Tiểu sử của Lão Tử

  • Thread starter Thread starter HuyNam
  • Ngày gửi Ngày gửi
H

HuyNam

Guest
TIỂU SỬ CỦA LÃO TỬ

1. Sơ Yếu Cuộc Đời

Lão Tử họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Dương, người Khổ huyện, nước Sở, sinh vào đầu năm Chu Linh Vương, khoảng 570 tr. CN tuy cùng thời với Khổng Tử, nhưng lớn hơn mười chín tuổi. Một việc mà người đời sau hay nhắc tới, là có lần Khổng Tử thỉnh giáo cùng Lão Tử. Cứ theo sách cổ ghi lại, thì nội dung cuộc hội đàm đó như sau (dịch theo ý chính cổ văn Hán):

Khổng Tử thưa: "Khâu tôi nghiên soạn Lục kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch và Xuân Thu. Tự coi đó là văn hiến lâu đời, biết đâu lại là đồ cũ. Đến với những bảy mươi hai vì vua, tham luận về đạo lý của tiên vương, giới bày về thành quả của đương triều, song chẳng được vị nào áp dụng cả. Đáng tiếc thay, sao người ta khó khuyên bảo thế, đạo lý khó sáng tỏ thế”

Lão Tử đáp: "(Bởi vì) những gì mà Ngài đưa ra trình bày, xương cốt của những người đó đã mục nát lâu rồi, chỉ còn lời nói ghi lại thôi. Cũng may là Ngài chưa gặp được vị nào gọi là vua tế thế. Lục kinh của Ngài đều là những vết cũ của tiên vương... Vết là do dấu chân đã qua mà để lại, nhưng vết là vết, chứ đâu phải bước chân đi? Nếu Nhân Nghĩa là ngôi nhà cổ của tiên vương, thì ta chỉ có thể trọ tạm một đêm thôi, chớ nên ở lâu... Nếu cứ để cho Nhân Nghĩa ăn sâu vào lòng, là làm rối thêm lòng, tai hại lớn đấy . Tôi có nghe, người ta đem vật quý giấu dưới chân tường đổ nát, quân tử có đức cao, thì dáng trông như đần độn vậy. Thôi, hãy bỏ cái khí phách kiêu hãnh và lòng ước muốn của Ngài đi. Phong cao chí lớn, đều vô bồ cho bản thân. Lời tôi khuyến cáo Ngài, chỉ có bấy nhiêu đó thôi".

Khi tiễn chân Khổng Tử ra về, Lão Tử bảo thêm rằng: "Tôi có nghe, kẻ giầu sang lấy của tặng khách, người nhân đức mượn lời tiễn đưa. Tôi chẳng sang giầu, xin trộm tiếng nhân đức mà tặng cho Ngài một lời: Kẻ tài khôn, giữ kỹ trong lòng (những gì mình biết) cho đến lúc gần đến xa trời, mới là người có nghĩa. Nếu mang ra bàn tán thì nguy đến bản thân, bởi cái đó thường làm cho người ta oán ghét mình. Cho nên, ở vào địa vị con em, chớ tỏ ra mình hiểu biết hơn (Phụ huynh); ở vào địa vị thần dân, chớ tỏ ra mình hiểu biết hơn (vua quan)".

Lão Tử từng làm chức Thủ tạng thất (giữ kho") nhà Chu, sống ở đất Chu khá lâu. Sau đó, nhận thấy nhà Chu đã mất hết thật quyền thống lĩnh chư hầu, chẳng chóng thì chầy, rồi sẽ bại vong, nên quyết ý từ quan về quy ẩn, vui sống với cảnh sơn lâm, tiêu diêu thoải mái, cách biệt bụi đời(khi Lão Tử vừa đến cửa ải, người giữ cửa là Doãn Hỷ bảo: "Nghe đâu Ngài sẽ về ẩn dật, vậy tôi xin mạn phép ép Ngài viết sách để lại cho tôi". Để được sớm ra cửa quan, Lão Tử đành để lại cuốn sách, trong đó chỉ viết có năm ngàn lời, tức là cuốn Đạo Đức kinh, cũng gọi là "Lão Tử”(Có người cho rằng, cuốn Đạo Đức kinh thật ra là do các tín đồ Đạo giáo đời sau, họp sức soạn chung theo tư tưởng và lời dạy của Lão Tử). Rồi từ đó biệt tăm biệt tích luôn.

Bình sinh của Lão Tử, đến nay vẫn còn là một nghi vấn lớn, kể cả sách Sừ ký cũng chép không rõ ràng, bởi khi viết đến truyện Lão Tử, Tư Mã Thiên toàn dùng lời văn phất phưởng, như câu "Dĩ tự ẩn vô danh vi vu”. (Lấy sự mai”danh ẩn dật làm chánh), và cồ nhiều đoạn lại bỏ lửng. Để thấu rõ thêm phần nào chân tướng của một nhân vật quan trọng nầy, trong lịch sử văn hóa Trung Hoa, xưa nay đã làm mất biết bao tâm lực và thì giờ của nhiều vị học giả, cố gắng tìm tòi khảo cứu, nhưng mãi cho đến bây giờ, vẫn chỉ được có một câu kết luận chung là : Trừ phi có thêm sử liệu mới, bằng không thì nhân vật thần bí này vẫn còn là một khúc mắc vĩnh viễn, chẳng ai tháo gỡ nổi. Tục truyền Lão Tử thọ đến 160 tuổi, thậm chí trên 200 tuổi. Theo lời giải thích trong sách Sử Ký, đó là nhờ "Dĩ kỳ tu đạo nhi dưỡng thọ". Những truyền thuyết đó đúng hay sai, tưởng chẳng liên quan gì cho lắm đến việc tìm hiểu tư tưởng, triết lý của Lão Tử. Sớ dĩ Lão Tử trở thành một nhân vật kỳ bí, sống mãi trong tâm hồn của người Trung Quốc, nhất là trong tầng lớp phi trí thức, phần lớn là do những truyền thuyết ảo huyền đó. Những truyền thuyết về cuộc đời của Lão Tử, điều nào thật, điều nào hư, chẳng ai nắm vững được. Vả lại Lão Tử là một "ẩn giả", nếu người ta biết rõ tận tường về đời tư của một “ẩn giả", thì đó mới là điều quái lạ.

2. Chủ Thuyết Đạo Học

Tư tưởng của Lão Tử được biểu lộ qua cuốn Đạo Đức Kinh, vỏn vẹn chỉ có năm ngàn chữ, thế mà đã gây ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội Trung Hoa. Những trước tác chuyên giải nghĩa cho Đạo Đức Kinh, đến nay đã có trên 600 cuốn. Ở nước ngoài, chỉ riêng bản dịch Đạo Đức Kinh bằng tiếng Anh cũng đã nhiều đến 44 bản. Tựu trung, Đạo là ý niệm cơ bản nhất và quan trọng nhất trong cuốn Đạo Đức Kinh. Do đó, người ta gọi học thuyết của Lão Tử là Đạo học.

Nguyên chữ "Đạo" đã chứa rất nhiều hàm nghĩa, riêng trong chương 11 của cuốn "Trung Quốc triết học nguyên luận" của Giáo sư Đường Quân Nghị, cũng đã quy nạp đến những sáu điểm chính:

1/- Đạo thể hư vô.

2/- Đạo thể siêu hình.

3/- Đạo của hình tượng.

4/- Đạo của đồng đức.

5/- Đạo trong việc tu luyện đức tính và nếp sống.

6/- Đạo trong trạng thái sự vật cụ thể và cảnh giới tâm linh, nhân cách của con người.

Nhưng ngay câu mở đầu của Đạo Đức kình lại viết rằng: "Đạo khả đạo, phi trường đạo". (Đạo mà có thể cắt nghĩa được, thì chẳng là Đạo vĩnh thường). Vậy Đạo của Lão Tử như thế nào? Chúng ta có thể tìm hiểu Đạo đó qua tư tưởng và hành vi của Lão Tử. Bởi chán ghét thế cuộc nhiễu nhương, nhân sự chỉ đua đòi lợi lộc, Lão Tử chủ trương chính trị "vô vi”, mặc cho mọi việc thuận theo quy luật tự nhiên. Người cho rằng, sở dĩ thần dân khó trị là bởi cấp lãnh đạo "Hữu vi" (cố làm cái gì đó), nếu họ "vô vi" (chẳng làm gì cả), là dân "tự hóa" (tự giải quyết hết mọi sự việc) Lão Tử giải thích thêm rằng, khi ta hiếu tĩnh là dân tự chánh; ta vô sự là dân tự phú. Thậm chí còn chủ trương "Tuyệt Thánh khí tri" (Đoạn tuyệt với Thánh Hiền, loại bỏ trí thức) và "Tuyệt Nhân khí nghĩa" (Đoạn -tuyệt với cái gọi là Nhân, loại bỏ những gì gọi là Nghĩa) nữa, cứ để cho tất cả trở về với bản tánh chất phác, chân thật thôi. Xem lại lời đối thoại trên, giữa Lão Tử với Khổng Tử, chúng ta thấy tư tưởng và phong cách của Lão Tử khác hẳn với nhà Nho học, bởi tư tưởng đó có khuynh hướng "phản nhân văn", thiên về triết lý siêu hình, nên Lão Tử được coi là một triết gia rất lý trí và bình thản.

Nguyên lý siêu hình của Lão Tử, là ở câu mở đầu của Đạo Đức kinh như đã trích lục trên đây. Lão Tử cho ràng "Thường đạo" mới đúng với cái tính chất của Đạo mà Người định nói, đó là Đạo định thường, không thay đổi. Lão Tử giải thích Đạo đó là: "Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề liêu hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên hạ mẫu. Ngô bất ta kỳ đanh, tự chi viết Đạo". Nghĩa là: có cái gì đó hỗn hợp thành hình, được sinh ra trước khi có trời đất. Nó tĩnh và thưa, biệt lập mà chẳng thay đổi, vận chuyển không ngừng, có thể nói đó là cái gốc của thiên hạ. Ta chẳng rõ tên, đặt đó là Đạo. Có nhiều học giả giải thích rằng, câu "tiên thiên địa sinh" là nói lên thời gian tồn tại của Đạo, đã có trước khi trời đất thành hình; "độc lập nhi bất cải" là nói lên tính cách biệt lập của Đạo, trong trạng thái vừa tĩnh vừa thưa; "chu hành nhi bất đãi" là nói lên tính cách phổ biến khắp nơi trong không gian của Đạo; riêng chữ "Mẫu” tức là cội”nguồn. Dù nói Đạo tuy chẳng là sự vật cụ thể hữu hình, nhưng trong tất cả mọi sự vật cụ thể đều có Đạo, bởi Đạo là căn nguyên của thiên địa Vạn vật.

Mặt khác, Lão Tử dùng Đạo để giải thích về nguyên lý của vũ trụ rằng: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Nghĩa là đầu tiên do Đạo hóa ra "Nhất" (Một), rồi "Nhị" (Hai), "Tam" (Ba). Vậy Nhất có nghĩa là gì? và Nhị, Tam được giải nghĩa ra sao? Xưa nay có nhiều ý kiến khác nhau. Thậm chí có người cho rằng, "Nhất, Nhị, Tam" đó, gần như đồng nghĩa với quy luật "Chánh, phản, hợp" trong Biện chứng pháp của Hégel (1770 - 1831), bởi chương 40 của Đạo Đức kinh viết rằng: "Thiên hạ vạn vật sinh ư hữu (có), hữu sinh ư vô (không)". Vậy Nhất là Không, Nhị là Có, Tam là tổng hợp lại có với không, để nói lên quá trình sinh thành của vũ trụ. Lối giải thích như vậy, có đúng với sự thật hay không, là vấn đề đặt ra cho các nhà khoa học. Riêng với nhà triết học, nhất là nhà triết học thời cổ, họ chẳng màng xét tới mà chỉ nghĩ rằng, phải có một lối giải thích nào cho trật tự vạn tượng bao la trong vũ trụ, cùng với quá trình sinh thành của vạn vật Trách nhiệm của triết gia chỉ thế thôi, đó là vũ trụ quan của Lão Tử, tuy quá đơn giản, nhưng rất khách quan và "vô lình", gần gũi với tinh thần khoa học, trái với vũ trụ quan "hữu hình", mà đời sau được đa số người Trung Quốc chấp nhận, theo quan điểm Nho học. Nếu chúng ta có hỏi thêm, tại sao Một có thể sinh ra Hai, và Hai sinh ra Ba, thì Lão Tử bảo rằng: "Phản giả Đạo chi động". (Sức tương phản, là nguyên động lực của Đạo) và rằng: "Thiên hạ vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô". (vạn vật trong thiên hạ được sinh ra từ chỗ Có. mà Có thì lại sinh ra từ chỗ không). Theo lời giải thích đó thì cần phải có thành phần tương phản. làm cho Đạo có được "nguyên động lực để tác khởi. Sỡ dĩ bảo "Có” sinh ra từ chỗ “Không” là bởi "Có" với “Không” vốn dĩ tương phản với nhau.

Nói chung, tư tưởng của Lão Từ gồm có những đặc điểm sau đây:

1/- Chống xã hội đương thời. Theo nhận xét của các nhà xã hội học, thời Xuân Thu Chiến quốc là lúc Trung Quốc bước vào giai đoạn xã hội biến thiên trọng đại. Khi một con người cảm thấy khó thích ứng với cuộc diện thay đổi trọng đại đó, họ sẽ phản ứng ra sao? Phương thức của nhà Nho, đứng đầu là Khổng Tử, gồm cả Mạnh Tử sau này, thì một mặt mong muốn trở lại với quy phạm hành vi nguyên thủy, như duy trì quy tắc lôn pháp dưới chế độ phong kiến nhà Chu; đồng thời mặt khác,sáng tạo nấc thang giá trị mới. Mong được xã hội công nhận, như cổ súy, đề cao đức tính Nhân Ái luân lý Trung Hiếu. Còn phương thức của Đạo gia, đứng đầu là Lão Tử, gồm cả Trang Tử sau này, thì bài bác, chống phá trật tự xã hội hiện hữu bằng hành vi tích cực, hoặc tự đặt mình ra ngoài vòng xã hội đó, bằng hành vi tiêu cực, như đi ẩn náu, mai danh lánh nạn chẳng hạn. Xuyên qua lời nói và trước tác (như Đạo Đức Kinh), người ta thấy Lão Tử luôn luôn giữ thái độ đả kích tập tục và chế độ xã hội đương thời, khiến cho tư tưởng và hành vi của Người, nhất nhất đều trái ngược với tình trạng thực tế trong lúc đó. Lúc đó là thời đại hiếu chiến, nước nào cũng lo tăng cường binh bị thì Lão Tử bảo rằng: “Giai binh giả bất tường chi khí”. (Quân lực mạnh, là thứ chẳng lành), và rằng: "Dĩ Đạo tá nhân chủ giả, bất dĩ binh cưỡng thiên hạ". (Kẻ biết dùng Đạo mà phò chúa, thì chẳng lấy chiến tranh làm phương tiện, để cưỡng bức thiên hạ). Đang lúc phần tử trí thức đua nhau chu du liệt quốc, ai nấy cố gắng thuyết phục vua chúa các nước chấp nhận ý kiến của mình, mong có thể làm được cái gì đó, thì Lão Tử lớn tiếng cảnh cáo họ rằng: "Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự, kịp kỳ hữu sự, bất túc dĩ thủ thiên hạ". (Được thiên hạ thường là chẳng gây nên chuyện, nếu đã gây nên chuyện, thì không đủ tư cách để được thiên hạ). Đó là lý tưởng chính trị trong thuyết "Vô vi" của Lão Tử.

2/- Phản kinh nghiệm, phản ta thức. Lão Tử viết: "Tuyệt học vô tư . (Có bỏ học mới hết ưu phiền); "Vi học nhật ích, vi Đạo nhật tổn". (Càng có học cho lắm, càng có hại cho việc tu Đạo); "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri". (Người có học vấn chẳng bao giờ nói, kẻ hay nói mới là người không hiểu biết), Sở dĩ phải phản kinh nghiệm, phản trí thức, theo Lão Tử có hai lý do: Một là kinh nghiệm và trí thức khiến cho người ta hay lo âu, cho nên bảo "Tuyệt học vô tư ; hai là, kinh nghiệm và trí thức gây trở ngại cho việc tu Đạo, bởi lẽ hiểu biết nhiều chừng nào, thì càng thúc đẩy lòng ham muốn, đòi hỏi của người ta, đồng thời cũng dễ làm cho người ta nảy sinh cảm giác bất mãn với hiện tại, cho nên đã báo "Học nhiên hậu tri bất túc” (Câu này có nghĩa là: Học mà biết cho nhiều, rồi mới thấy đời người hãy còn thiếu lắm thứ quá. Lâu nay người ta thường hiểu ìâm là: Càng học càng thấy sự hiểu biết của mình hãy còn non kém). Bởi Lão Tử nhận định ràng, việc tu Đạo cần phải tĩnh mịch, đạm bạc, đẹp hết lòng ham muốn đi mới được. Nghĩa là Đạo của Lão Tử chẳng có liên hệ gì tới trí thức và kinh nghiệm cả, mà là thứ công phu thủ tĩnh, quả dục, đặng có thể đạt tới cảnh giới thanh tịnh, vô vi. Trở lại câu "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri". Cần phải hiểu ý nghĩa chữ "Tri" này là thứ tri trực giác, chẳng học mà tự mình ngộ ra chân lý của trời đất. Sở dĩ sau hai triều nhà Hán, Nho, Đạo và Thích, tam giáo có thể kết hợp nhau được, là thông nhau ở chỗ thanh tĩnh quả dục.

3/- Chất phác quy chân. Đây là đời sống lý tưởng của Lão Tử và tất cả những ai, là người tu Đạo chân chính. Bối cảnh dựng lên lý tưởng này có hai mặt: Về mặt chính trị, là thái độ ghét bỏ hành động bạo lực và đời sống xa xỉ, tâm tư dối trá của tầng lớp quyền thế trong xã hội đương thời; về mặt cá nhân đã gọi là "Ẩn quân tử", thì chất phác quy chân (Đời sống đơn giản bình dị, trở về với chân thật, với thiên nhiên), mới thật là đúng với cảnh sống mà Lão Tử hằng mơ ước.

4/- Công thành phất cư. Đây là nguyên tắc ở đời mà Lão Tử đem ra dạy đời. Đời bao giờ cũng khuyến khích người ta, gắng sức làm để được hưởng thành quả tốt đẹp, do công lao của mình tạo nên. Nhưng Lão Tử cho rằng, mọi thành quả đó, rất có thể đưa lại tai họa cho con người. Lão Tử bảo: "Sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trường nhi bất tể, thi vi nguyên đức". (Sống mà không giữ của, làm mà chẳng ỷ công, dù lớn cũng không đứng làm chủ tể, đó mới là cái đức nguyên vẹn) và rằng: "Công toại thân thoái, thiên chi đạo". (Khi đã đạt tới thành quả rồi thì rút lui ngay, là đúng với lẽ trời) và "Vi giả bại chi, chấp giả thất chi". (Kẻ ham làm sẽ gặp thất bại, kẻ ôm giữ sẽ bị mất mát). Vê điểm này Phạm Lãi làm được, Văn Chủng làm không được. Cả hai đều là công thần của Việt Vương Câu Tiễn, lịch sử đã chứng minh ai họa ai phước.

5/- Họa phước vô môn. Tránh họa cầu phước, là lẽ thường tình của con người, nhưng Lão Tử cho rằng, cái lẽ đó không chắc chắn. Bởi trong quá trình đời người, đâu là họa đâu là phước, thật khó nói lắm. Lão Tử bảo rằng, họa ư, lắm khi phước nhờ đó mà có; phước ư, biết đâu đó là căn nguyên của họa. Cho nên đã có chuyện "Tái ông thất mã, yên tri phi phúc".

6/- Dĩ nhu khắc cương. Lão Tử tin rằng "Nhu nhược thắng cương cường", và giải thích rằng: "Thiên hạ mạc nhu nhược ư thủy, nhi công kiên cường giả mạc chi năng thắng". (Dưới bầu trời này, còn thứ gì yếu mềm hơn nước, thế mà kẻ mạnh phá được thành trì kiên cố, cũng chẳng thể thắng nổi nước). Thuyết "Nhu khắc cương", hẳn là một trong những đặc điểm của triết lý Lão Tử.

Tư tưởng của Lão Tử rất thích hợp với những ai, là kẻ ưa sống gần gũi thiên nhiên,lại có phần tương thông với đức tính khiêm nhường, dung thứ, nhẫn nại của nhà Nho. Do đó, người theo Đạo học thích sống vào nơi thâm sơn cùng cốc, tĩnh tịch, xa lánh bụi trần tự tay kiếm ăn, tự mình chữa bệnh, người đời gọi đó là "Tu Tiên", mang sắc thái huyền bí như một tôn giáo, cho nên thường gọi là "Đạo giáo".

3. Giá Trị Đạo Học

Đạo của Lão Tử vạch một lối thoát cho những ai, là kẻ bất mãn thế cuộc nhiễu nhương, đầy cạm bẫy như thời Xuân Thu Chiến Quốc, có được một lẽ sống riêng, hợp với bản chất chân thật của mình. Đồng thời tránh được lối phản kháng bằng hành động phạm pháp cá nhân, hoặc bạo lực tập thể, khiến cho xã hội mà mình đã bất mãn càng thêm hỗn loạn, rối ren. Đó là giá trị về xã hội.

Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, đang lúc vua quan các nước thực thi chính sách kiêm tính, để trở thành nước lớn, khả dĩ "kẹp thiên tử nhi lệnh chư hầu . (Uy hiếp nguyên thủ trung ương, chỉ huy các nước địa phương). Đồng thời, phần tử trí thức cũng chủ trương “định ư nhất”, mong sao thực hiện được lý tưởng thiên hạ thống nhất thịnh trị, thì ngược lại, Lão Tử chủ trương "Tiểu quốc quả dân" (Nước nhỏ dân ít). Người cho rằng, với nước nhỏ dân thưa, thì ít có tranh chấp và dễ trị. Nhà nước chẳng phải nhọc lòng làm gì mà dân vẫn tự sống an lành. Lý luận đó của Lão Tử, lúc bấy giờ chẳng ai nghe theo, cả Khổng Tử cũng chẳng tin. Nào ngờ thế giới ngày nay lại có lối tư duy mới, chẳng hẹn mà gặp nhau với Lão Tử. Sau thời kỳ "Chiến tranh lạnh", có nhiều xứ khác nhau về dân tộc, tôn giáo trong cùng một quốc gia, đang đua nhau đứng lên tranh đấu, giành quyền độc lập tự chủ, như các nước cộng hòa trong Liên bang Sô viết, liên bang Nam Tư và khối dân miền bắc Iraq, ấn Độ hiện nay, cũng như Mông Cổ, Tây Tạng của Trung Quốc từ trước. Trực diện với vấn đề này, quốc tế tuy chẳng tiện can dự trực tiếp, nhưng cũng không phản đối, thậm chí còn khuyến khích một cách gián tiếp nữa là khác. Đó là giá trị về chính trị.

Tuy nhiên, thuyết "vô vi" của Lão Tử dễ bị người ta mượn cớ trốn tránh trách nhiệm, nhất là những người công chức ăn lương nhà nước, lại có tâm lý tiêu cực, họ bảo nhau: "Ít làm ít lỗi, chẳng làm thì không có lỗi".
 
Sửa lần cuối:
Phạm trù "Đạo" mà Lão Tử nói ở đây cũng giống như "tinh thần tuyệt đối" của Heghen hay "ý niệm Chúa Trời" trong Kinh thánh. Đó là những quy luật khách quan của vũ trụ,con người,vạn vật...mà chỉ có thể nhận thức và hiểu được bằng tư duy,tâm trí . Hàng vạn sự vật hiện tượng đang diễn ra trước mắt tồn tại và phát triển theo quy luật khách quan,vận hành theo một logic trật tự nhất định...là sự thể hiện của "Đạo". Vì thế Lão Tử nói tới Đạo giống như chỉ ra con đường đi cho mọi người để đúng với quy luật,hợp Đạo,hợp lẽ trời.

Về vấn đề ẩn dật,thoát tục thì cũng cần bàn thêm. Triết học Yoga chủ trương đưa con người làm chủ và kiểm soát bản ngã,cụ thể là thông qua việc kiểm soát hơi thở huấn luyện hơi thở qua 4 thì. "Con người tự chủ" là quy luật của tiến hóa nếu như con người vẫn cứ tiếp tục nằm trong vòng quay luân hồi,biến hóa của càn khôn.

Thiền Phật giáo và Thiền Đạo giáo thì có khác. Khi ngồi thiền thì chỉ tập trung quan sát hơi thở,không cần phải có ý thức kiểm soát hay có sự cố gắng về tâm lí gì cả. Chỉ có mỗi việc tập trung quan sát,kệ hơi thở tự nó sẽ dần điều hòa,tự nó kiểm soát nó và con người sẽ dần rơi vào vô vi,quên luôn hơi thở,và khi đó là lúc xuất thế thoát ra khỏi biến hóa của âm dương ngũ hành.
Vì thế Lão Tử coi đời là vở kịch chỉ cần ngồi xem và quan sát đến khi vở kịch ấy tự nó sẽ đạo diễn cho nó để đi tới kết thúc,và người xem hết vướng bận tâm.

Tóm lại là không cần tác động,mọi thứ sẽ tự nó vận hành và tự cân bằng,tự làm chủ chính nó theo quy luật tất yếu.
Coi thường kinh nghiệm và kiến thức cũng là một đột biến lớn trong lĩnh vực giáo dục. Nếu người ta coi việc học hành chỉ là để lấy kiến thức thì lúc đó sẽ rơi vào thụ động, cái đầu sẽ bị nhồi sọ bởi lượng tri thức vô hạn mà không thể học và nhớ hết.

Lão Tử giống Socrat hay Lí Tiểu Long khi cho rằng mục đích tối thượng của học là để rèn luyện con người,học để bộ não phải tư duy sinh nhiều nếp nhăn và thông minh hơn. Học võ không phải để biết miếng võ mà là để làm cho thân thể nhạy bén linh hoạt khỏe mạnh hơn. Người không biết sẽ càng phải tư duy nhiều hơn,rèn luyện nhiều hơn qua đó sẽ càng phải tu Đạo. Người biết nhiều hay ỷ vào kiến thức của mình nên càng ít phải tư duy ,càng ít tu tập. Nên ta vẫn thường thấy Lão Tử coi trọng tâm trí và hành vi của đứa trẻ con hơn hết.

Cái phá cách nữa của lão Tử là ông đã phát triển thuyết Âm Dương và nhận ra vị trí của từng mặt đối lập . "Âm cực thì Dương sinh" có gốc mới có ngọn,không có dưới thì trên ngồi ở đâu. Không phải khi rắn mất đầu thì thân rắn chết mà là đầu rắn rời khỏi thân thì đầu rắn mới chết. Quan không có dân thì quan chẳng tồn tại được nhưng dân không có quan thì chưa hẳn dân đã chết...
Vì thế giữa hai mặt tự nhiên và xã hội thì lão tử đã nhận ra mặt tự nhiên giữ vai trò tiên quyết nhất và nghiêng về mặt đó. Trong bối cảnh đương thời khi những phép tắc quy định luật lệ xã hội đã cổ hủ chèn ép,ràng buộc con người làm bảo thủ kìm hãm phát triển thì người ta sẽ buộc phải thoát khỏi xã hội và trở về với tự nhiên. Không có tự nhiên thì không có xã hội nhưng không có xã hội thì tự nhiên vẫn là nó.

Tuy vậy tư tưởng của lão Tử vẫn còn vượt xa và tỏ ra cá biệt so với chỉ số phát triển con người hiện nay. Vì thế không phải ai cũng hiểu và vận dụng được. Thiên tài có người đi trước thời đại vài trăm năm nhưng cũng có người hàng nghìn năm sau nhân loại lại tìm về và khai quật lại mà đánh giá rồi học hỏi tiếp thu họ.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Nếu nói con người là trung tâm của vũ trụ,và con người thống trị thế giới thì vẫn hơi quá. Khi con người tự cho mình quyền đó thì sẽ dẫn tới trà đạp lên tạo vật,coi quyền bình đẳng của mọi sinh linh là phi lí. Chỉ có thể nói con người là trung tâm của tồn tại mà thôi. Vì: phải có sự tác động nhìn nhận của con người thì thế giới mới có sự phân chia mặt vật chất và mặt tinh thần. Mọi sự vật hiện tượng khi có sự tác động của con người đều có hai giá trị vật chất và tinh thần. Ví dụ cái cây giá trị vật chất là để điều hòa môi trường không khí,lấy củi...còn giá trị tinh thần có thể là làm cây cảnh,thẩm mĩ...

Bản thân con người cũng có mặt tự nhiên và mặt xã hội,có thể xác và tinh thần. Những yếu tố đó thực chất là sự phản ánh củ thế giới bên ngoài vào mà thôi,nên con người cũng là thế giới thu nhỏ,là tiểu vũ trụ theo tính chất toàn đồ. Trong con người cũng có quá trình lí,hóa,sinh,cũng tuân theo định luật cơ giới,cũng có ý thức về pháp luật,quy tắc xã hội...Nếu thế giới bên ngoài là sự đấu tranh để con người tự chủ trước tự nhiên và xã hội thì ở thế giới bên trong cũng là cuộc đấu tranh với chính mình.

Thể xác và tinh thần cũng chỉ là cái vỏ bọc của con người ,ẩn đằng sau tất cả là cái Tôi đích thực. Cái Tôi đích thực này hoặc là sẽ luôn có sự vươn lên để làm chủ bản ngã,kiểm soát mọi bản năng ý nghĩ của con người theo quy luật tiến hóa hoặc cao hơn là sẽ xuất ra khỏi con người,trả con con người về với thế giới bên ngoài.

Ngoài vấn đề con người ra thì vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức là chủ đề để tranh luận trong triêt học và từ đó phân chia thành nhiều trường phái. Nếu không lấy con người làm trung tâm tất sẽ sinh ra duy vật và duy tâm.

Mỗi vật chất xác định ra không gian riêng của nó,và mỗi sự vận động xác định ra thời gian riêng của nó. Vật chất và vận động không tách rời nhau nên không gian và thời gian cũng phải gắn với nhau. Nếu các sự vật hiên tượng tách rời và độc lập nhau thì không gian và thời gian của chúng sẽ là tương đối nhưng nếu có sự hòa nhập làm một chỉnh thể duy nhất thì không gian thời gian lúc này là như nhau. Nếu như vật chất có thể nhìn thấy thì không gian và thời gian thuộc phạm trù tinh thần chỉ hiểu được trong tư duy,không gian thời gian phản ánh những thuộc tính chung nhất của vật chất,chúng là khái niệm về vật chất. Nhưng nếu không có sự tác động của con người thì liệu có sự phân chia như vậy không?

Những quy luật vận động khách quan tồn tại trừu tượng chỉ hiểu được trong tư duy thuộc phạm trù tinh thần,biểu hiện vật chất của nó là vô số những sự vật hiện tượng đang diễn ra trước mắt. Nhưng để có sự phân chia vật chất và tinh thần thế giới ấy cũng phải có sự nhận thức của con người mới rút ra được.

Quy luật logic là: Từ không phân chia đến có phân chia và quay về không phân chia. Lúc đầu thế giới tồn tại khách quan,không có phân chia vật chất tinh thần,đến khi con người tác động thì phân là hai giá trị vật chất và tinh thần và khi con người xuất thế thì lại quay về trạng thái không phân biệt nguyên thủy.
Không âm-không dương trở thành âm-dương chuyển hóa xoay vần và quay về không âm không dương: không sinh,không tử -sinh-tử-sinh-tử-sinh-tử...về cõi không sinh,không tử.

Đạo mà Lão tử đề cập giống với tinh thần thế giới hay phép biện chứng của heghen. Những quy luật vận động khách quan của tạo hóa,vũ trụ ấy được những cái đầu thông thái thấu hiểu,họ thấu suốt lẽ biến hóa càn khôn,con người và tạo vật. Từ đó giới thiệu cho mọi người để đi đúng hướng.Nhưng Heghen lại rơi vào duy tâm khách quan khi tuyệt đối mặt tinh thần và coi hệ thống triết học của mình là tối thượng,nắm trọn thế giới trong lòng bàn tay điều này cũng dễ hiểu. Khi người ta muốn đổi mới cải cách thì thường có lập trường duy vật còn khi muốn bảo thủ,duy trì hiện thực thì lại rất dễ duy tâm.Đó là sự hoán đổi vai trò tiên quyết của các mặt đối lập tùy theo hoàn cảnh không gian thời gian.

Thuyết Âm Dương Ngũ Hành cổ đại cũng là sự đúc kết sơ khai vầ quy luật tạo hóa. Ngày nay Ngũ Hành không đơn giản là năm yếu tố khép kín nữa mà là thể thông nhất với nhiều yếu tố tác động qua lại trong đó luôn có mắt xích đóng vai trò tiên quyết cần được phân biệt,và tùy theo hoàn cảnh mà có sự thay đổi vai trò tiên quyết cho nhau. Ngoài ra thể thống nhất không còn là thể khép kín nũa mà nó còn có sự phát triển mở rộng mối liên hệ,có thể thêm vào những mắt xích khác nữa...
Cái vòng luẩn quẩn của các nước nghèo: Đầu tư kém-năng suất thấp-thu nhập kém-đầu tư kém-năng suất thấp-...
Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó phải có sự mở rộng thể thống nhất,có sự tác động vốn đầu tư từ nước ngoài để phát triển.

Muốn có địa vị chỗ đứng hoạc là nhiều tiền như Mĩ,hoặc là con người thông minh có tài như Nhật. Nhưng xu hướng phát triển ngày càng trọng người có tài hơn,coi trọng con người hơn.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Hóa thân trong Thần thoại của Lão Tử chính là Thái Thượng Lão Quân người luyện linh đan bằng lò bát quái tu luyện thuật trường sinh bất tử ngự tại cung Đâu Suất. Lúc đầu ông ta có công cùng Lí Tịnh( Lí Thiên Vương) ,Natra, Nhị lang thần Dương Tiễn ...và nhiều người khác dẹp loạn ở dưới trần gian . Sau đó tất cả được phong thần lên trời làm tiên. Chỉ có Nhị lang thần vẫn ở lại mặt đất nên thuộc dòng địa tiên có quyền năng ngang ngửa với Tôn ngộ không. Trấn Nguyên Đại Tiên người có cây Nhân Sâm cũng thuộc dòng địa tiên tu luyện ở mặt đất không lên trời là bạn của Lão tử . Trong các tướng lên trời làm quan chỉ có Thái thượng lão quân không phải quỳ trước Ngọc Đế. Lão giáo cũng tương đồng như Phật giáo coi trọng xuất thế nhưng giống như các Thần tiên khác chưa thoát khỏi càn khôn. Trong Tây du kí có tình tiết thái thượng lão quân hỗ trợ Nhị lang thần bắt được Tôn ngộ không nhưng lại không thể kiểm soát được Tôn Ngộ Không,thậm chí sau khi luyện Tôn Ngộ Không trong lò bát quái còn làm tôn ngộ không mạnh hơn nữa,luyện được phép kinh thiên động địa có thể hấp thụ linh khí trời đất vào người và hỏa nhãn kim tinh nên ngoài Phật Thích Ca ra thì lúc đó không ai có thể chế ngự được nữa. Tình tiết này cho thấy hạn chế của Lão giáo trong việc giải thoát con người khỏi luân hồi sinh tử.
 
Tư tưởng của Nhà Phật và Đạo giáo xưa kia cũng ăn sâu vào lối sống các dân tộc Á Đông tạo ra tính cách thâm trầm,tư lự.
Từ đó mà người ta hay thấy có những cao nhân,nhân tài không muốn lộ diện ra mặt mà chỉ thích cuộc sống ẩn dật trong dân gian sống cuộc sống đời thường,nếu có làm việc gì thì cũng giấu mặt kiểu " Chân nhân bất lộ tướng ",hay " Ngọa hổ tàng long ". Lão tử là một trong người như thế. Không thích bon chen đấu đá,không ham danh vọng,quyền lực,nổi tiếng... Có lẽ tư tưởng này rất xa lạ với hiện nay khi mà có những bạn còn trẻ mà đã có thể gây tai tiếng hay làm những việc động trời gì đó để đánh bóng làm mọi người biết đến mình. Bên cạnh đó kéo theo tính cách hiếu thắng,ngạo mạn,thiếu khiêm nhường,đánh giá người khác qua vẻ bên ngoài. Chưa chắc một tiến sĩ đã có chỉ số IQ hay đạo đức cao hơn một nông dân vì có thể người nông dân vì hoàn cảnh không được đi học,hay vì nhiều lý do gì đó như học tài thi vận,lúc thi thì bị tai nạn,ốm đau...đó chỉ là những sa sút nhất thời chứ không phải toàn bộ .
Hiện tại qua thực tế cuộc sống tôi vãn thấy xã hội chúng ta vẫn còn những người như thế .

Trong võ thuật có môn võ nhu nhuyễn công thiên về âm kình. Người luyện võ bề ngoài chẳng có gì khỏe mạnh nhưng ra tay tàn độc vô cùng vì âm kình xuyên sâu vào làm nát nội tạng mà bên ngoài không để lại dấu vết thương tật như các môn võ thiên về dương kình.
Vì thế đâu chỉ đánh giá qua bề ngoài được.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Lão Tử tức Thái Thượng Lão Quân , họ Lý tên Nhĩ, tự là Bá Dương, hiệu Lão Đam, là một vị tư tưởng gia nổi tiếng vào những năm cuối thời đại Xuân Thu. Trong Đạo Giáo, được tôn là vị Tổ sáng lập nên tín đồ xưng Ngài là “Đạo Đức Thiên Tôn”, “Thái Thượng Lão Lý Quân”, “Thái Thượng Đạo Tổ”, “Vô Cực Lão Tổ”, “Tam Thanh Đạo Tổ”, “Lão Quân Gia”, “Vô Cực Chí Tôn”, “Vô Cực Thánh Tổ. Ngài sanh ngày mười lăm tháng hai năm Canh Thìn , tức năm thứ mười đời vua U Vương nhà Châu (Chu), người ở lý (xóm ấp) Khúc Nhân, làng Lại, huyện Khổ , thuộc nước Sở. (hiện nay là Lộc Ấp (鹿邑) thuộc tỉnh Hà Nam-NT)

*Chú thích:- Đây là dịch theo nguyên tác nầy, còn tiểu sử của Ngài vẫn còn nhiều tranh cãi, mong quí vị lưu ý cho—NT)

*Truyền thuyết xuất sanh của Lão Tử hết sức thần kỳ. Theo các sách của Đạo giáo, Ngài đã có mặt từ thời viễn cổ rất xa trải qua nhiều lần của “chu kỳ tám mươi mốt vạn năm” (?) rồi (810.000 năm), đời nầy thác thai vào Huyền Diệu Ngọc Nữ, bà mang thai suốt 81 năm, vào giờ Mão ngày rằm tháng hai Ngài đã từ hông của bà sanh ra ở nước Sở. Vì mang thai quá lâu, nên lúc sanh Ngài ra thì đầu tóc đã bạc phơ, nên có tên là “Lão Tử” (đứa trẻ đầu bạc” . Ngài ra đời dưới gốc một cây lý, vừa sanh ra đã biết nói, chỉ cây lý mà bảo rằng :- “Lý , chính là họ của ta đó”.

*Theo một truyền thuyết khác thì Lão Tử sanh ra đầu đã bạc mà có hiệu là Lão Tử, chính là hóa thân của Nguyên Thủy Thiên Vương thành Thần Bảo Quân để tế độ các thiên thần, chư Tiên phải nghe lệnh Ngài. Đời Châu Văn Vương thì Ngài làm “quan giữ kho” của nhà vua. Đến đời Vũ Vương được thăng chức Trụ Hạ. Về sau, thấy nước Châu ngày càng suy vi, nên đến đời Chiêu Vương, Ngài từ quan về ở ẩn. Ngài là nhà tư tưởng lớn thời kỳ cuối đời Xuân Thu, được Đạo giáo tôn làm Tổ Sư khai sáng của đạo Lão.


*Ở Bắc Lộc núi Chung Nam tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc có một cái đài Lâu Quan nổi tiếng mà truyền thuyết là nơi giảng kinh của Thái Thượng Lão Quân ngày xưa. Đài Lâu Quan nầy ở nơi có phong cảnh rất đẹp, dựa lưng vào núi nhìn ra dòng nước , được người xưng tặng là “ Động thiên phước địa”. Đây là thánh địa của Đạo giáo, lịch sử nói rằng đài Lâu Quan nầy đã có từ lâu hơn 2.500 năm trước.Đời nhà Châu , vị “Quan Giữ Ải” tên là Doãn Hỉ ở cửa ải Hàm Cốc đã cho dựng ở đây một cái đài bằng tranh cỏ, gọi là “Thảo Lâu Quán” , để quan sát theo dõi tinh tú trên trời. Truyền thuyết nầy nói rằng, lúc Lão Tử tuổi già từ quan cỡi thanh ngưu đi ngang qua cửa Hàm Cốc , vị quan giữ thành Doãn Hỉ, là người ham tu đạo, sở học rất giỏi về tinh tú thiên văn, biết Lão Tử là vị thoái quan ẩn sĩ, nên khẩn khoản xin Ngài viết sách để lưu lại cho đời sau. Do đó, Lão Tử viết bộ sách năm ngàn chữ, gọi là sách “Lão Tử” hay còn gọi là “Đạo Đức Kinh”.

* Thái Thượng Lão Quân đã viết mười hai bộ kinh điển, nổi tiếng hơn cả là “Tây Thăng Kinh”, “Hóa Hồ Kinh”, “Đạo Đức Kinh” v.v…mà trong đó, quyển “Đạo Đức Kinh” được xem là quí giá nhất, đã xuất bản in ấn hàng triệu quyển trên thế giới hiện nay. “Đạo Đức Kinh” có 81 chương, chia thành hai quyển thượng, hạ. Trong sách nầy, Lão Tử cho rằng , vũ trụ vạn vật có một cái gốc chung mà Ngài gọi là “ĐẠO” hoặc “VÔ”, nói rộng là những triết lý “Đạo pháp tự nhiên” và “Thanh tĩnh vô vi” hay “Trường Sanh Cửu Thị”, là những giáo lý giáo nghĩa căn bản của đạo Lão. Vấn đề mà Ngài quan tâm bàn đến là:- làm sao để xóa bỏ những tranh chấp trong xã hội, làm thế nào để cuộc sống con người được an ổn hạnh phúc. Từ đó, Ngài đề ra pháp thực hành là, con người nên sống theo cái tính tự nhiên và tính tự phát của “Đạo”, nhờ vậy mà ngăn ngừa được những tai hại của chiến tranh , trở lại được với tâm cảnh và hình thái sinh hoạt “chân thành vốn sẵn” của loài người, đạt kết quả là thiên hạ sẽ “vô vi nhi trị” (vô vi mà an thiên hạ).

Trong bá gia chư tử thời Tiên Tần, Lão Tử là vị được xem là đứng đầu trong hệ thống các luận thuật về “nguồn gốc vũ trụ”. Ngài lấy “ĐẠO” làm căn bản khởi nguyên của vũ trụ. Lý thuyết ấy được xem là nền tảng cơ bản cho các học giả đời sau ứng dụng và phát triển , nó trở thành một nền triết học mang tính “mẫu mực” cho đất nước chúng ta (Trung Quốc) đến tận ngày nay.

*Lão Tử được đương thời xem là tinh hoa ưu tú. Sử sách có ghi lại mẫu chuyện hết sức tiêu biểu là, đức Khổng Phu Tử đã đến tham vấn Lão Tử về “LỄ”.
(Xem phần phụ lục ở sau)

*Học thuyết về “Đạo” của Lão Tử được các triết gia sau thời Xuân Thu Chiến Quốc vận dụng và truyền bá mạnh mẽ. Trong số những người kế thừa, có Ngài Trang Tử là nổi bật nhất. Sau thời Đông Hán, có một số vị truyền nhân của Phật giáo và một số phương sĩ của tôn giáo ngoại lai có uy tín lớn, đã đem tư tưởng học thuyết của Lão Tử pha trộn với những tín điều, nghi thức của Vu Thần Giáo (đạo đồng bóng trạng cốt) làm thành một tôn giáo mới gọi là “Đạo giáo”.

*Cuối thời Đông Hán, có nhân vật Trương Đạo Lăng sáng lập ra phái “Ngũ đẩu mễ” (n
ghĩa là năm lít gạo, gọi tên theo việc người muốn gia nhập vào phái nầy phải đóng góp năm lít gạo) . Ông Lăng nói rằng đã được chính Thái Thượng Lão Quân chỉ dạy. Do đó, Lão Tử từ chỗ là Thủy Tổ của “Lão (Đạo) giáo” một cách danh chính ngôn thuận bị Trương Đạo Lăng biến thành “Đại Tôn” (giáo chủ) của một tôn giáo thế gian và tôn xưng Ngài thành Lão Quân hay Thái Thượng Lão Quân. Danh xưng nầy xuất hiện lần đầu trong quyển “Lão Tử tưởng nhĩ chú” của Trương Đạo Lăng và sau thời Bắc Ngụy, đã phổ biến mạnh mẽ trong quần chúng dân gian.

*Đầu tiên thì Lão Tử là vị thần tối cao trong Đạo giáo, nhưng từ sau thời Lục Triều, đã bị giáng cấp xuống hàng thứ ba (ở Thái Thanh Cung), đứng sau Thượng Thanh Cung Nguyên Thủy Thiên Tôn và Ngọc Thanh Cung NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ . Ba vị nầy được tôn xưng là “TAM THANH” của Đạo giáo.

*Năm Càn Phong thứ nhất đời Đường Cao Tông phong Lão Quân là “Thái Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế” và bắt mọi người từ thứ dân đến quan lại chư hầu đều phải học “Đạo Đức Kinh”, thậm chí lấy Đạo Đức Kinh làm nội dung chính trong các kỳ thi lớn trong triều đình.

*Đời Tống Chân Tông gia phong Lão Quân làm “Thái Thượng Lão Quân Hỗn Nguyên Thượng Đức Hoàng Đế Lão Tử” .

*Đời Đường Minh Hoàng (tức Lý Long Cơ) năm Thiên Bảo thứ 13 gia phong LQ làm “Đại Đạo Kim Khuyết Huyền Nguyên Thiên Hoàng Đại Đế” và xuống lệnh cho các Châu, Huyện phải lập Miếu Thờ Huyền Nguyên Hoàng Đế. Ngoài ra vua Minh Hoàng còn cho xây dựng Thái Thanh Cung rộng 800 mẫu (mẫu ta) để thờ LQ, ngày nay vẫn còn điện chính do đời nhà Thanh trùng tu. Trong điện có tượng LQ thếp vàng cao hơn một trượng, hai bên là hai hàng đại đệ tử như là:- Nam Hoa Chân Nhân (Trang Tử), Vô Thượng Chân Nhân (Doãn Hỉ) v.v…


****

Như vậy, gốc từ chỗ Lão Tử là một vị ẩn sĩ vô danh, được người biết đến qua học thuyết “vô vi”. Học thuyết nầy nhanh chóng được phổ biến rộng rãi, kèm theo những truyền thuyết có tính chất “thần thánh hóa” mà thành ảnh hưởng mạnh mẽ như ngày nay. Thêm nữa, Miếu Thờ Ngài hầu hết đều tọa lạc ở những nơi biệt lập, có phong cảnh sơn thủy hữu tình theo quan niệm thanh tĩnh vô vi của Ngài, đã tạo sự thu hút số lượng rất lớn du khách và người hâm mộ đến tham quan ngày càng đông.
Thành tố “Đạo” đầu tiên là lý thuyết mấu chốt của tín ngưỡng Đạo giáo, đã được phát triển thành “Ông Tiên đắc đạo—Trường sanh bất lão”. Đây là cảnh giới cao nhất của sự chứng đắc trong Đạo giáo mà tất cả tín đồ mong mỏi đạt được.

Lại có một cung điện khác là “Đâu Suất Cung” mô phỏng theo “Đâu Suất Thiên Cung” (tưởng tượng) mà xây dựng. Truyền thuyết nói, Đâu Suất Thiên Cung là nơi ở của Thái Thượng Lão Quân. Trong Đâu Suất Cung, thờ tòa “Tam Thánh” là :- Thái Thượng Lão Quân, Tổ sư Lữ Thuần Dương và Tổ sư Khưu Trường Xuân.

*Hầu hết những Miếu thờ nơi khác thì thờ tượng Lão Tử nơi Tam Thanh Điện. Gọi là Tam Thanh tức có ba tòa Ngọc, Thượng và Thái Thanh để thờ ba vị NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ , Nguyên Thủy Thiên Tôn , Thái Thượng Lão Quân .

*Do vì Đạo giáo có dạy về cách “luyện tiên đan” Và “diên hống (cống)” (nước miếng tiên) để trưởng dưỡng “hỏa hầu” (thuật ngữ của Tiên gia) , nên trong dân gian đã chọn Thái Thượng Lão Quân , ông chủ của “lò bát quái”, làm “LÔ THẦN” (thần lò bếp) hoặc “DIÊU (Dao) THẦN” (thần lò nung ngói gạch gốm sứ). Từ đó, những ngành nghề hiện nay có liên quan đến “lò, bếp, nấu nung, luyện cán…) đều thờ Thái Thượng Lão Quân làm Tổ Sư, với ý là nhờ vào oai lực của LQ để trấn yểm hạn chế bớt sự tác động của Thái Tuế.

*Theo “Sử Ký” của Tư Mã Thiên, thì niên đại về Lão Tử là ở vào thời kỳ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, tồn tại trên dưới 100 năm.

Từ khi Lão Tử được tôn xưng là Thái Thượng Lão Quân , Ngài đã trở thành một vị vua chí cao vô thượng của cõi trời, thống lãnh cả hai ban thần thánh là “Đạo” và “Đức” với danh hiệu tôn quí “Thái Thượng Hỗn Nguyên Đạo Đức Thiên Tôn” hoặc “Hoàng Lão Quân.

*Ngày vía của đức Thái Thượng Lão Quân là ngày rằm tháng hai âm lịch
.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top