Tích cực và hạn chế trong tư tưởng của Phan Châu Trinh
1. Phan Châu Trinh là một nhà Nho yêu nước, suốt đời kiên trì mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp, yêu cầu thực dân Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam
Trong tập diễn thuyết của ông về vấn đề: “Đạo đức và luân lí Đông Tây” ông đã nêu lên tấm lòng yêu dân của mình và bênh vực quyền lợi cho họ:
“Một nòi dân, cùng giọt máu xẻ ra, cùng một thứ tiếng nói, ở trong tiếng đất mà ông cha nó đã đổ mồ hôi, đổ nước mắt, để vỡ vạc ra thành 1 nước lớn truyền từ 4 ngàn năm đến giờ, thì được phép hưởng quyền lợi trên miếng đất ấy, được sống ở đó, chết chôn ở đó, giàu nhờ đó, nghèo nương đó, làm gì thì làm, không ai cấm đoán được…Một loài dân như vậy, nay bảo nó đừng thương Tổ Quốc nó thì bảo nó thương ai????”.
Không chỉ là 1 người thương dân, khơi dậy lòng yêu nước của nhân dân mà Phan Châu Trinh còn đề cao tinh thần đoàn kết.Ông nói: “ Muốn 1 ngày kia nước Việt Nam được tự do độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã…”
Ông đã nhìn nhận rõ mâu thuẫn giai cấp trong xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chế độ phong kiến lạc hậu và kiên quyết đánh đổ phong kiến.
Như ta biết lúc bấy giờ ngoài cái mâu thuẫn lớn nhất là mâu thuẫn giữa đế quốc Pháp với nhân dân Việt Nam, còn có mâu thuẫn cơ bản thứ hai là mâu thuẫn giữa địa chủ phong kiến và nông dân. Chế độ phong kiến thối nát tồn tại hàng trăm năm đã bóc lột tàn bạo sức lao động của nhân dân.Một khi triều đình Huế còn tồn tại, tên vua bù nhìn còn chưa hạ bệ, thì bọn chúng vẫn còn có tác dụng là ru ngủ nhân dân,đầu độc tư tưởng và tăng cường bóc lột toàn diện. Vì còn chế độ quân chủ, còn vua quan Nam triều bọn thực dân Pháp còn nắm được nhiều phương tiện để duy trì một trật tự xã hội và để lợi dụng làm món hang bán phẩm hàm, buôn chức tước.
Trước đây ngót 40 năm, Phan Châu Trinh đã có cặp mắt nhìn xa, thấy rộng, hô hào cổ động đánh đổ quân chủ, khác nào tiếng sấm đêm đông , lay tỉnh người mình trong cơn mộng. Khi ở trong nước cũng như khi ở ngoài nước lúc nào Phan Châu Trinh cũng như nhất, giữ vũng chủ trương đánh đổ quân chủ, đề xướng dân quyền.
Qua lời tự thuật của Sào Nam, trong tập "Phan ChâuTrinh niên biểu" chúng ta thấy rằng từ năm 1906 khi gặp Sào Nam ở Quảng Đông , trong hơn 10 ngày đàm luận , ông hết sức vạch tội ác của bọn quân chủ , coi chúng là đứa cô độc( độc phu) là giặc hại dân ( dân giặc); ông lại rất căm phẫn với bọn vua chúa triều Nguyễn lúc bấy giờ hại dân hại nước. Trong 7tâm trí ông dường như cho rằng không đập tan được nền quân chủ , thì dù có khôi phục được nước cũng không phải là phúc của dân. Ông chủ trương “ chỉ nên đề xướng dân quyền, dân đã giác ngộ được quyền lợi của mình rồi, bấy giờ mới có thể dần dần mưu tính đến việc khác” . Phan Châu Trinh muốn trước hết phải đánh đổ nền quân chủ để làm cơ sở xây dựng dân quyền, còn Phan Bội Châu thì muốn đánh đuổi giặc Pháp ngay, đợi khi tính độc lập rồi sẽ mưu tính đến việc khác. Nhưng cái ý Phan Châu Trinh muốn dựa vào nền quân chủ để phục quốc đó đã bị Phan Bội Châu phản đối kịch liệt.
Ông đã lên án những thủ đoạn áp bức bóc lột dã man, tàn bạo của thực dân Pháp.
Trong bức thư gửi toàn quyền Baul (1906) Phan ChâuTrinh nói: “ Nhưng đã bao nhiêu năm nay, người Nam ở dưới bóng cờ nước bảo hộ mà đến bây giờ nòi giống ngày 1 yếu hèn, không còn kế gì cứu vớt lấy nhau, thế thì vì sao mà đến nỗi thế???”.
Đó là vì:” Chính phủ chỉ dùng các hình luật rất là thảm khốc, ác độc để trói buộc dân ngu, mà đối với quan lại thì pháp luật rất là sơ sài”.
Đó cũng là vì thực dân Pháp “ khinh người Nam ví như lợn bò”…” Những người nghèo đi làm thuê, những dân phi đi làm việc quan, bị người Tây đánh đau hay đập chết…”.
Ông còn viết:” Hiện nay, người Nam, bất kì kẻ trí, người ngu, người lành, kẻ dữ, đều trăn miệng 1 lời nói rằng:”Chính phủ bảo hộ ngược đãi người Việt Nam, không coi người Việt Nam như là giống người.Thấy quan lại nước Nam tàn ngược với dân thì họ cho rằng chính phủ cố ý dung túng để cắn xé lẫn nhau, tàn hại lẫn nhau cho mòn mỏi.Đó là cái kế thực dân của chính phủ vậy”.
Như vậy, Phan Châu Trinh đã viết đúng được nhận xét của nhân dân và chính ông cũng đã nhiều lần thấy thực dân Pháp cũng chẳng tốt gì, chứ không hoàn toàn tin tưởng tuyệt đối vào thực dân Pháp
2. Phan Châu Trinh là người đầu tiên đề xướng tư tưởng dân chủ, dân quyền ở Việt Nam
- Đặt nền móng tư tưởng dân chủ tư sản
Trong phần nói về dân chủ, Phan Châu Trinh trình bày ba nội dung: tình hình dân trí nước ta đối với vấn đề quân chủ, dân chủ; lược sử chế độ dân chủ; và thế nào là chính thể dân chủ. Ở nội dung thứ nhất, đánh giá tình hình dân trí nước ta đối với vấn đề quân chủ, dân chủ, Phan Châu Trinh đã so sánh trong khi các nước bên Âu châu, nước nào cũng có đảng dân chủ ở trong thượng, hạ nghị viện cả, duy nước ta, ngay những người có ăn học thì cái chữ “republique” (cộng hòa) luôn ở trên miệng, nhưng không hiểu nghĩa lý ra thế nào huống chi người dân quê, đã không biết dân chủ là gì đối với vua thì thờ ơ như thần thánh. Từ đó ông phân tích rằng, vì cái độc quân chủ dân chỉ biết vua mà không biết nước nên phải “đem cái tụi bù nhìn ở Huế đó vứt hết cả đi”. Trong phần lược sử chế độ dân chủ, Phan Châu Trinh đã nêu lên một cách khái quát hai hình thức dân chủ trong lịch sử, đó là nền dân chủ chủ nô thời Hy Lạp cổ đại và dân chủ tư sản Anh quốc. Ở đây, ông chưa phân tích bản chất, đặc tính và những nguyên tắc của từng hình thức dân chủ đó, mà chỉ mới giới thiệu về sự tồn tại những “cái hội” mà “phàm những luật vua quí tộc đã đặt ra thì phải giao hội ấy xem xét, có bằng lòng thì mới được làm”.
Như vậy, tuy phần nói về dân chủ trong bài diễn thuyết không có gì là mới lạ, lại có nhiều thiếu sót vì chỉ giới thiệu một trong mấy thể chế của chủ nghĩa dân chủ tư sản, lại không phê phán những nhược điểm của nền dân chủ ấy, nhưng Phan Châu Trinh là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam bàn về vấn đề dân chủ và chủ nghĩa dân chủ, giới thiệu cho một bộ phận tri thức nước nhà sự tiến bộ tư tưởng ở Âu châu, trong đó ông đã cho mọi người thấy sự cần thiết của một nhà nước cai trị bằng pháp luật.
Là người đã đặt nền móng cho tư tưởng dân chủ tư sản ở nước ta. Ông cũng là người đã áp dụng tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây vào Việt Nam một cách linh hoạt và sáng tạo, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước. Tư tưởng dân chủ của ông so với Phan Bội Châu có sự phát triển cao hơn về trình độ, tính chất. Phạm trù dân chủ tư sản không chỉ dừng lại ở phạm trù chung chung, trừu tượng đem đối lập với quân chủ truyền thống mà mang tính phổ biến, gắn liền với những lợi ích thiết thân của con người và của xã hội.
Có thể nói rằng, những chủ trương thực hiện quyền dân sinh, dân chủ mà Phan Châu Trinh đề xướng xét về mặt thực tế là rất phù hợp với tình hình chung của đất nước lúc bấy giờ. Có thể nhìn ở khía cạnh cách mạng đánh đổ thực dân phong kiến thì tư tưởng của Phan Châu Trinh như là “cải lương”, nhưng nếu chúng ta nhìn nhận ở trong bối cảnh ấy, thì cách mạng Việt Nam chưa hội tụ đủ những yếu tố căn bản về sức mạnh vật chất để tiến hành cuộc cách mạng bằng bạo lực để giải phóng dân tộc. Vì vậy, dưới nhãn quan chính trị sắc bén, sát thời cuộc của mình đã dẫn Phan Châu Trinh đi đến những quyết sách phù hợp với thực tế hơn là làm cho dân có cái ăn, cái mặc.
Theo tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản của Phan Châu Trinh, vấn đề quan trọng nhất lúc bấy giờ là thực hiện mục đích làm cho dân có cuộc sống với các quyền cơ bản của con người. Để thực hiện được mục đích đó, theo ông, trước hết cuộc cách mạng dân chủ tư sản phải tuyên truyền cho nhân dân hiểu được quyền công dân của mình, đấu tranh công khai, hợp pháp đòi thực dân Pháp phải thực hiện đảm bảo quyền lợi của nhân dân.Mặc dù còn có nhiều hạn chế về mặt lịch sử, nhưng điều quan trọng là Phan Châu Trinh đã đề xuất được những tư tưởng mang tính chất phát hiện mới, có ý nghĩa chiến lược, thiết thực với dân tộc.
Những nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh là ngọn đèn soi sáng, là sự thức tỉnh cho dân tộc ta bước ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế hàng ngàn năm. Nó có một vị trí xứng đáng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, đặc biệt trong những năm đầu của thế kỷ XX.
- Phan Châu Trinh là người đề xướng tư tưởng dân quyền
Khi đề xuất những yêu cầu cải cách chính trị đối với xã hội Việt Nam lúc đương thời, Phan Châu Trinh đã nêu ra tư tưởng dân chủ như một định hướng cho cuộc cải cách này. Nội dung cơ bản của tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh là nâng cao dân quyền, là xây dựng thể chế chính trị và hệ thống pháp luật để bảo đảm cho dân quyền. Ông nhấn mạnh:
"Theo cái chủ nghĩa dân trị thì từ quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc chung cả nước, lòng quốc dân thế nào thì làm thế ấy".
Trong mấy thập kỷ đầu của thế kỷ này, tư tưởng dân quyền của Phan Châu Trinh như một ánh hào quang rực rỡ. Chính vì thế mà khi ông mất, Phan Bội Châu viết:
"Ông Phan Hy Mã … đem hai chữ dân quyền hò hét trong nước như một tiếng sấm vang, làm cho bao nhiêu giấc mơ phải tỉnh dậy, mà dân tộc ta từ nay dần dần mới biết mình có quyền. Quyền dân cao hơn thì quyền vua sụt xuống... Nay ông đã qua đời rồi mà cái chủ nghĩa ông ngày càng sáng chói. hết thảy đồng bào trong nước từ đứa trẻ con cũng lạy ông, khấn vái ông. Vậy là cái nghĩa "dân quyền" dạy bảo con người đã in sâu vào trong óc rồi đó!"
Tư tưởng dân chủ và dân quyền của Phan Châu Trinh là một đóng góp to lớn không những cho phong trào đổi mới và cải cách mà cả cho sự phát triển của lịch sử tư tưởng Việt nam đầu thế kỷ XX. Nếu chúng ta nhìn Phan Châu Trinh không phải chỉ thấy chủ nghĩa cải lương của ông mà còn thấy những cống hiến của ông về mặt tư tưởng và thực tiễn như trên đã nói thì chúng ta sẽ có sự đánh giá địa vị của ông trong lịch sử cách mạng Việt Nam một cách khách quan và công bằng hơn trước.
3. Ông là người đề xướng và tổ chức phong trào Duy Tân – góp phần quan trọng nâng cao dân trí, cải cách phong tục, chấn hưng đạo đức, thức tỉnh lòng yêu nước của người dân
Phan ChâuTrinh đã nhận thấy cái rối ren, mù mịt trong văn hóa người Việt Nam.Thời đại mới vẫn chưa làm thay đổi được bộ mặt của xã hội Việt Nam nếu không muốn nói là dậm chân tại chỗ trong khung cảnh văn hóa Nho giáo và quân chủ đã thịnh hành từ hàng chục thế kỉ trước.Đồng thời ông cũng nhận ra được sự tiến bộ của phương Tây, do đó mà ông muốn nhân dân ta thay đổi nếp sống mới, mong muốn cải cách xã hội triệt để thủ tiêu chiếc áo phong kiến lạc hậu,cũ kĩ.Những biện pháp thiết thực như:đưa ra khẩu hiệu để răng trắng, cắt tóc ngắn, ăn vận theo kiểu phương Tây …có ý nghĩa rất lớn.Phong trào cắt tóc lan xuống nông thôn đã dần biến thành phong trào kháng thuế của nhân dân.
Muốn cứu dân tộc, không còn con đường nào khác là phải đuổi kịp về mặt tri thức đối với các dân tộc khác, đưa dân tộc lên ngang tầm thời đại với các dân tộc khác. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể cùng sinh tồn và cạnh tranh với họ. Phan Châu Trinh đã thấy được rất xa là phát triển dân tộc quan trọng không kém độc lập dân tộc.
Mặc dù lúc bấy giờ chữ Quốc ngữ còn có nhiều nhược điểm nhưng so với chữ Nôm thì lại đơn giản, tiện lợi, có tính khoa học hơn nhiều, do đó rất hữu ích cho việc truyền bá chủ nghĩa Duy tân và nâng cao dân trí. Cái phong thái của nhà Nho ngồi nắn nót từng chữ để thành rồng thành phượng với ngòi bút lông mềm mại phải được thay bằng tư thế gọn gàng nhanh nhẹn của con người mới với ngòi bút sắt cứng cáp, đủ sức vạch mặt quân thù. Vì vậy các nhà lãnh đạo phong trào bèn ra sức hô hào học chữ Quốc ngữ :
Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước ,
Phải đem ra tỉnh trước dân ta ,
( Khuyến học - Trần Quí Cáp)
Các nhà Duy Tân cho rằng chữ Quốc ngữ dễ học, dễ viết, thời gian học tập rất ngắn so với chữ Nôm. Phải học chữ Hán mất mười năm mới học chữ Nôm còn học chữ Quốc ngữ thì chỉ mất vài tháng, đại đa số quần chúng ai cũng có thể học được. Chữ Quốc ngữ là công cụ hữu ích để truyền bá chủ nghĩa Duy Tân: “Quyết đem học mới thay nô kiếp”, là phương tiện để khai dân trí:
Trước hết phải học ngay Quốc ngữ,
Khỏi đôi đường tiếng, chữ khác nhau.
Chữ ta, ta đã thuộc làu,
Nói ra nên tiếng,viết câu nên bài.
Sẵn cơ sở để khai tâm trí.
(thơ Đông Kinh Nghĩa Thục)
Không chỉ dạy chữ Quốc ngữ cho dân ta mà còn dùng chữ Quốc ngữ dịch các sách nước ngoài để phổ biến kiến thức khoa học, kỹ thuật, triết học, kinh tế v.v.. hầu mở mang dân trí, ý thức dân quyền đưa đồng bào tiến bước trên đường Duy Tân, cứu đất nước thoát khỏi vòng đô hộ của thực dân Pháp:
Sách Âu Mỹ, sách Chi Na
Chữ kia,chữ nọ dịch ra tinh tường.
...Một người học muôn người đều biết,
Trí ta khôn trăm việc phải hay,
Lợi quyền nắm được vào tay,
Có cơ tiến hóa, có ngày văn minh.
(Chiêu hồn nước)
Nhờ lòng kiên trì, nhiệt tình yêu nước, các giáo viên tân học đã tạo được cho dân chúng sự hiểu biết cũng như lòng tin vào tiền đồ của dân tộc, càng ngày số người theo học càng đông. Phong trào học chữ Quốc ngữ đã được nhân dân hưởng ứng nồng nhiệt, tại Quảng Nam chỉ trong vòng năm, sáu tháng, 40 trường tân học đã được dựng lên để dạy chữ Quốc ngữ, phổ biến cái học mới.
4. Phan Chu Trinh là một nhà văn hóa lớn.Ông đã để lại cho đời một khối lượng các tác phẩm văn học, chính trị, lịch sử không chỉ có ý nghĩa với thời đại mà còn có ý nghĩa đến ngày nay.
Về văn học, Phan Châu Trinh để lại cho đời khối lượng lớn, đả kích phong kiến, khơi gợi lòng yêu nước, thể hiện tính khẳng khái của một nhà Nho yêu nước.Trong đó có tuyển tập Xăng tê thi tập do ông viết khi bị giam ở Pháp, Tây Hồ thi tập, và nhiều tác phẩm khác.
Theo tài liệu của Hùynh Thúc Kháng thì có khoảng 50 bài thơ chữ Hán và khoảng 200 bài thơ chữ quốc chữ. Trên thực tế có thể còn nhiều hơn. Về thời gian sáng tác và đặc biệt của các thi phẩm thì một số bài trong Tây Hồ thi tập do Phan Châu Trinh sáng tác khi còn ở việt Nam và một số bài khi mới sang Pháp. Còn những bài sáng tác trong thời gian 10 tháng ở ngục Santé thuộc về Santé thi tập.
Tập trước có trên 50 bài thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt nói lên tình cảm yêu nước và lòng thương người của người trí thức. Đây là tiếng thơ bất khuất của một chiến sĩ nhiệt tình và nhiệt huyết. Tập sau có trên 220 bài, phần lớn lấy tục ngữ, ca dao làm đầu đề. Sau này một số tuyển tập thơ văn Hán Nôm từ đầu thế kỉ như Tân văn lục, Văn liên tạp thảo, Văn minh tân học sách đều có sao lục ít nhiều thơ ca của Tây Hồ thi tập. Rồi những tuyển tập thơ quốc âm, những đặc sản kỉ niệm, những tập đặc khảo về Phan Châu Trinh, hoặc tập trung hoặc rãi rác đều có in những bài có trong Tây Hồ thi tập. Chẳng hạn Phan Tây Hồ di thảo của Ngô Đức Kế, Danh nhân nước Việt của Đào Văn Hội (Sài Gòn 1951), Phan Bội Châu và Phan ChâuTrinh... của Tôn Quang Phiệt, Phong trào cách mạng Việt Nam qua thơ văn của Trần Huy Liệu), “Thơ văn yêu nước, cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX” của Đặng Thai Mai (Văn hóa, Hà Nội, 1961), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập IV của Vũ Đình Liên, Hoàng Ngọc Phách (Văn hóa, Hà Nội), Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên và Hư Chu (Mặc Lâm, Sài Gòn, 1968), Thi ca châm biếm trào lộng Việt Nam của Hoàng Trọng Thược (Khai Trí, Sài Gòn 1969)... Năm 1961, ông Lê Ấm đã sao lục di thảo của Phan Châu Trinh về hai tập Tây Hồ và Santé và cho in chung thành một tập gọi là Tây Hồ Phan Châu Trinh di thảo, Tây Hồ và Santé thi tập. Sách này chia ra làm hai phần, tổng cộng có 295 bài thơ. Trong đó Tây Hồ thi tập có 69 bài và Santé thi tập có 226 bài, nhưng có 7 bài chép theo truyền văn.
Nếu thống kê tất cả những câu tục ngữ ca dao mà Phan Châu Trinh dùng làm đầu đề hoặc dùng ở phần chú thích thì cỡ đến 324 câu. Một nhà nho ngồi tù ở nước ngoài, cách quê hương hàng vạn dặm mà nhớ đến chừng ấy câu lời ăn tiếng nói của nhân dân thì quả phải có một tấm lòng thật yêu quý dân tộc, yêu quý đất nước và yêu ngôn ngữ dân tộc một cách sâu sắc mới làm được. Bên cạnh những bài thơ còn chịu nhiều ảnh hưởng của luân lý đạo đức phong kiến, chúng ta thấy xuất hiện nhiều bài thơ có giá trị tích cực. Đó là bài phê phán bọn quan lại phong kiến như:
Bài 138:
Cha mẹ hay nói oan, quan hay nói hiếp
Nói oan nói hiếp tự xưa nay
Cha mẹ cùng quan tính vẫn hay
Hồ đồ hai miệng bở gian ngay
Sinh con thì dễ sinh lòng khó
Bắt trái còn sưa, bắt mặt dày
Bố tinh vua nhà đừng nhận lộn
Rủi thì hùm dữ túm ăn vày
Bài 77:
Thần thế đồng tiền, oai quyền thúng thóc
Cõi tục nào ai có thế quyền
Không qua thúng thóc với đồng tiền
Bay mùi tanh nghí hèn thêm khiếp
Khỏa mặt đầy vun đói phải khiêng
Chim nước Tây sang càng quỷ quái
Chó làng Nhữ sủa cũng thần tiên
Thử xem trước mắt người thiên hạ
Đệ nhứt nhà quan, nhị chủ điền
Phê phán kịch liệt những thế lực áp bức nhân dân, Phan Châu Trinh đồng cảm sâu sắc với nhân dân nghèo khó. Cụ thấy rõ “Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống (bài 147), cụ nói đến những người ăn mày, những đứa trẻ mồ côi: bài 29: Ăn mày nhờ cơn cháy chợ, bài 52: Con không cha ăn cơm với cá, con không mạ liếm lá đầu hàng, bài 182: Bao đời dì ghẻ có thương con chồng…
B HẠN CHẾ
1. Xác định kẻ thù và nhiệm vụ cách mạng
Phan Châu Trinh xác định quan lại Nam triều là kẻ thù quan trọng cần đánh đổ nhưng ông lại không nhìn ra được muốn đánh đổ được nó phải dựa vào nhân dân và phải chĩa mũi nhọn vào thực dân Pháp trước. Đánh đổ được thực dân Pháp mới đánh đổ được Nam triều vì thực dân Pháp là kẻ đầu sỏ Nam triều là tay sai. Nay dựa vào đầu sỏ mà đánh tay sai quả là ảo tưởng thực dân pháp.
Trên thực tế, chúng ta biết rằng có hàng trăm phong trào chống Pháp rầm rộ ở khắp mọi nơi nhưng những phong trào bạo động vũ trang ấy của nhân dân ta đã bị dìm trong bể máu. Thực dân Pháp căn bản bình định xong VN và bắt đầu khai thác lần thứ nhất. Nhưng muốn bóc lột được dễ dàng, chúng cũng ko thể dùng chính sách mềm dẻo, sau chính sách cứng rắn áp dụng trong thời gian vừa qua.
Nhận định về tình hình đất nước và sự nghiệp “khai hóa” của thực dân, Phan Châu Trinh viết : “đến nay thế nước ngày càng suy yếu đến nỗi sụp xuống bậc cuối cùng, nếu không núp dưới quyền bảo hộ của nước Pháp thì ngày nay không biết đã trụy lạc xuống vực sâu hay thẳm nào?” (Thất điều trần-1922).
Như vậy theo Phan Châu Trinh thì Pháp cũng có công với VN đấy. Thêm vào đó là việc Phan Châu Trinh coi chủ nghĩa đế quốc cũng là chủ nghĩa tư bản mà chủ nghĩa tư bản thì tiến bộ hơn chủ nghĩa phong kiến, từ đó ông chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”. Có thể thấy chủ trương của Phan Châu Trinh là không tưởng.
Như vậy, ông chưa nhận thức rõ mâu thuẫn dân tộc chủ yếu trong xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân ta với thực dân Pháp, chưa xác định Pháp là kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân, chưa đấu tranh đòi quyền Độc lập dân tộc.
2. Hạn chế trong phương pháp cách mạng
Trong bất cứ một cuộc cách mạng nào, yếu tố phương pháp được xác định đúng và phù hợp sẽ góp phần quan trọng trong việc đưa cách mạng tới thắng lợi. Nhưng tùy vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng giai đoạn lịch sử và điều kiện của đất nước, của tổ chức cách mạng và người lãnh đạo sẽ chọn lựa con đường đi phù hợp.
Xét trong hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam vào giai đoạn những năm đầu thế kỷ 20, khi đó thực dân Pháp đã cướp đoạt chính quyền của ta, xác lập được nền thống trị chặt chẽ trên toàn Đông Dương. Thời gian này rất nhiều cuộc đấu tranh đã bùng nổ do ảnh hưởng của “ tư tưởng mới ” truyền vào nước ta. Ở thời điểm ấy, yêu nước là căm thù giặc Pháp, phải bằng mọi cách đuổi hết bọn chúng ra khỏi lãnh thổ, và chỉ có con đường duy nhất đúng để giải phóng dân tôc, đưa nhân dân thoát khỏ kiếp lầm than, đó chính là bạo động cách mạng.
Song Phan ChâuTrinh đã không đi theo cách thông thường và truyền thống đó mà lại ôm cái ảo tưởng mong chính phủ bảo hộ biết hối ngộ lại mà mau cải cách, thậm chí còn công nhiên bài xích những người đi theo con đường võ trang nổi dậy ( Phan Bội Châu, Phan Xích Long...). Phan Châu Trinh cho rằng “ không nên bạo động, bạo động là chết ”, đây là một ý kiến không phải không có cơ sở.
Thực tế đã chứng minh những cuộc đấu tranh vũ trang từ cuối thế kỷ 19 cho tới trước năm 30 của thế kỷ 20 đều rơi vào thất bại. Nhưng ông không nhận ra rằng, những cuộc đấu tranh ấy thất bại vì thực lực non yếu, chưa đủ mạnh chứ không phải phương pháp bạo động là sai lầm.
Ông ngay từ đầu đã xác định sai kẻ thù bởi vậy việc xác định phương pháp cách mạng không thỏa mãn được yêu cầu cách mạng của Việt Nam lúc này. Ông chỉ công kích quan trường thối nát, mắng nhiếc sĩ phu mơ mộng, chê trách dân ngu hèn. Đối với thực dân Pháp, ông chủ trương chỉ phản đối chính sách ngược đãi người Việt Nam. Có thế nói chủ trương bất bạo động của Phan là một chủ trương cơ hội hữu khuynh nguy hiểm, kiên trì nó, Phan Châu Trinh càng sa vào đám sa mù không có lối thoát. Cái nguy hiểm đó là ông luôn tìm cách bác bỏ, phê phán tư tưởng bạo động cách mạng của Phan Bội Châu, gây ảnh hưởng lớn tới phong trào chống Pháp của Phan và tổ chức Đông kinh nghĩa thục, nội bộ lục đục làm ảnh hưởng lớn tới tiến trình cách mạng của đất nước. Cho tới quãng cuối cuộc đời mình ông vẫn không hề thay đổi ý kiến trong 20 năm hoạt động cho cách mạng dân chủ của mình.
"Nói rộng ra, còn có các ông cách mạng ở Tàu, ở Nhật, các ông ấy cũng tự xưng là Đảng nhưng chỉ có chủ nghĩa bảo thủ mà thôi, có mấy anh thông minh can đảm thì đâm đầu vào lửa chết vô ích như lũ phù du, còn dân thì có lợi ích gì ? ” (1925). Trước sau ông vẫn giữ chính kiến ban đầu, song chính kiến ấy lại lệch lạc so với thời cuộc, bảo thủ trong lối nhận thức. Và sau này bọn phản động cách mạng như Bùi Quang Chiêu,...đã tin vào đó để xuyên tạc tư tưởng của Phan Châu Trinh.
Phan Châu Trinh mong hợp tác với thực dân Pháp để nâng cao dân quyền, tiến hành mọi việc cải cách thì là sai lầm. Vì như chúng ta đã biết bản chất của đế quốc là xâm lược, bóc lột, hiếu chiến, nếu cứ nhẹ dạ tin tưởng vào lời đường mật của đế quốc mà gửi hi vọng vào nó thì khác nào “đem con mà gửi quạ già”.
Phan Châu Trinh cho rằng muốn mượn tay pháp để thực hiện sách lược của mình và một khi chủ trương đó được thực hiện thì mâu thuẫn giữa nhân dân ta và thực dân thống trị bị thủ tiêu mà Phan Châu Trinh nói: “Tôi phản đối là phản đối cái chính sách ngược đãi người Việt Nam chúng tôi, chứ không phản đối nước Pháp”. Ông cho rằng: ngày mà nhân dân An Nam được nước Pháp giúp cho học hành, được tự chủ, giúp cho chúng tôi được tự do, nước Pháp sẽ đảm bảo quyền lợi và chúng tôi sẽ là bạn và đồng minh của nước Pháp mãi mãi…”, đó là một sai lầm vì không một tên đế quốc nào muốn nô lệ của mình lớn mạnh, nếu có chính sách gì đó chỉ là nằm trong âm mưu lôi kéo tầng lớp trung gian chống cách mạng mà thôi.
Những lập luận của Phan Châu Trinh về con đường ỷ Pháp để “ cầu tiến bộ” , “ cải tử hoàn sinh ” cho dân tộc Việt Nam được thể hiện rất rõ trong “ thư gửi toàn quyền Đông Dương” 1906.Trong thư ,PCT nêu rõ 3 nguyên 2 làm cho xã hội VN tồi tệ, 1 là tại chính phủ bảo hộ dung túng quan lại : “ chính phủ lại chỉ dung cái hình luật rất thảm khốc ác độc để trói buộc bọn dân ngu , mà đối với quan lại thì pháp luật rất là sơ sài ,đến nỗi như đê nước vỡ chân ,tung tóe ra mà không thể nào ngăn được nữa”,2 là vì: chính quyền thực dân khinh rẻ sĩ dân VN: “cho là người Mọi (mọi rợ)”, “ví với lợn bò, không muốn dìu dắt lên chon gang với mình” ,làm cho người VN phải xa lánh khiếp sợ người Pháp,3 là : quan lại VN suy thoái đạo đức , hà hiếp dân lành , “ bọn quan lại đều là người có đọc sách , có biêt chữ ,mà dám lấy quan trường làm nơi bán hàng ,coi nhân dân như cá thịt…”
Phan ChâuTrinh chưa nhận thức được nguyên nhân sâu xa nhất dẫn đến xã hội Việt Nam tồi tệ đến như vậy là do chính sách bóc lột tàn bạo, chính sách ngu dân của thực dân Pháp.Do đó phải tùy điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà dựa vào Pháp hay chống Pháp triệt để.
Phan Châu Trinh đã lẫn lộn giữa chính phủ phản động Pháp với nhân dân tiến bộ Pháp, những người đại diện chân chính của dân tộc Pháp, 1 dân tộc có truyền thống cách mạng. Nước Pháp trong thời kì Phan Châu Trinh là nước cầm đầu bởi một chính phủ đế quốc phản động. Ông không hiểu được rằng những tư tưởng tiến bộ trong cuộc Đại cách mạng Pháp hồi cuối thế kỉ XVIII đã bị chính con cháu của cuộc Đại cách mạng đó bỏ rơi. Tư tưởng nhân quyền và dân quyền, khẩu hiệu tự do, bình đẳng và bác ái chỉ còn là một thứ bánh vẽ đã và đang bị lợi dụng để phục vụ cho giai cấp tư sản Pháp đi nô dịch các dân tộc nhỏ yếu và gây chiến tranh nhằm tìm kiếm các nguồn lợi nhuận trên thế giới. Bọn cai trị Pháp sang các thuộc địa là những tên tay sai trung thành của chủ nghĩa đế quốc trong đó có tên khoác áo dân chủ, xã hội để lừu bịp nhân dân thuộc địa. Trong thời gian sống ở Pháp, Phan Châu Trinh đã được tiếp xúc với những phần tử tiến bộ trong nhân dân Pháp. Nhưng ông vẫn lẫn lộn ranh giới giữa những người Pháp chân chính và bọn cai trị thuộc địa. Phan Châu Trinh lẫn lộn trắng-đen như vậy cũng là một lý do Phan Châu Trinh không có tư tưởng chống chủ nghĩa đế quốc Pháp trước chống phong kiến.
3. Xác định mục tiêu cách mạng
Phan Châu Trinh đặt mục tiêu dân chủ lên trước mục tiêu dân tộc, do đó không đáp ứng được nhu cầu cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Phan ChâuTrinh thực hiện phong trào Duy Tân, cải cách sâu rộng trên tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục….đạt được rất nhiều thành tựu lớn. Những cải cách của ông có tác dụng lớn làm tha đổi bộ mặt xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, trong đó đặc biệt có ý nghĩa lớn trong lĩnh vực giáo dục.
Tuy nhiên xét vào bối cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ thì phải xác định mục tiêu trước mắt là độc lập dân tộc. Dưới ách áp bức của thực dân Pháp và chế độ phong kiến chuyên chế lộng hành, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Do đó, muốn nhân dân no đủ thì phải có độc lập trước đã. Muốn có độc lập thì phải huy động lực lượng, đánh đổ thực dân Pháp. Trên cơ sở đó mới cải cách xã hội, xây dựng đất nước. Nhưng Phan Châu Trinh lại đi ngược lại mục tiêu đó. Ông xem cải cách còn quan trọng hơn đánh Pháp, xem cải cách là cách duy nhất để đem lại cuộc sống no đủ cho nhân dân. Tuy xuất phát từ những lí lẽ khác nhau của ông, đều nhằm mục đích chính đáng là yêu nước thương dân nhưng mục tiêu cách mạng mà ông đưa ra không phù hợp với hoàn cảnh đương đại của Việt Nam. Do đó nó không thực hiện được triệt để, không hiệu triệu được sức mạnh của toàn dân tộc.
Trong vấn đề dân tộc, ông chỉ đặt vấn đề tự trị chứ chưa bao giờ đề cập đến vấn đề độc lập dân tộc. Ông hô hào thực dân Pháp thực hiện những chính sách nới lỏng với xã hội thuộc địa, đòi trả lại quyền tự trị cho nhân dân Việt Nam, nhưng luôn kêu gọi Pháp phải bảo trợ cho Việt Nam, đặt Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Liên Bang Đông Dương.
4. Ông nhận định sai lầm về nhân dân, chưa xác định động lực cách mạng là quần chúng nhân dân.
Điều này được thể hiện rất rõ nét trong tác phẩm: “Tỉnh Quốc hồn ca”.
Trong đoạn đầu, sau khi nêu quá khứ vẻ vang oanh liệt của dân tộc Việt, tiếp đến là chỉ trích lỗi lầm của người trên kẻ dưới đã làm cho nước nhà lụi bại.Theo giáo sư Nguyễn Huệ Chi, tác giả đã so sánh nhiều phương diện về dân khí dân trí của các nước văn minh trên thế giới với dân tình của nước Việt đại để như sau:
1. Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước; thì người nước mình tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhã đoạ đày.
2. Trong khi người ta dẫu sang hay hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề; thì người mình chỉ biết ngồi không ăn bám.
3. Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang trí óc; thì ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con.
4. Trong khi họ có tinh thần đùm bọc, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau; thì ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa đảo nhau vì chữ lợi.
5. Trong khi họ biết bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh doanh làm cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có; thì ta quen thói bất nhân bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền bạc đất đai trở thành vô dụng.
6. Trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp nghĩa với người chết; thì ta lo làm ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia đình bán hết ruộng hết trâu.
7. Trong khi họ ra sức cải tiến phát minh, máy móc ngày càng tinh xảo; thì ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi đáy giếng, không có gan đua chen thực nghiệp.
8. Trong khi họ giỏi tổ chức công việc, sắp xếp giờ nghỉ giờ làm hợp lý, thì ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ bê công việc.
9. Trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin ở bản thân; thì ta chỉ mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc gì cũng cầu trời khấn Phật.
10.Trong khi họ làm việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là “đầy tớ” của dân, được dân tín nhiệm; thì ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia đình, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng, v.v...
Nhìn chung, tác phẩm cổ vũ một sự cách tân xã hội theo chiều hướng dân chủ tư sản, và đối tượng kêu gọi là tầng lớp trung lưu và thượng lưu lúc bấy giờ. Cùng với các bài hiệu triệu khác, Tỉnh quốc hồn ca I đã góp phần không nhỏ vào công cuộc canh tân tự phát của nhân dân đầu thế kỉ XX.
Nào là kẻ đủ bề tài trí,
Nào là người cả chí kinh luân,
Tiếng khen khắp cả xa gần,
Trong khi tuyển cử thì dân nó bầu.
Chẳng hể phải lòn sau cúi trước,
Cũng chư hề chạy ngược chạy xuôi.
Đến khi được chức lên ngôi,
Dẫu quan quyền nước, thực tôi dân nhà...
...Ấy cũng là một gương tỏ rõ,
Để cho ta thử đọ mà coi.
Người mình không đức không tài,
Ham quan ham tước chen vai cúi đầu.
Cửa quyền môn mai chầu tối chực,
Đua chen nhau rạo rực như sôi.
Cửa tiền cửa hậu lăn vùi,
Cùng ra đến giậu chó chui cũng lòn.
Mình được rồi lo con lo cháu,
Lạ làng thay cái máu tham quan.
...Dân nghèo nước khó mặc lòng,
Cốt mình giữ đặng trong vòng ấm no...
...Nghĩ mình thua sút muôn phần,
Anh em ta phải đua chân mới là.
Chủ trương chính trị của Phan Châu Trinh được Phan phát biểu rải rác trong nhiều tài liệu viết ra hoặc do các bạn của Phan kể lại. Năm 1906, sau khi đã khảo sát Nhật, Phan Châu Trinh nói với Phan Bội Châu : “trình độ quốc dân người ta như thế ấy, trình độ quốc dân mình như thế kia, không làm nô lệ sao được? Nay được mấy học sinh vào nhà trường Nhật Bản là sự nghiệp rất lớn của ông đấy, bây giờ ông nên ở Đông tĩnh dưỡng, chuyên chú ý về việc viết sách, không cần hô hào đánh Pháp, chỉ nên đề xướng dân quyền, dân đã giác ngộ được quyền lợi của mình, bấy giờ mới có thể dần dần mưu tính đến việc khác”.
Ông còn nói : “chủ nghĩa muốn làm mau, muốn lấy võ lực mà bạo động trong nước…việc ấy tất nhiên thất bại”.
Như vậy từ chủ trương “bất bạo động”kèm theo những lời đánh giá ấy có thể cho thấy ông hoàn toàn không tin tưởng vào quần chúng nhân dân cũng như sức mạnh tiềm tang của quần chúng nếu được chỉ dắt lối, chỉ đường. Ông cho rằng : “trình độ quốc dân mình như thế kia, không làm nô lệ sao được”. Do đó không thể bạo động cũng chính là ông không tin vào sức mạnh của nhân dân.
C KẾT LUẬN
Như vậy nếu chỉ nhìn bề ngoài, ta có thể nhận thấy Phan Châu Trinh là 1 nhà cải lương. Nhưng nếu suy xét kĩ thì Phan Châu Trinh là 1 nhà cải cách lỗi lạc lúc bấy giờ. Bởi lẽ ông dựa Pháp đánh Pháp không hoàn toàn là sai. Nếu nhìn theo quan điểm xã hội và nhìn vào những việc thực dân Pháp đã làm với nhân dân ta thì phải xác đinh thực dân Pháp là kẻ thù số một, kế đến là phong kiến.Nhưng nếu xét bối cảnh lúc bấy giờ thì Phan Châu Trinh có quan điểm riêng của ông cũng đúng với xã hội đương đại. Muốn đánh Pháp phải lợi dụng Pháp. Muốn lợi dụng Pháp phải dựa vào Pháp, phải tâng bốc Pháp. Cái dựa Pháp của ông nhằm mục đích cứu dân tộc thì không thể làm xóa nhòa cái khí tiết của nhà nho yêu nước tiến bộ. Đó là 1 tấm gương sáng để người đời sau nhìn nhận đúng đắn về Phan ChâuTrinh.
Nguồn: vnkienthuc.com*
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: