• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Tác giả Nguyễn Trãi ( Ngữ Văn 10 )

Bút Nghiên

Smod Trùm ^^
TÁC GIẢ NGUYỄN TRÃI

Nguyễn Trãi , hiệu là Ức Trai , (1380–1442 ), là đại thần nhà Hậu Lê, một nhà văn chữ Nôm. Ông được xem là một anh hùng dân tộc của Việt Nam, một danh nhân văn hóa thế giới.

Nguyễn Trã
i quê gốc làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sinh ra ở Thăng Long trong dinh ông ngoại là quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, về sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Ông là con trai của Nguyễn Phi Khanh (trước đây có tên là Nguyễn Ứng Long), vốn là học trò nghèo thi đỗ thái học sinh và bà Trần Thị Thái - con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý tộc nhà Trần.

Nguyễn Trãi sống trong thời đại đầy biến động dữ dội. Nhà Trần suy vong, Hồ Quý Ly lên thay, lập ra nhà Hồ, đổi tên nước là Đại Ngu .


Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh. Cả Nguyễn Phi Khanh và làm quan cho nhà Hồ. Nhưng chẳng bao lâu sau (1407) quân Minh sang đánh nước Đại Ngu. Nhà Hồ thua trận, cha con Hồ Quý Ly cùng các triều thần bị bắt sang Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Phi Khanh.


Tương truyền lúc ấy, Nguyễn Trãi muốn giữ tròn đạo hiếu, đã cùng em trai là Nguyễn Phi Hùng theo cha sang Trung Quốc. Nhưng đến ải Nam Quan, nghe lời cha dặn phải tìm cách rửa nhục cho đất nước, ông đã trở về và bị quân Minh bắt giữ ở Đông Quan.


Nguyễn Trãi bỏ trốn tìm theo Lê Lợi. Các tài liệu nói khác nhau về thời điểm Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa. Có tài liệu nói ông tham gia từ đầu, có tài liệu nói đến năm 1420 hoặc 1423 ông mới theo Lê Lợi.


Theo gia phả họ Đinh kể về thân thế Đinh Liệt, một tướng Lam Sơn khác, có đề cập đến việc Nguyễn Trãi gia nhập quân Lam Sơn. Theo đó, mùa xuân năm Quý Mão (1423) Nguyễn Trãi lấy tên là Trần Văn, Trần Nguyên Hãn lấy tên là Trần Võ vào Lỗi Giang gia nhập nghĩa quân Lam Sơn trong khi Bình Định Vương lại cho Phạm Văn Xảo đi tìm Nguyễn Trãi ở Đông Quan. Vì không biết rõ lai lịch hai vị này, Nguyễn Như Lãm (cận thần của Lê Lợi) đã giao cho Trần Văn làm Ký lục quân lương, Trần Võ thì đi chở thuyền. Mãi đến khi Nguyễn Trãi dâng "Bình Ngô sách", Lê Lợi mới biết rõ hai người này và giữ lại bên mình để lo giúp việc. Tài liệu này có cơ sở vì các sử sách khi nói về giai đoạn đầu của khởi nghĩa Lam Sơn cũng không nhắc tới Nguyễn Trãi.


Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo để lật đổ ách đô hộ của nhà Minh, trở thành quân sư đắc lực của Lê Lợi (vua Lê Thái Tổ sau này) trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn bản trả lời quân Minh cho Lê Lợi.


Đặc biệt trong giai đoạn từ 1425, khi quân Lam Sơn trên đà thắng lợi, vây hãm nhiều thành trì của quân Minh, Nguyễn Trãi thường viết thư gửi cho tướng giặc trong thành để dụ hàng hoặc làm nản ý chí chiến đấu của tướng giặc.


Năm 1427, ông được liệt vào hàng Đại phu, coi sóc các việc chính trị và quản công việc ở Viện Khu mật. Quân Lam Sơn giải phóng vùng Bắc Bộ, đánh tan viện binh của Vương Thông. Thông rút vào cố thủ trong thành Đông Quan. Vua Minh sai Liễu Thăng và Mộc Thạnh chia làm 2 đường, cầm hơn 10 vạn quân sang cứu viện. Lúc đó quân Lam Sơn đứng trước hai chọn lựa vì sắp phải đối phó với địch bên ngoài vào và địch đánh ở trong thành ra. Lực lượng của Vương Thông hợp với quân Minh sang từ trước đã có khoảng 10 vạn người, quân Lam Sơn vây hãm có chút lơi lỏng đã bị địch ra đánh úp, phải trả giá cao bằng việc mất 3 tướng giỏi: Lê Triện, Đinh Lễ bị tử trận, Đỗ Bí và Nguyễn Xí bị bắt. Chỉ có Nguyễn Xí sau đó nhờ mưu trí và nhanh nhẹn đã trốn thoát về.


Số đông các tướng nóng lòng muốn hạ gấp thành Đông Quan để hết lực lượng làm nội ứng cho Liễu Thăng và Mộc Thạnh. Riêng Nguyễn Trãi không đồng tình với quan điểm đó. Ông kiến nghị với Lê Lợi ý kiến của mình và được chấp thuận. Và Lê Lợi đã theo kế của ông nói với các tướng rằng:

"Đánh Đông Quan là hạ sách. Nếu ta đánh thành kiên cố đó, phải mất mấy tháng hoặc hàng năm, chưa chắc đã hạ nổi, binh sĩ ta phải mệt mỏi chán nản. Đang khi đó, viện binh của địch kéo dến, thế là ta bị địch đánh cả đằng trước, đằng sau, đó là rất nguy. Chi bằng ta hãy nuôi sức khoẻ, chứa dũng khí chờ đánh viện binh. Khi viện binh đã bị phá, tất nhiên quân trong thành phải hàng, thế là ta chỉ khó nhọc một phen mà thu lợi gấp hai."

Diễn biến chiến sự sau đó quả như Nguyễn Trãi tiên đoán. Lê Lợi điều các tướng giỏi lên đánh chặn hai đạo viện binh, giết được Liễu Thăng, Mộc Thạnh bỏ chạy về nước. Vương Thông trong thành tuyệt vọng không còn cứu binh phải mở cửa thành ra hàng, cùng Lê Lợi thực hiện "hội thề Đông Quan", xin rút quân về nước và cam kết không sang xâm phạm nữa.


Theo lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam (sau bài thơ Nam quốc sơn hà).


Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, phong ông tước Quan Phục hầu và cho theo họ Lê của vua.


Sau thắng lợi 1 năm, đầu năm 1429, Lê Lợi nghi ngờ Trần Nguyên Hãn, một tướng giỏi vốn là dòng dõi nhà Trần định mưu phản, nên sai người đi bắt hỏi tội. Trần Nguyên Hãn nhảy xuống sông tự vẫn. Vì Nguyên Hãn là anh em họ của Nguyễn Trãi nên ông cũng bị bắt giam vì nghi ngờ có liên quan tới tội mưu phản. Sau đó vì không có chứng cứ buộc tội, vua Lê lại thả ông ra. Tuy nhiên cũng từ đó ông không còn được trọng dụng như trước nữa.


Thực chất, cuộc thanh trừng công thần của Lê Thái Tổ có động cơ từ việc muốn thiên hạ hết mong nhớ nhà Trần; đồng thời cũng là cuộc tranh chấp quyền lực thời bình giữa các tướng có xuất thân họ hàng hoặc cùng quê với vua Lê - do Lê Sát đứng đầu - và các tướng xuất thân vùng khác, tiêu biểu là Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo. Hơn nữa đó lại còn là cuộc tranh chấp ngôi thái tử giữa con cả của vua là Lê Tư Tề (người từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và được Nguyên Hãn ủng hộ) với con thứ Lê Nguyên Long (được Lê Sát ủng hộ).

Bị oan khuất, sau khi ra khỏi ngục, ông làm bài Oan thán bày tỏ nỗi bi phẫn, trong đó có câu:


Hư danh thực hoạ thù kham tiếu,
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.


Dịch:

Danh hư thực họa nên cười quá,
Bao kẻ dèm pha xót người trung


Năm 1433, Thái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối ngôi, tức là Lê Thái Tông. Những năm đầu, Tư đồ Lê Sát làm phụ chính điều hành triều chính. Nguyễn Trãi tham gia giúp vua mới. Nhân bàn về soạn lễ nhạc, Nguyễn Trãi khuyên nhà vua:


"Nguyện xin bệ hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than".


Năm 1435, ông soạn sách Dư địa chí để vua xem nhằm nâng cao sự hiểu biết, niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của nhà vua đối với non sông đất nước.


Bị các quyền thần đứng đầu là Lê Sát chèn ép, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Chí Linh, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.


Tuy nhiên, trái với dự tính của Lê Sát, Thái Tông còn ít tuổi nhưng không dễ trở thành vua bù nhìn để Sát khống chế mãi. Năm 1437, nhà vua anh minh nhanh chóng chấn chỉnh triều đình, cách chức và giết các quyền thần Lê Sát, Lê Ngân; các lương thần được trọng dụng trở lại, trong đó có Nguyễn Trãi. Lúc đó ông đã gần 60 tuổi, lại đảm nhiệm chức vụ cũ, kiêm thêm chức Hàn lâm viện Thừa chỉ và trông coi việc quân dân hai đạo Đông, Bắc (cả nước chia làm 5 đạo). Thời gian phò vua Thái Tông, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy được tài năng của ông. Tuy nhiên khi triều chính khá yên ổn thì cung đình lại xảy ra tranh chấp.


Vua Thái Tông ham sắc, có nhiều vợ, chỉ trong 2 năm sinh liền 4 hoàng tử. Các bà vợ tranh chấp ngôi thái tử cho con mình nên trong triều xảy ra xung đột. Vua truất hoàng hậu Dương Thị Bí và ngôi thái tử của con bà là Lê Nghi Dân lên 2 tuổi, lập Nguyễn Thị Anh làm hoàng hậu và cho con của bà này là Lê Bang Cơ chưa đầy 1 tuổi làm thái tử. Cùng lúc đó một bà vợ khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại sắp sinh, hoàng hậu Nguyễn Thị Anh sợ đến lượt mẹ con mình bị phế nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng một người vợ thứ là Nguyễn Thị Lộ tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem nuôi giấu, sau bà sinh được hoàng tử Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tông sau này).


Tháng 7 năm 1442, vua Lê Thái Tông về qua nhà Nguyễn Trãi tại Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương ngày nay), vợ Nguyễn Trãi là bà Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua. Trên đường về kinh Vua đột ngột qua đời tại vườn hoa Lệ Chi Viên nay thuộc Gia Bình, Bắc Ninh. Nguyễn Trãi bị triều đình do hoàng hậu Nguyễn Thị Anh cầm đầu khép tội giết vua và bị giết cả 3 họ (tru di tam tộc) ngày 16 tháng 8 năm 1442. "Tru di tam tộc" là giết người trong họ của người bị tội, họ bên vợ và họ bên mẹ của người đó. Theo gia phả họ Nguyễn, ngoài những người họ Nguyễn cùng họ với ông, còn có những người họ Trần cùng họ với bà Trần Thị Thái mẹ ông, người trong họ bà Nhữ thị vợ thứ của Nguyễn Phi Khanh, những người trong họ của các bà vợ Nguyễn Trãi (kể cả vợ lẽ), tất cả đều bị xử tử.


Thái tử Bang Cơ mới 1 tuổi, con trai Nguyễn Thị Anh được lập làm vua, tức là Lê Nhân Tông


Theo gia phả họ Nguyễn, Nguyễn Trãi có năm người vợ:

• Bà họ Trần: Sinh ra Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, Nguyễn Phù.
• Bà họ Phùng: Sinh ra Thị Trà, Nguyễn Bảng, Nguyễn Tích.
• Bà Thị Lộ: Không có con.
• Bà Phạm Thị Mẫn: Sinh ra Nguyễn Anh Vũ (sau vụ án Lệ Chi Viên)
• Bà họ Lê: Sinh ra con cháu ở chi Quế Lĩnh, Phương Quất - huyện Kim Môn, Hải Dương.

Sau vụ án Lệ Chi Viên, dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngại, Nhị Khê gần như bị thảm sát hết. Trong các phả hệ ghi lại số ít thoát nạn là:


• Nguyễn Phi Hùng, em thứ ba của Nguyễn Trãi chạy về Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh;

• Nguyễn Phù con Nguyễn Trãi chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn.
• Bà họ Lê vợ thứ năm của Nguyễn Trãi mang thai chạy về Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương.
• Bà Phạm Thị Mẫn vợ thứ tư của Nguyễn Trãi có mang ba tháng, được người học trò cũ của Nguyễn Trãi là Lê Đạt đưa bà chạy trốn vào xứ Bồn Man (phía Tây Thanh Hóa); sau lại về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ.

Theo một số nghiên cứu gần đây, thủ phạm gây ra cái chết của vua Thái Tông chính là hoàng hậu Nguyễn Thị Anh và bà đã đổ tội cho Nguyễn Trãi.

Tuy nhiên, ngay đương thời đã có nhiều người biết việc oan khuất của Nguyễn Trãi. Hơn 10 năm sau, mẹ con vua Nhân Tông bị người con cả Thái Tông là Nghi Dân giết chết để giành lại ngôi vua. Nhưng rồi Nghi Dân nhanh chóng bị lật đổ. Người con thứ của Thái Tông là Khắc Xương từ chối ngôi báu nên người con út là Tư Thành được vợ chồng Nguyễn Trãi cứu thoát trước kia, nay được Nguyễn Xí rước lên ngôi, tức là Lê Thánh Tông.

Năm 1464, Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi. Con cháu ông được tìm lại và bổ dụng. Người con út sinh ra sau khi ông qua đời là Nguyễn Anh Vũ được Lê Thánh Tông phong cho chức Đồng Tri Phủ huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa), cấp cho 100 mẫu ruộng gọi là "Miễn hoàn điền" (ruộng không phải trả lại) con cháu đời đời được hưởng. Nguyễn Anh Vũ xây dựng mộ chí của Nguyễn Trãi tại xứ đồng Tai Hà, làng Dự Quần, lấy sọ dừa, cành dâu táng làm cốt; lấy ngày mất của Nguyễn Trãi - 16 tháng 8 là ngày giỗ họ .


Minh oan cho Nguyễn Trãi, vua Thánh Tông ca ngợi ông: "Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo" (tấm lòng Ức Trai soi sáng văn chương). Năm 1467, vua Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi.


Dù vậy, các nhà nghiên cứu vẫn băn khoăn chưa rõ vì sao một vị vua được coi là anh minh và quyết đoán như Lê Thánh Tông, đã minh oan cho Nguyễn Trãi, một đại công thần sáng lập vương triều Lê, người đã cùng với vợ là Nguyễn Thị Lộ ra sức che chở cho mẹ con nhà vua lúc gian nan, mà chỉ truy tặng tước bá, thấp hơn cả tước hầu vốn được Lê Thái Tổ ban phong khi ông còn sống. Các công thần khác của nhà Hậu Lê thường được các vua đời sau truy tặng tước cao hơn, như công và sau nữa lên vương.


Năm 1980 nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, UNESCO đã công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới.


Nguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác, cả bằng Hán văn và bằng chữ Nôm, song đã bị thất lạc sau Vụ án Lệ Chi Viên. Ông là một trong những tác giả thơ Nôm lớn của Việt Nam thời phong kiến, điển hình là tác phẩm Quốc âm thi tập.


Được biết đến nhiều nhất là Bình Ngô đại cáo được viết sau khi nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi trong cuộc chiến chống quân Minh kéo dài 10 năm (1418–1427). Tác phẩm này đã thể hiện rõ ý chí độc lập, tự cường của dân tộc Việt cũng như việc lấy dân làm gốc với những câu như:


Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.

(trích theo bản dịch của Ngô Tất Tố)

Bình Ngô đại cáo được người đương thời rất thán phục, coi là "thiên cổ hùng văn".


Ngoài ra ông còn để lại nhiều tác phẩm khác như Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí, Lam Sơn thực lục, Phú núi Chí Linh, Lam Sơn Vĩnh lăng thần đạo bi, Ngọc Đường di cảo.


Tác phẩm Gia huấn ca được người đời truyền tụng và cho là của ông, nhưng hiện vẫn chưa có chứng cứ lịch sử xác đáng. tác phẩm Quốc âm thi tập là tác phẩm viết bằng chữ Nôm đánh dấu sự phát triển mới của văn học Việt Nam .


Xem thêm :
Vụ án Lệ Chi Viên
( Theo BKTT mở )​
 

tapchoi82

New member
Xu
0
Giai thoại về Nguyễn Trãi.

Nguyễn Trãi (1380-1442) là khai quốc công thần bậc nhất của triều Lê sơ, ng­ười đã thảo “Bình Ngô đại cáo”, một thiên cổ hùng văn bất hủ của dân tộc ta. Ông cũng là nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị, nhà t­ư tư­ởng, nhà quân sự kiệt xuất. Một danh nhân văn hoá thế giới, đư­ợc cả thế giới tổ chức kỷ niệm (1980) nhân dịp 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, quê nội ông là làng Nhị Khê, huyện Th­ường Tín, Hà Tây.
* * *

Ý trời lòng dân

Thuở giặc Minh sang đô hộ nư­ớc ta, chúng bóc lột nhân dân ta thậm tệ, đặt ra hàng trăm nghìn thứ thuế vô lý nhằm vơ vét cho đầy túi tham.

Ngày ngày, nhân dân ta phải xuống bể mò ngọc trai, lên rừng săn ngà voi, sừng tê, lùng gỗ thơm, long quý, khai mỏ vàng… Chúng bắt thợ giỏi, gái đẹp đem về n­ước cung phụng.

Năm 1416, Nguyễn Trãi trốn khỏi Đông Quan, dâng Bình Ngô sách cho Lê Lợi ở Lỗi Giang, Thanh Hoá.

Cả hai trí tuệ lớn này hợp sức bàn việc đánh giặc cứu n­ước.

Thuở đó, lòng dân còn phân tán. Muốn làm cho mọi ng­ười tin tư­ởng vào nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Trãi sai ngư­ời lấy mỡ viết vào lá cây trên rừng tám chữ:

Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần.

(Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi).

Kiến, sâu ăn mỡ khoét lá rỗng thành chữ, lá rụng trôi theo dòng nư­ớc đến khắp mọi nơi.

Mọi ng­ười cho là “ý Trời” thư­ơng dân m­ượn tay Lê Lợi, Nguyễn Trãi khử bạo trừ hung nên rủ nhau nư­ờm nư­ợp về Lam Sơn tụ nghĩa và dốc hết lòng vào cuộc kháng chiến thần thánh.

* * *

Câu thơ nên nghĩa

Sau kháng chiến Bình Ngô.

Một buổi chiều từ triều trở về, qua Hồ Tây trời xâm xẩm, Nguyễn Trãi gặp một cô gái đi bán chiếu rong. Rung động trư­ớc vẻ đẹp tuyệt trần của cô gái, tâm hồn thi sĩ bỗng nhiên lên tiếng:

- Nàng ở đâu ta bán chiếu rong?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu chừng độ bao nhiêu tuổi
Đã có chồng ch­ưa, đư­ợc mấy con?

Ngư­ời con gái nhìn thẳng vào vị đại thần, tình tứ đu­ng đư­a cặp mắt lá răm:

- Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh vừa độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chư­a có, hỏi chi con?


Nguyễn Trãi thấy đối đáp trôi chảy, trong lòng xốn xang. Hỏi tên biết nàng là Thị Lộ, quê làng chiếu Hải Triều, Thái Bình, mới đem về c­ưới làm vợ.

Vua Thái Tông cảm vì sắc, phục vì tài hay chữ, phong là Nữ học sĩ, th­ường thư­ờng cho vào nơi cung cấm, dạy các cung phi.

Nguyễn Thị Lộ là ng­ười vợ tâm đắc nhất của Nguyễn Trãi.

Sưu tầm!
 

vosong

New member
Xu
0
Nguyễn Trãi và thơ

Nguyễn Trãi không những là nhân chứng cho những biến động bão táp của lịch sử thế kỷ XV mà còn là người trực tiếp tham gia vào chính những biến động đó. Ngay cả cuộc đời ông cũng là một cuộc đời đầy những bão táp, thăng trầm. Vì vậy, thơ ông thể hiện rõ một vốn sống đã ở độ chín, một suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời đầy phức tạp và một tình cảm nhân hậu đối với thiên nhiên, con người.

Qua thơ Nguyễn Trãi, ta có thể hiểu thêm rất nhiều điều về con người Nguyễn Trãi với những khát vọng lớn lao và những tâm tư u uất.

I. TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG TRONG THƠ NGUYỄN TRÃI

- Ðối với Nguyễn Trãi, quê hương chính là nơi xuất phát của những tình cảm cao đẹp. Thơ ông nói rất nhiều về quê hương bằng một tình cảm thiết tha, lắng đọng.

Có khi, đó là những hồi ức đẹp thời thơ ấu:

Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong nội, cá trong ao
(Ngôn chí 13)
Có khi, đó là nỗi nhớ day dứt trong những năm tháng xa quê tìm đường cứu nước:

Cố sơn tạc dạ triền thanh mộng
Nguyệt mãn Bình Than tửu mãn thuyền
(Mạn hứng)

Có khi, đó là tình cảm thân thiết của tác giả đối với quê cũ, ngày trở về ở ẩn:

Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
(Côn Sơn ca)

Nhà thơ cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống thanh bần, trong sách nơi quê hương, nơi thanh lọc tâm hồn, gìn giữ phẩm giá người quân tử:

Ngày tháng kê khoai những sản hằng
Tường đào ngõ mận ngại thung thăng

Yêu quê hương, nhà thơ luôn trăn trở với khát vọng: làm gì cho quê hương

Gia sơn cách đường nghìn dặm
Sự nghiệp buồn, đêm trống ba


II. TẤM LÒNG ƯU QUỐC ÁI DÂN SÂU NẶNG

Trong thơ Nguyễn Trãi, ta thường bắt gặp những từ tiên ưu, ưu ái. Ðây là nét ngời sáng trong tâm hồn Nguyễn Trãi:

Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Ðêm ngày cuồn cuộn nước triều đông
(Thuật hứng 5)


Oải ốc thê thân kham độ lão
Thương sinh tại niệm độc tiên ưu
Bình sinh độc bão tiên ưu chí
Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên
Gia sơn đường cách nghìn dặm
Ưu ái lòng phiền nửa đêm
Tóc nên bạc bởi lòng ưu ái,..

Xuất phát từ một câu nói nổi tiếng của Phạm Trọng Yêm đời Tống, từ tiên ưu thể hiện rõ quan niệm sống cao cả: yêu nước thương dân, chiến đấu suốt đời vì nước vì dân.

Suốt đời mình, Nguyễn Trãi xem công danh chỉ là điều kiện giúp đời:

Một thân lẩn quất đường khoa mục
Hai chữ mơ màng việc quốc gia
Vì nợ quân thân chưa báo được
Hài hoa còn bận dặm thanh vân
(Ngôn chí 11)

Nhà thơ luôn ý thức rõ ràng về trách nhiệm của một kẻ sĩ chân chính:

Ðầu tiếc đội mòn khăn Ðỗ Phủ
Tài còn lọ hái cúc Uyên Minh
(Mạn thuật 9)


Quốc phú binh cường chăng có chước
Bằng tôi nào thuở ích chưng dân

Những khát khao, mơ ước của Nguyễn Trãi luôn đi trước, chỉ đạo mọi hành động:


Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
(BKCG 43)


Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền
(Tự thán 4)

Từ mơ ước, tác giả thể hiện rõ một quyết tâm hành động:

Khó ngặt qua ngày xin sống
Xin làm đời trị mỗ thái bình
(Tự thán 28)


Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có trí, có anh hùng
(BKCG 5)

Những năm cuối đời nhiều bất hạnh, thơ Nguyễn Trãi đôi khi lắng đọng một nỗi niềm u uất, chán nản, bi quan, thậm chí thấm thía giọng điệu mỉa mai cho sự nghiệp anh hùng dở dang của mình:

Say mùi đạo trà ba chén
Tả lòng phiền thơ bốn câu
Uất uất thốn hoài vô nại xứ
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh

Có lúc, ông mỉa mai chính bản thân mình:

Cưỡi gió lên cao chín vạn tầng
Xưa kia lầm ví với chim bằng

Có lúc, thơ ông thấm lạnh một nỗi cô đơn tê tái trong những đêm dài trên núi Côn Sơn:

Rượu đối cầm đâm thơ một thủ
Ta cùng bóng lẫn nguyệt ba người

Có lúc, ông ví mình như một chiếc thuyền con, giữa trời chiều mênh mông chẳng biết ghé bến nào:

Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
Trời ban tối biết về đâu

Tuy nhiên, vượt qua tất cả những bất hạnh, thăng trầm của cuộc đời làm quan bị ganh ghét, đố kỵ, Nguyễn Trãi vẫn giữ cho mình Một tấc lòng son còn nhớ chúa- Tóc hai phần bạc bởi thương thu. Có âm điệu buồn trong thơ ông nhưng đó không phải là âm điệu chủ đạo. Vấn đề lớn lao nhất mãi làm ông quan tâm chính là ưu quốc, ái dân, lo cho đất nước và thương nhân dân. Ðiều làm tỏa sáng nhân cách lớn lao của một người anh hùng, một kẻ sĩ chân chính.

III. MỘT TRÍ TUỆ UYÊN BÁC LUÔN TÌM HIỂU ĐỂ NẮM BẮT NHỮNG QUY LUẬT VẬN ĐỘNG CỦA ĐỜI SỐNG

Trong thơ ông, ta thường thấy những tư tưởng triết học phương Ðông được dân tộc hóa và những kết luận có giá trị về quy luật của đời sống. Nhà thơ là con người giàu suy tư để dằn vặt với nỗi đau hữu hạn của đời người cho dù đó là cuộc đời của người anh hùng:

Kim cổ vô cùng giang mạc mạc
Anh hùng hữu hận diệp tiêu tiêu
(Vãng hứng)


Giang san như tạc anh hùng thệ
Thiên địa vô tình sự biến đa
Họa phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỷ thiên niên
(Quan hải)

Nhà thơ có những kết luận có giá trị về vai trò và sức mạnh vĩ đại của quần chúng, những người làm nên lịch sử:

Phúc chu thủy tín dân do thủy
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên
(Quan hải)


Ở yên thì nhớ lòng xung đột
Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày

Có khi, chính vốn sống, sự nếm trải trong cuộc đời thăng trầm đã giúp nhà thơ thấy rõ hơn bản chất của lòng người:

Dễ hay ruột biển sâu cạn
Khôn biết lòng người ngắn dài
Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn
Lòng người quanh nữa nước non quanh

Phải là người có vốn sống, sự từng trải mới có thể có những nhận xét sâu sắc về cuộc đời:

Tĩnh lý càn khôn kinh vạn biến
Nhàn trung nhật nguyệt trị thiên kim
(Thu nguyệt ngẫu thành)


IV. MỘT CHÍ KHÍ HÀO HÙNG, MỘT NHÂN CÁCH CAO THƯỢNG:

Mạnh mẽ, hào hùng, khẳng khái, trong sách, đó là nhân cách và chí khí Nguyễn Trãi được thể hiện qua thơ ông.

- Nhà thơ luôn có ý thức vươn lên trong thử thách để khẳng định chí khí hào hùng của mình:

Khó khăn thì mặc có màng bao
Càng khó bao nhiêu chí mới hào

Ông thường thể hiện chí chí của mình bằng những hình ảnh kỳ vĩ:

Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ
Tráng tâm hô khởi bán phàm phong
(Quá hải)

Với bản lĩnh và nghị lực của một người anh hùng, ông luôn tự hào, tự tin về mình:

Thừa chỉ ai rằng thời khó ngặt
Túi thơ chứa hết mọi giang san
(Tự thán 2)


Gánh khôn đương quyền tướng phủ
Lui ngõ được đất Nho thần
(Trần tình 1)

Vì tự tin, tự hào nên trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhà thơ vẫn giữ được phong thái ung dung, tự tại:

Ðủng đỉnh chiều hôm dắt tay
Trông thế giới phút chim bay
Ðạp áng mây, ôm bó củi
Ngồi bên suối gác cần câu
Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng

Không chỉ có phong thái ung dung tự tại, cách nói của nhà thơ cũng thật khẳng khái, mạnh mẽ:

Dầu bụt dầu tiên ai kẻ hỏi
Ông này đã có thú ông này
Chớ cậy sang mà ép nề
Lời chẳng phải vẫn không nghe

- Là một kẻ sĩ có nhân cách cao thượng Nguyễn Trãi luôn tự hào về những năm tháng làm quan thanh liêm của mình:

Nhất phiến đan tâm chân hống hỏa
Thập niên thanh chức ngọc hồ băng

Ðó là một con người Cốt lãnh hồn thanh chăng khứng hóa, luôn sống thanh bạch, giản dị, không chấp nhận luồn cúi để nhận bổng lộc:

Mắt hòa xanh đầu dễ bạc
Lưng không uốn, lộc nên từ
Cơm kẻ bất nhân ăn, ấy chớ
Aïo người vô nghĩa mặc, chẳng thà

Ðó cũng là con người trải bao thăng trầm dâu bể, bao đau đớn bất hạnh vẫn cứ nhìn cuộc đời bằng con mắt xanh, con mắt tin yêu, hy vọng:

Tuổi cao tóc bạc cái râu bạc
Nhà ngặt đèn xanh con mắt xanh

Không những thế, Nguyễn Trãi luôn luôn có ý thức bảo vệ nhân cách trong sáng của mình, chống lại mọi cám dỗ của đời sống:
Ngọc lành nào có tơ vết
Vàng thực âu chi lửa thiêu

V. MỘT TÂM HỒN NHẠY CẢM RỘNG MỞ

Thơ Nguyễn Trãi luôn chan hòa tình cảm đối với thiên nhiên, con người. Ông có cách nhìn, cách cảm tuyệt với trước vẻ đẹp của thiên nhiên, chân thành tha thiết trong tình bạn, hóm hỉnh nhưng tế nhị, sâu sắc trong tình người.

- Ông xem thiên nhiên là bạn, láng giềng, anh em, những người an ủi mình trên đỉnh Côn Sơn cô độc

Cò nằm hạc lặc nên bầy bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con
Láng giềng một áng mây bạc
Khách khứa hai ngàn núi xanh

Vì yêu thiên nhiên nên Nguyễn Trãi đã viết được những câu thơ tuyệt vời về vẻ đẹp của thiên nhiên:

Nước biếc non xanh thuyền gối bãi
Ðêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu
Hương cách gác vân thu lạnh lạnh
Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh

- Với bạn, tác giả luôn bày tỏ tấm lòng chân thành tha thiết:

Có thuở biếng thăm bạn cũ
Lòng thơ ngàn dặm nguyệt ba canh
Danh thơm một áng mây nổi
Bạn cũ ba thu lá tàn

- Với con người, tác giả tỏ ra rất sâu sắc, nhạy cảm trong khi phát hiện những biến đổi, xao động phức tạp trong tâm hồn con người: Bài thơ Tiếc cảnh 10, Cây chuối, cảnh hè,..

VI. NGHỆ THUẬT THƠ

Sáng tác thơ của Nguyễn Trãi có trên 100 bài thơ chữ Hán và 254 bài thơ chữ Nôm. Ðặc biệt, qua Quốc âm thi tập, ta có thể thấy rõ những đóng góp đáng trân trọng của Nguyễn Trãi về nhiều phương diện mà tiêu biểu nhất là phương diện thể thơ và ngôn từ:

1. Về thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong thơ Nôm Nguyễn Trãi

- Ðây là một thể thơ được sáng tác dựa trên quy cách và cấu trúc của thơ Ðường luật. Ðiểm khác biệt là ở hiện tượng xen kẽ những câu sáu tiếng vào các câu 7 tiếng của bài thơ bát cú lẫn tứ tuyệt luật Ðường.

- Số lượng các bài thơ được sáng tác theo hình thức này rất lớn (186/254) chứng tỏ rằng Nguyễn Trãi hoàn toàn có ý thức khi vận dụng thể thơ này như một sự thử nghiệm cho việc tìm ra một thể thơ mới cho dân tộc, chống lại ảnh hưởng quá sâu sắc của thi ca Trung Hoa.

- Xét về tác dụng nghệ thuật, câu thơ 6 tiếng trong bài thơ thất ngôn xen lục ngôn khiến lời thơ trở nên cô đọng, giản dị, ý thơ mạnh mẽ, sắc sảo, thường phù hợp với việc diễn đạt những chân lý của đời sống, những quyết tâm hành động của nhà thơ. Ngoài ra, cách ngắt nhịp phong phú của câu thơ 6 chữ khiến nó có khả năng diễn đạt được những cung bậc tình cảm đặc biệt tinh tế, sâu sắc của con người.

- Tuy nhiên, sự xuất hiện của các câu thơ 6 chữ đã làm phá vỡ kết cấu hoàn chỉnh của bài thơ Ðường luật, dẫn đến việc thất niêm, thất luật. Vì vậy, thể thơ này ngày càng ít đực sử dụng, nhường chỗ cho những thể thơ dân tộc khác hoàn chỉnh hơn về mặt cấu trúc và niêm luật.

2. Ngôn từ thơ Nôm Nguyễn Trãi:

- Bị chi phối bởi quan niệm thẩm mỹ của văn chương trung đại, thơ Nôm Nguyễn Trãi vẫn mang tính uyên bác, sử dụng nhiều điển cố và các hình ảnh tượng trưng ước lệ.

- Tuy nhiên, nhờ sử dụng chữ Nôm, thơ Nguyễn Trãi đã ngày càng dung dị, tự nhiên, gần gũi hơn với cuộc sống của nhân dân lao động. Từ ngữ trong thơ Nôm thường có sức gợi tả mạnh và đặc biệt độc đáo.

- Nhờ chữ Nôm, Nguyễn Trãi đã thành công trong việc đưa vào thơ ca bác học nguồn thi liệu vô cùng quý giá của tục ngữ, thành ngữ, ca dao.

Nguồn: Nguyễn Trãi.net
 
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top