Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
THỜ CÚNG TỔ TIÊN
Lê Văn Ngọc
Phan Kế Bính ở những năm đầu thế kỷ 20, theo xu hướng Duy tân của các nhà nho, nhất là Ðông Kinh Nghĩa Thục, đã nhận xét về tục phụng sự tổ tiên, với ý kiến đả phá những rườm rà của tục ấy trong xã hội Việt Nam ta . Ông viết trong Việt Nam Phong Tục: Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là thành kính, ấy cũng là một lòng bất vong bản, cũng là một việc nghĩa vụ của người . Nhưng cũng nên biết rằng sự cúng cấp là để tỏ cái lòng thành kính, chứ không phải để mà phụng dưỡng tổ tiên, thì dùng cách nào cho ngụ được cái lòng ấy cũng đủ.
Cúng cấp tuy không tốn kém là bao nhiêu, nhưng nhiều nhà vì cớ nay giỗ, mai tết mãi mà sinh ra khốn khó; hoặc là vì cúng cấp ăn uống mà anh em thường hay khích bác nhau, nào là trách người này một nén hương chẳng mất, nào là chê trưởng nam kiệt, nào là phàn nàn bao nhiêu nước xáo đổ đầu trưởng nam , thì ra kính lại chẳng bõ phiền .
Giá thử dùng cách nào thanh lịch mà đỡ phiền phí thì có lẽ tiện hơn .(1)
Nói đến thờ cúng tổ tiên người ta nghĩ ngay đến cúng giỗ. Nhà nào nghèo và đơn chiếc lắm một năm cũng vài cái giỗ lớn : ông, bà, cha, mẹ . Lớn ra lại thêm bác, chú, cụ rồi tổ . Có giỗ chính, giỗ giúi. Mà giỗ nào thì cũng phải có đồ ăn bày lên bàn thờ, rồi vàng hương cúng quảy . Nhà nào mà không có giỗ hay không làm được giỗ thì coi như đại bất hạnh . Người ta sống nhiều vào ngày tết và ngày giỗ vì vào những dịp ấy là họ hàng mới có dịp tụ họp, để trước là cúng người quá cố, sau là ăn giỗ.
Thờ cúng tổ tiên không chỉ là một hiện tượng đơn thuần xã hội, và như nhiều người thuộc lớp tân học coi là một trở ngại cho công cuộc đổi mới xã hội, hay là duy tân cho tiến kịp các nước tiền tiến, điển hình là nước Pháp . Theo mới nghĩa là Âu hoá. Thực ra nếu cứ nhìn vào văn hoá Tây phương làm khuôn mẫu, thì họ không có thờ cúng tổ tiên như ta thật, mà cũng không vì thế mà mất bản chất con người . Trái lại không có những thành kiến , những ràng buộc gia đình áp chế tự do cá nhân . Người ta gọi đó là những hủ bại của gia đình cần phải phá bỏ để cho cá nhân được tự do .
Trước khi có phong trào Duy tân hướng về Ðông Phương theo gương Nhật Bản, xã hội Việt Nam vẫn coi thờ cúng tổ tiên như một thứ đạo . Nguyễn Ðình Chiểu đã nói lên điều này
Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ .
Ðạo nhà tức là thờ cúng gia tiên, hay là đạo thờ cúng ông bà tổ tiên .
Ðể cho rõ hơn , chữ Ðạo khác với chữ Tôn giáo mà người ta dùng để dịch chữ Religion . Sự thờ cúng tổ tiên đã được nâng lên thành một sinh hoạt tâm linh, một đức tin vững chắc vào sự hiện hữu của tổ tiên đã khuất ở thế giới bên kia .
Vì có ý hướng duy tân và với óc duy lý của nhà nho mà Phan Kế Bính đã hạ giá tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như một sinh hoạt đúc tin xuống thành một tình cảm thành kính nhớ ơn và ngưỡng mộ tổ tiên, do đấy mới nói là dùng cách nào cho ngụ cái lòng ngưỡng mộ ấy là đủ . Trong khi đó thì người dân lại có một tin tưởng khác là tổ tiên vẫn gần gũi với con cháu và sẵn sàng tham gia vào mọi công việc của con cháu cũng như khi còn sống . Họ có thể dùng quyền uy ở cõi âm để che chở giúp đỡ người sống .
Việc cúng giỗ chính là biểu lộ sự đối xử của con cháu với tổ tiên đã khuất như khi còn sống . Người ta cụ thể hoá câu của Khổng Tử sự tử như sự sinh . Trước cúng, sau ăn . Cỗ lớn thì tổ tiên mừng cho con cháu thành đạt; cỗ nhỏ, chén cơm quả trứng, tổ tiên biết lòng thành của con cháu nghèo nàn mà giúp đỡ.
Dù đã trải qua rất nhiều sự đánh phá, bài bác, tục thờ cúng tổ tiên của ta vẫn không vì thế mà bị diệt . Ngày nay nó là một yếu tố đức tin để đi vào tìm hiểu sinh hoạt tâm linh của người Việt .
Một câu chuyện vui rất xưa, nhưng biểu lộ được cốt lõi của đạo thờ ông bà của ta. Có một người Pháp chê một người Việt rằng : tổ tiên của các anh đã chết rồi, có ăn uống gì được đâu mà bày thực phẩm ra cúng. Bằng cớ là cúng xong cỗ cúng vẫn còn y nguyên .Ông Việt Nam đáp lại : thế người chết của các anh có ngửi được không mà các anh bày hoa cúng ? Chuyện là chuyện vui nhưng nó bày tỏ sự khác biệt về tâm lý của hai bên .
Bởi không phải chỉ có Việt Nam là có đạo thờ ông bà . Tục thờ cúng tổ tiên ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và ở nhiều dân tộc khác thuộc Á Châu cũng có . Tùy theo xã hội mà có nghi thức khác nhau, nhưng mẫu số chung vẫn là tin vào linh hồn của tổ tiên luôn luôn ở quanh ta để chia xẻ buồn vui và giúp đỡ con cháu .
Lúc này chúng ta đã có đủ bình tâm và khách quan để tìm hiểu về truyền thống tín ngưỡng làm căn bản cho gia tộc người Việt Nam; để nếu nói gia đình là nền tảng của xã hội thì nếu muốn xã hội mang tính chất nhân bản thì ngay tự gia đình cũng đã phải là hạt nhân của xã hội nhân bản. Có khi nào người ta lại vì người khác khi đã lấy hạnh phúc cá nhân làm cứu cánh .Ðạo thờ ông bà không phải chỉ đơn thuần là những bữa cúng giỗ để con cháu họ mạc hưởng thụ thực phẩm , mà còn có nhiều hệ quả đối với xã hội . Ở Việt Nam khác với Trung Hoa hay Nhật là có Phật Giáo Hòa Hảo đưa ơn tổ tiên cha mẹ lên hàng thứ nhất của Tứ ân ( ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất nước, ơn Tam bảo và ơn đồng bào nhân loại ).
I. Nguồn gốc của đạo thờ cúng tổ tiên
Sự thờ cúng tổ tiên xuất phát từ một tin tưởng người ta có phần thể xác và tinh thần . Phần tinh thần còn lại sau khi phần xác chết đi :thác là thể phách còn là tinh anh. Sự tin tưởng vào linh hồn bất diệt và sống trong thế giới u minh, hay là cõi âm là một tin tưởng có nguồn gốc sâu xa và rất phổ quát trong hầu hết các dân tộc tiền sử .
Nguời tiền sử đối xử với người chết như khi họ còn sống và tin rằng linh hồn họ luôn luôn quanh quẩn cạnh người nhà để giúp đỡ và che chở cho những người ruộ thịt . Những linh hồn ấy sống trong cõi âm nhưng vẫn quanh quẩn ở dương thế dù với mắt người không nhìn thấy được gọi là ma . Tục thờ linh hồn người chết này có rất sớm và tạo nên bản sắc tín ngưỡng truyền thống của Việt Nam . Qua nhiều thời gian, tục này có thay đổi nhưng trên cơ sở tin tưởng vào sự không hủ nát của linh hồn tổ tiên thì vẫn không suy xuyển .
Có thể nói rằng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng bản địa của dân tộc Việt Nam có cùng với cư dân ở khắp nơi, không những từ miền Nam sông Dương tử xuống đến các hải đảo xa xôi ở Ðông Nam Á . Khi bị văn hóa Hán , tiêu biểu là Nho , Lão, Phật xâm lấn, bao trùm thì tín ngưỡng này không mất, nhưng lại biến đổi lớp vỏ ngoài và đã làm cho văn hoá Hán phải thích ứng theo tín ngưỡng cổ . Còn những dân tộc ở quá xa xôi trong rừng sâu, không có điều kiện tiếp xúc với các nền văn hóa khác thì vẫn còn giữ tục thờ linh hồn nguyên thủy với những nghi thức chôn cất thờ cúng cổ xưa .
Từ căn bản , quan niệm duy lý của Nho giáo về siêu hình là công nhận có linh hồn, có quỷ thần, nhưng không đặt nặng trọng tâm suy tư vào đấy ; kính quỷ thần mà xa ra . Thế mà chuyển sang sinh hoạt thì lại thờ người chết như đối với người sống (sự tử như sự sinh) tức là coi nhười chết như vẫn còn hiện diện trước mặt với đầy đủ ý thức tâm tình của người sống và nhất là có khả năng làm được nhiều điều mà người sống bị hạn chế . Biến thái cao nhất của tục thờ cúng tổ tiên là những người đại biểu cho Nho Giáo, hay dùng Nho Giáo làm căn bản xây dựng hệ thống quyền lực cai trị, đã chủ trương việc tôn vinh những người có công có đức lúc sống bằng việc ban tên thụy, tế lễ long trọng trong dịp tang ma, ban tiền bạc, ruộng tế để con cháu thờ phụng. Không thể nói đó là thủ đoạn chính trị để mua sự trung thành của bề tôi, mà phải nghĩ rằng chính triều đình cũng chia xẻ một đức tin vong hồn của những bề tôi vẫn luôn luôn ở cạnh để vẫn giúp vua như lúc sinh tiền.
Nói đến đạo Nho thì phải nói đến chữ Hiếu . Con thờ cha mẹ không những lúc đang sống, mà ngay khi một vị quan dù lớn trong triều đình mà gặp tang cha mẹ, cũng phải xin nghỉ để cư tang, có khi còn làm túp lều bên cạnh mộ để gần gũi vong hồn mới mất của cha mẹ. Ngày nay chúng ta coi là cổ hủ vì chỉ nhìn ở hiện tượng; nhưng thực ra đó cũng xem rất giống như đầu mối của tục thờ ma của một số bộ tộc còn sinh sống gần đây trên các vùng thượng du hay cao nguyên , là khi người thân chết, họ đặt vào áo quan làm bằng một thân cây đục rỗng, dựng ở góc nhà, như thế để sớm hôm ra vào vẫn như còn gần gũi như lúc còn sống . Một thời gian lâu sau mới đem chôn .
Quan niệm người chết đi sang một thế giới khác vẫn sinh hoạt tuy có thể thay đổi vị thế, như khi còn sinh tiền nên thân nhân phải lo cho người chết đầy đủ để cuộc sống ở thế giới mới không gặp khó khăn, thiếu thốn . Việc tùy táng do đấy có tính chất phổ quát không chỉ ở dân tộc Việt Nam , mà còn có ở nhiều dân tộc khác trên thế giới từ rất lâu đời vẫn còn tồn tại đến ngày nay, dù đã có vài thay đổi về chi tiết .(2)
Khi đã phát triển thành một xã hội nông nghiệp định cư trên một địa bàn rộng lớn, thì việc thờ cúng gia tiên cũng tiến hành song song với sự thành hình rộng rãi gia tộc. Lúc ấy bắt đầu nảy sinh quyền hạn và bổn phận riêng của gia tộc cũng như cộng đồng . Những sinh hoạt tâm linh cũng thay đổi theo chiều hướng cái nào thích hợp với xã hội mới thì được chuyển hóa; cái nào không hợp thới sẽ bị đào thải. Tục thờ cúng gia tiên là một chuyển hóa quan trọng từ tín ngưỡng thờ linh hồn , và nó trở thành căn bản cho tổ chức gia đình, lớn hơn là họ hàng đối với xã hội đã định cư .
Người ta rất khó giải thích hay chứng minh sự hiện hữu của các vong hồn người thân, nhưng người ta vẫn tin tưởng và đã tạo nên một niềm tin vững chắc rằng chết chưa phải là hết . Vong hồn vẫn sống với gia tộc nhưng với mức độ thiêng liêng hơn để có thể hoặc làm hại cũng tàn khốc hơn người sống hay phò hộ thì gặp may mắn hoặc gạt bỏ được tai ách . Ở mỗi thời đại, sự tin tưởng này có mang theo nhiều yếu tố của thời đại ấy . Vong của những người của thế kỷ 20 lại dùng những tiện nghi khoa học của thời đại này .(3)
Văn hoá Tây Phương , tiêu biểu là văn hoá Pháp theo những người đô hộ sang ta đã làm thay đổi nhận thức của ta từ đầu thế kỷ 20 . Nguyên nhân từ mặc cảm thua sút về văn minh dẫn đến sự mất chủ quyền quốc gia, khiến người ta luôn nghĩ rằng nếu theo được văn minh Thái Tây thì nước nhà sẽ hưng thịnh . Từ những chuyện lớn quốc gia đại sự đến những chuyện người ta coi là nhỏ nhặt như việc giỗ chạp, nền tảng gia đình nếu theo được Tây chắc sẽ đưa xã hội đến tiến bộ .
Thực sự người ta thấy Tây không có giỗ và gia đình họ mạc của Tây cũng quá đơn giản, không hề có bàn thờ gia tiên . Theo sự suy nghĩ của những người tân học hầu hết hồi đó thực sự tuổi còn rất thanh niên, phần lớn chỉ ở độ tuổi 30 mà với sự thành đạt Tây học, khiến nhất thiết điều gì xưa cũ cũng đều là cổ hủ .Tiếng nói của nhà nho đứng tuổi dù là đi làm cách mạng chống Pháp, duy tân cũng không được đánh giá cao vì những người lớp trẻ có thành kiến rằng Nho Giáo là một trở ngại trên đường tiến hóa .
Thờ cúng tổ tiên không thuộc phạm trù triết học để bàn cãi rồi tin hay không tin . Nó đã là một bản chất của nhân loại ; hơn thế nữa tình gia đình còn thấy ở cả một số động vật nữa . Tùy theo địa phương và thời đại, những biểu hiện có khác nhau, nhưng bản chất vẫn là sự thương yêu và đùm bọc người thân trong gia đình và lan ra đến họ hàng .
Cụ Phan Bội Châu là người nhiệt liệt chủ trương Duy tân . Cụ đã ở Nhật và trực tiếp quan sát được những đổi mới đã đưa Nhật đến địa vị cường quốc, cạnh tranh ngang ngửa với các quốc gia tiền tiến Tây phương, như một tấm gương sáng cho phong trào duy tân . Cụ đã dạy bảo từ thời ấy là phải duy trì nền tảng gia đình với tục lệ thờ cúng tổ tiên bằng một câu nói rất đơn sơ nhưng rất nặng ý nghĩa :Tôi biết ít chữ, dạy lại cho con trẻ để sau này nó biết khấn tổ tiên.Cả một nền Nho học không truyền lại điều gì mà chỉ dùng chữ Nho để khấn tổ tiên vào ngày cúng giỗ . Cụ Phan muốn nói rằng dù nhận định cái học nhà nho đã hỏng rồi phải thay bằng cái học khác; nhưng nền tảng gia đình mà tinh thần là sự thờ cúng tổ tiên phải duy trì. để như chất keo sơn gắn chặt các thành viên trong gia đình nhỏ với gia tộc lớn mà từ đó kết hợp thành tinh thần đoàn kết dân tộc .
Tục thờ cúng tổ tiên tuy có nguồn gốc từ tín ngưỡng cổ sơ nhất của loài người, nhưng qua thời gian và địa phương lại có những thay đổi về nghi thức và phạm vi, nó biểu lộ rõ ràng sự tiến bộ trong tổ chức xã hội nông nghiệp .
Thông thường việc thờ cúng tổ tiên của chung một họ diễn ra ở nhà thờ tổ và được giao cho một người gọi là thừa tự trông nom săn sóc bàn thờ, đèn nhang cúng vái ngày thường và tổ chức ngày giỗ để con cháu tụ họp đông đủ lễ tổ tiên, sau đó thừa huệ cỗ bàn. Ta gọi là trước cúng sau ăn . Giỗ to nhỏ tùy theo ngôi vị trong gia tộc . Gần như người ta không quên một phần tử nào trong gia tộc đã thất lộc . Ngay những người chết trẻ thường được coi là linh thiêng nên thờ gọi là bà cô hay ông mãnh.
Ðã có một thời người ta (đây là những ông Tây và những ông Tây da vàng) chê rằng tục thờ cúng gia tiên không hợp lý, mê tín; và trong đầu óc duy lý đó nghĩ rằng thờ cúng tổ tiên là thờ những người quá cố trên trước của gia chủ như cụ, ông bà, cha mẹ; trong khi đó thờ tổ tiên của Việt Nam, nơi theo sự hình dung tưởng tượng của người ta lại là nơi quy tụ của những người cùng họ đã khuất . Nói rõ thì gia tộc chết cũng như gia tộc sống chỉ có khác nhau một đằng ở dương gian và một đằng ở âm phủ. Nếu ở dương gian gia tộc đã hiện hữu phức tạp và thân tình thế nào thì cái tộc họ ấy ở dưới âm cũng như vậy .
Một tác giả Tây học ở đầu thế kỳ 20 đã nhận xét rất xác đáng về sự hiện diện của tổ tiên trong gia tộc người Việt như sau: Người Hán Việt cho rằng việc tin tưởng kẻ chết vẫn sống vô hình bên cạnh người sống là điều tự nhiên thông thường . Mối tin tưởng này không phát xuất từ một hành vi đức tin, từ nhu cầu hy vọng hoặc nhu cầu giải thích bí nhiệm sự sống, đây không phải là một xác tín khó lý giải; đây là một điều xác thực buộc họ phải công nhận với sự hiển nhiên như của các thực tại hữu hình và khả giác. (4)
Ngày trước ta đã chỉ trích tục thờ cúng tổ tiên mà nhất thiết không tìm hiều rõ cội nguồn và những biến thái của nó để có thể thấy phần nào những thay đổi ở tương lai .
Người ta không nói đến tử vì tổ tiên, như tử vì Ðạo để thấy rõ mức cuồng tín với Ðạo thờ ông bà hoàn toàn không có gì để so sánh với điều mà người ta gọi là đức tin tôn giáo. Nổi bật nhất lại là tin vào mối dây thân ái của tổ tiên liên kết mọi thành phần trong gia tộc. Ý thức ấy đã tỏ lộ trong một đoạn văn khấn tiêu biểu trong ngày giỗ: Con là . . . Việt Nam quốc . . .tỉnh. . . huyện. . . xã. . . thôn. . . , chiếu lệnh đã truyền, cảm xúc sâu xa, cẩn cáo . . . và trước linh tọa, xin kính cáo: nhân ngày lễ giỗ, con xin kính tiến trầu, rượu, bánh, trái, giấy bạc giấy vàng. Khấn xin . . . cùng mọi thành phần gia đình cư ngụ từ đường cũng như bà con ruột thịt lẫn bà con thông gia đồng lai phối hưởng . Cẩn cáo (5) .
Từ tín ngưỡng thờ linh hồn sơ khai đã biến ra một thứ phải gọi là Ðạo thờ cúng tổ tiên với đầy đủ đức tin và nghi thức đã làm nên sức mạnh tinh thần cho những thành phần trong gia tộc mà xét về nhiều mặt tích cực cũng như tiêu cực phải gọi là yếu tố căn bản của văn hoá Việt Nam.
II.Từ thờ cúng tổ tiên đến gia đình họ mạc
Thờ cúng tổ tiên là tinh thần của gia tộc . Không có quan niệm tổ tiên khi chết vẫn quanh quẩn sinh hoạt với những thành phần của gia tộc thì không thể lấy cái gì mà liên kết những người cùng chung huyết thống lại với nhau; để mặc dầu vì hoàn cảnh làm ăn hay gặp nghịch cảnh phải xa lìa đất tổ, họ hàng thì vẫn thấy xa là xa không gian nhưng mình vẫn còn ràng buộc bằng tinh thần với họ hàng. Việc giữ giỗ của họ lớn là do tộc trưởng đã đành, nhưng người ta đã không cấm mà còn khuyến khích những người ở chi thứ vẫn giỗ những thân thuộc trực hệ và gần thì như là ông bà cha mẹ chẳng may khuất núi . Ta thấy một hệ thống chân rết ở họ hàng từ gần đến xa qua nhiều đời dù phải xa lìa, dù không biết mặt nhau, nhưng vẫn có cái tình máu mủ để mà quan niệm rằng giọt máu đào hơn ao nước lã. Có khi đánh nhau vỡ đầu đấy mà khi nhận ra biết là có họ đánh nhau vỡ đầu mới biết anh em thì thôi chín bỏ làm mười, thương yêu nhau vì cùng là con cháu một tổ sinh ra .
Không cần biết rằng quan niệm và tổ chức gia tộc này là của Trung Hoa truyền sang ta, hay là của bản địa nảy sinh do nhu cầu định cư và sản xuất nông nghiệp mà thành; mà chỉ biết rằng nó đã lớn lên cùng dân tộc và tạo thành bản vị của văn hóa truyền thống dân tộc . Những tư tưởng ngoại lai đến sau như Nho, Lão, Phật đã phải biến dạng theo nó. Không phải vô căn cứ mà Quan Âm ở Việt Nam và Trung Hoa là Phật Bà, và Quan Âm Thị Kính của Việt Nam mang nhiều dấu vết tín ngưỡng thờ gia tiên. Ðạo Nho từ khởi nguyên Khổng Tử nói : quỷ thần kính nhi viễn chi (quỷ thần kính mà xa ra) . Thế mà theo với lịch sử và xã hội mà Ðạo Nho muốn dung hợp đã phải đổi sự tử như sự sinh (thờ người chết như thờ người sống ) . Khởi đi từ một triết lý coi chết chưa phải là hết và người chết hay là tổ tiên hiện diện trong gia đình mật thiết đến nỗi thay vì ngự trị ở một cõi cao xa, một thế giới tách biệt, họ được coi như vẫn giữ vị trí của mình trong giây liên hệ họ hàng, trong đẳng cấp phẩm trật gia đình. Vì thế nghi thức cúng giỗ được sửa soạn như khi, hay còn hơn hồi họ còn sinh tiền.
Bàn thờ tổ tiên là nơi để tổ tiên về hưởng giỗ chạp, được đặt ở gian giữa nhà. Nếu là nhà thờ tổ (từ đường) cũng phải đặt giữa nhà thờ họ và do tộc trưởng trông nom; nhiều thì hàng ngày thắp nhang, không thì cũng phải các ngày giỗ chính cùng là sóc vọng, tết nhất, hay những việc đột xuất khác như hiếu hỉ, khao vọng .
Trên bàn thờ bày những đồ thờ nhang đèn như đỉnh trầm, cây nến, mâm bồng, có khi thêm cặp hạc và bình bông, Nhưng quan trọng hơn cả là bài vị của tổ tiên ( còn gọi là linh vị, thần chủ). Ngũ đại mai thần chủ ( năm đời thì chôn bài vị ) tức là trên bàn thờ đến đời thứ tư . Riêng ở nhà thờ tổ thì thờ từ vị tổ khai sáng, (hay vị thủy tổ) , cho nên đã thấy ở Trung Quốc những nhà thờ họ mà bài vị xếp từ dưới lên cao dày đặc như mái ngói . Còn ở Việt Nam vì chiến tranh nhiều, cuộc sống bấp bênh nên ít có tình trạng nhà thờ tổ bền vững được hàng nghìn năm .
Bàn thờ là chỗ thiêng liêng của gia đình cho nên nghèo thì bàn thờ mộc, giàu thì bàn thờ sơn son thếp vàng, các đồ thờ bằng đồng . Tuy nghèo nhưng so ra thì luôn luôn phải hơn những vật dụng khác trong nhà . Bàn thờ là biểu tượng cho nguồn cội của gia đình mình, cho nên trong xã hội cũ mà vì hoàn cảnh làm ăn nghèo túng, Tết nhất, giỗ chạp không có được mâm cơm cúng, người ta khổ sở và tủi hổ vô cùng . Chúng ta ngày nay không hiểu được vì sao con nợ ngày xưa phải bằng mọi cách trước tết đi chuộc bát hương về để bày bàn thờ cúng gia tiên .
Sinh hoạt của tổ tiên cũng như sinh hoạt của người sống . Thậm chí người ta còn nhớ cả những điều sở thích hay không ưa, kiêng khem của người quá cố để khi giỗ ngày Tết bày ra cúng hay không được dùng . Sự kiêng cữ này ở cấp bậc lớn hơn là cái hèm. Phạm vào điều cấm kỵ thì tổ tiên giận, không hưởng cỗ, có khi trừng phạt con cháu, như thuở còn sinh tiền dạy dỗ con cháu, hay có khi còn trừng trị bằng roi vọt; nhưng bây giờ thì lại làm cho đau ốm , hay không thuận lợi trong sinh hoạt .
Việc kiêng hèm này còn lên cao đến các đền thờ như ở đền thờ Hai Bà Trưng, dân cúng bánh trôi để nhắc lại tích các Bà tự trầm chứ không để lọt vào tay giặc . Trong đền thờ thì lại tránh màu đỏ (5) .
Tương ứng với thế giới bên kia, tổ tiên 5 đời thì bỏ thần chủ (bài vị) vì coi như đi đầu thai; ở đại gia đình sống thì ngũ đại đồng đường . Hiếm có người sống quá trăm tuổi vì thất thập cổ lai hy ( Bảy mươi xưa nay đã hiếm).
Tổ chức gia tộc với nhiều thế hệ ở chung với nhau trong một địa bàn với nhiều nhà liên kết trong một khuôn viên có tường hay hàng rào kiên cố bao bọc . Những họ mạc này sống qua nhiều đời và luôn giữ dây thân tộc dù có phải vì lý do loạn lạc hay sinh kế mà không thể sống quây quần với nhau.
Những tụ cư của một đại gia đình như thế, bước đầu vì lý do an ninh khiến những người định cư phải sống gần nhau để bảo vệ chống lại thú dữ hoặc trộm cướp . Khi ở đồng bằng hết thú dữ thì là giặc cướp . Ðại gia đình phát triển lớn với khoảng năm đời chung sống, cùng với những người giúp việc có thể đông đến vài trăm người, đủ để thành một ấp lớn. Nền luân lý gia đình chính là pháp luật cho mọi người trong tập đoàn ấy tuân theo mà cư xử . Nền luân lý gia đình ây chủ yếu là giáo dục con trẻ trong gia đình, xa là trong họ noi theo đức độ của tổ tiên để không có những hành vi gọi là làm điếm nhục gia phong, đứng về mặt tiêu cực; còn tích cực thì phải học hành, nếu là họ có văn học, mà phần lớn thì họ văn học vốn là tiêu biểu để mọi người dân vươn tới, thì con cháu phải lo học hành, thi đỗ làm quan, khiến vẻ vang cho họ và nối chí tổ tiên đã có thời thịnh đạt.
Với tổ chức gia tộc và nền luân lý chủ ở gìn giữ công đức tổ tiên, các thành phần trong gia đình mà lỡ trong họ có người làm điều trái thì tự mình là con cháu xấu hổ, không giám nhìn ai.
Như Leopold Cadiere đã phân biệt giáo dục gia đình của người Việt với giáo dục tôn giáo như : Bình đẳng trong tình thương cha mẹ dành cho chúng, con trai, con gái cũng bình đẳng trong sự giáo dục chúng nhận lãnh . Ðây tôi ( Cadiere) nói đến giáo dục gia đình, không nói đến lối giáo dục xấu hay tốt chúng có thể nhận lãnh trong các học đường hiện đại .
Chẳng có trong gia đình, trong chùa chiền lẫn đâu khác, việc dạy đạo, nghĩa là một giáo trình tôn giáo, như thấy tại Campuchia chẳng hạn, nơi mà mọi con trai đều buộc phải qua một thời gian nào đó ở trong các chùa . Vả lại ai dạy? dạy gì? Ðâu có cơ quan tôn giáo chuyên trách việc bảo tồn sự tinh tuyền của hệ thống giáo lý mạch lạc, quy tắc luân lý rõ ràng .Thậm chí Phật Giáo, vốn có tín điều, luân lý và phẩm trật, vẫn không được dạy cho các trẻ Annam, và đấy là một trong nhiều lý do khiến ta không thể xếp người Annam vào số các dân tộc Phật giáo được . Người Annam chẳng biết gì về đạo này , Nhưng tất cả đều biết những gì liên quan đến việc thờ cúng tổ tiên và thần thánh.
Ấy là vì cho dẫu không có huấn giáo đúng nghĩa, cũng có một sự đào tạo tôn giáo nào đó, và sự đào tạo này có được qua kinh nghiệm cá nhân, nhờ trẻ nghe và thấy .
Trước tiên chúng thấy nhiều sự kiện trong nhà chúng hay trong nhà một ông bác của chúng có một bàn thờ tổ tiên, các thành viên trong gia đình, xét như thành viên của gia đình chứ không xét như là gì khác, thỉnh thoảng lại tụ họp nhau trước các bàn thờ ấy để làm một số nghi lễ; bên cạnh nhà cha mẹ chúng, có nhiều am miếu, nhiều nơi thánh, tại đó các hào mục trong làng hoặc cả làng đều đến cúng tế vào một số ngày nhất định .(6)
Người ta gọi tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng không phải là quá đáng, tuy nhiên ý nghĩa của chữ tín ngưỡng là lòng tin vào một tôn giáo theo định nghĩa Tây phương không hoàn toàn áp dụng cho tổ chức thờ cúng tổ tiên của gia tộc Việt Nam . Ở gia tộc không có hàng giáo phẩm và bàn thờ tổ tiên ở mỗi gia đình không phân biệt trưởng thứ đều đông đúc dần theo cuộc sống . Nhà thờ họ nơi dòng họ ấy lên đến tổ khai sáng có khi lâu đến mấy trăm năm là thường .
Sự gìn giữ hương khói của một gia tộc cũng quan trọng như gìn giữ những thành phần của gia tộc còn sống. xảy cha còn chú, xảy mẹ bú dì. Trong họ phải đùm bọc nhau sao để đừng có việc thoát ly gia đình, xa dời họ hàng , làng mạc . Người ta rất sợ cảnh tha phương cầu thực dù có thể nhờ đấy mà làm ăn khấm khá giàu có hơn khi còn ở lại làng gần họ hàng . Nhưng người ta vẫn có một thôi thúc tình cảm để sao cũng phải sống gần họ hàng, ít ra thì ngắn ngày và một khi thất lộc đi rồi thì sao cho được chôn ở gần phần mộ tổ tiên để lại được gần gũi nhau trong một thế giới khác .
Chúng ta có thể ngày nay bằng nhận thức thiên về lý trí khoa học chê cười sự mê tín đó . Nhưng tại sao ta tin vào một đức tin với Chúa với Phật, mà lại nghĩ rằng tin vào sự hiện diện của linh hồn tổ tiên là nhảm nhí và mê tín . Thực sự nhìn chung từ rất lâu người Việt Nam khi lên chùa hay xem lễ nhà thờ phần lớn vẫn là cầu phúc hơn là cầu sự giải thoát . Người ta vì gia đình, họ hàng hơn là vì hạnh phúc cá nhân, nên để khuyên can những phần tử có quyền thế dễ gây tội ác cho người khác thì thành viên của gia đình, gần là cha mẹ, xa là chú bác cô dì đều khuyên nhủ ăn ở hiền lành , đừng làm ác để phúc lại cho con cháu. Không có tinh thần gia tộc, nhiều khi người ta không muốn có những hành động có tính chất tốt đẹp lâu dài . Người ta lo cho thế hệ tương lai hơn cho hiện tại . Một thế hệ tương lai gần sát chứ không phải lối viễn tưởng muôn đời cho con cháu mai sau .
Nhìn kỹ ta thấy các tôn giáo lớn của thế giới như Nho Giáo, Lão Giáo, Phật Giáo và sau này là Thiên Chúa Giáo cũng đã có nhiều thay đổi để thích ứng với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bản địa . Tín ngưỡng này liên hệ nhân quả với gia tộc . Gia tộc không thể bền vững nếu không có tổ tiên làm sợi dây liên kết ràng buộc người sống với người chết để cùng mưu hạnh phúc cho nhau . Tổ tiên được thờ cúng như khi còn sinh tiền ( đôi khi còn hơn) để gây phúc cho con cháu . Do đấy gia đình có nhiệm vụ nối dài giòng giống với tương lai rực rỡ . Các phần tử trong gia đình trong khi thi hành các lễ nghi đối với tổ tiên thì sẽ nghĩ tới tương lai mình cũng không bị lìa xa gia tộc khi chết, cho nên nỗi đau đớn nhất của người ta là không có người tiếp nối gia tộc, hay là không có hậu . Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại.
Tình cảm đã được nâng lên nhgư một bổn phận là chữ Hiếu . Không có lòng hiếu người ta không lấy gì để liên kết gia đình . Ở lòng hiếu thảo không thể có sự miễn cưỡng hay giả trá mà tình cảm gia đình bền vững được . Ta cũng không phải lo lắng để mất thì giờ bàn cãi về ngu trung hay ngu hiếu Ngay từ khởi thủy của Ðạo Nho, Khổng Tử cũng đã không chấp nhận chữ hiếu mù quáng, nghĩa là con cái phải tuân phục ý kiến của cha mẹ dù đúng hay sai . Sự tương quan giữa cha mẹ và con cái đề tạo nên lòng hiếu là ai cũng phải nghĩ đến tiện nghi của nhau. Phụ từ tử hiếu ( cha hiền từ mà con thì hiếu) mới giữ được tình cảm tốt đẹp của gia đình .