Thơ Nguyễn Khuyến

Thandieu2

Thần Điêu
THƠ NGUYỄN KHUYẾN

Tiểu Sử Tác Giả

Nguyễn Khuyến: (1835-1910)

Trước tên là Nguyễn Văn Thắng; hiệu Quế Sơn. Là một thi gia cận đại lỗi lạc Người làng Yên Đỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Sinh ngày rằm tháng giêng năm 1835. Thụ giáo ông Hoàng Giáp Phạm Văn Nghị và có tiếng hay chữ nhất trường. Năm 1864 (Tự Đức thứ 17), đỗ giải Nguyên Trường Hà Nội. Năm sau, thi hội không đỗ; từ đó ông đổi tên là Nguyễn Khuyến, rồi vào kinh đô Huế học trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1871, (Tự Đức thứ 24) ông đỗ đầu luôn thi Hội lẫn thi Đình; do đó người đương thời gọi là Tam Nguyên Yên Đỗ.

Ông ra làm quan, đến chức Sơn Hưng Tuyên tổng đốc. Gặp lúc đất nước bị họa xâm lăn, ông thường tỏ ra thái độ bất hợp tác với giặc Pháp. Nhân bị đau mắt nặng, ông cáo quan để về nhà dạy học.

Đến năm 1910, ông mất, thọ được 76 tuổi. Giỏi về thơ nôm, Nguyễn Khuyến dùng đủ các thể ca, từ, thi, phú để tả cảnh, tả tình hoặc trào phúng, nay còn lưu lại trong: "Quế Sơn Thi Văn Tập".

Thơ Nguyễn Khuyến có tính cách phổ thông vì dễ hiểu, giản dị, tự nhiên, nhưng vẫn tỏ rõ được tấm lòng ưu thời mẫn thế của một nhà nho đầy khí tiết.
 
HÀ NAM

Lâu nay không gặp ngỡ xa đàng,
Ai biết rằng ra giữ mõ làng.
In sáo vẽ cho thằng mặt trắng,
Bẻ cò tính lại cái lương vàng.
Chuyện đời hãy đắp tai vàng trốc,
Lộc thánh đừng lừa nạc bỏ xương.
Cũng muốn ra chơi, chơi chửa được,
Gió thu hiu hắt đượm màu sương.


Ông làm đốc học bấy lâu nay,
Gần đó mà tôi vẫn chửa hay.
Tóc bạc răng long chừng đã cụ,
Khăn thâm áo thụng cũng ra thầy.
Học trò kẻ chợ trầu dăm tiếng ,
Khỏa khóa ngày xưa quyển một thầy.
Bổng lộc như ông không mấy nhỉ?
Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
LÊ LÃO

Ông chẳng hay ông tuổi đã già,

Năm lăm ông cũng lão đây mà.
Anh em làng xóm xin mời cả,
Xôi bánh, trâu heo cũng gọi là.
Chú Đáo bên làng lên với tớ,
Ông Từ xóm dưới lại cùng ta.
Bây giờ đến bậc ăn dưng nhi,
Có rượu thời ông chống gậy ra.
 
THU ẨM

Năm gian nhà cỏ thấp te te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy.
Độ năm ba chén đã say nhè.
 
TỰ TRÀO

Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,

Chẳng gầy, chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
 
THU VỊNH

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cành trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng sương phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào,
Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
 
THU ĐIẾU

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền con bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớm động dưới chân bèo.
 
CHỢ ĐỒNG

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét,
Nếm rượu, tường đền được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung
 
TỰ THUẬT

Tháng ngày thắm thoát tựa chim bay,

Ông ngẫm cùng ông, nghĩ cũng hay.
Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ?
Răng long ngày trước hãy còn đây.
Câu thơ được chửa, thưa rằng được,
Chén rượu say rồi, nói chửa say.
Kẻ ở trên đời lo lắng cả,
Nghĩ ra ông sợ cái ông này.
 
VỀ HAY Ở

Văng vẳng tai nghe tiếng chích chòe,

Lặng đi kẻo động khách lòng quê.
Nước non có tớ càng vui vẻ,
Hoa nguyệt nào ai đã đắm mê?
Quyên đã gọi hè quang quác quác,
Gà từng gáy sáng tẻ tè te.
Lại còn giục giã về hay ở?
Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe.

Văng vẳng tai nghe tiếng chích chòe,

Lặng đi kẻo động khách lòng quê.
Nước non có tớ càng vui vẻ,
Hoa nguyệt nào ai đã đắm mê?
Quyên đã gọi hè quang quác quác,
Gà từng gáy sáng tẻ tè te.
Lại còn giục giã về hay ở?
Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe.
 
LỜI GÁI GÓA

Chàng chẳng biết gái này gái góa,

Buồn nằm suông, suông cả áo cơm.
Khéo thay cái mụ tá ơm,
Đem chàng tuổi trẻ ép làm lứa đôi.
Chàng tuổi trẻ chơi bời quên nhọc,
Gái già này sức vóc được bao?
Muốn sao, chiều chẳng được sao,
Trước tuy sum họp, sau nào được lâu?
Lấy chồng vốn nhờ câu ăn mặc,
Chẳng ngờ rằng đói rách hổ người;
Vốn xưa cha mẹ dặn lời,
Tư bôn lại phải kẻ cười người chê.
Hỡi mụ ơi, thương chi thương thế?
Thương thì hay nhưng kế chẳng hay,
Thương thì gọi vải cho vay,
Lấy chồng thì gái góa này xin van!
 
ANH GIẢ ĐIẾC

Trong thiên hạ có anh giả điếc,

Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng ai ngờ "sáng tai nọ, điếc tai cày".
Lối điếc ấy sau này em muốn học.
Tọa trung đàm tiếu, nhân như mộc,
Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu.
Khi sau vườn, khi ao trước,
khi điếu thuốc, khi miếng trầu.
Khi chè chuyên năm bảy chén,
khi Kiều lẩy một đôi câu;
Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc.
Điếc như thế ai không muốn điếc?
Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!
Hỏi anh, anh cứ ậm à.
 
BỒ TIÊN THI

Chú huyện Thanh Liêm khéo giở trò,

"Bồ tiên thi" lại thấy vần bồ.
Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ,
Ngọng nghẹo văn chương giở giọng ngô.
Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,
Tiên là ý chú muốn vòi xu!
Từ vàng sao vẫn luôn cờ bạc,
Không khéo mà roi nó phết cho.
 
VỀ NGHỈ NHÀ

Tóc bạc, lòng son chẳng dám già,

Ơn vua nhờ được nghỉ về nhà.
Nước non cây cỏ còn như cũ,
Ghế gậy cân đai thế cũng là.
Đất rộng biết thêm đường gốc sậy,
Ngày rồi nghe hết chuyện la ga.
Ông trời có lẽ cho ta nhỉ,
Có ý sinh ta phải có ta.
 
THAN MÙA HÈ

Tháng tư đầu mùa hạ,

Tiết trời thực oi ả.
Tiếng dế kêu thiết tha,
Đàn muỗi bay tơi tả.
Nỗi ấy ngỏ cùng ai,
Cảnh này buồn cả dạ.
Biếng nhắp năm canh chầy,
đà sớm giục giã.
 
VỊNH MÙA HÈ

Biếng trông trời hạ nước non xa,

Ý khí ngày thường nghĩ đã trơ.
Cá vượt khóm rau lên mặt nước,
Bướm len đá trúc lượn rèm thưa.
Thơ Đào cửa miệng đưa câu rượu,
Xóm liễu quanh khe chịu tiếng khờ.
Nhân hứng cũng vừa toan cất chén,
Sấm đông rầm rập gió nồm đưa.
 
ĐĨ CẦU NÔM

Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ?

Trời sinh ra cũng để cho mà chơi!
Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời,
Chơi lủng trống long dùi âu mới thích.
Đĩ bao tử càng chơi càng lịch,
Tha hồ cho khúc khích chị em cười.
Người ba đấng, của ba loài,
Nếu cũng như ai thì đĩ mốc.
Đĩ có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc.

Khá khen thay làm đĩ có tông!
Khắp gian hồ chẳng chốn nào không,
Suốt nam bắc tây đông đều biết tiếng.
Đĩ mười phương chơi cho đủ chín,
Còn một phương nhịn để lấy chồng.
Chém cha cái kiếp đào hồng,
Bạn với kẻ anh hùng cho đứng số.
Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó,
Mai sau ngày giỗ có văn nôm.
Cha đời con đĩ Cầu Nôm.
 
ÔNG PHỖNG ĐÁ

Ông đứng làm chi đó hỡi ông?

Trơ trơ như đá, vững như đồng.
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
Non nước đầy vơi có biết không?
 
ÔNG PHÕNG ĐÁ

Người đâu tên họ là gì?

Khéo thay chích chích chi chi nực cười.
Giang tay ngửa mặt lên trời,
Hay còn lo tính sự đời chi đây?
Thấy phỗng đá lạ lùng muốn hỏi,
Hay tưởng trông cây cỏ nước non này,

Chí cũng rắp đan tay vào hội lạc.
Thanh sơn tiếu đầu tương hạc,
Thương hải thùy tri ngã diệc âu.
Thôi cũng đừng chấp chuyện đâu đâu,
Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác.
Duyên hội ngộ là duyên tuổi tác,
Chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác,
Cuộc tỉnh say, say tỉnh một vài câu.
Nên chăng đá cũng gật đầu!
 
VỊNH NÚI AN LÃO

Mặt nước mênh mông nổi một hòn,

Núi già nhưng tiếng vẫn còn non.
Mảnh cây thưa thớt đầu như trọc,
Ghềnh đá long lay ngấn chửa mòn.
Một lá về đâu xa thăm thẳm,
Nghìn nhà trông xuống bé con con.
Dẫu già đã hẳn hơn ta chửa?
Chống gậy lên cao gối chẳng chồn!
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top