ trưng thu lương thực thừa” Lúc này con số 50% được đưa ra. Tức là khi đạt được sản phẩm cuối cùng, người dân sẽ được hưởng 50% thành quả lao động của họ. Và cho dù tỷ lệ đó có xê dịch đi khoảng 60%-40% thi vẫn đáp ứng được nhu cầu của họ. “Tháng 4 chính phủ tuyên bố niên khóa kinh tế năm 1921-1922 số lương thực thu thuế là 240.000.000 fud (1 fud tương đương với 16,38 kg). Con số này so với 423.000.000 fud lương thực thừa sau khi trưng thu niên khóa 1921-1922 là nhỏ hơn rất nhiều”[9] . Sau khi thực thực hành thu thuế lương thực, trong nông thôn có không ít những hộ nông dân do thiếu tư liệu sản xuất và sức lao động nên không thể canh tác hết diện tích đất canh tác được cấp nên Ban chấp hành Trung ương toàn Nga vào ngày 22/5/1922 đã ban bố “luật sử dụng ruộng đất và lao động” cho phép các hộ nông dân được thuê ruộng đất với kỳ hạn nói chung là 3 năm.

Chính sách kinh tế mới được thi hành vào đầu năm 1921, nhưng trên thực tế chưa có tác động, vì rõ ràng người dân chưa thể tin ngay vào việc mức thuế sẽ không tăng khi sản lượng tăng lên. Đến năm 1922 nông dân mới tỏ ra quan tâm đến chính sách này, “và năm 1923 đã trở thành bước ngoặc thật sự, vì lúc này, khi nhìn vào thị trường tự do đã xuất hiện sự thừa thãi. Điều đó đã nói đến người dân đã thật sự quan tâm đến chính sách kinh tế này”[10]. Và khi mà nhà nước phân phối cho nhân dân không bằng hình thức cấp phát nữa, chuyển sang việc thực hiện thương nghiệp tự do. Đó là một hướng rất quan trọng trong chính sách kinh tế mới. Và đôi khi người ta coi vào hướng này mà có nhận xét, toàn bộ chính sách kinh tế mới chủ yếu nằm ở đây. Tuy vậy, vấn đề không phải đơn giản là để lại cho người nông dân một số lương thực dư thừa mà cần phải có một cơ chế nữ để người nông dân có thể biến những sản phẩm dư thừa này thành những mặt hàng công nghiệp để tái sản xuất và như vậy sẽ góp phần nâng cao hơn nữa sản lượng nông nghiệp. Và do đó chính sách kinh tế mới đã tác động đến công nghiệp, tác động đến lợi ích của công nghiệp, đó là mặt khác của chính sách khinh tế này. Như vậy yêu cầu phải tiến hành cải tổ công nghiệp sau khi gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh. Công cuộc cải tổ bắt dầu từ những năm 1920-1921 với chủ trương mở rộng quy mô xí nghiệp và hình thành các tổ chức công ty lớn “Tơ Rớt” và buộc những tổ chức này hoạt động theo hạch toán kinh tế. Tức là một hình thức mà xí nghiệp sẽ gánh toàn bộ trách nhiệm vật chất lên tập thể xí nghiệp. Nhà nước không đảm bảo tiền lương cho công nhân, và do vậy sẽ không có hình thức khẩu phần cũng như tem phiếu. Làm được bao nhiêu thì hưởng bấy nhiêu. Tình hình đó yêu cầu ban lãnh đạo xí nghiệp sẽ phải tìm ra sáng kiến để giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, tạo nên sự cạnh tranh trên thị trường. tác động tích cực đến tình hình phát triển kinh tế.

Việc thi hành chính sách NEP trong công nghiệp cũng giống như trong nông nghiệp. Xí nghiệp phải tự tổ chức sản xuất lấy quá trình sản xuất của mình, tự mua nguyên liệu, thiết bị. Nhà nước cũng quy định một mức thuế nhất định dành cho các xí nghiệp, căn cứ vào hoạt động và lợi nhuận cùng với mức lương nhà nước sẽ đánh giá xí nghiệp đó hoạt động như thế nào. Nếu như trước đây việc xí nghiệp làm ăn bị lỗ vốn thì nhà nước sẽ cấp phát cho ( tất nhiên trước khi cấp phát sẽ khiển trách giám đốc xí nghiệp trước) Bây giờ thì khác, nếu như xảy ra tình huống lỗ vốn thì họ sẽ không thể nào dựa dẫm vào nhà nước nữa, mà phải tự tìm đến ngân hàng vay hoặc tìm cách khác. Như vậy chính sách kinh tế mới đã khoá chặt chi tiêu không đúng mục đích của các xí nghiệp, thực hành chế dộ tiết kiệm một cách nghiêm túc, xac định chính xác và nghiêm ngặt trách nhiệm của những người lãnh đạo. Và điều này đã thu được những kết quả cực kỳ to lớn. “Sản lượng công nghiệp tăng trung bình hàng năm là 30-40-50%, thậm chí 60%”[11]. Cùng với đó là giá thành cũng hạ, lợi nhuận tăng lên và tiền lương cũng tăng lên. Như vậy chính sách kinh tế mới nhìn ban đầu sẽ thấy nó đơn giản và dễ hiểu nhưng sự thật thì khác, tuy nhiên khi đã thực hiện nghiêm túc, theo đúng sự chỉ thị của Lenin thì rõ ràng những lợi ích mà nó đem lại cho kinh tế- Xã hội ở nước Nga- Xô viết là hết sức thuyết phục.

Trong giai đoạn thực hiện chính sách Kinh tế mới (NEP), sản lượng nông nghiệp không chỉ hồi phục ở mức đã đạt được trước cách mạng Bônsêvích mà còn tăng trưởng mạnh. Việc phá bỏ các lãnh địa gần như phong kiến tại các vùng nông thôn ở thời Sa Hoàng trước đây cho phép nông dân có được sự khích lệ lớn nhất từ trước tới nay để tăng cao sản xuất. Khi đã có thể bán thặng dư của họ ra thị trường tự do, sự chi tiêu của nông dân tạo ra một sự bùng nổ trong các lĩnh vực sản xuất tại các vùng đô thị. Kết quả của NEP và sự xoá bỏ lãnh địa trong thời gian Đảng cộng sản củng cố quyền lực từ 1917-1921 là Liên bang Xô viết trở thành nhà sản xuất lúa gạo lớn nhất thế giới.

Tuy nhiên, nông nghiệp phục hồi sau cuộc nội chiến nhanh hơn so với công nghiệp nặng. Các nhà máy bị hư hại nặng trong cuộc chiến và sự sụt giá tư bản có sản lượng kém hơn rất nhiều. Hơn nữa việc tổ chức các nhà máy vào các Tơ rớt (trust) hay liên đoàn thuộc một lĩnh vực của nền kinh tế đóng góp nhiều vào việc làm mất cân bằng giữa cầu và cung đi liền với độc quyền. Vì thiếu sự thúc đẩy từ cạnh tranh thị trường, và với rất ít hoặc không có kiểm soát nhà nước về các chính sách bên trong của họ, các tờ rớt sẽ bán hàng với giá cao hơn. Việc công nghiệp phục hồi chậm càng đặt thêm các vấn đề cho giới nông dân, những người chiếm tám mươi phần trăm dân số. Bởi vì sản xuất nông nghiệp có năng suất cao hơn, vì vậy giá của hàng hoá công nghiệp cao hơn giá hàng hoá nông nghiệp. Hậu quả của nó là thứ mà Trotsky gọi là 'khủng hoảng kéo' bởi vì hình dáng giống như cái kéo của biểu đồ biểu thị sự đi lên trong bảng chỉ số giá liên quan. Đơn giản là nông dân phải sản xuất thêm nhiều lúa gạo nữa để mua các hàng hoá tiêu thụ từ các vùng thành thị. Hậu quả, một số nông dân giấu thặng dư nông nghiệp vì đoán trước chúng sẽ tăng giá, điều đó góp phần làm dịu sự khan hiếm trong các thành phố. Tất nhiên điều đó là sự tích trữ đối với thái độ của thị trường, nó đã gây khó chịu cho nhiều cán bộ Đảng cộng sản, nhưng người coi đó là việc bóc lột những người tiêu thụ tại các thành phố. Trong lúc ấy đảng tiến hành các bước suy diễn để bù đắp sự khủng hoảng, cố gắng hạ giá các mặt hàng sản xuất và ổn định lạm phát, bằng việc áp đặt giá được kiểm soát trên các mặt hàng công nghiệp chính và phá bỏ các “Tờ rớt” nhằm tăng hiệu năng nền kinh tế.

Trong công nghiệp: những xí nghiệp dưới 20 công nhân được trả lại cho các chủ cũ, họ được phép kinh doanh dưới sự kiểm soát của nhà nước. Tư bản nước ngoài có thể được thuê một số xí nghiệp hầm mỏ dưới hình thức tô nhượng. trong các xí nghiệp của nhà nước được chuyển sang hình thức hạch toán kinh tế, cải tiến chế độ tiền lương, ban hành chế độ tiền thưởng nhằm khuyến khích nâng cao năng xuất lao động.

Trong lĩnh vực công nghiệp và tiền tệ: mở rộng thong thương buôn bán trong nước, mở lại các chợ, cho tư nhân được tự do buôn bán, nhà nước tiến hành cải cách tiền tệ, cho phát hành đồng rúp mới thay cho đồng rúp cũ đã tiến hành phát trước đây.
Nhà nước năm lấy các mạch máu kinh tế và quyền chỉ huy chung toàn bộ nề kinh tế quốc dân. Cùng với việc quốc hữu hóa các xí nghiệp lớn và vừa củ Tư bản chủ nghĩa, hình thành nên thành phần kinh tế Xã hội chủ nghĩa như lập các mậu dịch quốc doanh, xây dựng các nông trường, các hợp tác xã nhằm khống chế toàn bộ nền kinh tế, không cho chủ nghĩa tư bản phát triển ngoài khuôn khổ của Chủ nghĩa xã hội.

Theo quan điểm của Lê nin khủng hoảng là một quá trình tích tụ và làm gay gắt thêm những mâu thuẫn trên tất cả các lĩnh vực quan trọng của đời sống Xã hội. Xem xét toàn diện các nhân tố gây ra khủng hoảng, Lê nin đã chỉ ra những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng. Đó là những nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ bên trong, chính xác đó là những sai lầm trong khâu quản lý kinh tế, vì vậy nội dung chủ yếu của chính sách kinh tế mới là một cơ chế kinh tế với mục tiêu trước mắt là ổn định và cải thiện đời sống của người lao động ( kể cả biện pháp cấp bách xuất 10 triệu rúp vàng để nhập khẩu lương thực và hàng tiêu dùng) cùng hàng loạt các biện pháp khác để bảo vệ và củng cố chính quyền được coi là mục tiêu hàng đầu. Khó khăn lớn nhất mà nhà nước vấp phải là vấn đề thiếu lương thực. nạn đói năm 1921 ngày càng làm tăng khó khăn đó. Vì vậy, mục đích trực tiếp của chính sách thuế lương thực là một trong những “biện pháp cấp tốc” để cải thiện đời sống của nông dân và nâng cao lực lượng sản xuất của họ, xóa bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa. Điều này đồng nghĩa với việc chuyển từ biện pháp hành chính thuần túy sang biện pháp kinh tế. Tác dụng kích thích của thuế lương thực đối với nông dân sản xuất và có điều kiện cải thiện đời sống của mình. Mức thuế lương thực đã được giảm xuống thấp hơn mức trưng thu gần 2 lần, thủ tục thu thuế được đơn giản hóa. Từ tháng 5-1923 thực hiện thuế thống nhất với 2 hình thức, giai đoạn đầu là thuế hiện vật, giai đoạn sau chủ yếu là tiền, tuy nhiên tùy vào sự lựa chọn của nông dân thì họ sẽ chọn hình thức thuế phù hợp với hoàn cảnh của họ. “Mức thuế có sự khác biệt giữa cac bộ phận nông dân. ( đối với bần nông thì thu thuế bằng 1,25 thu nhập, trung nông thu 3,5% thu nhập, còn phú nông thu 5,6%”[12]

Chính sách kinh tế mới của Lênin cho phép sử dụng ở từng khâu sản xuất và lưu thông những phương thức kinh tế đa dạng và đang từ từ biến đổi với quy mô lớn; có chú ý tới trình độ trang bị kỹ thuật nhằm phát huy cao độ khả năng của tất cả các thành phần kinh tế khác nhau và từng bước liên kết chúng, trong khi vẫn duy trì và phát huy vai trò chủ đạo của khu vực nhà nước, hướng hoạt động của nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa. Quyết định mang ý nghĩa chiến lược này có tác dụng mở ra mọi khả năng phát triển lực lượng sản xuất và thiết lập một cơ cấu kinh tế hợp lý. Đó chính là phương sách đúng đắn như Lênin đã chỉ ra: “Để chúng ta có thể làm tròn một cách thắng lợi nhiệm vụ của chúng ta, tức là chuyển thẳng lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết để chuyển từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”. Chính chủ nghĩa tư bản cũng phải bắt đầu bằng cách ấy. Nhấn mạnh vai trò của chủ nghĩa tư bản như là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, V.I.Lênin đã kiên trì giải thích rằng, nước Nga chưa đủ sức để chuyển trực tiếp từ tiểu sản xuất sang chủ nghĩa xã hội, và do vậy cần phải có những bước đệm chuyễn tiếp từng bước sang nền kinh tế hàng hóa Xã hội chủ nghĩa.




C, NHẬN XÉT- ĐÁNH GIÁ VỀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI (NEP)

1, Nhận xét và đánh giá về chính sách kinh tế mới.

Không giống với những hình mà trước nay em suy nghĩ: việc thực hiện chính sách kinh tế NEP là điều đơn giản. Nhưng khi bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu thì nó vô cùng phức tạp. Đòi hỏi phải có sự thay đổi đồng bộ và kịp thời giữa hệ thống chính trị và kinh tế. Tức là phải khôi phục lại mối quan hệ hợp lý giữ kinh tế và chính trị. Vấn đề đặt ra đó là làm sao xác định được khoản nộp thuế mà người dân vẫn còn đủ để sống. Điều kiện đó sẽ thật sự là một chất xúc tác mạnh để thúc đẩy quá trình lao động của người nông dân, tăng năng xuất và sản lượng đồng thời làm tăng thu nhập của họ.

Sự thành công của NEP ở nước Nga Xô-viết trong những năm đầu khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa, đã để lại những bài học kinh nghiệm quý báu, có thể áp dụng cho những nước có hoàn cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội tương tự. Nó xác định đúng vai trò quyết định của nông dân đối với thành công của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đối với những nước có nền kinh tế tiểu nông, nông dân chiếm đại đa số trong dân cư.

Sở dĩ NEP thành công, bởi trước hết nó đặt đúng vị trí của nông dân trong công cuộc khôi phục, xây dựng đất nước, NEP đã xác định đúng đắn vấn đề “bắt đầu từ nông dân”, đưa việc cải thiện đời sống nông dân và phát triển lực lượng sản xuất của họ lên hàng đầu.
Thực chất của Chính sách thuế lương thực, là một trong những biện pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết để cải thiện đời sống của nông dân và nâng cao năng lực sản xuất của chính họ. Không chỉ thế, nó còn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, xây dựng liên minh công nông trên cơ sở cả chính trị và kinh tế.

Công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành sản xuất chủ yếu của nền kinh tế quốc dân đối với những nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế tiểu nông. Vấn đề đặt ra là, giải quyết mối quan hệ giữa hai ngành này như thế nào cho hợp lý, để vừa phát huy được vị trí, vai trò của từng ngành, vừa tạo điều kiện, tiền đề thúc đẩy lẫn nhau. NEP là một sách lược đúng đắn để giải quyết vấn đề này, thông qua việc đặt vấn đề phát triển nông nghiệp lên hàng đầu, tạo điều kiện cung cấp lúa mì cho công nhân và nguyên liệu để phát triển công nghiệp. Ngược lại, sự phát triển công nghiệp phải hướng vào phục vụ phát triển nông nghiệp.

Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, NEP đã thực hiện củng cố, xây dựng liên minh công nông - một trong những điều kiện cơ bản để thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với những nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế tiểu nông. Nếu trong giai đoạn giành chính quyền, liên minh công nông, chủ yếu được xây dựng trên cơ sở chính trị, thì trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, NEP đã cho thấy phải củng cố, xây dựng liên minh này cả trên cơ sở kinh tế, nghĩa là phải quan tâm đến lợi ích kinh tế của nông dân, tạo ra các mối quan hệ khăng khít giữa công nghiệp và nông nghiệp. Giải quyết các mối quan hệ giữa nông dân và công nhân, giữa nông nghiệp và công nghiệp bằng các quan hệ kinh tế bình đẳng, như thực hiện Chính sách thuế lương thực, dùng quan hệ hàng hóa để trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp...

Chúng ta đều biết, thời kỳ sau Cách mạng Tháng Mười, nước Nga Xô-viết đã phải trải qua một chặng đường phát triển đầy mâu thuẫn và phức tạp. Và trên thực tế những người Bônsêvích nhận thức nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa như một nền kinh tế phi thị trường, tức là một nền kinh tế không tồn tại hình thức tư hữu, chiếm hữu về tư liệu sản xuất, tất cả những vấn đề về tư liệu sản xuất đều quy về xã hội hóa toàn bộ; các mối liên hệ về kinh tế không phải là mối liên hệ dựa trên quan hệ tiền tệ-hàng hóa mà là theo nguyên tắc phân phối sản phẩm hành chính từ một trung tâm duy nhất. Đến tháng 2 năm 1921, V.I.Lênin đã xác định nhiệm vụ cho nước Nga Xô-viết như sau: “Trong một số vấn đề kinh tế, chúng ta cần rút lui về những vị trí của chủ nghĩa tư bản nhà nước”[13]. “Chủ nghĩa tư bản nhà nước” mà V.I.Lênin nói tới ở đây là chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. Nếu như trong những năm đó, đôi khi V.I.Lênin có nói tới “Chủ nghĩa cộng sản”, thì điều đó chỉ có nghĩa là ông nói nó xuất hiện ở giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - Xã hội cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì, chủ nghĩa cộng sản trọn vẹn, chín muồi là sự nghiệp của một tương lai lâu dài. Chính sách kinh tế mới được xem là khâu chính của thời kỳ quá độ cũng là đối sách của Lênin do hoàn cảnh khách quan trong nước những năm 1920 - 1921 tạo ra. Vì vậy, để hiểu rõ thực chất chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin, trước tiên cần phải xem xét tình trạng của nước Nga Xô viết thời kỳ sau nội chiến (1920).tình trạng kinh tế của nước Nga Xôviết sau nội chiến vô cùng tồi tệ: “Hậu quả của nội chiến đạt tới mức độ khổng lồ”. Cùng với đó l2 nhugn74 bất ổn trong chính trị, và những vấn đề đó đã được Lenin xem xét và đi đến một kết luận: “chúng tôi đã tiến quá xa trong cuộc tấn công về mặt kinh tế… Chúng tôi chưa đủ sức để chuyển trực tiếp sang những hình thức thuần túy xã hội chủ nghĩa, sang việc phân phối thuần túy xã hội chủ nghĩa; và nếu chúng tôi lại tỏ ra không có khả năng lùi bước, để chỉ đóng khung trong những nhiệm vụ dễ hơn mà thôi, thì có lẽ chúng tôi đã bị nguy cơ diệt vong rồi”[14].
ở đây, V.I.Lênin muốn nói rằng, nếu như “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” trước đây được rất nhiều người trong Đảng hiểu như là một chính sách cần phải được tiếp tục trong chặng đường tiếp theo của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì thực tế đã cho thấy, sau chiến tranh, không thể tiếp tục con đường đó, bởi nó đối lập Đảng với quần chúng nhân dân, công nhân với nông dân và chỉ làm trầm trọng thêm nền kinh tế vốn đã hoang tàn của đất nước.

Qua nhiều bài viết và nói của V.I.Lênin, chúng ta thấy rõ lúc đó ông đã thay đổi quan điểm của mình về các thành phần kinh tế trong nước và sự tác động qua lại lẫn nhau của chúng, về vai trò của giai cấp tư sản mới, và nhất là về vai trò của hợp tác xã và quan hệ thị trường. Cần nhấn mạnh rằng, những quan điểm đó còn tiếp tục thay đổi trong những tác phẩm cuối cùng của V.I.Lênin. Đối với ông, việc thay đổi đó là hoàn toàn tự nhiên. Ông luôn vận dụng phương pháp của phép biện chứng duy vật để giải quyết những mâu thuẫn mới nảy sinh và phát triển. Ông chỉ rõ rằng, khi tình hình đã thay đổi thì không thể áp dụng những phương pháp cũ. Rằng, chúng ta không tránh khỏi sai lầm khi vẫn duy trì tình trạng cả xã hội chỉ là một văn phòng và một nhà máy cùng lao động như nhau, hưởng cùng một mức lương. Vì vậy, sau nội chiến, ông đã kịp thời thay đổi chủ trương, chuyển từ cái gọi là “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” sang chính sách kinh tế mới.

Nhìn nhận một cách thực tế và khách quan ta sẽ dễ dàng nhận thấy trong điều kiện thực tế của nước Nga, giai cấp vô sản đã giảm nhiều sau hai cuộc chiến tranh lại vừa mới giành chính quyền về tay, họ không có kinh nghiệm quản lý và do vậy, không có khả năng khẳng định sở hữu xã hội đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã hội. Để phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện mới hình thành, cần phải kiên quyết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần. Điều đó có nghĩa là, ngoài phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa mới chỉ phôi thai và về nguyên tắc, được công nhận là có vai trò chủ đạo, cần phải cho phép tồn tại những phương thức sản xuất khác và hơn nữa cần phải phát triển ở mức độ nhất định một số thành phần kinh tế khác. Trong khi vận dụng chính sách kinh tế mới, Lênin đã dùng từ “quá độ” để chỉ rõ trong nền kinh tế của nước Nga khi đó “có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội”[15].

“Về nội dung, chính sách kinh tế mới so với chính sách Cộng sản thời chiến thì có sự thụt lùi trong phạm vi nhất định. Chính sách cộng sản thời chiến thực sự đập tan những thành lũy của chủ nghĩ tư bản ở thành thị và nông thôn bằng một cuộc xung phong ngắn nhất để chuyển sang nguyên tắc sản xuất và phân phối theo Chủ nghĩa xã hội. Nhưng rõ ràng sự xung phong đó tiến quá xa so với cơ sở, tách rời khỏi hậu phương-một hậu phương cho Chủ nghĩa xã hội thực sự giành được những thành tựu cho Chủ nghĩa xã hội thực sự giành được thắng lợi vững chắc và lâu dài. Công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội mà nhiệm vụ là công nghiệp hóa đang rất cần vốn và kỹ thuật, phải tận dụng được những thành tựu của Chủ nghĩa tư bản để xây dựng và phát triển kinh tế. Chính sách kinh tế mới là một chính sách thực hiện trong suốt cả thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội. bằng việc đề ra chính sách mới, Lê nin và Đảng Bôn sê vích Nga đã vạch ra những đặc điểm và nội dung kinh tế trong thời kỳ quá độ, chỉ ra những bước đi có tính chất tất yếu và phổ biến từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội.”[16]

Nền kinh tế nhiều thành phần là nét đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đầu thế kỷ XX, ở nước Nga khi đó có những thành phần kinh tế mà nước Nga Xô viết đã từng có trong giai đoạn này rất giống với tình hình thực tế của nước ta hiện nay.

ở đây xuất hiện vấn đề là, thành phần kinh tế nào trong những thành phần kinh tế ấy có thể chấp nhận được đối với chủ nghĩa xã hội tương lai, các thành phần kinh tế tác động qua lại theo hướng nào trong mối quan hệ tương hỗ ấy?

Đương nhiên, chủ nghĩa tư bản nhà nước đúng với nghĩa của nó không phải là giải pháp trực tiếp đưa nền sản xuất nông nghiệp sang nền nếp xã hội chủ nghĩa. Song, theo V.I.Lênin, ở giai đoạn phát triển này của nền kinh tế nước Nga, chủ nghĩa tư bản có thể là chủ nghĩa tư bản đặc biệt, bởi nó tồn tại và chịu sự quản lý, điều tiết của chính quyền Xôviết. Vì vậy, cho dù giữa hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội còn có sự cạnh tranh, song đó chính là động lực phát triển của lực lượng sản xuất. V.I.Lênin nhận xét rằng, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn đóng vai trò hỗ trợ cho chủ nghĩa xã hội và chính quyền Xôviết có được lợi ích trước mắt dưới dạng phát triển lực lượng sản xuất và tăng khối lượng sản phẩm cho những nhu cầu thiết yếu trong một thời gian ngắn. Đây là lý do cắt nghĩa vì sao cần sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như một phương tiện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Liên quan tới vấn đề này, V.I.Lênin còn thẳng thắn phê phán những đảng viên chỉ muốn mơ ước về “sự trong sạch” của chủ nghĩa cộng sản, sính thảo ra những dự án, quy chế và quy tắc khác nhau nhưng lại không thúc đẩy được công việc thực tế tiến lên.

Như vậy, có thể nói, khi vạch ra kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đã coi thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước là điều kiện cần thiết để chuyển sang chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông như nước Nga. Ông đã chỉ rõ vai trò đặc biệt và vị trí cần thiết của thành phần kinh tế này đối với nền kinh tế nước Nga: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế hiện nay của nước ta… Chủ nghĩa tư bản nhà nước không có gì là đáng sợ đối với Chính quyền Xô viết, vì nước Xôviết là một nước mà trong đó chính quyền của công nhân và nông dân nghèo đã được bảo đảm”. Không chỉ thế, ông còn nhấn mạnh rằng, “đối với thứ chủ nghĩa tư bản mà chúng ta đã cho phép tồn tại, thì cần phải để cho nó tồn tại. Nếu chủ nghĩa tư bản đó là quái đản và không tốt, thì chúng ta có thể uốn nắn nó, vì chính quyền nằm trong tay chúng ta, và chúng ta chẳng có gì mà sợ cả. Tất cả mọi người đều thừa nhận điều đó, và sẽ là lố bịch nếu lẫn lộn điều đó với việc gieo rắc tâm trạng hoang mang. Nếu chúng ta sợ thừa nhận điều đó, thì chắc chắn chúng ta sẽ tiêu vong. Nhưng chúng ta sẽ học tập điều đó, chúng ta sẽ có quyết tâm học tập điều đó; đây là điều đã được chứng minh trong ba, bốn, và năm năm nay là những năm mà chúng ta đã học tập được những điều còn phức tạp hơn trong một thời gian ngắn hơn”.

V.I.Lênin cho rằng, chúng ta có thể học tập chủ nghĩa tư bản nhà nước của người Đức, dốc hết sức ra bắt chước nó và không ngại dùng biện pháp độc tài để đẩy nhanh nước Nga cổ dã man bắt chước con đường phát triển của Tây Âu đó và không ngần ngại dùng những thủ đoạn dã man để đấu tranh với tình trạng dã man.

Chính sách kinh tế mới còn có ý nghĩa to lớn đối với nông thôn, nông dân. Mặc dù thực chất của vấn đề là ở sự điều chỉnh mối quan hệ trao đổi giữa thành phố (công nghiệp) và nông thôn (nông nghiệp), song đó chính là sự sống còn của nông thôn và người nông dân.(8)Không phải vô cớ mà V.I.Lênin đánh giá rất cao vai trò của chính sách thuế lương thực và cơ chế thị trường. Trên thực tế, thực hiện chính sách thuế lương thực không chỉ là sự thay thế việc trưng thu lương thực thừa, mà còn có nghĩa là tự do buôn bán lúa mì thừa và các sản phẩm khác sau khi đã nộp thuế. Đây là một chính sách thông minh và hợp lý. Bởi lẽ, thứ nhất, nó củng cố khối liên minh công nông với tư cách nền tảng giai cấp của chủ nghĩa xã hội tương lai; thứ hai, tạo ra sự phát triển thương mại tự do, chủ động và góp phần khôi phục toàn bộ nền kinh tế thông qua việc hồi sinh các quan hệ tư bản tư nhân. Theo V.I.Lênin, tự do thương mại chính là đòn bẩy phát triển lực lượng sản xuất của nền kinh tế nông nghiệp và tiểu công nghiệp, cũng như mở rộng cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa quan liêu trong kinh tế. Ông viết: “Cơ sở kinh tế” của sự tiêu vong của chủ nghĩa quan liêu, của sự tiêu vong các tầng lớp trên và tầng lớp dưới, của sự tiêu vong sự bất bình đẳng...” là ở “việc trao đổi hàng hoá với nông dân”. Rằng, “kinh tế nông dân, với tư cách là một nền kinh tế tiểu nông, không thể đứng vững được, nếu không có một sự tự do trao đổi nào đó, và không có những quan hệ tư bản chủ nghĩa gắn liền với tự do trao đổi đó”. Do vậy, theo ông, với nước Nga khi đó, thương nghiệp là “phương sách kiểm nghiệm” đời sống kinh tế nhà nước, là “mối ghép” duy nhất, là cái có thể liên minh đội ngũ tiên tiến của giai cấp vô sản với nông dân để từ đó, mới có thể có sự phát triển kinh tế.

Nhờ có chính sách kinh tế mới và quá trình sản xuất nên chỉ trong vòng một năm rưỡi nhân dân Liên Xô đã đạt được những kết quả rực rỡ, có ý nghĩa quyết định trong kinh tế; tình cảnh của nông dân và đa số những người tiểu sản xuất đã được cải thiện; trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ đã có sự tiến triển, không còn cảnh công nhân bất bình; trong lĩnh vực công nghiệp nặng đã bắt đầu tích luỹ được vốn cần thiết để vực nền công nghiệp nặng đi lên. Thế nhưng, không phải tất cả những người bônsêvích đều ủng hộ chính sách kinh tế mới, trong dư luận xã hội vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Vì vậy, điều quan trọng là phải hiểu đúng thực chất của chính sách kinh tế mới. Bởi lẽ, một số người cho rằng, chính sách kinh tế mới chỉ là biện pháp nhất thời; số người khác lại coi đó chỉ là thời kỳ khôi phục kinh tế đất nước sau nội chiến; số thứ ba thì nhìn nhận đó là tổn thất của cách mạng, là sự chệnh hướng sang tư bản chủ nghĩa. Chỉ có một số người hiểu đúng rằng, chính sách kinh tế mới là một trong những hình thức, phương thức hợp lý nhất để chuyển từ “chế độ cộng sản thời chiến” sang chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, ở đây là cả một quá trình, trong đó cách đặt vấn đề về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội của V.I.Lênin đã có sự thay đổi. Nhưng bản thân V.I.Lênin vẫn chưa nói đến việc thay đổi căn bản quan niệm về chế độ xã hội chủ nghĩa. Công thức về “chế độ của những người xã viên văn minh” dĩ nhiên không thể bao hàm tất cả bản chất của chủ nghĩa xã hội cũng như công thức “Chính quyền xô viết cộng với điện khí hóa toàn quốc”. Chúng ta không thể tán thành quan điểm cho rằng, dường như chính sách kinh tế mới là mô hình “mới” của chủ nghĩa xã hội do V.I.Lênin nghĩ ra lúc cuối đời. Chính sách kinh tế mới không phải là mô hình mới của chủ nghĩa xã hội, mà chỉ là hướng mới trong việc xây dựng nền móng của chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực kinh tế, thông qua việc lợi dụng nền kinh tế nhiều thành phần để tránh chủ nghĩa giáo điều trong việc quản lý kinh tế của nhà nước. Cơ chế kinh tế của chính sách kinh tế mới theo quan niệm của V.I.Lênin, về cơ bản, vẫn là cơ chế đặc trưng không phải cho chủ nghĩa xã hội, mà là cho thời kỳ quá độ xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.
Với V.I.Lênin, chính sách kinh tế mới là sự kết hợp nhiều hình thức sở hữu khác nhau và do vậy, trong nó có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các quan hệ sản xuất khác nhau. Đường lối phát triển này là sự củng cố từ từ nhằm tăng cường phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa trong công nghiệp và nông nghiệp để nó đủ khả năng phục hồi kinh tế đất nước và sau đó, phát triển nhanh lực lượng sản xuất ở nước Nga Xôviết. Rất tiếc rằng, mấy năm sau khi V.I.Lênin qua đời, chính sách kinh tế mới đã sớm bị dừng lại, không được tiếp tục hoàn chỉnh, bổ sung trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận thức và vận dụng sáng tạo chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin vào điều kiện lịch sử - cụ thể của nước ta. Từ Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta đã thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là đặc trưng của cơ cấu kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và đưa ra chủ trương chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế nhiều thành phần. Nếu thời kỳ trước đổi mới, ở nước ta chỉ có một thành phần kinh tế là “thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể”, thì giờ đây, phải “bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”.

Đây là lúc thực tiễn đặt ra cho chúng ta cần phải nhận thức đúng đặc điểm của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ như V.I. Lênin đã chỉ ra là có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện đó, không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ bằng thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; nghĩa là khi đề ra đường lối kinh tế phải tính tới tất cả các thành phần kinh tế hợp thành nền kinh tế quốc dân, không được bỏ sót một thành phần kinh tế nào. Chỉ có như vậy, chúng ta mới khai thác được mọi tiềm năng của sản xuất, khai thác được sức mạnh của toàn dân trong tất cả các thành phần kinh tế, mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã được nêu ra từ Đại hội VI của Đảng, Đại hội X của Đảng (năm 2006) đã xác định năm thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đó là:
1. Thành phần kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước (trước đây thường gọi là kinh tế quốc doanh) và các sở hữu khác của Nhà nước, kể cả phần vốn của Nhà nước trong các đơn vị liên doanh. Đảng ta khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”.

2. Thành phần kinh tế tập thể. Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh của tập thể để giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống. Trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, “Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.

3. Thành phần kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân). Mục tiêu đổi mới của chúng ta là xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta có kinh tế tư nhân, nhưng chúng ta không tư nhân hoá nền kinh tế. “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Vì vậy, Đảng ta chủ trương phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Và, để phát triển kinh tế tư nhân - thành phần kinh tế năng động nhất, chiếm số lượng doanh nghiệp và số người tham gia đông nhất, còn nhiều tiềm năng phát triển, Đảng ta xác định: Mọi công dân có quyền tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội, nguồn lực kinh doanh, thông tin và nhận thông tin. Xoá bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm.

4. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức, quản lý, thị trường,… của nhà tư bản để phát triển sản xuất vì lợi ích của bản thân họ và của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.

5. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm việc làm. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển.

Trong định hướng lớn về phát triển kinh tế, Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức, kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”

Như vậy, có thể nói, quan điểm của Đảng ta về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, có
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top