Tại sao nói quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại nêu cách

  • Thread starter Thread starter lo kien
  • Ngày gửi Ngày gửi

lo kien

New member
Xu
0

[FONT=&amp]Đáp.
Câutrả lời có ba ý lớn

1) Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biệnchứng duy vật. Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quyluật về sự chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chấtvà ngược lại (quy luật lượng đổi-chất đổi) chỉ ra cách thức chung nhất của sựphát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất chỉ xẩy ra khi sự vật, hiện tượngđã tích luỹ được những thay đổi về lượng đã đạt đến giới hạn- đến độ. Quy luậtlượng đổi-chất đổi cũng chỉ ra tính chất của sự phát triển, khi cho rằng sựthay đổi về chất của sự vật, hiện tượng vừa diễn ra từ từ, vừa có bước nhảy vọtlàm cho sự vật, hiện tượng có thể vừa có những bước tiến tuần tự, vừa có thể cónhững bước tiến vượt bậc.

2) Nội dung quy luật.

a) Các khái niệm của quy luật.

Chất là tên gọi tắt của chất lượng dùng đểchỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữucơ của các thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng làm cho chúnglà chúng mà không phải là cái khác (thể hiện sự vật, hiện tượng đó là gì vàphân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác). Chấtcó đặc điểm cơ bản +) biểu hiệntính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng, nghĩa là khi sự vật, hiện tượngnày chưa chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó chưa thay đổi.Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn.Trong mỗi giai đoạn, sự vật, hiện tượng lại có chất riêng ở giai đoạn đó. Như vậy,+) mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất.

[/FONT]Lượngdùng để chỉ tính quyđịnh vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếutố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng, ởtrình độ quy mô và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Lượngcủa sự vật, hiện tượng còn được biểu hiện ra ở kích thước dài hay ngắn, quy môto hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanhhay chậm, màu sắc đậm hay nhạt v.v. Lượngcó đặc điểm cơ bản +) tínhkhách quan vì nó là một dạng của vật chất, chiếm một vị trí nhất định trongkhông gian và tồn tại trong một thời gian nhất định. +) Có nhiều loại lượngkhác nhau trong các sự vật, hiện tượng; có lượng là yếu tố quy định bên trong,có lượng chỉ thể hiện những yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện tượng; sự vật, hiệntượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp theo. +) Trong tự nhiênvà xã hội, có lượng có thể đo, đếm được; nhưng trong xã hội và tư duy lại có nhữnglượng khó đo lường bằng những số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được bằngtư duy trừu tượng. Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối. Tuỳtheo từng mối quan hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất. Có cái là lượng ởtrong mối quan hệ này, lại có thể là chất ở trong mối quan hệ khác.

b) Mối quan hệ biện chứng giữa chất với lượng.

Mỗisự vật, hiện tượng là +) một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặtnày tác động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang tồn tại,chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định. +) cũng trong phạm vi độđó chất và lượng đã tác động lẫn nhau làm cho sự vật, hiện tượng dần biến đổi bắtđầu từ sự thay đổi về lượng. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu hướnghoặc tăng hoặc giảm nhưng không lập tức dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật,hiện tượng. Chỉ khi lượng thay đổi đến giới hạn nhất định (đến độ) mới dẫn đếnsự thay đổi về chất. Như vậy, sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho chất đổivà kết quả của sự thay đổi đó là sự vật, hiện tượng cũ mất đi; sự vật, hiện tượngmới ra đời.
c) Khái niệm độ, điểm nút, bước nhảy.

Độ dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất vàquy định lẫn nhau giữa chất với lượng; là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượngmà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật, hiệntượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng khác. Điểm giới hạnmà tại đó sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật,hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới- thời điểm, mà tại đó bắt đầu xảy rabước nhảy- được gọi là điểm nút.Độ được giới hạn bởi hai điểm nút và sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút sẽ dẫnđến sự ra đời của chất mới. Sự thống nhất giữa lượng mới với chất mới tạo ra độmới và điểm nút mới. Bước nhảydùngđể chỉ giai đoạn chuyển hoá cơ bản về chất của sự vật, hiện tượng do những thayđổi về lượng trước đó gây ra; là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng.Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng; là sự gián đoạn trong quátrình vận động liên tục của sự vật, hiện tượng. Trong sự vật, hiện tượng mới,lượng lại biến đổi, đến điểm nút mới, lại xẩy ra bước nhảy mới. Cứ như thế, sựvận động của sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúcthì nhảy vọt về chất, tạo ra một đường nút vô tận, làm cho sự vật mới ra đờithay thế sự vật cũ. Quy luật lượng đổi-chất đổi không chỉ nói lên một chiều làlượng đổi dẫn đến chất đổi mà còn có chiều ngược lại, nghĩa là khi chất mới đãra đời, nó lại tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữachất với lượng.

Một số hình thức của bước nhảy. Việc thừa nhậncó bước nhảy hay không cũng là cơ sở để phân biệt quan điểm biện chứng và quanđiểm siêu hình.
+) Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy,người ta chia thành bước nhảy toàn bộ là những bước nhảy làm cho tất cả các mặt,các bộ phận, các yếu tố của sự vật, hiện tượng thay đổi. Bước nhảy cục bộ là loạibước nhảy chỉ làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, một số bộ phận của sự vật,hiện tượng đó. Sự phân biệt bước nhảy toàn bộ hay cục bộ chỉ có ý nghĩa tương đối,điều đáng chú ý là dù bước nhảy là toàn bộ hay cục bộ thì chúng cũng đều là kếtquả của quá trình thay đổi về lượng.

+) Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chấtvà dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó, người ta chia bước nhảy thành bước nhảyđột biến khi chất của sự vật, hiện tượng biến đổi mau chóng ở tất cả mọi bộ phậncơ bản của nó. Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng conđường tích luỹ dần những yếu tố của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chấtcũ, làm cho sự vật, hiện tượng biến đổi chậm.
d) Kết luận.

Nội dung quy luật chỉ ra rằng quanhệ lượng-chất là quan hệ biện chứng; thể hiện ở +) những thay đổi về lượng chuyểnthành những thay đổi về chất và ngược lại; chất là mặt tương đối ổn định, lượnglà mặt dễ biến đổi hơn. +) lượng biến đổi, mâu thuẫn với chất cũ, phá vỡ chấtcũ, chất mới hình thành với lượng mới; lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến mộtmức độ nào đó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm nó. +) quá trình tác động qua lạilẫn nhau giữa lượng và chất tạo nên con đường vận động liên tục, từ sự biến đổidần dần về lượng tiến tới nhảy vọt về chất; rồi lại biến đổi dần dần về lượng đểchuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo của chất, cứ thế làm cho sự vật, hiện tượngkhông ngừng vận động, biến đổi và phát triển.

3) Từ nội dung quy luật lượng đổi-chất đổi củaphép biện chứng duy vật, rút ra mộtsố nguyên tắc phương pháp luận tronghoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. a) Quy luật lượng đổi-chất đổi giúpnhận thức được rằng, sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờcũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần về lượng đến một giới hạn nhất định sẽ thựchiện bước nhảy để chuyển hoá về chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạtđộng thực tiễn, phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất.

b) Quy luật lượng đổi-chất đổi giúp được rằng, mặcdù cũng mang tính khách quan, nhưng quy luật xã hội lại diễn ra thông qua cáchoạt động có ý thức của con người; do đó khi đã tích luỹ đầy đủ về lượng phảiquyết tâm tiến hành bước nhảy, kịp thời chuyển những thay đổi về lượng thành nhữngthay đổi về chất; chuyển những thay đổi mang tính tiến hoá sang thay đổi mangtính cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, hữukhuynh thường biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là thay đổi đơn thuần về lượng.

c) Quy luật lượng đổi-chất đổi giúp nhận thức đượcrằng, sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tốtạo thành sự vật, hiện tượng. Do đó, trong hoạt động của mình, phải biết tác độngvào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bảnchất, quy luật các yếu tố tạo thành sự vật đó.


 
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không như vậy sự vật không thể phát triển được. sự thay thế đó được triết học gọi là phủ định.

- Phủ định biênh chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới tiến bộ hơn sự vật cũ.

Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ bản đó là:

+ Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là kết quả giải quyết mâu thuẫn bân trong của sự vật. Nhờ việc giải quyết mâu thuẫn mà sự vật luân phát triển, vì thế, phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động và phát triển của sự vật.

+ Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không phải là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng của cái cũ, chúng không thể từ hư vô. Cái mới ra đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực. Do vậy, thông qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.

- Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình. Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó được bổ sung nhiều nhân tố mới. Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định.

Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những lần phủ định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng định bạn đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.

Kết quả của sự phủ định của phủ định là diểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp thei. Sự vật lại tiếp tục phủ định biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn.

Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật - xu hướng phát triển. Song phát triển đó không theo hướng thẳng mà theo đường "xoáy ốc".

Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau từ dưới lên của các vòng trong đường "xoáy ốc".

Nghiên cứu quá trình phát triển của sự vật theo quy luật phủ định của phủ định chúng ta không được hiểu một cách máy móc là mọi sự vật trong thế giới hiện thực đều phải trải qua hai lần phủ định của phủ định mới hoàn thành một chu kỳ phát triển của chúng. Trong hiện thực, một chu kỳ phát triển của sự vật cụ thể có thể bao gồm số lượng các lần phủ định nhiều hơn hai. Có sự vật trải qua hai lần phủ định, có sự vật trải qua ba, bốn, lăm... lần phủ định mới hoàn thành một chu kỳ phát triển Ví dụ vòng đời của Tằm đã trải qua 4 lần phủ định...

Từ những phân tích trên chúng ta có thể khái quát Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định và cái phủ định, nhờ đó phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn nội dung tích cực của các giai đoạn trước và bổ sung thêm những thuộc tính mới là cho sự phát triển theo đường "xoáy ốc".

- Vận dụng với quá trình đỏi mới ở nước ta: Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo đường thẳng mà diễn ra quanh co, phức tạp trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Vì vậy, quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của nhà nước tạo tiền đề phủ định nền kinh tế tập trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top