Sử thi Iliade

uocmo_kchodoi

Moderator
ĐÔI NÉT VỀ THI HÀO HOMÈRE, SỬ THI ILIADE VÀ
TÁC GIẢ PHẠM TRỌNG CHÁNH
l-iliade-et-l-odyssee-d-homere.jpg

Đại thi hào Homer là tác giả của 2 tác phẩm Iliad và Odyssey. Đây hai thiên sử thi kinh điển và là cột trụ của văn minh phương Tây. Ngay cả những chính trị gia lỗi lạc như Plato, Aristotle hay bậc quân vương như Alexander Đại Đế cũng xem việc đọc hai tác phẩm này là một.

Iliad và Odyssey là những bản trường ca của binh lửa và giáo gươm. Ở đó những kẻ nhút nhát và rụt rè trước chiến trận mới chính là đối tượng bị dè bỉu. Nhưng Homer không cổ súy cho chiến tranh mà dùng chiến tranh để thử thách con người và dùng Cái Chết để bộc lộ đức hạnh của họ.

Bên cạnh đó, Iliad và Odyssey còn là những suy tư và chiêm nghiệm của người Hy Lạp cổ đại về mối quan hệ vừa thân thuộc vừa xa lạ giữa con người và vũ trụ, của linh hồn và thế giới, của bên trong và bên

Phương Tây xem trọng hai bản trường ca này vì chúng là biên niên sử của quá trình tiến hóa của ý thức con người, nhất là ý thức về thời gian. Điều đặc biệt của quá trình tiến hóa ý thức là nó tiếp tục diễn ra ngay cả khi xác thân đã hoàn tất quá trình biến đổi. Chẳng phải thế mà ta luôn coi vóc dáng cơ thể của

Về tác giả Phạm Trọng Chánh:

- Phạm Trọng Chánh, bút hiệu Nhất Uyên
- Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne.
- Tác giả:
. Chiêm bao trắng. Saigon 1969.
. Bóng Thời Gian, Thời gian ta mãi mãi còn xanh (với GSTS Nguyễn Đăng Hưng) Hiện Diện Liège 1973.
. Hồ Xuân Hương, Nàng là ai ? Khuê Văn Paris 2000.
. Nguyễn Du Mười năm gió bụi. Khuê Văn .Paris2011.
. Cánh chim từ vùng lửa đỏ. Thơ Nhất Uyên ,nhạc Tôn Thất Lập.1974.
. Thơ tình Nhất Uyên (Huy Cận, Xuân Diệu đề tựa.)
. Truyện thơ Odyssée qua 12110 câu thơ lục bát.
. Sử thi Iliade qua 16933 câu lục bát.
. Tự Điển tình yêu bằng thơ tình Xuân Diệu. Khuê Văn 2012


Dưới đây là bài viết của tác giả Phạm Trọng Chánh:

Thơ Thi Hào Homère là một chuổi châu ngọc toàn hảo, không thể thay một câu, không thể thế một chữ. Từ ba ngàn năm trước nền văn minh Hy Lạp đã tạc tượng thần Apolon, tượng thần Vệ Nữ toàn hảo, người xem ngày nay phải rung động trước vẽ đẹp bằng đá trắng tuyệt mỹ pho tượng. Nhìn đôi cánh thần, nhìn nếp tà áo quyện trên thân thể, ta thấy được gió thoảng trên thân thể ngọc ngà thần Vệ Nữ trên đỉnh Olympe. Cũng như thế thi ca Homère là những dòng châu ngọc. Thật khổ sở cho người đọc, chỉ đọc được các bản dịch bằng văn xuôi như xem một cái xác ướp không hồn đen đủi, mất đi âm thanh, nhịp điệu, màu sắc.. không thấy được cái cô động hình ảnh, ý tứ, bi hài, đẹp đẽ của thi ca.

Vì mối ưu tư ấy, tôi đã chuyển ngữ ra thơ lục bát hai sử thi Odyssée(12110 câu) và Illiade (16931 câu) trong 10 năm liên tục. Khuê Văn xuất bản tại Paris. Tôi đã năm lần viếng thăm các nơi có di tích trong hai sử thi: thăm đảo động đá thiên đường của Calypso, thăm bờ biển vắng nơi Ulysse chiều chiều ra ngồi khóc nhớ vợ con. Thăm đền địa ngục ca thần Hadès, nơi Ulysse cầu tiên tri được gặp mẹ, thăm thành trì cung đình vua Agamennon, vua Nector, thăm những nơi có chiến trận, những nơi các nhân vật Homère đã đi qua, vào viện bảo tàng Hy Lạp và các nước Âu Châu xem các vật dụng, vàng, bạc đồng Homère đã mô tả, tôi đã từng cắm trại, ngủ lại đêm trên bờ biển vắng, đi tàu trong đêm, rùng minh trong giông bão, nghe tiếng cá heo như tiếng các nàng nhân ngư, đi qua các đảo núi lửa, Homère đã nhân cách hóa thành những ông khổng lồ ném đá.. Tôi đã tham khảo hàng trăm quyển sách, xem nhiều bộ phim về đề tài Odyssée và Iliade. Tôi có ý dịch thơ Homère từ năm 1976, khi nhận được hai sử thi là quà tặng Duy Nga, người bạn đời của tôi, nhưng mãi năm 2001 khi đi Malte và đi Hy Lạp thăm viếng các di tích, tôi đã khởi hứng. Tôi đã công phu dịch thuật, diễn ca, chú thích, tái sáng tạo bằng thơ lục bát mà chúng ta gọi là ngôn ngữ Truyện Kiều để người Việt Nam ai đọc cũng hiểu và thưởng thức được kiệt tác văn chương vĩ đại của nhân loại. Hai tác phẩm đã được in ra, và phổ biến được 500 bản với các tranh bìa của J.D. Ingres, trong viện Bảo Tàng Louvre, Lyon.. một họa sĩ hàng đầu nước Pháp. Nhiều bạn đọc lấy làm buồn không mua được tác phẩm, và dịch giả cũng không đủ khả năng để tặng toàn bộ tác phẩm cho các bạn yêu văn chương.. Để bạn đọc xa gần có dịp tiếp xúc với thi ca Homère, tôi sẽ đăng tải trên các sitre internet quen biết, tôi sẽ lần lượt đăng từng chương vài trăm câu, kèm theo chú thích, bình luận.. Mỗi sử thi gồm 24 chương sẽ đăng làm 48 lần cho gần 30000 câu thơ. Ước mong các bạn đọc muốn tìm đọc Homère sẽ có cơ hội tiếp xúc được kiệt tác văn chương của nhân loại.

Illiade và Odyssée là hai thiên trường ca bất tử của nhân loại, tác phẩm văn học vĩ đại do Thi hào Homère, Hy Lạp sáng tác cách chúng ta 2900 năm và vẫn làm say mê nhân loại trong suốt 29 thế kỷ.Iliade kể chuyện về cuộc chiến thành Troie, Odyssée kể chuyện Ulysse sau cuộc chiến trở về quê hương phải vượt qua bao gian nan. Illiade chỉ kể lại một giai đoạn hơn bốn mươi ngày, nhưng qua đó cuộc chiến mười năm 1193 – 1183 trước Tây Lịch. Một truyện thơ hàng trăm nhân vật qua đó nổi bật hai anh hùng trong sáng như thần: Achille và Hector đối mặt nhau từ sống đến chết. Một kiệt tác văn chương viết về chiến tranh, anh hùng ca lẫn thần thoại. Cõi thần can dự trực tiếp vào cõi người, những vần thơ tuyệt tác tả cảnh chiến tranh, hùng tráng sắt thép rợn người, những tâm lý trái ngang cõi người. Mối bất hòa giữa dũng tuớng Achille và Vua Agamemnon vì mất đi một giai nhân, mối tình chia ly trong chiến tranh giữa Hector và Andromaque, tình bạn nhận ra giữa chiến trường thù nghịch giữa Diomède và Glaucos, tâm sự Hélène giữa người yêu quyến rủ Pâris và người chồng chung thủy Ménélas. Thế giới Thần lại mang đầy cái xấu con người , Thần Vương Zeus mê gái nhưng sợ vợ, Thần đầy dục vọng, Zeus bị bùa mê Héra, giăng mây vàng làm tình giữa núi Ida. Các Thần đố kỵ nhau, chia phe can thiệp vào cõi người, mượn tay người để đánh nhau, chẳng khác chi các Cường quốc mượn tay các nước nhược tiểu để đánh nhau trong Chiến Tranh Lạnh. Sử thi Iliade rất xưa và cũng rất hiện đại trong thế giới ngày nay.

Homère được xưng tụng là con Thần Nữ Thi Ca, là Thủy Tổ Văn Học Tây Phương, là Vua các nhà thơ, và là nhà thơ các vua, các bậc Văn hào qua bao thế kỷ đều kính phục học tập. Sinh sau cuộc chiến thành Troie 300 năm, ông tái tạo lại những đoạn thơ truyền khẩu do các du tử sáng tác trước ông thành hai kiệt tác văn chương. Ba nghìn năm qua các thần thánh, vua chúa, anh hùng, giai nhân, thành quách, lâu đài đều tan biến, và chỉ còn thơ Homère như viên ngọc quý giá bất tử với thời gian.

Iliade có nghĩa là chuyện thành Ilion, một tên gọi khác của thành Troie, một xứ nằm giữa Hellespont, Phrygie và đảo Lesbos, kinh đô nằm phía tả ngạn sông Mendérès-Scamandre, chu vi khoảng 12 km, có thành Bunar-Baschi vòng thành 2km dựng trên mõm đá cao 154m. Nhưng theo Schleman, người Đức năm 1871-1890 khai quật di tích, lại cho rằng thành Troie nằm trong khu vực Hissarlik tiếng địa phương gọi là Cổ thành. Vùng này xưa kia thuộc Hy Lạp, nay thuộc Thổ Nhỉ Kỳ.

Ngày xưa hai truyện thơ Odyssée và Iliade, được các du tử chuyên nghiệp đi khắp vùng Địa Trung Hải, ngâm thơ kể chuyện, đệm đàn lia (Lyre), Mỗi lần kể một chương vài trăm câu. Mỗi năm mùa biển động, dân chúng ngồi say mê, vừa bắt chí cho nhau, vừa nghe thơ. Iliade nếu được kể liên tục bốn ngày bốn đêm và Odyssée nếu được kể liên tục trong ba ngày ba đêm. Họ nghe đi nghe lại say mê đến thuộc lòng, nhiều người thuộc cả hai truyện thơ như người Việt Nam ngày xưa thuộc Truyện Kiều. Truyện thơ Hy Lạp bắt nguồn từ truyền thống tang lễ, khi có một nhân vật quyền quý chết, gia đình thường mời một du tử đến kể lại chuyện đời. Du tử có tài ứng khẩu biến lời kể thành vần điệu và ngâm nga trước tang lễ cho mọi người nghe suốt ba ngày ba đêm. Thơ Homère thịnh hành thời Cổ Đại, trong hơn 1600 bộ sách viết trên giấy da tìm thấy ở Ai Cập bằng tiếng Hy Lạp cổ điển, phân nửa là thơ Homère. Thơ có thể khởi đầu bất cứ đoạn nào, đời sau chia mỗi sử thi thành 24 chương.

Từ thế kỷ thứ năm trước Tây Lịch trẻ em Hy Lạp thường học với ba vị thầy : Một người dạy văn phạm, dạy thơ Homère, một người dạy thể dục, và một người dạy đàn lia. Thời Trung Cổ từ năm 393 bắt đầu với sự hưng thịnh Thiên Chúa Giáo, quyển Thánh Kinh trở thành quyển sách duy nhất. Các sách vở Hy Lạp bị cất dấu, trường Lycée, Accadémie bị đóng cửa, thì tại các nước Á Rập, văn minh Hy Lạp vẫn được tiếp tục dạy dỗ, nối tiếp, các nước Á Rập trở nên hùng mạnh, chiếm cứ cả Tây Ban Nha, phân nửa nước Pháp, Hy Lạp bị chiếm, các nước cận đông, thánh địa Thiên Chúa Giáo đều rơi vào vòng ảnh hưởng Á Rập Hồi Giáo.. Ý thức sự yếu kém trước nền văn minh Á Rập, Tây Phương đã tìm lại nền văn minh Hy Lạp, họ dịch thuật, tái sáng tạo từ những tác phẩm Hy Lạp, tại Pháp Molière(1622-1673), Jean de la Fontaine(1621-1695) tái sáng tạo những đề tài từ kịch nghệ, thơ ngụ ngôn Hy Lạp. Tây Phương đã tạo nên thời đại Phục Hưng. Phục Hưng là khôi phục lại lại nền văn minh huy hoàng thời Cổ Đại Hy Lạp, bị chôn vùi bởi thời Trung Cổ. Nền phục hưng chiếm lĩnh lãnh vực Văn học, Nghệ Thuật đến Giáo dục, biến các Trường Đại Học được lập ra ban đầu để dạy Thần Học thành những cơ sở giảng dạy đa dạng với đủ các ngành Khoa Học, Triết Học, Y Học.. Giáo Dục từng bước tách rời khỏi Giáo Hội Thiên Chúa Giáo trở thành một động lực phát triển khoa học kỹ thuật, tạo nên một cách mạng kỹ nghệ với vô vàn những phát minh tiến bộ, từ đó Thời đại Ánh Sáng và đem văn minh truyền bá và chinh phục cả thế giới. Các nền văn minh Trung Quốc, Ấn Độ dậm chân một chỗ, bị các cường quốc Tây Phương xâu xé, chiếm cứ; trừ Nhật Bản đã nhanh chóng mở cửa và cải cách giáo dục đã nhanh chóng tiến kịp cùng với Tây Phương. Thái Lan nhanh chóng tiếp xúc gửi những sứ đoàn sang các nước Tây Phương giữ độc lập bằng ưu thế ngoại giao. Tây Phương gọi Thời Trung Cổ là Thời nằm giữa Thời Hoàng Kim Cổ Đại Văn minh Hy Lạp thời Phục Hưng. Nước ta không có thời Cổ đại và không có thời Phục Hưng thì thời Trung Đại nước ta nằm ở chổ nào ?

Thế kỷ 20, 21 hàng năm vẫn có hàng trăm tác phẩm luận án Tiến sĩ nghiên cứu về thi ca Homère, vẫn tiếp tục khai thác các đề tài qua hàng chục bộ phim, nhạc kịch, hội họa, điêu khắc. Trong ngôn ngữ hằng ngày có những thành ngữ: trái táo bất hòa, cuộc Odyssée, gót chân Achille, tấm khăn Pénélope, lời tiên tri Cassandre... Đi đường ta gặp những bảng hiệu: Hermès, Pénéloppe, Ulysse, Calypso, Ino, Poséidon, Ajax, Hector.. Biết truyện thơ Homère là một chìa khóa để mở cách cửa vào nền văn minh Tây Phương, thưởng thức được những cái hay cái đẹp trong Hội Họa, Điêu Khắc, Âm Nhạc, Kiến Trúc, Văn học Tây Phương.

Nền văn minh Hy Lạp cách đây 2500 năm, nơi đây hình thành nền móng cho mọi ngành từ triết học, thiên văn học, y khoa, toán học, thể thao, thi ca, kịch nghệ, sử học.. Nơi đây đã hình thành những giá trị nhân bản của nhân loại : cộng hòa, tự do, dân chủ, hạnh phúc, dân quyền, phân quyền.. Những cơ sở : Trường học lycée, Hàn lâm viện, Nghị Viện, vận động trường Olympic, sân khấu, thư viện.. Để lại hàng trăm tên tuổi bất tử với sách vở: Socrate, Platon, Aristote, Thalès, Archimède, Pythagore, Hyppocrate, Homère, Aristophane, Diogène, Epicure, Eschyle, Ésope, Euclide, Euripide, Hérodote, Pausanias, Pindare, Sappho, Sophocle, Périclès.., Alexandre le Grand.. Ngôn ngữ Hy Lạp từng là ngôn ngữ chính thức của Âu Châu, trong nhiều thập kỷ, nền văn minh La tTnh tiếp nối lại truyền bá những thành tựu của văn minh Hy Lạp. Hầu hết các ngành khoa học ngày nay đều bắt đầu từ một ông tổ Hy Lạp thời Cổ Đại. Hiểu biết nền văn minh Hy Lạp ta không chỉ viết ta từ đâu đến và tương lai đi về đâu?

Homère gọi người Hy Lạp bằng các tên : Achéens, Argiens, hay Danaens. Đàn ông thường mô tả : tóc nâu để dài, coí râu quai hàm hay râu mép. Người Hy Lạp có một nền văn minh khá cao so với các dân tộc đương thời. Biết nuôi lợn, nuôi bò, nuôi cừu với quy mô đông đúc hàng trăm con. Đặt biệt là biết nuôi ngựa và xử dụng ngựa trong chiến trận sớm hơn các dân tộc khác. Vai trò con ngựa rất quan trọng trong việc chuyên chỡ vũ khí, lương thực, đi xa, nhanh chóng và chiếm được ưu thế bất ngờ trên chiến trường. Ngoài ra họ là những thủy thủ giàu kinh nghiệm trên biển, biết đóng thuyền bọc đồng, chỡ vũ khí, áo giáp, dụng cụ bằng đồng.. Họ tổ chức gia đình theo phụ hệ hay bộ tộc. Mỗi vùng có một vị vua cai trị và thần phục một vị vua mạnh nhất. Khi có chiến tranh các vua liên minh với nhau, với sự chỉ huy của vua các vị vua. Trong thơ Homère, Agamemnon là vua các vị vua. Họ có một tôn giáo, đấng tối cao là Thần Zeus : Zeus, Dies là gốc tích chữ Dieu của Tây phương. Zeus thường được xem là cha các vị vua. Hy Lạp có một hệ thống thần thoại phong phú. Đỉnh cao của phổ hệ thần thoại là Chaos, Thần Hổn Mang khởi đầu vũ trụ. Sinh ra Ouranos (Uranus) là Ông Trời và Gaîa (Terra Mater) là Mẹ Đất. Sinh ra 12 Titans ở dưới lòng đất, các anh em Géants, Hécatonchires các quái vật năm mươi đầu, trăm tay và trên mặt đất là Thần Chronos ( còn viết là Cronos, Saturnes) là Thần Thời Gian và Bốn Mùa. Chronos hay ganh ghét chiếm quyền cha Ouranos, nuốt các con trai, và phá hũy các công trình mình làm ra. Chronos lấy Thần Rhéa (Cybèle) tượng trưng cho sự thụ thai, sinh ra ba con là Zeus, Poséidon và Hadès. Thần Rhéa dùng mưu kế, cho chồng nuốt cục đá và cứu ba con trai thoát chết. Zeus trưởng thành nổi loạn cướp ngôi cha. Chronos gọi các Titans giúp sức. Nhưng Zeus và hai em chiến thắng, đầy lùi các Titans về Tartare một vùng sâu thẳm dưới cả dưới Địa Ngục. Zeus trở nên toàn quyền cai trị thế giới, đóng đô trên núi Olympe. Zeus (Jupiter) chia cho hai em Poséidon (Neptune) cai trị Biển Cả ở cung điện dưới Thủy Cung và Hadès (Pluton) cai trị cõi Âm Phủ.

Zeus giết cha lấy người chị cả Héra làm vợ. Héra (Junon, Hạ Cơ) là Thần nữ Hôn nhân, sinh ra Thần Arès(Thần Chiến Tranh) và Héphaîstos (Thần Hoả Thái). Zeus còn có nhiều vợ và sinh nhiều Thần khác.

Athéné (Minerve, Pallas, Quán Trí Tuệ, Quán Trí)), Zeus tự bổ trán sinh ra. Thần nữ Thông minh và khôn ngoan, có đôi mắt sáng cú mèo. Thần nữ bào hộ nghệ thuật, nghệ thuật và các việc khéo tay. Athéné còn là nữ thần chiến thắng mang chiếc khiên, gươm, giáo và cũng là nữ thần hòa bình mang nhành ô liu.

Apollon(Phoebé, Phoebus, An Long, An Đông): Thần Mỹ Thuật và Nghệ Thuật, con Zeus và Léto, song sinh với Artémis. Thần ngự trên núi Parnasse, thường cầm cây cung bạc và đàn lyre, thần của thi sĩ, nhạc sĩ và mục đồng. Thần gieo nạn dịch bằng cây cung bạc để trừng trị.

Artémis (Diane, Đạt Thế Mỹ) Thần nữ mặt trăng, thiên nhiên và săn bắn, thường hiện ra với trăng lưỡi liềm,, con nai và mang cung, nữ thần xinh đẹp và có lời nguyền là trinh nữ mãi mãi.

Hermes (Mercure, Hạc Mai, Mai Hạc) Con Zeus và Maia, tiên nữ làm mưa. Thần của Thương mại, của người trộm cắp và người giang hồ, là sứ thần truyền tin của Thiên Đình, và dẫn các linh hồn xuống địa ngục.

Héphaïstos (Vulcan, Hỏa Thái) Con Zeus và Héra. Thần Lửa và Kim loại. Bênh mẹ bị Zeus ném xuống trần nên bị thọt chân, lập lò rèn trong núi lửa Etna (Ý), chồng của Aphrodite (Vệ Nữ) nhưng vợ ngoại tình với thần Arès. Héphaïstos làm bẩy sắt bắt được hai thần đang làm tình bất động trên giường và gọi các thần khác đến phán xét.

Arès (Mars, Chiến Thần) Thần chiếm tranh, thường đi với hai người hầu là Terreur và Effroi, mang mũ đồng và vũ khí, bản tính hung bạo và can đảm.

Aphrodite (Vénus Vệ Nữ), Nữ thần sắc đẹp và tình yêu, mẹ của cây cỏ và làm đẹp sự sống.

Dionysos (Bacchus) Thần Nho và Rượu vang. Con Zeus và Sémélé. Bị Héra ghen nên sảy thai, Zeus đón bào thai nuôi trong đùi cho đến ngày sinh.

Theo truyền thuyết, nguyên nhân cuộc chiến thành Troie, là do quả táo bất hòa. Truyện kể rằng trong đám cưới của vua Pélée và Nữ thần biển Thétis. Họ đã quên mời Eris Nữ Thần Bất Hòa đến dự. Để phá vỡ cuộc vui và gây nên bất hòa những người đến dự. Eris lăn quả táo vàng vào giữa bàn tiệc, quả táo có đề chữ Tặng người đẹp nhất rồi vội vả về ngay. Thế là cả bàn tiệc sôi động hẵn lên. Ai cũng muốn dành quả táo ấy, họ tranh cải cuối cùng bỏ cuộc chỉ còn ba thần : Héra, Athéné và Aphrodite.. Họ bảo nhau đến Zeus phân xử, nhưng Zeus lắc đầu sợ vợ bảo răng thiên vị, Zeus bèn sai Hermès dẫn ba thần sang phương Đông, nhờ một người trần đẹp nhất là Pâris phân xử.

Pâris vốn là con vua Priam, lúc sinh ra Hoàng Hậu Hécube) nằm mơ thấy mình sinh ra ngọn đuốc tiêu hủy thành Troie. Tiên tri đoán mộng đứa bé này sẽ mang tai hoạ ghê gớm cho thành Troie. Vua bèn cho đem Pâris bỏ vào rừng. Pâris được một con gấu cái đến ấp ủ, và được một người chăn chiên Arélaos đem về nuôi. Lớn lên Pâris khôi ngô tuấn tú, được bạn bè chăn cừu đặt cho tên Alexandre là người xuất chúng, người bảo vệ bởi vì chàng có sức khỏe hơn người, đánh bại thú dữ và kẻ cướp. Một hôm có đoàn lính nhà vua Priam đến mua cướp 50 con bò đẹp nhất của Pâris để làm lễ hiến tế và trao phần thưởng cho cuộc thi thể thao. Pâris không thể cưỡng lệnh nhà vua, nhưng đi theo nhất quyết dành phần thắng trong các cuộc thi để mang bò về. Quả nhiên Pâris dành hết các giải và đánh bại hết các địch thủ anh em ruột mình, kể cả anh cả Hector. Một người con trai vua Priam là Déiphobe toan rút gươm giết Pâris. Pâris chạy đến tượng Thần Vương cầu xin che chỡ. Déipobe phải bỏ ý đồ hung bạo. Cô em gái Cassandre có tài tiên tri nhận ra chàng trai chăn bò đó là Pâris. Vua Priam và Hoàng Hậu cảm động nhận ra con và đón vào cung. Cassandre còn tiên tri Pâris dẽ gây nên sự diệt vong thành Troie, nhưng lời nói nàng chẳng ai nghe. Ngày nay điển tích lời tiên tri Cassandre, chỉ những sự sáng suốt tiên liệu thông minh, nhưng chẳng ai nghe và không được áp dụng, để tránh tai họa. Pâris sống trong cung điện nhưng thường về núi Ida thăm chốn xưa. Một hôm đang chơi đồng nội thì thần Hermès hiện xuống bắt phải phân xử tranh chấp quả táo bất hòa. Thật là khó phân xử vì cả ba vị nữ thần đều đẹp. Héra hứa cho chàng làm vua toàn cõi châu Á, Athéné hứa cho chàng thông minh, trí tuệ trở nên một dũng tướng bách chiến bách thắng. Aphrodite hứa cho chàng lấy được Hélène, người xinh đẹp nhất Châu Âu.

Pâris đã kính cẩn trao quả táo vàng cho Nữ Thần Sắc đẹp và Tình Yêu vì lý do đơn giản Vệ Nữ là Thần đẹp nhất. Do không được quả táo vàng Héra và Athéné đem lòng thù ghét Pâris va cả dòng giống dân Troie. Ngày nay thành ngữ Quả táo bất hòa chỉ nguyên nhân một sự bất đồng ý kiến, tranh cải, xung đột, mâu thuẫn.

Nhưng Hélène là một cô gái có chồng, có con gái. Chồng nàng là Ménélas, vua thành Sparte. Em vua Agamemnon, vua các vị vua.

Thần Vệ Nữ sau khi nhận được quả táo vàng bảo, Pâris đóng con thuyền vượt bể sang đô thành Sparte. Cùng đi còn có người em họ Enée. Vua Ménélas tiếp đãi nồng hậu, được vài hôm Ménélas nhận được tin phải đi Crète dự lễ Hiến tế quan trọng. Nhà vua cáo biệt khách và dặn Hoàng hậu Hélène tiếp đãi chu đáo. Vệ Nữ đã cho Pâris mượn chiếc thắt lưng quyến rũ kỳ diệu, hễ ai mang nó sẽ chinh phục được trái tim người mình yêu. Hélène bị bùa mê đã xuống thuyền theo Pâris, mang theo tất cả tư trang và bỏ đứa con gái lạI.

Hành động xấu xa của Pâris khiến các thần Olympe nổi giận. Ménélas trở về mất vợ, gặp anh Agamemnon, họ tập họp đại binh đánh thành Troie.. Quân Hy Lạp gồm 1186 chiến thuyền và hơn 100 000 quân.. Ban đầu họ thương thuyết để đòi lại Hélène nhưng bất thành. Họ chiến đấu trong 9 năm bất phân thắng bại. Quân Hy Lạp phải đi đánh các vùng lân cận để tiếp tế lương thực và bắt nhiều chiến lợi phẩm, trong đó có nhiều phụ nữ xinh đẹp. Sử thi Iliade chỉ kể lại giai đoạn cuối cùng trong 42 ngày và bắt đầu bằng chuyện nàng Chrysèis một giai nhân phần thưởng chiến công dành cho vua Agamemnon, nhưng cha nàng là Tế tự thần Apollon, đem nhiều của cải đến xin chuộc lại con gái. Hội Đồng Tướng lĩnh đều chịu, nhưng vua Agamemnon, vì thương cô gái không chịu, đuổi cha nàng. Chrysès viên tế tự cầu xin thần Apollon trừng trị. Apollon nổi giận đem cung tên đến gieo bệnh dịch, quân Hy Lạp chết nhiều. Hội Đồng tướng lãnh họp Hội Đồng, Achille cầu tiên tri cho biết nguyên nhân.. Vua Agamemnon đồng ý trả nhưng bắt giai nhân của Achille để đền bù. Thế là nổi trận bất hòa Achille đóng quân bất động không thèm tham gia trận chiến và cầu mẹ là nữ thần Thétis lên xin Thần Vương Zeus làm cho quân Hy Lạp bại trận. Zeus có tình ý với người yêu xưa nên nghe lời. Héra vợ Zeus lại bênh vực quân Hy Lạp. Thế là thêm những bất hòa vợ chồng Thần Vương Zeus, Héra nơi thiên đình.
 
Sửa lần cuối:

Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát


THI CA KHÚC I

TRẬN DỊCH - CƠN GIẬN DŨNG TƯỚNG AN SINH (ACHILLE)

TÓM LƯỢC: Sang năm thứ 10, cuộc vây thành Troie của dân Hy Lạp, bỗng xuất hiện một trận dịch, người và thú chết la liệt, các giàn cũi đốt xác ngày đêm. Trước tình thế nguy cấp An Sinh mời họp Hội Đồng Tướng Lãnh Hy Lạp, mời tiên tri Cát Sĩ (Calchas) đến tiên đoán sự việc. Cát Sĩ xin An Sinh bảo vệ tính mạng mới dám nói ra.

Nguyên nhân trận dịch là do Thần An Long (Apollon) nổi giận vì An Gia Đại Vương (Agamemnon) vua các vị vua đối xử tàn tệ với Sĩ Tiết (Chrysès), người tế tự thần An Long đã mang trượng vàng, khăn trắng và phẩm vật hậu hỉ đến xin chuộc con gái bị bắt trong trận chiến và được tiến cung cho An Gia Đại Vương. Sĩ Tiết bị vua đuổi đi. An Gia Đại Vương không tin lời tiên tri và nổi giận vì cho rằng An Sinh bày mưu để tước đoạt người thiếp yêu quý của mình. Nhưng trước tình thế nguy cấp An Gia Đại Vương chiều ý mọi người, trả lại con gái cho Sĩ Tiết. Nhưng lại bắt lại nàng Băng Tuyết ( Briséis) của An Sinh để bù phần thiệt. An Sinh nổi giận mắng An Gia Đại Vương. Nhà vua cho rằng kẻ dưới phải phục tùng cấp trên. Mặc cho Thần Nữ Quán Trí Tuệ (Athéné) và vua Ninh Tô (Nector) khuyên giải. An Sinh tuyên bố rời Hội Đồng Liên Quân và không đánh trận cho An Gia Đại Vương nữa. An Sinh ra bờ biển buồn than. Mẹ la Thần nữ ThêTúc (Thétis) hiện đến. An Sinh bảo mẹ xin Thần Vương Dớt (Zeus) làm cho An Gia Đại Vương thua trận. Thần Vương chìu lòng, nhưng vợ là Hạ Cơ (Héra) lại muốn quân Hy Lạp thắng quân Troa (Troie).

Hát lên, Thần nữ Thi Ca,(Muse) 1
An Sinh dũng tướng bất hòa gát gươm.(Achille)
Mặc bao thảm hại vô cùng,
Xuống hàng quân tướng vây thành An Kinh (Achéens),
Hồn tử sĩ về cõi âm,
Xác thân sói xé, diều ăn chiến trường.
Ý Thần Vương Dớt định phần,
Gây nên chia rẽ, tương tàn vua, tôi.
An Trích , vua cõi người (Atride)
Gây hờn dũng tướng Thần trời An Sinh. (10)
Thần nào gieo nỗi bất bình,
An Long, con Dớt và nàng Lã Tiên (Latone)
Cung vàng tên rải trận tiền,
Dịch thần gieo bóng thê lương tội tình.
Vì vua An Trích lỗi lầm,
Mắng Sĩ Tiết (Chrysès), tế tự thần An Long.
Sĩ Tiết đã đến van xin,
Anh em An Trích, quần thần An Kinh:
"Tôi người tế tự An Long,
Trượng vàng khăn trắng, xin dâng vật quà. (20)​
Thiên đình chứng giám lòng ta,
Giúp Ngài phá được thành vua Bam (Priam) này;
Chiến công phúc lộc cao dày,
Tạ Ngài, nhận lễ tỏ bày cầu xin.
Tha con tôi chẳng tội tình,
Chiến tranh loạn lạc, lỡ lầm sắc hương.
Bị người bắt giải tiến cung,
Xin Ngài kính Dớt, An Long tha giùm."
Quần hùng dưới trướng sẵn sàng,
Nhận qua hậu hĩ, thả nàng cho cha. (30)
An Gia Vương mặt tối sa,
Mất nàng Sĩ Tuyết (Chryséis), phần quà chiến công.
Chẳng vui đuổi kẻ tế thần :​
"Lão già, chớ dọa trượng vàng tối cao.
Lễ người ta chẳng nhận đâu,
Con người ta chẳng khi nào thả ra,
Nàng hầu ta mãi đến già,
Về Đạt Gô Lịch (Argolide) xa nhà quê hương.
Bên ta cung phụng chiếu giường,
Bên ta khung cửi sớm hôm cung đình, (40)​
Về đi nếu muốn yên thân,
Từ đây chớ đến lăng nhăng quấy rầy."
Cụ già sợ hãi ra đi,
Bên bờ biển vắng, sầu bi ngàn trùng.
Khẩn cầu Thần linh An Long :​
"Xót thương cho kẻ ngày đêm phụng thờ,
Giữ đền tế tự chăm lo,
Tế bao đùi béo dê bò lễ nghi.
Hãy ban ơn hiển linh vì,
Oán thù giọt nước mắt đầy đớn đau. (50)​
Tên vàng trừng trị tiêu hao,
Người An Kinh trả nhục nào hôm nay."
Thần An Long lắng nghe lời,
Thiên đình vì tiếng bề tôi, đùng đùng,
Vác cung vàng đội mũ đồng,
Nửa đêm đến giữa binh thuyền An Kinh.
Nhắm đoàn binh bắn vãi tên,
Chó, lừa gục ngã chẳng màng vì đâu.
Đến người dịch rụng rơi mau,
Lửa giàn thiêu xác ngút cao khói mù; (60)
Chín ngày trận dịch thương đau,
An Sinh mời tướng quan mau họp bàn.
Hạ Cơ(Héra) Bạch Thủ Nữ Thần,
Lo âu mặc khải Hội Đồng Quân Trung.
An Sinh đứng dậy, lời rằng:
"Tình hình nguy cấp nếu không giải tìm,
Một bên chiến trận triền miên,
Một bên nạn dịch đảo điên hoành hành.
Chỉ còn bỏ trận vây thành,
Rút quân lìa bến tay không trở về. (70)​
Mời tiên tri đến lắng nghe:
Bói cho điềm mộng, giải bề thần trao.
An Long gieo dịch vì sao ?
Lễ nghi, tế tự, thế nào hỏi tra.
Ý thần từ đó tìm ra,
Lễ thần cúng tế cho qua nạn này."
Cát Sĩ Thế Tô tiên tri. (Calchas Thestor)
Hiện tại, quá khứ, vị lai tinh tường.
Thần An Long dạy bói điềm,
Đứng lên ngỏ với quần hùng thiết tha. (80)
"An Sinh có ý mời ta :
Giải điềm Thần Dớt, dịch là vì đâu ?
An Long gieo rắc thương đau,
Nhưng điều tôi nói, trước sau mất lòng.
Tướng Quân suy nghĩ cho cùng :
Mệnh tôi bảo đảm mới hòng nói ra.
Tướng Quân thề với Dớt là :
Sẵn sàng cứu mệnh can qua vì lời.
Một lời đụng chạm đến người,
Quyền hành thù ghét ắt thời họa mang. (90)​
Căm thù để giữa tim gan,
Có ngày rồi sẽ quay sang giết người."
An Sinh trước Dớt thề bồi:
"Yên tâm Cát Sĩ bói lời tiên tri.
Nói ra sự thật dẫu vì,
Dù lời đụng chạm bất kỳ đến ai.
Ngày ta còn sống trên đời,
Quyết tâm ta bảo vệ người chẳng nan.
Dầu đụng An Gia Đại Vương,
Dầu chạm bất cứ cấp trên quyền hành. " (100)
Tiên tri Cát Sĩ yên tâm,
Ngỏ lời nói với Hội đồng Quân nghi:
"Các thần chẳng giận ta vì,
Lễ Thần cúng tế hội kỳ hàng năm?
Hay điều cấm kị thiêng liêng,
Chúng ta chẳng phạm những điềm thần răn,
Họa tai là bởi vị thần,
Có cây cung bạc An Long giận vì.
An Gia nhục mạ khinh khi.
Môn đồ Sĩ Tiết nơi này cầu xin. (110)​
Cụ dâng phẩm vật chuộc con.
Nhà vua lăng nhục, lại còn đuổi đi.
Cho nên thần đã ra tay.
Chỉ còn một cách: thả ngay, tha nàng.
Dâng cụ lễ vật tế thần,
Cầu xin tạ tội mới hòng thoát nguy.
An Gia sa mặt tức thì,
Quắc nhìn sang vị tiên tri dằn lời:
" Người tiên tri thiệt ta thôi,
Chẳng bao giờ nói được lời dễ thương. (120)​
Âm mưu hắc ám trong lòng,
Bói điều thiệt hại rõ ràng cho ta.
Nàng Sĩ Tuyết phần đã chia,
Ta đà từ chối nhận quà đổi trao,
Vì ta quyến luyến biết bao,
Yêu nàng lòng chẳng muốn sao xa lìa.
Xa Ly Tâm Khánh vợ nhà (Clytemmestre),
Thì nàng chẳng kém mặn mà sắc hương.
Bây giờ trả phải bồi thường,
Lẽ nào chịu thiệt đêm không lạnh lùng. (130)
Bồi thường tương xứng giai nhân,
Mình ta chịu thiệt, ta không thể nào !
An Sinh khuyên nhủ trước sau:​
Đại Vương An Trích chớ nào xót xa !
Kho tàng mỹ nữ đã chia,
Chẳng còn chi nữa để mà thay chân,
Hứa rằng mai mốt chiến công,
Đền bù xứng đáng được phần nhiều hơn.
An Gia Vương đáp giận hờn:
An Sinh bày kế mưu toan dối lừa. (140)​
Trả nàng Sĩ Tuyết về nhà,
Cùng đàn súc vật cho cha tế thần.
Song ta, chịu thiệt rằng không !
Thì ta sẽ đoạt lấy phần của ngươi,
Phần nàng mỹ nữ đẹp tươi.
Hay của Uy Lĩnh (Ulysse), An Bắc (Ajax) mới thời chẳng thua !
Thế là nỗi trận bất hòa,
An Sinh tức giận, lời ra bừng bừng:​
Hỡi người trân tráo tham lam,
Tướng, quân còn có nhất tâm phục tòng. (150)​
Bao nhiêu vương, tướng tùy tùng,
Làm sao kính phục đem lòng thương yêu.
Quên mình giao chiến quân thù,
Đạn tên, cái chết thiên thu sẵn sàng.
Như ta tham chiến chẳng màng
Người Troa (Troie) chẳng ghét, chẳng mang hận gì.
Bò ngựa chẳng cướp mang đi,
Mùa màng chẳng phá, chẳng chi phiền lòng.
Hai bên cách núi ngàn trùng,
Cách bờ sóng vỗ mênh mông chân trời. (160)​
Chỉ vì ta kính nể người,
Xót Mai Ninh Lạc (Ménélas), đến nơi báo thù.
Đầu rơi máu chảy mặc dù,
Thế người chẳng lấy làm điều nghĩ suy.
Toan dùng quyền lực tước đi,
Đoạt phần kẻ dưới, còn gì sĩ liêm.​
Hỡi người mặt chó vô lương,
Hỏi rằng chiến phẩm ai hơn bằng người ?
Người ngồi hậu cứ xa vời,
Còn ta sinh tử kề vai nhọc nhằn. (170)​
Xông pha mũi giáo đường tên,
Từ nay ta sẽ chẳng nên vì người !
Về Phi Thy (Phthie) quê ta thôi,
Thuyền ta ngang dọc đất trời quê hương.
Chẳng thèm chiến đấu gian nan,
Chỉ vì mục đích giàu sang cho người.
An Gia Vương gay gắt lời:​
Đi đi, ta chẳng cần người kiêu căng !
Vạn người dưới trướng phục tòng,
Ý Thần Vương Dớt hộ ban đủ rồi. (180)​
Người là vua đáng khinh thôi,
Chiến trường nào chỉ mình người đấu tranh.
Nếu người hùng mạnh, anh hùng,
Có thần phù hộ vẫy vùng bao la,
Về quê đi với mẹ cha,
Dù người giận chẳng làm ta sờn lòng !
Nếu vì kính Thần An Long,
Trả nàng Sĩ Tuyết là phần của ta,
Thì ta sẽ khiến người qua,
Bắt nàng Băng Tuyết (Breisès) thay ra, của người. (190)​
Phận thần dưới trướng : vua tôi,
Phục tùng là phận của người trung quân.
Mọi người lấy đó làm gương,
Tướng quân vâng lệnh chớ nên xem thường.
Xem vua vai vế ngang hàng,
Uy quyền, sức mạnh vua không ngang người.
An Sinh tức giận khôn nguôi,
Chẳng dằn cơn nóng toan thời rút gươm.
Quán Trí (Athéné) Thần nữ hiện bên,
Dằn tay, nắm tóc, nói riêng cùng chàng : (200)
An Sinh bày tỏ phân trần:​
Cớ chi Thần Nữ hiện trong lúc này,
Nghe lời ngạo ngược chẳng hay,
Chướng tai gai mắt phơi bày thế gian.
Quán Trí Tuệ khẽ xa gần:​
Chớ nên nóng tính, hãy dằn giận thôi.
Hạ Cơ (Héra) Thần nữ truyền vời :
Xuống trần khuyên nhủ những lời thẳng ngay .
Hãy nguôi cơn giận hôm nay,
Chớ nên vì bất bình này rút gươm. (210)​
Làm cho xâu xé anh em,
Hãy vì đại cuộc, thiệt hơn xá gì !
An Sinh cúi mặt vâng lời :
Cầu xin Thần nữ xét soi tấm lòng,
Lời Thần răn dạy xin vâng,
Tôi người tuân lệnh các Thần trên cao.
Tra gươm dũng tướng vái chào,
Quán Trí Tuệ thoáng biến theo cánh hồng.
Về Thiên Sơn (Olympe) chốn Thiên Đình,
Bàn đào tiên hội, các Thần tiệc vui. (220)
An Sinh lòng vẫn chưa nguôi,
Quay sang An Trích tiếp lời hờn dai :​
Đồ tham, mắt chó, tim nai,
Chiến trường, đột kích, ai người đấu tranh.
Còn người chết nhát hậu quân,
Đến chia lợi phẩm, lại dành phần hơn.
Làm Vua xương máu của dân,
Người là Vua những kẻ hèn ích chi !
Với ta lần cuối lời này,
Cầm cây ngôn trượng, ta nay thề là : (230)​
Cây này, lá chẳng mọc ra,
Lời ta vững chắc như là núi cao.
An Kinh (Achéens) hối hận ngày nào,
Dưới đòn kẻ địch Hắc Tô (Hector) trận tiền.
Ra vào chiến trận đảo điên,
Sĩ quân gục ngã chiến trường thảm thương.
Dù người có xé con tim,
Để mà hối hận ô danh tướng tài.
Để cho chiến trận thiệt thòi,
Lỗi lầm đốn nhục của ngươi hôm nay. (240)
Nói rồi vất trượng trên tay.
Ninh Tô (Nector) Vương lão đến ngay khuyên rằng .
Cất lời mật ngọt dỗ dành,
Bao nhiêu kinh nghiệm quân trung luận bàn.
Đã ba thế hệ trị dân,
Phi Lô (Pylos) thành vững, muôn dân hùng cường :​
Than ôi đau đớn nào hơn !
Người chung một giống An Kinh tranh phần.
Vua Bam (Priam) con cái cười thầm,
Dân Troa sung sướng, nức lòng nào hơn. (250)​
Hai người cao cấp Đa Niên (Daniens),
Giành nhau vì gái, thiệt hơn bất hòa.
Hai người trẻ tuổi hơn ta,
Lắng nghe ta ngỏ, điều là thiệt hơn :
Hai người trách nhiệm ba quân,
Giữa trong trận chiến ngày càng khó khăn.
Dù làm Vua lắm quyền hành,
Chẳng nên cướp đoạt tranh giành mỹ nhân.
Chỉ nên lấy đó làm phần,
Thưởng cho tướng lĩnh trung quân, hiền tài. (260)​
An Sinh phận tướng làm tôi,
Chớ nên ỷ sức tranh thôi, chẳng chừa.
Làm tôi dẫu phận thiệt thua,
Trượng vàng Thần Dớt, lệnh Vua tuân hành.
Dẫu người sức mạnh hùng anh,
Mẹ người Thần Nữ, ai tranh sức cùng.
Làm Vua trị nước an dân,
Nào đâu xe ngựa, thanh gươm chiến trường.
An Trích, phận ngôi cửu trùng,
Hãy nguôi cơn giận với cùng tướng quân. (270)​
An Sinh, thành lũy anh hùng,
Là người cột trụ cuộc chinh chiến này.
An Gia Vương phán quyết ngay:​
Cám ơn Vương lão tỏ bày thiệt hơn,
Nhưng người này thói ngang tàng,
Muốn hơn tất cả chẳng màng quân giai.
Muốn hơn hết, chẳng vâng lời,
Cả Thần chẳng nể, chi người làm Vua.
An Sinh hờn dỗi chẳng vừa:
Ta người ương ngạnh, chẳng ưa lệnh gì. (280)​
Hãy sai khiến kẻ khác đi,
Còn ta mặc kệ, nói gì đến ta.
Một lời hãy nhớ lấy là :
Ta không vì một đàn bà đấu tranh,
Chẳng vì người, chẳng ai cùng,
Của người cứ lấy, ta không tranh giành.
Của ta mang đến quân thuyền,
Chớ nên đụng đến mà phiền ngọn lao.
Số phần sẽ đẩm máu đào.
Nói rồi bước thẳng đi mau xuống thuyền. (290)
Hội Đồng giải tán, tan hàng,
Trở về tuyến trận, bàng hoàng ba quân.
An Sinh về hậu cứ thuyền,
Cùng bạn Ban Tuất (Patrocle) và đoàn sĩ quan.
An Trích ra lệnh chọn thuyền,
Hai mươi chèo lái, vật mang tế thần.
Tận tay dắt bước xuống thuyền,
Đưa nàng Sĩ Tuyết má hồng về cha.
Uy Lĩnh (Ulysse) điều khiển thuyền ra,
Hướng đền trực chỉ, thuyền qua biển ngàn. (300)
An Gia ra lệnh tẩy trần,
Rắc vôi, dẹp rác, tế thần An Long.
Trên đồi cát trắng biển xanh,
Bò, cừu cúng tế, mùi hương ngát trời.
An Gia vương chẳng nguôi ngoai,
Sai Tân, Âu Bạc hai người vệ quan :(Talthybios: Tân Thy Bộc) Eurybate : Âu Thy Bạc)​
Hãy sang hậu cứ An Sinh,
Kiệu nàng Băng Tuyết (Briséis) má hồng về đây.
Nếu hắn chẳng chịu cho ngay,
Bảo ta sẽ đến, sự này xem sao ? (310)
Vệ quan lòng chẳng muốn nào,
Bước qua đồi cát đi vào hậu quân,
Nơi dinh thuyền Nguyệt My Đông (Myrmidons),
An Sinh thoáng thấy, đứng ngăn lối vào.
Hai người lặng lẽ nhìn nhau,
Lòng đầy sợ hãi, chẳng sao thốt lời.
An Sinh hiểu ý nhạt cười :​
Chào quan thị vệ, vua vời người sang.
Các người vâng lệnh Đại Vương,
Bắt nàng Băng Tuyết, lệnh truyền phải theo. (320)
Ban Tuất ( Patrocle): Vào dẫn nàng nào,
Bảo nàng vâng lệnh, sang hầu nhà Vua.
Có Thần chứng kiến cho ta,
Nhà Vua chẳng biết đâu là sĩ liêm.
Nhỏ nhoi, lòng dạ thấp hèn,
Đừng hòng có lúc đi tìm đến ta.
Dù bao tai họa xãy ra,
Đừng cầu ta đến, xông pha trận tiền.
Ban Tuất vâng lệnh bạn hiền,
Dẫn nàng Băng Tuyết má hồng trao sang. (330)
Cho hai thị vệ kiệu nàng,
Bước đi lưu luyến, nhìn sang bồi hồi.
Kiệu vừa khuất bóng sau đồi,
An Sinh nước mắt bên trời luyến thương,
Ngồi bên đồi cát mơ màng,
Biển tung bọt trắng mênh mang chân trời.
Chắp tay cầu khẩn: Mẹ ơi !
Mẹ sinh con chốn trần đời bon chen;
Vinh danh mẹ cõi Thiên Cung,
Còn con nhục nhã, đau thương cõi này. (340)​
An Gia Vương ỷ quyền uy,
Làm con nhục nhã, giờ đây hận sầu.
Thê Túc, Thần nữ biển sâu,
Lắng nghe tiếng khóc khẩn cầu của con.
Thương con. Thần nữ hiện bên,
Cầm tay xoa nỗi oán hờn thương đau,
Chạnh lòng, khẽ hỏi: Vì sao ?
Con ơi sao khóc, sầu nào con mang ?
Nói đi con, nỗi oán hờn,
Nỗi nào con muốn , mẹ con giải giùm ? (350)
An Sinh đau khổ, uất căm :​
Mẹ ơi, con kể ngọn ngành nguồn cơn,
Thê Bê (Thébè) chiến trận căn nguyên,
Âu Thông (Eétion) chiến bại trận tiền bại vong.
An Kinh chiến thắng hào hùng,
Chiến công: mỹ nữ, bạc vàng phân chia.
Phần vua An Gia Đại Vương.
Có nàng Sĩ Tuyết má hồng giai nhân.
Con gái tế tự An Long,
Sĩ Tiết lễ vật, khẩn lòng chuộc con.
Tỏ bày khăn trắng, trượng vàng.
Hội Đồng Tướng kính thần linh tha nàng. (360)​
Riêng vua An Trích tham lam,
Thốt lời giận đuổi cha nàng đớn đau,
Cụ già buồn tủi khẩn cầu,
An Long thần đã báo thù thảm thương.
Tên thần bắn xuống An Kinh,
Dịch thần gieo rắc chiến trường thê lương.
Hội đồng quân tướng luận bàn:
Mời tiên tri đến, tỏ tường ra sao ?
Con đà khuyên nhủ trước sau,
Tạ thần giận dữ, hãy mau tha nàng. (370)​
Ngờ đâu An Trích oán hờn,
Thả nàng Sĩ Tuyết, bắt đền phần con.
Mới vừa cho thị vệ sang,
Bắt nàng Băng Tuyết yêu thương mang về.
Mẹ ơi trả hận con nghe !
Chỉ mình mẹ, Dớt say mê lòng.
Vì lời mẹ nói dịu dàng,
Vì hành động mẹ đẹp lòng Thần Vương,
Con nghe từ chốn Thiên Sơn,
Vây quanh Thần Dớt xui nên tâu trình. (380)​
Hạ Cơ (Héra) và Hải Long Vương (Poséidon),
Quán Trí Thần nữ họp cùng An Kinh.
Hãy quỳ bên gối Thần Vương,
Cầu cho phần thắng Troa dân nghiêng về.
Trừng trị An Trích u mê,
Khinh thường xúc phạm nặng nề đến con.
Thê Túc đau xót lệ buồn :​
Con ơi ta đã nuôi con trưởng thành,
Nào ngờ đau khổ phận dành,
Đời con ngắn ngủi chiến tranh hận thù. (390)​
Hãy lau nước mắt thương đau,
Con ơi, vui vẻ, chớ sầu thở than.
Thương con mẹ sẽ lên đường,
Thiên Sơn cầu khẩn Thần Vương phục thù.
Mệnh con ngắn ngủi thương đau,
Binh đoàn hãy tụ bên nhau gần thuyền.
Chớ nên nổi giận bất bình,
Và con tuyệt đối hãy ngừng giao tranh.
Dớt còn kinh lý Đại Dương,
Chư hầu dự tiệc nơi miền Hắc Phi (Ethiopie). (400)
Mười hai ngày nữa về đây,
Vì con mẹ sẽ đến ngay Thiên Đình.
Mẹ lên đến trước cửa đồng,
Cúi đầu cầu khẩn tỏ lòng Thần Vương.
Rời con về biển mênh mông,
Thê Túc rẽ sóng, ngàn trùng nước mây.
An Sinh trống vắng sầu bi,
Nhớ nàng đai ngọc ra đi mà buồn.
Nói về Uy Lĩnh dong thuyền,
Đem Sĩ Tuyết đến trả nàng cho cha. (410)
Một trăm cừu tặng làm quà,
Tế An Long cứu độ qua dịch thần.
Thuyền vào bến nước đền trong,
Xếp buồm chèo giữa nắng hồng tà huy.
Bỏ neo trước bến đền mây,
Kiệu nàng Sĩ Tuyết trao tay cha nàng.
Chân thành tạ những lỗi lầm,
Trước đền hương khói cầu Thần chứng minh.
Sĩ Tiết, tế tự An Long,
Vui mừng con gái đợi trông, tạ tình. (420)
Được trăm cừu để tế thần,
Cầu Thần Cung Bạc nhủ lòng xót thương.
Ngừng cơn giận dữ bắn tên,
Cho An Kinh được thoát cơn hiểm nghèo.
Thần An Long đỉnh mây cao,
Nghe lời cầu khẩn thương đau cõi trần.
Chủ tế rắc lúa mạch xong,
Nắm đầu vật tế, cổ nâng lên bàn,
Đoản đao thọc huyết máu tuôn,
Lột da, đùi tế phủ lên mở chài. (430)
Đặt lên trên lớp thịt tươi,
Cụ già đốt củi lửa nơi bếp đình.
Tưới lên rượu cháy lửa xanh,
Các thầy tế trẻ cầm ghim năm chìa.
Trở cho đùi cháy trên nia,
Cầu Thần phụng hưởng đến tia lửa tàn.
Đến phần còn lại tim gan,
Xẻ ghim, nấu nương cỗ bàn tiệc vui.
Rượu ngon, nâng chén cùng mời,
Phúc Thần tế độ cho người thỏa thuê. (440)
Sau khi rượu thịt no nê,
Cùng nhau múa hát, bài vè thần ban.
An Đông nguôi giận đổi lòng,
Chở che phù hộ, dịch thần tiêu tan.
Chung vui bên ngọn lửa tàn,
Uy Lĩnh từ giả lui quân về thuyền.
Ngủ vùi say giấc đêm đen,
Sương lam mờ mịt bên đền mênh mông.
Bình minh bừng ngón tay hồng,
Ra khơi thuyền lại về trong lũy đồn. (450)
Thần An Long thổi gió Nam,
Xuôi buồm căng gió con thuyền sóng đưa.
Xanh xanh trời nước gió đùa,
Trở về đồn lũy quanh Troa vây thành.
Thuyền đen đậu khuất ghềnh xanh,
Đẩy thuyền lên bãi, về dinh báo cùng.
Hội Đồng Tướng Lãnh vui mừng,
Yên lòng cơn dịch đã tàn, tóc tang.
Về phần quân tướng An Sinh,
Đóng yên bất động vẫn căm hận lòng. (460)
An Sinh Phi Túc tướng quân,
Chẳng thèm đi đến Quân trung Hội đồng..
Chẳng còn chiến đấu chung cùng,
Ngồi buồn nhìn bóng chiều không, ra vào,
Lòng còn luyến tiếc gươm đao,
Lòng còn vang vọng tiếng gào ba quân.
Mười hai ngày tiệc đã xong,
Các thần trở lại Cung đình Thiên Sơn.
Thần Vương Dớt dẫn thần tiên,
Ngàn mây trắng mộng về miền Thiên Sơn.
Áo mây đỏ sắc hoàng hôn,
Thần Vương đi trước trên ngàn tượng mây.
Thiên Đình thoáng đã đến ngay,
Dớt lui về đỉnh non Tây một mình.
Thê Túc nhớ đến lời con,
Thủy Cung vượt sóng đội sương Thiên Đình.
Thần tử Cồ Nốt (Chronos) một mình.
Ngồi xa một đỉnh non thần hoang vu.
Bên Thần quỳ gối cúi đầu,
Tay xoa gối trái, tay râu vuốt càm. (480)
Dớt đà tê tái bàng hoàng,
Người yêu trong mộng, mơ màng Thiên Cung.​
Dớt, Phụ Vương các Thần tiên,
Xin Ngài vì thiếp ban ơn phước này,
Con thiếp, mệnh ngắn ngủi thay !
Lại còn bị nhục hôm nay cõi đời,
An Gia Vương vua cõi người,
Ỷ danh hiếp đáp, đoạt đòi giai nhân.
Vốn là phần thưởng chiến công,
Làm cho con thiếp đau lòng héo hon. (490
Thương con khuya sớm tủi buồn,
Xót đau lòng mẹ ruột tằm chẳng yên.
Ngài ơi, thương thiếp hãy nên,
Làm cho thắng lợi Troa quân nghiêng phần.
Cho An Gia Vương phải chịu đền,
Bồi thường danh dự mới nên phục hồi.
Dớt im lặng chẳng trả lời,
Láo liên xem có ai nơi non thần,
Hạ Cơ, chằng nữ vợ hiền,
Tha hồ vụng trộm ai nâng râu cằm ! (500)
Lời nàng thỏ thẻ dịu dàng :​
Hứa cho Thần thiếp chút ơn sủng này.
Xin Ngài hãy gật đầu ngay,
Hay là từ chối lắc lay râu càm.
Biết Ngài nể sợ ai hơn,
Mấy khi thiếp mới về bên Thiên Đình.
Thở ra Dớt tỏ nỗi lòng :​
Buồn thay nàng bắt ta thành trái ngang.
Giúp làm sao mụ vợ chằng,
Hạ Cơ lớn tiếng oang oang nhức đầu. (510)​
Trước chư thần có nể đâu,
Vào ra tranh cải ta nào vị thiên.
Bênh quân Troa, nàng ghét hờn,
Ôi thôi nàng hãy đi liền chớ nên.
Để Hạ Cơ thấy nổi ghen,
Phần ta hứa sẽ giúp nàng áp phe.
Cho yên công việc mọi bề,
Yên tâm nàng hãy trở về Thủy Cung.
Phần ta sẽ gật đầu xong,
Kẻo mà tai vách, mạch rừng thấy hay. (520)
Nói rồi Thần Dớt chau mày,
Tóc tai dựng đứng khẽ lay, gật đầu.
Thiên Đình sấm động non cao,
Thê Túc từ giả, phóng mau biển ngàn.
Chư Thần vội vã đến nhanh,
Lấm la lấm lét xem Thần quở ai ?
Hạ Cơ cũng đến đánh hơi :​
Mùi hương biển mặn, chao ôi nồng nàn. !
Nữ Thần tằng hắng hỏi rằng :
Thủy Cung mấy thuở có Thần đến chơi ? (530)​
Biết rồi, Ông thích xa tôi,
Thích ngồi bí mật nghỉ ngơi một mình.
Thích ngồi thương nhớ tự tình,
Chẳng hay gỡ mối tơ lòng đã xong ?
Thần Vương lấm lét mới rằng :​
Hạ Cơ chẳng thể tỏ tường ý ta,
Dù bà là vợ trong nhà,
Còn ta muôn kẻ vào ra tâu trình,
Việc ta giải quyết một mình,
Chẳng nên gặn hỏi sự tình mà chi. (540)
Hạ Cơ trợn mắt tức thì :​
Láo chưa, Ông dám nói gì riêng chung ?
Mấy khi tôi hỏi ự tình,
Để Ông yên lặng một mình mặc Ông.
Hôm nay tôi mới biết rằng,
Đĩ Thần Thê Túc, con ông Thủy Tề.
Đội sương vượt biển đi về,
Vuốt râu, cọ má, ngồi kề bên Ông.
Cẳng hay Ông hứa gì chăng ?
Gật đầu sấm chớp sáng trưng Thiên Đình. (550)​
Phải chăng phục hận An Sinh,
Làm cho quân lính An Kinh tơi bời.
Vội vàng Dớt thẹn đáp lời :​
Quỷ chằng ! cứ tưởng rằng ai cũng mùi,
Ta đà dấu diếm chi ai,
Chẳng gì có thể làm tôi xa bà.
Chớ nên nổi giận gào la,
Chớ mất bình tỉnh lời ra hổn hào,
Hãy ngồi im lặng xem sao,
Nghe lời ta chớ ồn ào nói năng. (560)​
Rằng đây là chốn Thiên Đình,
Các Thần soi mói, Thần trông, Thần dòm.
Hãy vì ta phải nể nang,
Không thì ta vả bể mồm thị uy.
Hạ Cơ nguôi giận tức thì,
Bên chồng ngồi xuống máu sôi nguội dần.
Trong Cung Điện tiếng thì thầm,
Các Thần nheo mắt luận bàn riêng chung.
Rồi cười khúc khích mông lung,
Hỏa Thái Sơn (Héphaïstos) tỏ với cùng Mẹ, Cha: (570)​
Chớ nên cải lộn trong nhà,
Các Thần tám cõi dòm ra, nói vào.
Tiệc Thiên Đình chớ ồn ào,
Các Thần đến dự lòng nào được vui !
Mẹ nên giữ tiếng giữ lời,
Nói lời êm ái, cha thôi phiền lòng.
Cha, Thần mạnh nhất các Thần,
Một lời mẹ nhịn, Thiên Đình được vui.
Nói rồi Hoả Thái nâng ly,
Chiếc cúp vàng chạm hai quai, rượu hồng. (580)
Tay trao cho mẹ thì thầm:​
Mẹ ơi, nguôi giận, trong lòng chớ lo,
Mẹ ơi, chớ có tiếng to,
Con luôn bênh vực giúp cho mẹ hiền,
Con từng vì mẹ bị đòn,
Chẳng ai chống cự phụ thân được mà.
Một lần giúp mẹ ngày xưa,
Nắm chân, cha ném con qua cõi trần.
Rơi cả ngày đến chiều hồng,
Thổi núi lửa Lâm Nốt (Lemnos), thợ rèn Sinh Tiên (sintiens) (590)​
Đời như hơi thở nhẹ nhàng,
Thiên Đình bất tử, cõi trần phù dung .
Hạ Cơ nghe nói cười dòn,
Đón cầm chiếc cúp tay con vui cùng.
Nước cam lồ ngọt mật ngon ,
Thần Hoả Thái khẽ nỉ non rót mời.
Lê chân cà thọt khắp nơi,
Làm thần tiên cũng cười vui rộn ràng.
Thần An Long dạo cung đàn,
Các nàng Muy (Muses) hát lời vang êm đềm. (600)
Cung đàn tuyệt diệu êm êm,
Lời thơ nào ngọt môi mềm tiếng ca.
Cười vui cho đến chiều tà,
Ai về cung nấy, thướt tha mây hồng.
Cung Dớt lộng lẫy vô cùng
Do Thần Hoả Thái tay thần dựng xây.
Gối giường đã sẵn an bày,
Thần Vương vào giấc ngủ say mơ màng,
Hạ Cơ mới đến nằm bên,
Cõi Thần dị mộng, đồng sàn ai hay ! (610)
Chú thích:

Héra (Hạ Cơ) vợ Thần Vương Zeus, Zeus sợ vợ, nhưng thích vụng trộm nhất là với Thétis mẹ Achille.

Thiên trượng: Hy Lạp ngày xưa để nói giữa đám đông, họ đặt ra cây thiên trượng, thiên trượng trao ai người ấy mới nói, để tránh mọi người nói cùng một lượt không ai nghe ai.

Eétion(Âu Thông) là cha Andromaque(An Độ Mai) tức cha vợ tướng Hector, con cả vua Priam..

Zeus: là con thần Chronos. Zeus đã từng tranh nhau Thétis với Posséidon, nhưng vì tiên tri báo điều tai họa nên phải gả Thétis cho vua Pélée, sinh ra Achille. Achiulle có đôi chân chạy nhân nên còn gọi là Phi Túc. Lemnos: Lâm Nốt, Lâm Môn vùng Mosychlos, núi lửa là lò rèn của Thần Hoả Thái, tương truyền nơi đó Prométhé đánh cắp lửa.

Achille (An Sinh) Con nữ Thần biển Thétis(Thê Túc) và vua Pélée vùng Thessalie, dân cư gọi là Myrmidon.(Nguyệt My Đông)

Atride Aggamemnon (An Trích An Gia Đại Vương) Vua Mycènes: Tổng chỉ huy Liên quân Hy Lạp.

Apollon: con thần Zeus và nàng Latone.

Nestor (Ninh Tô) vua Pylos. Vị vua cao tuổi nhất trong các thủ lĩnh Hy Lạp.​

Hết Chương I

Paris 1-5-2016
PHẠM TRỌNG CHÁNH
*Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne.​
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại


Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát


THI CA KHÚC II : PHẦN I - ZEUS GỬI THẦN BÁO MỘNG

Các triết gia Hy Lạp ngày xưa hăm he bọn thi sĩ du tử : " Hãy choàng vòng hoa lên cổ bọn thi sĩ, và đuổi chúng ra khỏi thành phố, vì chúng bất kính với thần thánh ". Tại sao lại choàng vòng hoa vinh danh, và lại đuổi đi ? Đọc Trong thơ Iliade và Odyssée, nhiều đoạn Thi hào Homère diễu cợt với thần Zeus, các thần thánh và cả đến vua chúa. Thần Vương Zeus, ông Trời, Thượng Đế là quyền uy của cả vũ trụ, Thiên tử giống như Trung Quốc, Cha của các vị vua. Ý trời cao cả định đoạt sống chết, vận mệnh tương lai tất cả mọi con người, mọi sinh vật. Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao (Kiều). Thế mà Ông Trời còn sợ Bà Trời, thừa lúc bà Trời ngủ mới ra lệnh cho Thần Báo Mộng, toan tính làm theo ý mình, theo lời người mình yêu, Thétis, mẹ của Achille dặn dò, chợt nghe Bà Trời trở mình, sợ Bà Trời nghe biết rầy rà, đã đổi ý, đành nói xuôi cò theo lời Bà Trời. Thời Trung Cổ Tây Phương, sau khi đuổi thi sĩ du tử ngâm thơ Homère, người ta giải quyết bằng cách không cho ông Trời có vợ, có con ; dẹp hết chuyện vợ, con ông Trời.. Ông Trời tự sinh ra, sinh ra cả vũ trụ và sống độc thân một mình. Các bà có thai, có con khi chồng đi chiến trận, chồng về nhà thì bảo là con của Thần Zeus, Thần hóa thành con ngỗng xuống ân ái, phải đành câm miệng ; từ thời Trung Cổ bà vợ được chồng tặng cho cái quần lót bằng sắt, chồng đi xa, mang theo cả chìa khóa. Tưởng tượng điều kiện sống phụ nữ khổ sở thế nào khi phải mang quần lót bằng sắt mà chúng ta còn thấy trong các viện bảo tàng. Thời Trung Cổ Âu Châu tàn bạo không kém tại Á Châu dùng biện pháp thiến hết các thái giám hầu hạ nơi cung đình.

Vua Agememnon, là vua các vị vua Hy Lạp toan tính nói lời kích động, nói ngược để làm hừng chí binh sĩ, nào ngờ hậu quả ngược lại, quân sĩ reo hò chạy tuốt luốt ra chiến thuyền, toan rút quân trở về. Thi hào Homère đã diễu cợt với ý Trời, ý Vua. Bọn thi sĩ du tử từ ngàn xưa đã xem thường cái kỷ cương của ông Trời, của Vua. Nhưng chúng được nhân dân yêu mến, không choàng vòng hoa cho chúng thì choàng cho ai bây giờ, ngày xưa dân Hy Lạp mùa biển động, thích vừa ngồi bắt chí cho nhau, cắn chí bộp bộp, thật đã ngứa, nghe thi sĩ diễu : Ông Trời sợ vợ, ý một đằng, sợ vợ làm một nẽo. Ông Vua nói một đằng, binh sĩ làm một nẽo, thật là đã ngứa, thật tức cười. Ngày nay ta tự cười, nào có phải chuyện xa xôi trên trời, thời nào cũng có bọn phản chiến, mà chúng nói có sai đâu ? trong lịch sử đầy những chuyện như thế : Vua Càn Long sai Tôn Sĩ Nghị sang nước ta chờ ván cờ Ngư ông đắc lợi, Lê Chiêu Thống đánh với quân Tây Sơn cho đến kiệt lực, Tôn Sĩ Nghị sẽ bắt bỏ cả hai vào rọ, nào ngờ quân và dân phu Trung Quốc thấy voi bỏ chạy làm sập cả cầu phao chết đuối, Tôn Sĩ Nghị phải vất cả ấn tín chạy về nước. Mới ngày nào Tổng Thống Thiệu mưu tính rút quân Chiến lược, tái phối trí chiến trường..

ZEUS GỬI THẦN BÁO MỘNG

Zeus( Dớt) gửi Thần Báo Mộng(Songe) báo cho vua Agamemnon, Thần Vương toan nói điều Thần nữ Thétis cầu xin, nhưng Héra (Hạ Cơ) trở mình, sợ vợ nghe biết đành nói xui cò theo ý vợ. Vua Agamemnon (An Gia Đại Vương) trình bày giấc mơ mình với các vua Hội Đồng Liên Quân và cho duyệt binh tướng để công thành Troie với hy vọng chiến thắng. Để kích động binh sĩ, vua Agamemnon giả vờ nói rút quân, nào ngờ đâu quân sĩ tưởng thật, vui mừng ùa chạy xuống thuyền. Ulysse (Uy Lĩnh) ngăn cản binh sĩ, trừng phạt Thersite(Thạc Đức) làm rối rắm kỷ cương. Mọi người lại quyết tâm sẵn sàng chiến đấu.

Thần, người trong giấc ngủ say, (611)
Dớt còn trăn trở, ngất ngây với tình.
Hứa lời phục hận An Sinh
Làm cho binh tướng An Kinh nhọc nhằn.
Nửa đêm rón rén gót chân,
Hạ Cơ say ngủ giấc nồng thần tiên.
Trời bèn vào đến phòng bên,
Gọi Thần Báo Mộng đến truyền lệnh mau.
Lòng thầm nghĩ đến mưu sâu,
An Kinh cùng cực ngóc đầu chẳng lên: (620)​
Hãy mau đến các chiến thuyền,
An Kinh đang đóng vây thành vua Bam (Priam),
Báo tin An Gia Đại Vương,
Hãy mau điểm tướng duyệt binh công thành.
Thời cơ thuận lợi đã dành.
Bỗng nghe có tiếng trở mình khẽ ho,
Dớt hạ giọng nói xuôi cò :​
Thiên Đình ai cũng đành lo chung cùng,
Ý Hạ Cơ, Trời đồng tình,
Cho nên toàn thể các Thần đều theo, (630)​
Chẳng còn chia rẽ gây nhau,
An Kinh sẽ thắng hãy mau công thành.
Mộng Thần vâng lệnh bay nhanh,
Đến ngay doanh trại binh thuyền An Kinh.
An Gia Vương giữa trung quân,
Đang say ngủ bỗng thấy thần trong mê:​
Ngủ sao Tôn tử An Lê (Atrée),
Nổi danh luyện mã, giỏi nghề kỵ binh.
Làm sao ngủ mãi, mặc tình,
Trong tay quân tướng bên thành âu lo. (640)
Hãy nghe ta Thần Giấc Mơ,​
Lời Thần Vương Dớt dặn dò với ngươi,
Dù Ngài cách biệt xa vời,
Nhưng luôn lo lắng phận người yêu thương.
Hãy mau sửa soạn hùng binh,
Đặng mà phá lũy công thành Troa quân.
Các Thần ở chốn Thiên Sơn,
Không còn ý kiến tỵ hiềm với nhau.
Ý Hạ Cơ thảy đều theo,
Tang thương lơ lững trên đầu quân Troa. (650)​
Bại vong trận cuối, thua to,
Mà Thần Vương Dớt phán cho số phần.
Hãy ghi nhớ giấc mộng thần,
Dịu như mật ngọt ta truyền hôm nay.
Nói rồi Thần Mộng tung bay,
An Gia Vương tỉnh giấc say bàng hoàng.
Mặc nhung y, khoát áo choàng,
Hài vàng, trường kiếm mang quàng ngang vai.
Tay cầm vương trượng truyền lời:
Hội Đồng Vua Tướng đến nơi họp bàn. (660)
Hịch vua từ chốn trung quân,
Bước chân thị vệ dọc ngang chiến thuyền.
Thần Bình Minh đỉnh Thiên Sơn,
Tỏa tia nắng sáng đến muôn thiên thần.
Sáng soi đến cõi dương trần,
Khắp nơi tề tựu Hội Đồng Trung Quân.
Bước vào đại trại quân doanh
Ninh Tô Vương lão, vua thành Phi Lô.
Trước bàn tướng lĩnh quân cơ,
An Gia kể lại giấc mơ đêm rồi. (670)
Ninh Tô Vương lão giải bày:​
Chẳng nghi ngờ nữa mộng này Thần ban,
Việc quân cơ mật sẵn sàng,
Duyệt binh điểm tướng lệnh quân công thành.
Riêng An Gia Vương muốn thử lòng,
Kích động quân sĩ quay chân trở về,
Dặn dò tướng lĩnh vỗ về,
Dùng lời hùng tráng hội thề ba quân.
Ninh Tô bàn luận mộng rằng;
Kính thưa : chiến hữu Hội Đồng Quân Cơ, (680)​
Nếu là người khác nằm mơ,
Chúng ta bác bỏ điềm vơ vẫn này.
Nhưng điềm Thần giáng hôm nay,
Cho vua cao cả nhất người An Kinh.
Hẵn là Thần Dớt đã ban,
Ta nên theo lệnh sẵn sàng tiến công.
Lệnh vua giải tán Hội Đồng,
Mọi người đứng dậy quân trung lệnh truyền.
Đi theo vua tướng đồng lòng,
Thôi đánh điền dã, nay cùng giao tranh. (690)
Như bầy ong giữa hoa xuân,
Từ thuyền từ trại dòng dòng tủa ra.
Thần Tin Đồn đã loan xa,
Sứ Thần Vương Dớt tin qua mộng truyền.
Binh đoàn đông chật giáo khiên,
Ầm ầm dậy đất, khắp miền tiếng la.
Chín người thị vệ tiếng loa,
Chỉnh tề quân ngũ, chiến xa hào hùng.
Lắng nghe từ tiếng quân trung,
Lời ban truyền hịch, vua dòng Thần Vương. (700)
Bốn bề quân sắp thẳng hàng,
Giơ cao vương trượng, lặng im lệnh truyền.
Cây vương trượng của uy quyền,
Do Thần Hoả Thái chạm nên ngọc ngà.
Dâng Thần Vương Dớt ban ra,
Dớt giao Mai Hạc (Hermès) truyền qua sứ thần.
Phong vương Phi Hổ (Pélops) anh hùng,
Phi Hổ truyền đến con dòng An Lê (Atrée).
An Lê mất để ngôi về,
Thụy Chân (Thyeste) giàu có bò dê đầy đồng. (710)
Thụy Chân truyền An Gia Vương (Agamemnon),
Làm vua trăm đảo xa gần biển xanh.
Và Đạt Gô Lịch (Argolide) trị dân,
Xứ giàu hùng mạnh nhất vùng An Kinh.
Nhìn cây vương trượng uy quyền,
Toàn quân im đợi lệnh truyền quân trung.
An Gia Vương muốn thử lòng,
Thay vì cổ vũ tiến công sẵn sàng.
Vua lại lên tiếng thở than,
Hao người, tốn của, nỗi buồn chiến tranh: (720)​
Hỡi toàn quân dân Đa Niên (Danaens),
Thờ Thần Chinh Chiến (Arès) xả thân chiến trường,
Thần tử Cồ Nốt (Chronos) đảo điên.
Đã không giữ hứa, đan tâm dối lừa,
Gật đầu ưng thuận ngày xưa,
Thành Ý Long (Ilion) đó, cho ta phá thành.
Nhưng nay thành vẫn vững bền,
Hùng cường còn đứng một vùng trời Đông.
Vậy là Trời đã dối dang,
Dù binh ta đã đông hơn kẻ thù. (730)​
Bao năm vây hãm đánh nhau,
Vẫn không phá được thành hào Ý Long,
Chín năm hao hụt quân binh,
Chiến thuyền gỗ mục, dây mòn, cáp lơi.
Vợ con trông ngóng xa vời,
Ruộng vườn hoang dại, chẳng ai cấy trồng.
Chi bằng trở lại non sông,
Chẳng màng tranh đấu, chiến trường mà chi.
Tưởng rằng lời nói ngược tai,
Sẽ làm kích động quân giai như lời. (740)
Nào ngờ lới nói trêu ngươi,
Dao lòng người chẳng dự nơi Hội Đồng.
Đám đông như ngọn sóng tràn,
Reo hò, như lớp trùng trùng sóng xô.
Chạy về thuyền rối tơ vò,
Như ong vỡ tổ ra bờ biển xanh.
Mịt mù cát bụi không trung,
Mừng vui, sung sướng chạy nhanh xuống thuyền.
Tiếng reo vọng đến Thiên Đình,
Héra lo ngại sự tình thảm thê : (750)​
Quán Trí (Athéné) hãy cản đường về,
Dùng lời dịu ngọt vỗ về sĩ quân.
Hãy mau trở lại công thành,
Lẽ nào để lại vua Bam (Priam)cuộc cờ.
Cho Phi Tuấn (Pâris) Hạ Lan Đạt Gô (Hélène d’Argos),
Trải bao xương máu cơ đồ chín năm.
Hãy mau nhanh cản bước chân,
Đoàn quân giáp sắt đang toan rút về,
Chiến thuyền hậu cứ gần kề,
Gieo lời kích động hội thề tiến công. (760)​
Quán Trí, mắt cú tinh anh,
Tung mình từ đỉnh Thiên Sơn xuống trần,
Đến ngay trước mặt binh đoàn,
Gặp ngay Uy Lĩnh(Ulysse) trầm ngâm sững sờ .
Bên thuyền đen dọc bến bờ,
Chàng còn đứng lặng, bất ngờ biết sao ?
Quán Trí Tuệ giọng ngọt ngào :​
Uy Lĩnh tài trí nghĩ sao cơ đồ ?
Lên thuyền bỏ cuộc mặc cho,
Quân Troa ngạo nghễ reo hò chiến công ? (770)​
Bỏ Hạ Lan nỗi hận lòng.
Mặc cho xương máu anh hùng chín năm !
Hãy mau ngăn chận đoàn quân,
Xuống thuyền toan bỏ tay không trở về.
Hãy dùng lời ngọt vỗ về,
Ngăn thuyền rời bến toan bề rút quân.
Uy Lĩnh nhận diện Nữ Thần,
Vất Âu Thy Bậc (Eurybate), áo choàng cầm tay,
Vội vàng tìm đến Vua ngay,
An Gia trao trượng cầm thay uy quyền. (780)
An quân tái lập lệnh truyền,
Vỗ về quân sĩ, nội tình hỗn mang.
Cầm tay vương trượng hiên ngang,
Dọc theo bãi vịnh neo bên thuyền đồng.
Gặp từng thủ lĩnh, đại vương,
Dặn dò ban lệnh đoàn quân vào hàng.​
Tướng, Vương ngồi xuống làm gương,
Lệnh đoàn quân xếp lặng yên lệnh truyền.
Chúng ta đã dự hội bàn,
Vua An Trích muốn thử lòng mà thôi. (790)​
Chớ nên lầm lẫn ý lời,
Ý Thần Vương Dớt sáng soi mộng này.
Từng quân đoàn chỉnh tề ngay :
Lặng im quân sĩ, nghe đây lệnh truyền.
Giơ cao vương trượng uy quyền,
Tiến lên về phía quảng trường trung quân.
Bốn bề im bặt bước chân,
Còn nghe từng đợt sóng thầm đi qua.
Như sau bão táp phong ba,
Biển trời lại sáng, bờ xa nắng hồng. (800)
Đoàn quân ngồi lại theo hàng,
Chỉ còn Thạch Đức (Thersite) hãy còn ba hoa,
Nhỏ to bàn bạc vào ra,
Xỏ xiên, phá phách, lời pha tiếng cười.
Xấu trai, mắt lé, bé người,
Lưng còng, đầu nhọn, lời xời râu trê.
Lệnh trên, hắn chẳng thèm nghe,
Lại còn diễu cợt, lè phè mép môi.
Chê An Sinh (Achille) chẳng tiếc lời,
Ghét luôn Uy Lĩnh, nhạo cười kỷ cương. (810)
Nay ngạo An Gia Đại Vương.
Cất lời the thé, trêu gan hỗn hào :​
Vua An Trích, thiếu bao nhiêu ?
Cần bao nhiêu nữa đủ điều thở than ?
Bao nhiêu phẩm vật đồng, vàng.
Bao nhiêu mỹ nữ tấm thân ngọc ngà.
Toàn quân sống chết xông pha,
Dâng bao nhiêu nữa cho vừa lời than.
Tang thương xương máu sống còn,
Phơi thây trăm họ nên công một người. (820)​
Về đi thôi, anh em ơi !
Mặc ai tranh gái, tranh ngôi làm gì !
An Sinh công sức ai bì,
Thế mà cũng bị tước đi lấy phần,
Chúng ta tay trắng hoàn không,
Chiến công xương máu đầy đồng cho ai ?
Đến bên Uy Lĩnh véo tai,
Đập ngay vương trượng trên vai tức thì :​
Thạch Đức, mi hãy im đi,
Ba hoa hãy liệu, giữ mi cái đầu. (830)​
Chớ nên lăng nhục cấp cao,
Vua, tôi tướng sĩ làm sao ngang hàng.
Mi còn ăn nói huênh hoang,
Lần sau ta sẽ lột luôn áo quần,
Đuổi mi ra khỏi đoàn quân,
Đánh cho trăm trượng tội hình nói ngông.
Mi từng gọi tên ta bằng,
Cha Thế Viễn Mạc (Télémaque) ta không nói gì,
Từ nay còn gọi thế thì,
Ta chẳng tha nữa, thẳng tay trị trừng. (840)
Thạch Đức sợ hãi lặng thinh,
Lau dòng nước mắt chảy quanh đôi hàng,
Mọi người bỗng rộ cười lên :​
Tướng quân Uy Lĩnh trị quân đúng thời,
Chớ nên vì chuyện nhỏ nhoi,
Để thằng lếu láo, móc moi sự tình,
Làm cho binh sĩ nãn lòng,
Chẳng còn ý chí tiến công trận tiền.
Tướng Uy Lĩnh đứng oai nghiêm,
Cầm tay vương trượng uy quyền vua ban, (850)
Quán Trí Tuệ đứng kề bên,
Hiện ra dưới dạng sĩ quan cận kề,
Sáng soi mắt cú bốn bề,
Khiến cho quân sĩ vỗ về lặng im.
Uy Lĩnh cất giọng hùng trầm :​
Vua An Trích muốn thử lòng toàn quân,
Cho nên nói ngược rút quân,
Ý là Vua muốn nhục vinh khích lòng.
Nào ngờ quân sĩ tưởng lầm,
Lấy điều nhục nhã, bại vong tức thì. (860)​
Chúng ta chưa thể rút đi,
Ngày chưa phá được Ý Long thành này.
Hiểu lòng quân sĩ hôm nay,
Xa con, xa vợ mong ngày đoàn viên.
Chín năm xông xáo chiến trường,
Trận đồ kết thúc, công thành là đây.
Lòng ta kiên nhẫn lúc này,
Lẽ nào tủi nhục trắng tay về nhà.
Can trường bạn chứng cùng ta,
Tiên tri Cát Sĩ nói là : đúng, sai ? (870)​
Chúng ta chứng kiến điều này,
Nơi thành Âu Lịch (Aulis) những ngày hội binh.
Nơi nguồn suối, bàn thờ thần,
Dưới tàn cây rộng ngô đồng, xuất quân.
Chúng ta cầu khấn các Thần,
Điềm thiêng hiển hiện trên cành cây xanh.
Một con rắn đỏ sậm lưng,
Đớp luôn một lúc cả đàn sẻ con.
Tám con trong tổ kêu vang,
Cả con sẻ mẹ cánh vờn chung quanh. (880)​
Chín con chim sẻ nuốt xong,
Thần đà hóa kiếp, rắn thành đá rơi.
Chúng ta kinh ngạc bồi hồi,
Tiên tri Cát Sĩ bói lời tiên tri :
Chớ nên kinh ngạc điềm này
Dớt đà gửi đến báo ngày vinh quang,
Chín con chim, ấy : chín năm,
Chúng ta sẽ hạ được thành vua Bam.
Kinh đô đường rộng huy hoàng,
Đúng điềm tiên báo công thành hôm nay. (890)​
Chúng ta sẽ thắng trận này,
Năm nay ra sức, ra tay công thành.
Năm thứ mười của thành công,
Chúng ta thắng trận cuối cùng năm nay.
Thần Vương đã báo điềm này,
Chúng ta sẽ thắng từ đây, chiến trường.
Quân Đạt Liên vui reo vang,
Quanh thuyền binh tiếng hô tràn không trung.
Ninh Tô Vương lão hài lòng,
Cất lời cổ võ tinh thần quân binh : (900)​
Ai mà chạy tựa trẻ con,
Chẳng lo âu việc chiến trường binh cơ,
Đâu lời nguyện ước dưới cờ,
Đâu lời thề quyết, bên bờ suối trong.​
Chiến công đánh trận bao năm,
Lời thề ước hẹn, công thành liên quân.
Lời thề bên ngọn lửa hồng,
Rượu thề uống cạn, một lòng đấu tranh,
Dù bao nhiêu nỗi khó khăn,
Dù bao nhiêu nỗi bất đồng cỏn con. (910)​
Hỡi Vua An Trích quân vương,
Giữ lòng dũng cảm, can trường tiến công.
Dớt sai lời chúng ta chăng ?
Không ! Thần Vương chẳng phụ lòng chúng ta.
Một lời hứa xuất quân ra,
Thần Vương sấm chớp sáng lòa biển xanh,
Ý Ngài ban xuống điềm lành,
Căng buồm nhanh lướt con thuyền Đạt Liên.
Quyết gieo tang tóc đảo điên,
Quân Troa chiến bại, lũy đồn tang hoang. (920)​
Lẽ nào trở lại quê hương,
Khi chưa chiếm đoạt nữ nhân Troa thành,
Trả thù mối nhục Hạ Lan (Hélène),
Vì nàng danh dự toàn dân tộc này.
Nhục thù ân oán trả vay,
Lẽ nào ta lại trắng tay trở về.
Điên cuồng, ai trở về quê,
Mặc cho số phận bạn bè nguy nan.
Nghĩ suy, hỡi các tướng quân,
Đã từng bàn bạc Hội Đồng cùng nhau. (930)​
Theo lời sáng suốt đổi trao,
Điều binh khiển tướng, nhanh mau hợp đồng,
Từng bộ tộc, từng đoàn quân,
An Gia thống lĩnh, đấu tranh chiến trường.
Không hèn nhát, chỉ kiên cường,
Hôm nay chỉ có một đường có nhau,
Ý Thần Vương đã truyền trao,
Quân ta sẽ thắng cất cao ngọn cờ.
Ta không hèn nhát bao giờ,
Ta không ngu muội đợi chờ, chiến tranh. (940)
Đứng lên An Gia Đại Vương:​
Cám ơn Vương lão có lòng khuyên răn,
Bầy con bộ tộc An Kinh,
Những lời tâm huyết, quyết tâm chiến trường.
Hỡi Dớt, đấng Phụ vương,
An Long, Quán Trí chứng lòng chúng ta.
Nếu có mười vị như là:
Quân Sư Vương lão Chiến Xa anh hùng,
Chúng ta sẽ chóng hạ thành,
Vua Bam chiến bại, tan tành giáp binh. (950)​
Thao ôi, Trời đã dục lòng,
Cho ta phạm những lỗi lầm đau thương.
Ta cùng tướng quân An Sinh,
Tranh nhau vì chuyện nữ nhân khuê phòng.
Vì ta nóng nẩy bất bình,
Nên ta lấn lướt tranh giành phần hơn.
Nay ta đã biết lỗi lầm,
Sẽ mau xin lỗi với cùng tướng quân.
Giờ đây ta quyết một lòng,
Chẳng còn biếng trễ công thành quân Troa. (960)​
Bây giờ trước mắt ăn no,
Sẵn sàng chuẩn bị phất cờ tiến quân.
Mài thương nhọn, sắc gươm đồng.
Giáp khiên tề chỉnh, đội hình oai nghiêm.
No nê chiến mã nhanh chân,
Chiến xa tu bổ, tên đồng, dây thang.
Mỗi ngày Thần Chiến định phần,
Ngày không một chút nghỉ bàn quân cơ,
Đêm không để một hở sơ,
Lửa lòng chinh chiến, đợi chờ khẩn trương. (970)
Bao mồ hôi đổ chiến trường,
Chiến bào ướt đẩm, ngọn thương chẳng sờn.
Mồ hôi thấm ướt yên cương,
Chiến xa tung gió bụi đường xông pha.
Kẻ nào hèn nhát ở nhà,
Kiếm đường, kiếm cớ chẳng ra chiến trường.
Quẩn quanh ẩn náo bên thuyền,
Luật quân trừng trị, vất thân sói diều.
Hào hùng cất tiếng hô cao,
Tiếng vang như sóng dội vào ghềnh xa. (980)
Gió Nam phong thổi đi qua,
Còn vang vọng tiếng phong ba ầm ầm.
Ro hò giải tán đoàn quân,
Về thuyền hậu cứ, bữa ăn sẵn sàng.
Khói mờ bên trại nhẹ lên,
Lửa hồng cúng tế các Thần phúc ban.
Gửi thân Thần Chiến sa trường,
Khẩn cầu thoát khỏi nguy nan trở về.
An Gia Vương tế sinh bò,
Vừa tròn năm tuổi, lông tơ béo tròn. (990)
Cồ Nốt Thần tử phúc ban,
Giúp cho phần thắng gian nan chiến trường.
Vua cho mời các quân vương,
Đến cùng hiến tế hiệp thương luận bàn.
Ninh Tô Vương lão trước tiên,
Cùng các quý tộc An Kinh hợp đồng.
Vua Anh Đô Mai (Idoménée) can trường,
Và hai An Bắc (Ajax) tướng quân anh hùng.
Tinh Đê (Tydée) Tôn tử kiên cường,
Uy Lĩnh là sáu mưu khôn như thần. (1000)
Mai Ninh Vương (Ménélas) cũng theo chân,
Nỗi tình nung nấu, nỗi lòng anh em,
Bên bò rắc lúa mạch xong,
An Gia cầu Dớt, Thần Vương Thiên Đình:​
Thần Vương ban phúc ban ân,
Thần Vương cao cả vinh quang chiến trường.
Từ ánh sáng đỉnh Thiên Sơn,
Cho tôi chiếm được cung đường Vua Bam.
Lửa cháy trên các cửa thành,
Giáo thương đâm thủng giáp binh kẻ thù. (1010)​
Thủng lồng ngực tướng Hắc Tô,(Hector)
Cùng bao chiến tướng, chiến bào tang hoang.
Thua cơ đại bại chiến trường,
Gục trong bụi đất, hàm răng nuốt bùn.
Cồ Nốt Thần tử Thiên Đình,
Còn chưa chấp nhận lời xin khẩn cầu,
Lễ hiến tế, Thần gật đầu,
Nhưng còn bao nỗi cơ cầu máu xương.
Sau khi rắc lúa mạch xong,
Vật sinh thọc huyết, một dòng máu tuôn. (1020)
Lột da chặt các đùi tròn,
Phủ lên một lớp trắng tinh mỡ chài,
Ruột lòng ghim ướp rượu mùi,
Lửa thần tí tách reo vui củi cành.
Sau khi đùi đốt tế Thần,
Mới cùng xẻ thịt nướng vần lửa than.
Nấu nêm các món thơm ngon,
Mới cùng dạ tiệc rượu nồng mời trao.
Chia phần thịt nướng đều nhau,
No nê rồi mới vài câu luận bàn. (1030)
Ninh Tô Chiến Xa Lão Vương,
Ngỏ cùng Nguyên Soái chiến trường An Kinh:​
An Trích An Gia Đại Vương,
Chúng ta đã họp luận bàn cùng nhau.
Những điều thần ý truyền trao,
Giờ đây nhanh chóng cùng mau công thành.
Mau gọi thị vệ lệnh truyền,
Gọi binh giáp dọc chiến thuyền An Kinh,
Giáo khiên tập họp đội hình,
Dàn quân thẳng hướng vây thành tiến công. (1040)
Nghe lời Vua An Gia Vương,
Lệnh đoàn thị vệ loa tin truyền lời.
An Kinh chiến sĩ tóc dài,
Nhanh chân tụ hợp quanh người chỉ huy.
Các vua thủ lĩnh oai nghi,
Duyệt binh cưỡi ngựa quân đi trùng trùng.
Quán Trí Mắt Cú Nữ Thần,
Cầm khiên huyền nhiệm lẫy lừng chiến tranh,
Trăm tua vàng tỏa ánh hồng,
Mỗi tua vàng đáng giá trăm con bò. (1050)
Cầm khiên vàng nhìn khắp bờ,
Mắt Thần thúc giục quân cơ đội hình.
Tiến lên nhịp trống thúc quân,
Dục tim dũng sĩ, anh hùng xông pha.
Máu say gươm giáo chói lòa,
Say mê trận chiến trường xa chẳng nề.
Chẳng còn nhớ đến tình quê,
Xuống thuyền quay gót trở về quê hương.
Rừng xa ngọn lửa bừng bừng,
Núi cao rực đỏ sáng trưng mây hồng. (1060)
Giáo dài thép lạnh không trung,
Gươm đồng lấp lánh, trùng trùng tiếng vang.
Như muôn cò hạc chiều vàng,
Đất bằng dậy sóng, chim ngàn tung bay.
Đồng Á (Asias) sân Cây (Caystre) đó đây.
Tiếng kêu vang vọng trời mây chập chùng.
Từ chiến thuyền đến trại quân,
Lời vang tiếng vọng khắp đồng Sa Măng (Scamandre).
Đất bằng vang dội bước chân,
Ngựa phi rộn rịp trên đồng hoa lay. (1070)
Trùng trùng như lá rừng cây,
Như hoa xuân nở trắng bay trên đồng.
Như ruồi, ong đến trại xuân,
Sữa tươi đầy vại chờ mong phút này.
Trước quân Troa trận dàn bày,
An Kinh chờ đợi phanh thây quân thù.
Như cừu dê chốn đồng sâu,
Mục đồng chăn dắt từng câu lệnh truyền.
Tướng quân cưỡi ngựa oai hùng,
Binh dàn đội ngũ thẳng hàng theo sau. (1080)
Lệnh truyền, cờ hịch nối nhau,
Oai nghiêm quân tướng bước mau chiến trường.
An Gia Thống Lĩnh Đại quân,
Đầu như Thần Dớt sấm truyền khắp nơi.
Đai như Thần Chiến (Arès) rạng ngời,
Ngực Hải Long (Poséidon) thổi khắp trời bão giông.
Bước đi hùng dũng như thần,
Bước như bò mộng giữa đồng cỏ xanh.
Theo chân bầy thú quây quần,
Chiến trường chờ đợi tiến quân rửa hờn. (1090)​
Chú thích:

Chronos thần tử: con Cồ Nốt tức là Zeus. Zeus con Chronos Ngày xưa Hy Lạp chưa có họ, người ta thường gọi: Ông B, con ông A. Tôi dùng thần tử (con thần) tôn tử cho bậc quyền quý, nương tử cho bậc phu nhân cho đẹp câu thơ thay vì nói con ông, con thần. Nếu gọi tên Ulysse thay vì con Laerte, (tôn tử Laerte), lại gọi là cha Télémaque là hổn hào xấc xược.

Đánh điền dã: Trong khi vây thành Troie, quân Achéens đi đánh các vùng lân cận để lấy lương thực nuôi quân sĩ.

Athéné : Quán Trí Thần Nữ khi ra trận thường cầm chiếc khiên thần bất tử, chẳng gươm giáo trần đâm thủng, làm hư hỏng.

Arès: Thần chiến có thân hình thon. Poséidon có ngực rộng.

Kỳ tới Sử Thi Iliade 3, Thi Ca khúc II. phần I. Điểm binh quân tham chiến.

Paris 20-5-2016
PHẠM TRỌNG CHÁNH
*Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne.​
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại

Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC II. PHẦN 2
QUÂN THAM CHIẾN TRẬN ĐÁNH THÀNH TROIE (1193-1183 trước TL) .

Theo các sử gia, cuộc chiến tranh thành Troie trong 10 năm xảy ra vào năm 1193-1183 trước Tây Lịch. Thành Troie còn gọi là thành Ilion, xưa nằm giữa Hellespont, Phrygie và đảo Lesbos, kinh đô nằm tả ngạn sông Mandérès-Scamandre, chu vi khoảng 12 Km, có thành Bunar-Baschi vòng thành 2km dựng trên mõm đá cao 154m. Nhưng theo Schieman người Đức năm 1871-1890 khai quật di tích lại cho rằng thành Troie nằm trong khu vực Hissarlik tiếng địa phương gọi là cổ thành. Vùng này xưa kia thuộc Hy Lạp, nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ.

Uất hận Hoàng hậu Hélène bị Pâris quyến rũ đem về thành Troie.. Vua Ménélas đến gặp anh Agamemnon, vua Mycènes bàn cách trả thù. Hai anh em bàn với lão vương Nestor kêu gọi hợp binh Hy Lạp, kêu gọi các vị anh hùng đã từng cam kết trong lễ thành hôn Ménélas và Hélène, mọi người thề trước thần Olympe nếu rủi ro có chuyện gì xảy ra làm tan vỡ hạnh phúc Ménélas và Hélène thì mọi người có trách nhiệm liên minh để bảo vệ hạnh phúc đó. Khi điểm binh thì thấy thiếu Ulysse và Achille. Agamemnon bèn cho lão vương Nestor và Palamède đi mời.

Ulysse sau đám cưới Hélène – Ménélas, trở về Ithaque cưới người cháu họ Hélène là Pénélope, sinh cậu con trai là Télémaque, tên có nghĩa là Nhìn Trận Chiến Từ Xa, tôi chuyển ngữ tên thành Thế Viễn Mạc. Ulysse không muốn bỏ vợ dại, con thơ đi đòi vợ cho người khác nên giả điên, đi cày ruộng kéo cày với một con ngựa và một con bò và gieo hạt muối. Palamède biết chàng giả điên, nên ẳm Télémaque đặt trước luống cày. Ulysse đành chịu thua, không có gì thoái thác, nhưng căm hận Palamède. Ulysse đành đem thuyền hội quân. Nhưng còn thiếu Achille, vua Agamemnon phái Ulysse đi tìm người anh hùng. Achille mình đồng, da sắt, chẳng tên đạn nào bắn thủng, nhưng chỉ có gót chân, là nhược điểm tử vong, vì khi còn trẻ bà mẹ nắm hai chân tôi vào nước sông Stich cõi âm phủ, để trở nên mình đồng da sắt, bà quên không tôi chổ gót chân bà cầm. Chàng được dạy dỗ để trở thành dũng sĩ toàn diện, nhưng lớn lên nữ thần Thétis lại tiên tri số mệnh chàng sẽ ngắn ngủi nếu tham gia cuộc chiến thành Troie. Bà đem Achille cải trang thành gái, dấu ở đảo Skyros, sống với công chúa Déidamie, chàng có con trai tên Néoptolème. Ulysse và Diomède tìm đến đảo Skyros giả làm người buôn bán nữ trang, vải vóc và áo giáp, khiên, lao. "Cô gái Achille" không thích nữ trang lại mua áo giáp, lao, khiên nên bị lộ diện, phải lên đường đem đạo binh Mirmidons hợp binh đánh thành Troie.

Quân Hy Lạp hợp binh đi đánh thành Troie gồm 1186 chiến thuyền và hơn 100 000 quân. Homère đã kể tên vùng thủ lãnh, số thuyền, số quân như sau. Họ nói mười ngôn ngữ khác nhau, một lệnh truyền được qua mười miệng phiên dịch. Tôi thiết lập sau đây bản tóm lược các đội binh chiến thuyền tham gia cuộc chiến theo lời thơ Homère. Mỗi chiến thuyền trung bình 120 quân, do đó chúng ta có thể ước lượng số quân tham dự.

Quân đội thành Troie do Hector, con trưởng vua Priam, làm Nguyên Soái. Được sự chi viện bởi quân các thành lân cận, khoảng trên 50000 quân .

Đoạn thơ này, có rất nhiều địa danh Hy Lạp, các bản dịch các nước đều dịch theo ngôn ngữ nước mình. Nền văn hoá La tinh, đã chuyễn ngữ hầu hết các tên Hy Lạp ra La Tinh ví dụ như Zeus thành Jupiter, Aphrodite thành Vénus, Hán Việt dịch thành Vệ Nữ.. Các ngôn ngữ Tây phương đều viết theo tiếng La Tinh. Bản dịch tiếng Pháp, Pháp hóa theo tiếng Pháp, bản dịch tiếng Anh, viết theo ngôn ngữ tiếng Anh, bản dịch Trung Quốc phiên âm thành chữ Hán, bản dịch tiếng Nhật phiên âm theo tiếng Nhật. So lại cùng một địa danh, một tên người mỗi nước đọc khác nhau, người Hy Lạp nghe cũng không hiểu, vì đâu Hélène tên người con gái đọc thành nàng Hy Lạp, nước Hy Lạp, còn chữ Grèce lại không dịch. Do đó tôi mạnh dạn Việt hóa các địa danh Hy Lạp, chọn một tên âm giống gần kề, đơn giản bớt các chữ đa âm còn hai âm, hay gần nghĩa, điều kiện duy nhất là làm đẹp câu thơ. Tôi kèm theo bên cạnh tên đã được phiên âm theo tiếng Pháp, vì chữ Hy Lạp khác vần A, B, C khó đọc được. Trải qua ba ngàn năm phần lớn các địa danh đều thay đổi tên, trừ các nơi danh tiếng được Homère mô tả. Việc truy tầm các địa danh, ít nhà nghiên cứu thực hiện được.
ĐIỂM BINH QUÂN THAM CHIẾN THÀNH TROIE

Hỡi Thi Thần chốn Thiên Sơn, (1091)
Nữ Thần chứng kiến trận tiền liệt oanh.
Biết từng hào khí anh hùng,
Lời thơ dậy sóng chiến trường ngàn năm.
Ai là các tướng Đa Niên,
Sử xanh còn đó họ tên lưu truyền.
Muôn binh đến tự các miền,
Chiến trường ai kể đến tên được nào ?
Từ mười ngôn ngữ khác nhau,
Quân trung mười miệng truyền trao lệnh truyền. (1100)
Tiếng loa sang sảng ngực đồng,
Khắc ghi chín chữ Thi Thần Thiên Sơn.
Ái Nữ Thần Dớt mang khiên,
Dục về trận chiến, chiến trường Ý Long.
Ai chủ tướng, Vua các miền ?
Tên anh hùng đó bao thuyền hội quân.
Chỉ huy đoàn quân Bảo Liên (Béotiens),
Bế Niên, Lỗ Tố và cùng quân cơ.(Pénéléos,Löitos)
Đạt Lê, Bồ Tố , Cổ Nơ, (Archésilas, Prothoénor, Clonios)
Chỉ huy binh đội mang cờ Hy A (Hyria). (1110)
Âu Ly núi thạch sơn hà,(Aulys)
Sô Nông, Cổ Tố cùng ra chiến trường.(Schoinos, Scôlos)
Âu Tôn, Thế Phi, núi non,(Etéone, Thespie)
Và Mỹ Ca Lệ vùng đồng đông dân.(Mycalèse)
Hạc, Y, Ê châu chung quanh,(Harma, Ilèse, Erythra)
Anh Long, Hy Lệ, Bế Tôn kề gần.( Eéon, Hylé, Bétéon)
Ô Ca, Mê Độ kinh thành, (Ocalée, Médéon),
Cô Bát, Âu, Thích xứ vùng bồ câu. (Copas, Eutrésis, Thisbé)
Cô Rô, An Lạc xanh màu (Coronée, Aliarte),
Pha Tôn, cai trị dân cư mạnh giàu (Platée). (1120)
Hy Bô thành vững hào sâu (Hypothèbes)
Ly Sát cư ngụ nối nhau trị vì. (Glisas)
Anh Tố thánh nữ đức tài, (Onchestos)
Hải Long xinh đẹp, rừng dài thông xanh.(Poséidon)
Hạc Na nho trái đầy đồng (Arna)
Mi, Ni, An Thế giáp vùng biên cương (Midée, Nisa, Anthédon))
Hội quân năm chục thuyền đen.
Một trăm hai chục thanh niên mỗi thuyền.
Đến quân dân Đạt Pha Long (Asplédon);
Ốc Cô Mai với dân thành Minh Nguyên (Orchomène, Minyens ) (1130)
Đạt Ca La Phổ tướng quân (Ascalaphos)
Ý An Mê Nộ anh hùng tướng quân,(Ialménos)
Con trai Thần Chiến và cùng,
Anh Thy công chúa tiết trinh đợi chờ. (Astyosché)
An Đê tôn tử, Ất Tơ,(Azée, Actor),
Lầu cao thêu gấm hững hờ sắc duyên.
Nào ngờ Thần Chiến đến bên,
Tay hùm cưỡng bức cho nàng hoài thai.
Sinh con dũng tướng cõi người,
Hợp quân mang đến ba mươi chiến thuyền. (1140)

Đến đoàn quân dân Phổ Liên,(Phocéens)
Chế Đô thống lĩnh đội quân kiên cường (Schédios)
Và tướng Âu Bích anh hùng (Epistrophos)
Anh Phi Tô công tử vốn dòng Nam Bô, (Iphitos, Naubolos)
Chi Ba Sĩ Tố cơ đồ, (Cyparissos)
Phi Thông núi đá bên bờ Kim Sa, (Python, Crisa),
Đô Ly, Ba Lộ sơn hà, (Daulis, Panopée)
Đạt Ninh, Hy Phạm cùng ra chiến trường. (Arnémorie, Hyampolis)
Chân Phi bờ biển cát vàng (Céphise),
Ly Lê hùng cứ suối nguồn ấm no.(Lilée) (1150)
Bốn mươi thuyền chiến binh cơ,
Giáp binh, chiến tướng bên bờ tả quân.
Bồ Liên gươm giáo trùng trùng,(Boétiens)
Nhịp quân vang bước oai hùng trang nghiêm.

Đến đoàn binh quân Lỗ Liên,(Lociens)
An Bắc thống lĩnh binh đoàn gọn nhanh (Ajax)
Ô Lê tôn tử bé con (Oilée)
Trùng tên An Bắc vai hùm lớn cao,
Thế La tôn tử khác nhau (Télamon)
Giáp mềm nhưng vác ngọn sào trường thương. (1160)
Vượt xa tướng sĩ An Kinh,
Quân dân cư ngụ nơi vùng Sĩ Nô (Cynos).
Ô Bông, Can Lý A Rô (Oponte, Calliaros)
Bắc Sa , Cát Phổ và hồ Âu Lê.(Besse, Scarphé, Augée)
Tà Phê, Thổ Nốt, Bồ Khê (Tarphé, Thronios, Boagre),
Bốn mươi thuyền chiến cùng về hội quân.
Dưới quyền An Bắc anh hùng,
Quân Lô Liên hội quân thuyền tiến công. (Lociens).

Vùng Âu Bể, dân An Băng (Eubée, Abantes)
Lên đường hồ hỡi, công thành quân Troa. (1170)
Thanh Chi, Âu, Ích đồng nho,(Chalcis, Érétrie, Istia)
Di Ông (Dion) cao ngất thành đô kiên cường,
Kê Thanh bờ biển cát vàng, (Cérinthe)
Ca Thi (Carystos) hùng cứ, dân vùng Ty Ra (Styra,
Âu Công (Éléphénor) cai trị sơn hà,
Cháu dòng Thần Chiến (Arès) con nhà San Đông (Chalcosdon).
Thủ lĩnh hào hiệp An Băng,(Abantes)
Tóc dài phủ gáy, nhanh chân chiến trường.
Ngọn thương sắc bén kiên cường.
Đâm lồng ngực giặc, giáp đồng thủng xuyên. (1180)
Hội quân bốn mươi thuyền đen.
Đoàn quân thiện chiến khắp miền lừng danh.

Đến đoàn quân Quán Trí Thành (Athènes),
Kinh thành vững chải, trấn vùng Rạch Thê (Erechthée).
Trái tim rộng đón nữ khuê,
Ái nữ Thần Dớt sinh về nơi đây.
Đền cao hùng tráng dựng xây,
Bò cừu tế lễ, năm ngày hội vui.
Phi Tô, Mai Thiết tướng tài (Pétéos, Ménesthée) tướng tài,
Khắp trong thiên hạ, sánh binh hùng. (1190)
Kỵ binh, khiên giáp, thương đồng,
Ninh Tô Vương lão(Nestor) sánh đồng sức ngang.
Tuổi cao từng trải chiến trường,
Binh năm mươi chiếc thuyền đen về cùng .
Đóng cùng Trí Thành binh đoàn (Athènes).
Sa La Minh tôn tử anh hùng lừng danh.(Ajax Salamine)
Dẫn theo mười hai chiến thuyền,
Về đây chung sức góp quân công thành.
Đạt Quốc vùng đất đồng bằng (Argos).
Ty Thanh kiên cố lũy thành ngất cao.(Tirynthe) (1200)
Hạc Môn, An Sĩ kề nhau (Hermione, Asiné),
Chế ngự biển cả, vịnh sâu thương thuyền.
Tri Đô, Phi Đỗ, Âu Ôn (Trézène Épidaure, Eiones)
Âu Linh, Mã Sách với đồng nho xanh. (Egine,Masès)
Những chàng trai trẻ An Kinh,
Đỗ Minh (Diomède) thống lĩnh lừng danh trận tiền.
Tiếng hô sang sảng vang rền,
Thế Lộc phó tướng, anh hùng Kha Ba.(Sthénélos, Capanée).
Âu Dương là tướng thứ ba (Euryale)
Mai Chi tôn tử là vua hùng cường. (Mécisthée) (1210)
Tả Lộc con cháu giống dòng, (Talaeos)
Lừng danh sức mạnh như thần hiên ngang.
Dưới trướng Đỗ Minh anh hùng (Diomède)
Tám mươi thuyền chiến đen đồng giáp binh.
Đến My Liên giàu bạc vàng, (Mycènes)
Cô Thanh, Kê Ốc kinh thành nguy nga. (Corinthe, Cléones)
Cùng dân cư Ốc Nê A, (Orneia)
Ái Thy đáng mến cùng là Sĩ Côn, (Araithyrè, Sicyone)
An Đắc cát cứ một vùng (Adraste)
Hy Bê Kê Sĩ và đồng Cô Khê (Hypérésie, Gonoesse) (1220)
Băng Lê, An Lộc cùng về (Pellénè, Aegialos)
Đồng bằng Hy Lý thuyền bè hùng binh,
Đông quân nhất trăm chiến thuyền,
Chỉ huy An Trích Đại Vương anh hùng (Atride Agamemnon),
Uy nghi giáp phục, trượng thần,
Chỉ huy toàn thể anh hùng An Kinh,
Anh vua Mai Ninh hùng anh (Ménélas),
Vì em đốc xuất tinh binh chiến thuyền.

Dến quân La Thế Đệ Môn, (Lacédémone)
Pha Ly, Xích Bạc đầy đồng bồ câu (Phraris, Sparte) (1230)
Bi Lê, Âu Khê ngụ cư, (Brysée, Augéia)
An My, Ân Lộc trấn từ La Nga (Amyclas, Eloa, Laas)
Quang vùng Ốc Ty quê nhà (Oetylos),
Vua Mai Ninh Lộc xông pha chiến trường, (Ménélas)
Em ruột An Gia Đại Vương,
Sáu mươi thuyền chiến hùng cường giáp binh.
Anh hùng nung nấu nỗi tình,
Mất Hạ Lan nỗi hận lòng không quên.(Hélène)

Đến Phi Lô xứ hùng cường,(Pylos)
An Liên, Thy Ốc và vùng An Khuê (Arènè, Thryon, Alphée) (1240)
An Phi thành vững gần kề, (Aepy)
Chi Ba, Am Phí cùng về Phi Long (Cyparissè, Amphigénia, Ptéléon)
Âu Lộc và thành Đô Long (Elos, Dorion)
Nơi Thi thần cất tiếng lòng ca thanh,
Vua Ninh Tô, Chiến Xa Công, (Nestor),
Chín mươi thuyền chiến hùng cường vạn quân.

Đền Đạt Ca Ly hùng binh (Arcadie),
Dưới Chi Liên, mộ anh hùng Phi Tô (Cyllène, Aepytos),
Nổi danh cận chiến hạ cờ,
Ốc Cô, Phê Ốc cừu bò đồng xanh,(Ochomènê, Phénéos). (1250)
Chi Bê, Sa, Tế đồng bằng (Shipé, Stratì, Epipè),
Tê Gê, Mân Tị trấn vùng Phú Lô, (Tégée, Mantinée, Stymphélos)
Dân cư Phan Cát ấm no,(Parrhasiè)
Tôn tử An Ca lộc, An Gia Phê Nô anh hùng (Ankannéos, Agapénor)
Sáu mươi thuyền chiến chở quân,
An Gia Vương tặng chiến thuyền quân trang.(Agamemnon)
Hùng binh đông đảo mỗi thuyền,
Quân vương An Trích lo phần chở chuyên (Atride),
Đưa qua biển sóng rượu vang,
Vì quân miền núi, biển ngàn không quen. (1260)

Đến đoàn quân Bồ Phá Sơn (Bouprason)
Vùng Âu Lịch đến kinh thành Nguyệt Sơn (Elide, Myrsine)
Hy Minh thành phố biên cương, (Hyrmine)
Ô Lê núi đá An Sơn địa đầu (Olénie, Alésion).
Mỗi binh đoàn mười chiến thuyền,
Bốn binh đoàn chỡ qua miền Âu Biên. (Épéens)
Âm Phi, Thái Bắc tướng quân, (Amphimachos, Thapios)
Tôn tử Tề Lộc anh hùng lừng danh (Ctéatos).
Hạc Tô con cháu giống dòng (Actor),
Tôn Tử An Mã tiếng danh lưu truyền (Amarynkée). (1270)
Tướng quân Đô Thiết anh hùng,(Diorès )
Bồ Sâm thống lĩnh binh đoàn thứ tư (Polyxène)
Âu Giác dòng dõi anh thư, (Augias)
Con vua Gia Thế đẹp như thiên thần. (Agathénès)

Đến quân Âu Tần, Đông Chân, (Échines-Doulichion),
Đối mặt Âu Lịch hai hòn đảo thiêng, (Elide)
Mai Giác thống lĩnh chiến thuyền, (Mégès)
Phi Lê tôn tử sức thần ngợi ca. (Phylée)
Dòng Thần Vương giỏi chiến xa,
Bốn mươi thuyền chiến xông pha chiến trường. (1280)

Uy Lĩnh tướng Chế Phan Niên, (Ulysse,Céphalléniens)
Vua quân An Thạch núi miền đảo xanh. (Ithaque)
Núi Nễ Sơn vẫy lá cành, (Nériton)
Tiễn quân Cổ, Lý hùng anh lên đường (Crocylée, Aegilip).
Dã Thanh, Sa Mô đảo cồn,
Và vùng lục địa đồng xanh kề gần.
Đội quân mười hai chiến thuyền,
Uy Lĩnh thống lĩnh oai nghiêm như thần.
Thọ Kha chủ quân Tố Liên (Thoas, Etoliens),
An Đại tôn tử dân vùng Lệ Sơn (Andraimon, Pleuron). (1290)
Phi Liên, Thanh Lý, Lệ Môn (Pykène, Chalis, Olénon),
Vùng dọc bờ biển và hòn Ly Đông,(Calydon)
Ô Vương Mai Lạc từ trần,(Oenée, Méléagre),
Không con trai để nối dòng lên ngôi.
Thọ Kha dũng tướng anh tài, (Thoas),
Triều đình đề cử lên thay trị vì.
Âu Liên vương quốc quyền uy,
Bốn mươi thuyền chiến quân đi biển ngàn.

Đến Kiết Toa, Anh Đô Mai Vương, (Crétoie, Idoménée)
Trường thương danh tiếng, chiến trường dọc ngang. (1300)
Cổ Sơn, Quốc Tinh hùng cường (Cnossos, Gortyne),
Thành cao hào lũy, phố phường phồn vinh,
Lý Tô, Mỹ Lệ kinh thành, (Lyctos, Milet),
Ly Ca, Pha, Ry dân lành thảnh thơi. ( 5Lycastos, Phaestos, Rytion)
Xứ Kiết trăm phố thành vui, (Crète)
Mê Long phó tướng sánh vai anh hùng.(Mérion)
Như Ân Lộc tiếng lẫy lừng, (Enyalos),
Tám mươi thuyền chiến ra quân vây thành.

Thế Bồ, Hùng Kiệt giống dòng (Tlépolème, Héraclès),
Lớn cao gan dạ chiến trường xuất chinh. (1310)
Đảo Rốt đem chín chiến thuyền,
Chia ba phó tướng quân cùng chỉ huy.
Linh Đô, Du Lộc, Ca My (Lindos, Iésulos, Camire),
Sức thần Hùng Kiệt uy nghi anh hùng (Héraclès).
Lớn trong cung điện vững bền,
Đóng thuyền hùng cứ một vùng biển khơi.
Rồi chiêu binh mã tranh ngôi.
Giết ông cậu nắm cơ ngơi triều đình.
Lý Xiêm già yếu bại vong,(Lycymmios).
Các con cháu chẳng đảm đương binh quyền. (1320)
Trị ba bộ tộc hùng cường,
Nước giàu hùng mạnh Thần Vương trị vì.
Ni Vương Sĩ Mê chỉ huy,(Nirée de Symè)
Ba chiếc thuyền chiến đi ra chiến trường.
An Lạc, Sa Lộc Quốc vương,(Aglaé Chrops)
Đẹp trai sánh các anh hùng Đa Niên,
Ni Vương cao đẹp phi thường
Thân trai diện mạo chỉ nhường An Sinh .(Achille).
Nhưng tài lực chẳng sao bằng,
Không đông quân sĩ đủ trong ba thuyền. (1330)

Ni Sơn hùng cứ một phương,(Nisyros)
Ca Bát, Cô Ốc và thành Âu Binh (Crapathos, Casos, Côs, Eurypyle).
Hải đảo Ca Linh về cùng (Calynes)
Phi Đinh, An Phổ hào hùng chỉ huy.(Phìdippos, Antiphos).
Con vua Thiết Sa anh tài,(Thessalos),
Dòng Hùng Anh Kiệt, ba mươi chiến thuyền. (Héraclès).

Đến đoàn quân Nguyệt My Đông, (Myrmidons)
Đạt Quốc Phê Lạc, một vùng đông dân.(Argos des Pélasges)
An Lộ, Thạc Chi góp quân,(Alos,Trachis)
Phy Thi, Huệ Lạp giai nhân danh truyền.(Phthie, Hellede) (1340)
Nguyệt My Đông, Hy Lạp, An Kinh,(Myrmidons,Hellènes, Achéens)
Về năm mươi chiếc thuyền đen lẫy lừng.
An Sinh dũng tướng như thần (Achille)
Nhưng nay vắng mặt công thành tiến công.
Chẳng ai ra lệnh đoàn quân,
An Sinh Phi Túc bất bình chẳng đi.
Vì nàng Băng Tuyết tóc mây. (Briséis)
An Sinh mõi mệt sau ngày chiến công.
Lý Bách,Thiết Bệ hạ thành.(Lyrbessos, Thèbes).
Giết vua Mai Nễ các trang anh hùng (Mynès) (1350)
Con vua Âu Vệ vốn dòng (Evénos).
Sơn Lê Bi Ất chết trong trận này.(Sélépios)
Nàng Băng Tuyết bị cướp đi,
An Sinh hờn giận từ rày gác gươm.
Án binh bất động chẳng màng,
Rồi đây trở lại chiến trường xông pha.

Đến Phy La Khuê đồng hoa (Phylakès)
Đê Mê Thần nữ bốn mùa ấm no. (Déméter).
Ý Tôn thần mẹ cừu bò, (Itone),
Tề Lộc cỏ rậm bên bờ An Thông. (Ptelos, Antron) (1360)
Nơi vua Phổ Lạc anh hùng (Protésilas),
Người đầu tiên chết chiến trường thành Troa.
Đoạn trường thay để lại nhà,
Vợ hiền má đẩm lệ nhòa đau thương.
Hợp hôn, hạnh phúc chưa tròn,
Lầu trang xây dỡ vẫn còn ngỗn ngang.
Người An Kinh chết đầu tiên,
Bước chân nhảy trước khỏi thuyên viễn chinh.
Tiếc thương chủ tướng kiên cường,
Phổ Đạt phó tướng nối quyền chỉ huy. (Podărkès) (1370)
Anh Phi tôn tử oai nghi, (Iphilès)
Dòng dõi Phi Lạc, bò đầy đồng xanh (Phylascos).
Là em Phổ Lạc thay anh (Protésilas),
Ch huy bốn chục thuyền đen anh hùng.
Đến dân Phê Thác ra quân (Phéras),
Vùng hồ Bô Bể lũy thành dựng xây. (Boébé)
Gia Phi, Anh Các lâu đài. (Glaphyras, Iaokos),
Đội quân thiện chiến mười hai chiến thuyền.
Âu Mê Lộc thống lĩnh quân, (Eumèlos),
Con cưng Anh Mạc, mối tình cưỡng hôn. (Admède) (1380)
Cùng nàng Anh Tuyết đẹp xinh,(Alceste)
Con vua Phê Lạc, giai nhân sắc tài. (Pélias).

Đến quân Mê Thông, Thâu Ky, (Méthone, Thaumakie)
Ô Đông, Mê Lý ngất trời núi cao. (Olizon, Mélibée)
Phi Lộc cung nỏ lược thao, (Philoctète)
Bảy chiến thuyền chiến, nhanh mau trận tiền,
Năm mươi chèo lái mỗi thuyền,
Đội quân thiện chiến sở trường nỏ cung.
Chẳng may số phận đã dành,
Lâm Môn rắn cắn chẳng lành nọc sưng (Lemnos). (1390
Vết thương nhức nhối hôi tanh,
Đảo hoang bỏ lại, một mình oán than,
Nhưng rồi sẽ chẳng bao năm,
An Kinh cần đến nỏ cung sở trường,
Lại sai thuyền đến đảo hoang,
Rước Phi Lộc để xuất quân công thành.
Người người thương tiếc phận dành
Mê Đông phó tướng quyền hành điều quân. (Médon)
Con vua Ôn Lộc tiếng dâm,(Oilée)
Thể Nương ngang trái cưu mang anh hùng (Rhénè). (1400)

Đến quân Tri Khê, Thổ Minh,(Trikkè, Ithomen)
Âu Chi, Ốc Trạch kinh thành nguy nga. (Eurytos, Oechalié)
Hai con Ất Thước tài ba, (Asclépios),
Danh y, thuốc thánh xông pha cứu đời.
Bồ Đà, Mã Thước anh tài, (Podalire, Machaon)
Chỉ huy ba chục thuyền dài buồm đen.

Đến quân Ốc Mê Ni Công.(Orménion)
Nguồn sông Hỷ thủy, trấn thành Ất Cô.
Quanh vùng núi tuyết Tinh Nô (Titanos)
Âu Chi dũng tướng, cơ đồ vinh quang.(Eurypile) (1410)
Con vua Âu Mông anh hùng,(Evaimon)
Chỉ huy bốn chục thuyền buồm tinh binh.

Đến quân Đạt Sa, Triết Tôn, (Argissa, Gyrtone)
Ốc Thê An Lộc đô thành Ô Long. (Orthé, Elonè, Olơsson)
Phổ Ly thống lĩnh binh đoàn,(Polypoetès)
Bạch Thước công tử sức thần vô biên. (Peirith os),
Mẹ, nàng Hải Mi giai nhân, (Hippodamie)
Nổi danh đánh thắng, diệt đoàn nhân ngưu.
Quét Phê Long bóng giặc thù, (Pélon)
Quê hương Án Thạch, thiên thu thái bình. (Aethice). (1420)
Lê Thư phó tướng lừng danh, (Léonteus)
Cô Long công tử giống dòng Ca Nê. (Coronos, Caenée)
Bốn mươi thuyền chiến hội về,
Cháu con thần chiến giỏi nghề binh cơ.

Đến quân Nhược Thủy Kỳ Phô (Gouneus de Kyphos),
Hai mươi thuyền chiến hải hồ hợp quân.
Ân Phượng can đảm anh hùng (Eniènes)
Phi Bích dũng tướng trấn vùng Đô Đông. ((Péraebes, Dodone)
Bốn mùa khí hậu khô cằn,
Tỳ Ta thung lũng cây trồng tốt tươi. (Titarésios)
Phê thủy sông tựa dầu trôi, (Pénée)
Khởi nguồn sông Tích, sục sôi thác ngàn. (Styx). (1430)

Man Nhất, Bồ Thiết tướng quân, (Magnètes, Prothoos)
Thế Đông tôn tử trấn vùng Phê Nê. (Pénée)
Bê Long rừng lá sơn khê,(Pélion)
Bốn mươi thuyền chiến cùng về hợp binh.

Bao nhiêu dũng tướng Đa Niên,
Thi Thần hãy kể: anh hùng là ai ?
Chiến trường qui tụ anh tài,
Chiến trường chật đất, vang trời tiếng hô,
Anh em An Trích dưới cờ, (Atrides)
Ai người tráng sĩ, binh cơ lẫy lừng ? (1440)

Anh em Phê Thiết tài danh, (Phérès)
Âu Mai phù hộ sức nhanh đại bàng. (Eumélos)
Lưng dài đồng tuổi, đồng cân,
Thần cây cung bạc An Long dạy truyền. (Apollon)
Bế Chi tập đôi song sinh,(Piérie)
Học nghề chinh chiến, nỏ cung lẫy lừng.
An Bắc, tôn tử Thế La Môn,(Ajax, Télamon).
Nổi danh từ buổi An Sinh giận hờn (Achille)
So Bê Lê tôn tử kém hơn,(Pélée)
Chiến công vang dậy, công đồn cướp lương. (1450)
An Sinh về hậu cứ thuyền,
Giận An Gia chẳng đánh thành điều binh.
Bên bờ cát biển xa thành,
Quân binh giải trí: bắn tên, ném sào.
Ngựa buồn gậm cỏ bên hào,
Chiến xa bất động ra vào quạnh hiu.
Nỗi buồn Thần Chiến chẳng reo,
Án binh bất động dõi theo chiến trường.

Đa Niên vây hãm quanh thành,
Tiến quân như ngọn lửa hồng bừng mau. (1460)
Khắp vùng đất nổi binh đao,
Xóm làng rên siết, thương đau ngập tràn
Sấm Thần Vương sáng ầm vang
Quanh Ty Phê tựa như miền An Liêm (Typhée, Arimes)
Sứ Thần Y Bích truyền tin, (Iris)
Cho Troa Liên những lệnh truyền Thần Vương.
Những tin khốn khó khôn lường,
Dân Troa Liên hợp quân trung Hội Đồng.
Trẻ già tụ hội sảnh đường,
Vua Bam ngự trị ngai vàng trầm ngâm. (Priam) (1470)
Sứ Thần Y Bích dừng chân,
Cất lên gịong nói như chàng Bồ Thê (Politès)
Hiếu hoà hoàng tử chẳng về,
Từ trên đỉnh mộ Ất Khê vọng vời; (Aesyétès).
Y Bích cất tiếng truyền lời:
"Lão Vương, Ngài chẳng nghe người quyết tâm,
Nói lời ngay thẳng hòa bình,
Cho nên chiến cuộc vẫn còn tang thương.
Ta từng dự các chiến trường,
Ta chưa từng thấy đông hơn trận này. (1480)​
Người đông như lá rừng cây,
Kín bờ cát trắng, tràn đầy đồng xanh.
Giáp binh đang tiến về thành,
Hắc Tô dũng tướng nghe chăng lời truyền.
Kinh thành rộng lớn vua Bam,
Hãy cùng bao đội hùng binh kết đoàn.
Bao nhiêu tiếng nói khác miền,
Bao nhiêu dân tộc chiến trường hợp binh.
Tướng tài thống lĩnh các quân,
Sẵn sàng đội ngũ giao tranh chiến trường. (1490)
Hắc Tô nhận biết Nữ thần,
Đứng lên ra khỏi Hội Đồng đốc quân,
Ngựa phi qua các cổng thành,
Cửa thành rộng mở trùng trùng quân ra.
Kỵ binh, quân giáp, chiến xa,
Đoàn binh ồ ạt, chói loà gươm lao.
Từ trên đỉnh tháp thành cao,
Quân đi như sóng lao xao trùng trùng.
Ba Tiên gửi đến viện binh, (Batìée)
Từ My Na đến kinh thành vua Troa (Myrina). (1500)
Quân binh đội ngũ chỉnh tề,
Quân cơ, quân viện cùng về đồng minh.
Hắc Tô, Nguyên Soái chiến trường,
Con Vua Bam đội mũ đồng sáng choang.
Quân Troa đông đảo nhất vùng,
Đoàn quân thiện chiến sở trường phóng thương.

An Lê thống lĩnh Đạt Đa Niên (Énée, Dardaniens)
An Chi công tử giáp binh can trường. (Anchise)
An Chi hội ngộ Nữ Thần,
Đồi Y Đa, Vệ Nữ sinh ra chàng(Ida, Aphrodite). (1510)
Chỉ huy cùng hai tướng quân,
An Mạc, Đạt Chí con dòng An Nô.(Acamas, Archélochos, Anténor)
Giỏi nghề cung kiếm trận đồ,
Điều binh khiển tướng phất cờ binh xa.

Đến đoàn quân Dương Lê A (Zéleia)
Dân giàu cách núi Y Đa ngang tầm.
Hắc giang Bái Thủy uống cùng ,(Apaisos)
Chỉ huy Băng Đa Thiết anh hùng lừng danh. (Pandaros)
Ly Ca Ông công tử xảo tinh, (Lycaon)
Giỏi nghề cung nỏ An Long dạy truyền (Apollon). (1520)

Đến Anh Đài quân anh hùng, (Adrestée)
Tổng Sông Bái Thủy trấn vùng Phi A (Apaisos, Pityeia).
Núi Thế Lĩnh dựng mây xa (Téreiè)
Anh Đài, Am Phí tài ba lẫy lừng; (Adrestos, Amphios)
Con Mê Công Phù Cơ tiên sinh (Mérops de Percotè),
Giỏi nghề s-ám độn, điềm lành tiên tri.
Lòng đà chẳng muốn con đi,
Chiến trường xương máu, sầu bi phận người.
Nhưng không thể được phụ lời,
Mệnh thần xua đẩy kiếp người tang thương. (1530)

Đến Bạt Cô Thế quân đoàn, (Perkitè)
Sông Phát, Sắc Tố và miền Bi Đô. (Practios, Sestos, Abydos)
Nàng An Chi Bích thần cô,(Arisbès)
Cùng An Lộc lãnh binh cơ chiến trường. (Asios)
Công tử Hiệt Tá lừng danh, (Hyrtacos)
An Phi mang đến ngựa hoang luyện thuần,(Arisbès)
Ngựa to lớn chạy dậm trường,
Bờ Xuyên Lai rộng cỏ đồng hoang vu.(Selleis)

Hải Bồ dẫn quân Phê Lâu, (Hippothoos, Pélasges)
Lao dài danh tiếng, đất màu La Sa. (Larissa) (1540)
Phi La phó tướng cùng cha, (Pylaeos)
Phê La Lê Thọ dòng nhà Tiểu My. (Pélasges Lethos, Teutamis)
Anh hùng Phi Lộc trị vì, (Piroos)
Thạch Các, Ca Mạc quanh đây hợp đoàn.(Thraces Acamas)
Quân Hoan Lạc Cầu anh hùng,(Hellespont)
Bên thành Troa đứng kiên cường trời đông.

Âu Phê dẫn quân Si Công,(Euphémos, Cicones)
Thương dài, sắt nhọn tiếng danh binh đoàn.
Công tử Toa Đê lưu truyền,(Troïzénos),
Cháu con Thần Dớt giống dòng Kê An. (Kéas) (1550)

Phi Lai dẫn quân Ô Niên, (Pyraichmès, Péoniens)
Nỏ cong thiện chiến từ miền xa xôi.
An My, An Xốt sông dài, (Amydon, Axios)
Một dòng sông đẹp xanh tươi đất lành.
Phi Lạc dẫn quân Ban Niên. (Pylaiménès, Paphlagoniens)
Ngực trần lông rậm từ miền Âu La,(Enètes)
Thảo nguyên gốc tích bầy la,
Dân Ky Tô Rốt đồng nhà Sê Dam.
Sông Bạt Thê Nốt xanh xanh,
Những ngôi nhà đẹp nhất vùng bình nguyên. (1560)
Chôm Na, Ai Lộc đồng bằng, (Cromna,Aigialos)
Âu Chi Thinh chốn cao nguyên núi rừng. (Erythines)
Ô Đốc, Âu Bích dẫn quân, (Odios, Epistrophos)
Hải Lý Đông đến từ vùng xa xôi.(Halizones)
Ly Bê mỏ bạc khẩn khai,(Alybè)
Xứ giàu quặng mỏ, tiền tài giao thương.

Cồ My, An Mộc, My Liên, (Chromis, Ennomos, Mysiens)
Điềm chim báo trước mệnh đen tiêu tàn.
Đường lao An Ất giống dòng,
Chết trên sông bạc, trôi cùng Troa Liên. (1570)

Phù Nghi dẫn quân Phi Liên, (Phorcys, Phrygiens)
Án Ca phó tướng uy nghiêm như thần. (Ascagne)
Từ Án Ca Ni xa xăm, (Ascanie)
Lửa hồng thiêu đốt, chiến tranh lan tràn.

Minh Lộc , An Phố quân Mê Niên, (Mesthlès, Antiphos, Méoniens)
Hai trai Tà Lạc sinh vùng Diên Lê.(Talaiménès, Gygée)
Đem đoàn quân Mê Niên về,
Chân núi Tô Lộc chốn quê sinh thành. (Tmolos)

Na Thế dẫn quân Ca Niên, (Nastès, Cariens)
Giọng hồ man rợ trấn miền My Lê. (Milet) (1580)
Phi Đông núi rậm sơn khê, (Phthririon)
My Ca dốc thẳm, chảy về Mai An. (Mycale, Méandre)
Âm Phi, Na Lộc dẫn quân, (Amphimachos, Nastès)
Ngô My sinh trưởng hai con anh hùng. (Nomio)
Âm Phi diêm dúa vòng vàng,
Như điên rồ những phục trang đàn bà,
Sẽ không thoát kiếp tiêu ma,
Ngọn lao Âu Ất máu hòa dòng sông, (Eaque)
An Sinh cướp lấy phục trang,
Vòng vàng quý báu, chiến công anh hùng. (1590)

Thạc Đông dẫn quân Ly Siên,(Sarpédon, Lyciens)
Cao Cốt phó tướng từ miền Ly Si. (Glaucos, Lycie)
Vẹn toàn tài đức ra đi,
Sông Xuyên Thủy nước cuộn sôi bạt ngàn. (Xanthe)
Kỳ tới Thi Ca Khúc III
Hội Thề. Từ trên thành Troie nhìn xuống trận địa. Pâris, Ménélas đấu nhau.​

Chú thích :

Béotiens (Bảo Liên) ở phía Bắc Corinthe, giữa vịnh Corinthe và eo biển Eubée.
Chín chữ Thi Thần : Chín nàng Muses, chốn Olympe..
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại

Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC III
HỘI THỀ * TỪ THÀNH TROIE NHÌN XUỐNG TRẬN ĐIA *
PÂRIS, MÉNÉLAS ĐẤU NHAU

Hai bên dàn quân, Pâris (Alexandre) ra trận nhưng lại chùng bước trước Ménélas lùi mau về hàng. Hector mắng em, hèn nhát, Pâris ra điều kiện song đấu: Nếu Ménélas thắng sẽ mang Hélène về cùng vàng bạc, vua Priam bồi thường chiến tranh. Pâris thắng Hy Lạp sẽ rút quân. Được nữ thần Iris báo tin, Hélène rời phòng khuê đi ra cổng Scée. Hélène đứng từ thanh cao nhìn xuống cùng triều đình Troie, vua Priam hỏi Hélène từng tên tướng lĩnh Hy Lạp vua Agamemnon, Ménélas, Ulysse, Ajax.. Hai bên tế lễ thề, vua Priam và vua Agamemmnon chủ tế, tế một con cừu trắng và một con cừu đen, đọc lời thề nguyền, bên nào thắng sẽ mang Hélène về . Hai bên rút thăm, Pâris phóng lao trước, Ménélas dùng khiên đỡ, thanh lao mũi cong bị chặn ngang rơi trước khiên đồng. Ménélas phong lao trúng khiên Pâris, xuyên thân giáp đồng rách chiếc áo mặc bên trong, nhưng may Pâris gập mình, nên thoát chết trong tơ tóc. Ménélas nhảy đến rút gươm chém đầu, chiếc gươm trúng đỉnh mũ cao, gãy ra ba bốn mảnh, nhưng Pâris không sao. Ménélas xông vào nắm mũ đồng kéo núm chòm lông ngựa phía sau kéo dài, kéo lôi về phía quân Achéens, Pâris ngã xuống, mũ quai da bò dưới cổ làm ngạt thở phì phò, nhưng Thần nữ Aphrodite can thiệp giải cứu làm bựt đứt chiếc quai. Ménélas kéo chơi vơi chao mình, vất mũ cho quân sĩ, chàng nắm được chiếc lao đồng toan kết liễu đời Pâris, nhưng Vénus hoá mây sương mù, phủ âm u trận địa; đưa Pâris thoát kẻ thù trong tấc gang đưa chàng về khuê phòng trong thành Troia. Aphrodite hóa ra bà lão quen biết đi đón Hélène, nhưng nàng nhìn ra chiếc cổ thần tiên của nữ thần Aphrodite nên mắng nhiếc, Thần nữ gào lên nổi giận, Hélène hoảng sợ đi theo về gặp Pâris, nàng mỉa mai Pâris thua trận, nhưng Paris lại chinh phục nàng, sức người trần không thể cưỡng lại ý thần.. Trên chiến địa Ménélas tìm Pâris nhưng không ai trông thấy. Agamemnon đòi thi hành lời ước thề.

Platon trong Théogonie đã ca tụng các câu thơ sánh các lão quan triều Vua Priam như tiếng ve kêu. Quintilien (VIII. 24, 21) viết : những câu thơ ca tụng sắc đẹp tuyệt vời của Hélène không bởi Pâris, người bắt cóc, mê hoăc nàng, cũng không bởi một thanh niên, một người dân mà bởi các lão quan hiền triết nhất ngồi bên cạnh vua Priam.

Nhiều sách thời cổ đại của Cicéron, Quintilien, Sénèque.. đã ca tụng đoạn Homère tả chân dung hai nhà hùng biện Ménélas và Ulysse đi thương thuyết việc trả lại Hélène. Cicéron, Brutus. I.10,13. Quintilien, Inst Or XI I, 10, 24. Sénèque Ep.XI.

Hai bên chiến trận dàn quân, (1595)
Mỗi đoàn quân tiếp quanh bên tướng hùng.
Quân Troa dũng tiến hô vang,
Như bầy bạch hạc dưới tầng trời cao,
Như tan đông lạnh mưa rào,
Tiếng vang như sóng bay vào Đại Dương (1600)
Tiếng vang như cõi âm hồn,
Bích Mê chiến địa, sương đêm tử thần, (Pygmées)
Lòng như sôi sục hờn căm,
Bất bình bao nỗi vây thành hãm công.
An Kinh tiến bước lặng câm, (Achéens)
Nghe như tiếng thở, như lòng tương thân.
Từ trên đỉnh núi mây vần,
Gió mùa Nam Tố mang sương giá về, (Notos)*
Mục đồng ngại bóng sương che,
Khó phòng kẻ trộm thừa cơ tung hoành. (1610)
Không xa tầm ném đá nhìn,
Bước chân binh sĩ mù tung bụi mờ,
Đội hình quân tiến tung cờ,
Hai bên giáp trận tinh mơ trên đồng.
An Lộc tiến trước đoàn quân;(Alexandre, Pâris)
Hiên ngang dũng mãnh như thần oai nghiêm.
Tấm da báo phủ vai bên,
Vai mang cung nỏ, lưng mang kiếm đồng.
Hai trường thương xốc bên hông,
Đầu mang một chiếc mũ đồng sáng choang. (1620)
Đạt Liên dũng tướng mắt lườm, (Argiens, Achéens)
Lòng thầm hứa hẹn một phen tranh hùng,
Mai Ninh đi trước đoàn quân, (Ménélas)
Bước chân như chúa sơn lâm hào hùng.
Như nhìn mồi trước vuốt nanh,
Trông An Lộc bước tới nơi,
Hội cơ hứa hẹn lòng vui báo thù.
Xuống xe chực sẵn hàng đầu,
An Lộc trông thấy, lùi mau về hàng. (1630)
Như người sợ rắn chắn ngang,
Bên triền thung lũng, núi ngàn cây xanh,
Mặt như chàm đổ chân run,
Chẳng còn khí phách anh hùng hiên ngang.
Hải Tô lên tiếng trách em,(Hector)
Bực mình nhìn thấy, thẹn lòng chẳng vui:​
Bá Lộc Hèn, chẳng hổ ngươi, (Maupâris)
Điên cuồng vì gái nay thời nhát gan,
Chết đi cho đỡ nhục thân,
Lòng ta chẳng muốn trên thành nhìn trông. (1640)​
An Kinh cười ngạo ba quân,
Anh hùng rơm ruột trống không bề ngoài.
Ngày nào vượt biển ra khơi,
Cướp nàng Hoàng hậu xứ người đất xa,
Gây bao thảm họa cho cha,
Cho thành, cho nước, cho nhà điêu linh.
Giờ đây sỉ nhục tiếng danh,
Món quà Vệ Nữ tiếng tăm nhọc nhằn.
Dân Troa tủi hổ sự tình,
Dù quan tài đá có dành cho ngươi.* (1650)
Cũng không chôn hết tiếng đời.
An Lộc lên tiếng trả lời cho anh:​
Hải Tô, anh đã nhìn lầm,
Lời anh vừa đúng vừa không sự tình.
Lời anh như nhát búa tầm,
Bửa vào thân củi thẳng thừng đôi tay.
Trong lòng anh chẳng sợ chi,
Cho nên trách cứ những gì thần ban.
Nữ Thần Vệ Nữ ngọc vàng,
Đã ban ân huệ một nàng mỹ nhân. (1660)
Chỉ là ý muốn của thần,
Người trần ta chẳng thể mong được gì !
Bây giờ anh muốn tôi đây,
Đánh Mai Ninh Lạc tướng tài địch quân.
Hãy mời ngồi xuống ba quân,
Troa Yên cùng với An Kinh đối hàng.
Tôi, Mai Ninh Lộc sẵn sàng,
Ai người chiến thắng sẽ mang về cùng
Nàng Hạ Lan và ngọc vàng,
Từ nay chấm dứt tương tàn chiến tranh. (1670)​
Hai bên tế lễ vật sinh,
Ai về nước nấy giao tình đệ huynh.
Người Troa Yên ở xứ mình,
Người An Kinh sẽ rút quân trở về.
Hải Tô đồng ý hội thề,
Bước ra chiến tuyến cận kề đường ranh.
Cầm thương nhọn ra hiệu quân,
Troa Yên dừng lại, nín thinh đợi chờ.
An Kinh giương nỏ cung hờ,
Nỏ giàn, bẩy đá mong giờ ra tay. (1680)
An Gia Vương thét: Ngừng tay,
Đạt Liên, buông nỏ lắng nghe từng lời,
Hải Tô muốn nói những gì.
Nỏ cung hạ xuống nghỉ ngơi đợi chờ,
Hải Tô đứng giữa nói to :
An Kinh cùng với quân Troa giáp hùng .​
Hãy nghe lời An Lộc bàn,
Là người duyên cớ, cội nguồn chiến tranh.
Mời quân An Kinh, Troa Yên,
Xếp gươm giáo lại ngồi trên đất màu. (1690)​
Dự xem một trận đấu nhau,
Mai Ninh, An Lộc chiến bào giao tranh (Ménélas, Alexandre)
Ai thắng sẽ được Hạ Lan,
Cùng bao vàng bạc của nàng mang theo.
Chúng ta tế lễ cùng nhau,
Giữ tình bằng hữu mai sau vững bền.
Mọi người nghe tiếng lặng im,
Mai Ninh cất tiếng vang lên chiến trường :​
Lắng nghe, tôi cũng đồng lòng,
Dù đau thương đã sâu hằn con tim. (1700)
Đạt Liên cùng với Troa Yên,
Hai bên đau khổ cuộc tranh chấp này,
Dù An Lộc bắt đầu đây,
Đôi ta số phận hôm nay rõ ràng,
Chết nhục hay sống vinh quang,
Hai ta chẳng có còn con đường nào.
Người mang đến hai con cừu,
Con đực lông trắng, cái màu lông đen,
Tế Đất Mẹ, Tế Thái Dương,
Một cừu tế Dớt là phần của ta. (1710​
Hãy mời nhà vua Biam ra,
Tự tay thọc huyết, lời già thiêng liêng.
Khấn thề cùng với Thần Vương,
Lời già sau trước vững bền thẳng ngay,
Người trẻ nông nổi đổi thay,
Người già xếp đặt cho hay đôi đường.
Nghe lời An Kinh, Troa Yên,
Vui mừng được dự đấu trường quang vinh.
Ngựa xe sắp xếp thẳng hàng,
Đôi bên cởi giáp, giáo giàn đặt bên. (1720
Chiến trường ngồi chật như nêm,
Hải Tô nhanh chóng báo tin về thành.
Người mang cừu tế lễ thần,
Người tâu chủ lễ dự phần vua Biam.
Về phía An Gia Đại Vương,
Sai Thân Ty Bộc về thuyền mang lên. (Thaltybios)
Con cừu tế lễ Thần Vương,
Thị vệ bày biện dọn bàn kết hoa.
Y Bích bay đến cung nhà, (Iris)*
Hạ Lan Đôi Cánh Tay Ngà truyền tin: (1730)
Sứ Thần biến hóa dạng hình,
Chị dâu, công chúa vợ chàng Hạ Can (Hélicaon).
Con trai An Thế lão công. (Anténor)
Lạc Khuê xinh đẹp nhất thành vua Biam; (Laodicè)
Nàng tìm đến gặp Hạ Lan.
Bên khung dệt lớn tư cung của nàng.
Áo choàng nàng dệt huy hoàng,
Cho ai ở chốn chiến trường đấu tranh.
Troa Yên luyện mã giữ thành,
An Kinh chiến trận kiếm cung giáp đồng. (1740)
Vì nàng chinh chiến ngổn ngang,
Khổ đau Thần Chiến gieo tang tóc đời.
Bên nàng Y Bích cất lời (Iris) :​
Em ơi ! hãy đến xem nơi cổng thành,
Chưa bao giờ thấy lạ lùng,
Troa Yên luyện mã, An Kinh giáp đồng.
Bao năm giao trận chiến tranh,
Nay ngồi im lặng, khiên nằm dựa bên.
Lao ghim xuống đất thẳng hàng,
Mai Ninh, An Lộc sẽ cùng đấu nhau (Ménélas, Alexandre). (1750)​
Vì em trận đấu thương đau,
Người thắng sẽ gọi em theo, vợ chàng.
Y Bích gieo rắc trong lòng,
Hạ Lan biết mấy nỗi buồn bao la.
Nhớ chồng xưa, nhớ mẹ cha.
Nhớ kinh thành cũ, xa lìa bao năm.
Hạ Lan vội vả choàng khăn,
Bước nhanh về phía cổng thành tháp canh.
Hai nàng thị nữ theo bên,
Ái Cơ cùng với Ly Minh mắt thuyền.(Aithré, Clymène). (1760)
Tiến qua đường rộng kinh thành.
Tháp Khuê tụ hội cung đình vua Biam (Scée, Priam)
Lão thần Ban Tuất, Hỉ Tâm (Panthoos, Hikétaon),
Thy Minh, Lâm Bộ và cùng Chí Tô (Thymoetès, Lampos, Clytios)*
U Ca Lê và An Thế Nô (Oucalégon và Anténor)
Hiền thần hai vị tóc tơ luận bàn.
Tuổi già sức chẳng ra quân,
Cung đình mưu lược, triều binh hội về.
Như trên cây giữa mùa hè,
Vọng từ rừng núi tiếng ve vang lừng. (1770)
Thoảng nghe vọng tiếng lưng chừng,
Tiếng ai trong sáng như cành huệ lan.
Troa Yên Cơ Mật đang bàn,
Ngừng tai, một giọng cất vang ngọt ngào :​
Thật là phẩn nộ biết bao,
Troa Yên luyện mã, chiến bào An Kinh,
Bao năm đau khổ triền miên,
Vì nàng sắc đẹp thần tiên mơ màng,
Dù cho vẻ đẹp tiên nương,
Cũng nên trao trả về thuyền An Kinh. (1780)​
Vì nàng còn ở đây chăng,
Còn bao hiểm họa nhọc nhằn cháu con.
Vua Biam gọi nàng Hạ Lan:​
Đến đây con hãy ngồi gần bên ta,
Để xem chồng cũ bạn xưa,
Anh em binh tướng, cùng là người thân.
Riêng ta, con chẳng lỗi lầm,
Các Thần xui khiến chiến tranh tương tàn.
Nói ta nghe các tướng quân,
Là ai tên các anh hùng An Kinh. (1790)​
Là ai vị tướng cao thanh,
Ta chưa từng thấy anh hùng nào hơn.
Xem chừng một vị Quân Vương.
Hạ Lan nhẹ đáp lời buôn mênh mang:​
Muôn tâu cùng đấng Nhạc Vương,
Lòng tôi kính sợ bước đường đến đây.
Lòng tôi đã chết từ ngày,
Theo con Ngài để lòng đầy nhớ thương.
Khuê phòng xa mẹ và con,
Tuổi còn thơ ấu đồng niên bạn bè. (1800)​
Đau lòng mơ tưởng ngày về,
Khi sầu đối bóng não nề xót xa,
Bây giờ Ngài hỏi xin thưa,
An Gia An Trích chính là vị Vua,(Agamemnon Atride)
Uy quyền kính phục gần xa,
Vị vua nhân đức xông pha chiến trường.
Là anh chồng của tệ nhân.
Lão Vương nhìn dáng oai hùng phục ngay :​
An Trích tướng mạo đẹp thay !
Con người phúc hậu, dáng đi như thần. (1810)​
Phúc thay quân sĩ An Kinh,
Có người thủ lãnh chiến trường oai nghi.
Ta từng đến vùng Phi Chi (Phrygie),
Một miền trù phú đồng đầy vườn nho,
Người Phi Chi cưỡi ngựa hồ,
Ô Trê, Mỹ Động quân cơ như thần. (Otrée, Mygdon)
Dọc sông Hằng Các đóng quân,(Sangarios)
Ta đà thầm phục binh hùng Mã Đông (Amazones),
Thế mà nay sánh chiến trường,
Đông hơn gấp mấy, binh thuyền An Kinh. (1820)
Rồi nhìn Uy Lĩnh hỏi rằng: (Ulysse)​
Con ơi, hãy nói ta chàng là ai?
Ngực vuông hùng dũng rộng vai,
So vua An Trích thấp nơi cái đầu.
Vũ khí dựng xuống đất mầu,
Như sơn dương đứng hàng đầu đoàn quân,
Lông dày hùng dũng bước chân,
Dọc ngang đi khắp đoàn quân bạch cừu.​
Hạ Lan nhẹ đáp lòng sầu:
Ấy chàng Uy Lĩnh nghìn mưu đa tài. (1830)​
Tôn tử Lã Đạt giống nòi (Laerte),
Sinh trưởng An Thạch dù nơi đất cằn.(Ithaque)
Binh cơ mưu lược lào thông,
Thông minh tài trí ai bằng, khôn ngoan.
An Thế Nô đáp lời nàng: (Anténor)​
Phu nhân, đúng vậy, ai bằng tướng quân,
Uy Lĩnh từng đến bản doanh,
Với Mai Ninh Lạc cùng trong sứ đoàn.
Tôi từng hậu đãi sảnh đường,
Uy nghi tướng mạo, khôn ngoan tiếng lời. (1840)​
Troa Yên hội họp tiếp người,
Mai Ninh Lạc đứng đôi vai hơn chàng,
Nhưng khi ngồi xuống rõ ràng,
Uy Lĩnh hùng dũng phi thường oai nghiêm.
So tài ăn nói phần hơn,
Mai Ninh nói ít rõ ràng đơn sơ,
Nhưng ngay thẳng đích mong chờ,
Dù chàng còn trẻ nhất so mọi người.
Khi Uy Lĩnh đứng ngỏ lời :
Chừng như bất động, mắt nơi đất bằng. (1850)​
Tay cầm ngôn trượng không rung,
Chẳng nghiêng phía trước chẳng chùng phía sau,
Một giây bất động ngu ngơ,
Tưởng chừng oán hận lời chờ thốt lên,
Chẳng ngu ngơ, chẳng oán hờn,
Lời chàng tâm huyết từ lòng ngực sâu,
Lời như hoa tuyết đông sầu,
Tiếng vang sang sảng từng câu trầm hùng,
Mấy ai so sánh cho bằng,
Uy Lĩnh hùng tráng, nhìn càng kính yêu. (1860)
Nhìn phía An Bắc tiếp theo, (Ajax)
Vua Biam lại hỏi : Người cao tướng hùng,
Đầu hơn các tướng An Kinh,
Ngực to lưng rộng ai bằng sánh vai ?
Hạ Lan vén khăn tơ dài :​
Ấy là An Bắc, anh tài An Kinh.
Anh Đô Mai đứng cạnh bên (Idoménée),
Một hàng tướng lĩnh anh hùng Kiết Toa (Crétois).
Các chàng thường đến cung tôi,
Mai Ninh Lạc vẫn thường mời tiếp tân. (1870)​
Tôi từng biết rõ họ tên,
Biết từng danh tướng An Kinh anh hùng.
Nhưng đoàn quân đứng xa thành,
Tôi không còn thấy rõ ràng một ai.
Cát Tô luyện mã biệt tài ,(Castor)
Bôn Lực dũng cảm một tay côn quyền.(Pollux)
Các em cùng mẹ sinh thành,
Chắc không tham dự công thành hôm nay,
Chắc không vượt biển trận này,
Vì tôi mà ngại lòng ray rứt buồn. (1880)​
Vì tôi em đã ngậm hờn,
Không rời đất mẹ sinh thành La Ni (Laconie).​
Hai người vệ quan ra đi,
Mang vật cúng tế đến nơi lễ đàn :
Hai con cừu, rượu cúng thần,
Ép từ cây trái trong bình da dê.
Y Đê quan vệ mang về,(Idée)
Một đỉnh chân vạc, sáng loe cúp vàng.
Đến gần bên nhà vua Biam,
Cúi đầu kính cẩn tâu trình Lão Vương: (1890)​
Tâu Hoàng Thượng Lao Mê Đông (Laomédon),
Xin Ngài cử tế hai bên chiến trường.
Troa Yên luyện mã kỵ quân,
An Kinh nhung phục giáp binh thề bồi.
Dựng giàn tế lễ Thần Trời,
Vật sinh cúng tế khấn lời linh thiêng.
An Lộc, Mai Ninh giao tranh,
Đấu trường lao nhọn để dành mỹ nhân,
Kẻ chiến thắng sẽ được phần,
Mỹ nhân vàng ngọc nữ trang theo cùng. (1900)​
Lời danh dự kết tình thân,
Chúng ta sẽ ở đất lành chốn quê,
Còn họ sẽ rút thuyền về,
Đạt Gô ngựa tốt, An Huề mỹ nhân. (Argos, Achaie)
Lão Vương nghe nói vui mừng,
Truyền mang xe ngựa xuống đàn hội quân.
An Thế Công cũng nhanh chân (Anténor),
Hai xe song mã xuống thành cổng Khuê.
Ngựa xe nhanh bước tiến về,
Giữa hàng quân tướng chờ thề tế sinh. (1910)
Đoàn xe ngừng trước ba quân,
Vua Biam xuống trước, triều thần theo sau.
An Gia đứng dậy vái chào, (Agamemnon)
Bên cạnh Uy Lĩnh cùng nhau đến đàn.
Trước bàn quan vệ lễ dâng,
Khấn thề danh các thần linh, lòng thành,
Rồi pha mỹ tửu vào bình,
Trước bàn Thần, các vua cùng rửa tay.
An Trích rút dao bên đai,
Trước đầu cừu cắt một vài nhúm lông. (1920)
Quan vệ kính cẩn chia phần,
Mọi người đón lấy tay nâng cầu Thần:​
Cầu Dớt đấng Phụ Vương,
Ngôi cao cai trị khắp miền Y Đa. (Ida)
Vinh quang, cao cả, chói lòa,
Thái Dương mắt thấy, tai nghe cõi trần.
Đất, Sông cho đến cõi âm.
Hai Ngài trừng phạt linh hồn trần gian.
Về đây chứng giám lời nguyền:
Nếu An Lộc thắng dành phần Hạ Lan. (1930)​
Cùng bao của cải nữ trang,
Chúng tôi sẽ rút xuống thuyền về ngay,
Nếu Mai Lạc giết An Lộc đi,
Hạ Lan, vàng bạc từ nay theo chồng.
Bồi thường chiến phí An Kinh,
Nếu vua Biam và các con không bồi thường,
Dù cho An Lộc bại vong,
Chúng tôi tiếp tục đấu tranh đến cùng,
Đến ngày tàn cuộc chiến tranh,
Chúng tôi nhất quyết hạ thành mới cam. (1940)
Nói rồi cắt cổ vật sinh,
Phơi trên mặt đất thân mình rẩy run,
Gươm đồng dứt kiếp phù sinh,
Quan vệ rót rượu vào chung mọi người.
Nâng lên cùng khấn một lời :​
Vinh quang thần Dớt cõi trời Thiên Sơn,
Chư Thần bất tử tỏ tường,
Chúng tôi cầu khấn hai bên tỏ bày,
Kẻ nào phá ước nguyện này,
Óc đầu sẽ nát rải nơi trận tiền. (1950)​
Như rượu tung rải trước đàn,
Họ và con trước trận tiền bại vong.
Vợ con gánh chịu số phần,
Vào tay kẻ thắng cuộc phân tranh này.
Thần Tử Cồ Nốt đỉnh mây,(Cronos Zeus)
Phân vân chẳng muốn chứng ngay lời nguyền.
Sau khi xong lễ tế thần,
Vua Biam vội vã lui chân về thành. :​
Lắng nghe chiến sĩ hai bên,
Troa Yên cùng với An Kinh giáp đồng. (1960)​
Tôi xin từ giả về thành,
Chẳng còn lòng để thấy nhìn đấu nhau.
Con tôi, Mai Ninh ra sao ?
Dớt, Chư Thần ở ngôi cao định rồi.
Một trong hai tàn cuộc đời,
Đã dành số phận, kiếp người thảm thê.

Sai cất vật sinh vào xe,
Vua lên xe mã đi về thành Troa.
An Thế Công cũng bước theo,
Đôi xe lăn bánh đi vô cổng thành. (1970)
Hải Tô, Uy Lĩnh đôi bên,
Cùng nhau đo đạc vạch biên đấu trường.
Mũ đồng hai phiếu số phần,
Rút thăm ai được phóng thanh lao đầu.
Vươn hai tay trước khẩn cầu,
Ba quân lập lại từng câu khấn thần:*​
Cầu xin Dớt, đấng Phụ Vương,
Ngôi cao cai trị khắp miền Y Đa,
Vinh quang cao cả chói lòa,
Xin Ngài chứng giám cuộc đua tranh tài. (1980)​
Cuộc tranh chấp của chúng tôi,
Dạ Đài dù cõi Thần ai bỏ mình,(Hadès)
Chúng tôi giao kết đệ huynh,
Một lòng thệ nguyện thủy chung lòng thành.
Hải Tô cầm mũ sáng choang,
Quay mắt, lắc mạnh hai thanh thẻ đồng.
Số phần Bá Lộc ra nhanh,(Pâris, Alexandre)
Thế là chàng được phóng lần đầu tiên.
Bá Lộc ra trận đấu trường,
Giáp đồng, khiên sắt, một thanh lao dài. (1990)
Nhảy lên chiến mã vương vai,
Giáp đồng phủ kín, chân đai ánh vàng.
Giáp che phủ kín ngực thân,
Dây da đinh bạc, một thanh gươm đồng.
Một chòm đuôi ngựa sau lưng,
Đong đưa màu sắc mũ lông nhuộm hồng.
Một thanh lao nhọn tay cầm,
Ngựa đi nhẹ gót, đấu trường bước đi.
Mai Ninh Lạc chẳng kém chi,
Giáp khiên, lao nhọn oai nghi tranh hùng. (2000)
Đấu trường nằm giữa hai quân,
Mắt long lanh quắc, tia nhìn hung hăng.
Hai bên khán giả lặng im,
Đợi chờ một trận gian nan tranh hùng.
Hai bên tiến đến vạch biên,
Cầm thanh lao nhọn đưa lên sẵn sàng,
Bá Lộc phóng trước lao đồng,
Mai Ninh Lộc đỡ, chiếc khiên vững vàng.
Thanh lao chẳng gãy, mũi cong,
Chặn ngang, rơi trước khiên đồng kêu vang. (2010)
Mai Ninh Lộc đưa lao lên,
Cầu xin Thần Dớt, Phụ Vương ơn lành:​
Thần Vương trị kẻ tội hình,
Khởi đầu gây nỗi nhọc nhằn đau thương.
Chính tên An Lộc, đích danh.
Cầu Thần dũng cảm sức hùng đôi tay.
Trúng ngay đích kẻ thù này,
Lọc lừa phản bội, những ngày tiếp tân.
Nói rồi phóng ngọn lao nhanh,
Trúng khiên Bá Lộc, xuyên thân giáp đồng. (2020)
Rách tươm chiếc áo mặc trong,
Nhưng may Bá Lộc nghiêng thân gập mình,
Tóc tơ thoát chết mong manh,
An Trích nhảy đến, rút gươm chém đầu. (Atride Ménélas)
Chiếc gươm trúng đỉnh mũ cao,
Gãy ra bốn mãnh, chẳng sao kẻ thù.
An Trích, ngửa mặt trời cao :​
Phụ Vương Dớt, chẳng Thần nào hiểm sâu,
Bằng Ngài, độc hại vì đâu,
Tôi mong kết liễu kẻ thù gian manh,
Mà gươm đã gãy tan tành,
Ngọn lao phóng chẳng đả thương kẻ thù. (2030​
Nói rồi xông nắm mũ đầu,
Núm chòm lông ngựa phía sau kéo dài.
Phía An Kinh cố kéo lôi,
Bá Lộc ngã xuống, mũ quai da bò,
Dưới cổ ngạt thở phì phò,
Mai Ninh Lộc kéo, thắng to trận này.
Ngờ đâu trong một phút giây.
Vệ Nữ giải cứu, may thay kịp thời.
Thần làm đứt bựt chiếc quai,
Mai Ninh Lộc kéo, chơi vơi chao mình. (2040)
Vất cho quân sĩ An Kinh,
Chàng nhanh nắm chiếc lao đồng trong tay.
Những toan kết liễu đời ngay,
Ngờ đâu Vệ Nữ hoá mây sương mù.
Phủ vây trận địa âm u,
Đưa Bá Lộc thoát kẻ thù tấc gang.
Đưa chàng về đến khuê phòng,
Trong thành Troa ngát hương nồng đê mê.
Đích thân tìm Hạ Lan về,
Gặp nàng trên tháp cổng Khuê cao vời. * (2050)
Nữ lưu đông đủ mọi người,
Hóa thân bà lão từng nơi quê nhà,
La Thế Môn, thêu len hoa, (Lacédémone)
Khéo tay chăm chỉ thật thà nàng thương.
Đưa tay kéo váy ánh vàng.
Thầm thì nói khẽ với nàng vài câu :​
Về đi Bá Lộc mong cầu,
Loan phòng lộng lẫy sắc mầu thanh xuân.
Phục trang chàng đẹp vô cùng.
Nói gì ? chàng ở chiến trường về đây ? (2060)​
Không, vừa tàn một cuộc vui,
Chàng thôi khiêu vũ, nghỉ ngơi trong phòng.
Hạ Lan đang rối trong lòng,
Thoáng nhìn chiếc cổ trong ngần thần tiên,
Những lời đường mật dịu êm,
Mắt nhìn lóng lánh êm đềm đê mê.
Hạ Lan điểm mặt chẳng nề :​
Quái Thần, còn muốn rủ rê lọc lừa,
Đưa ta xa nữa hay chưa?
Phố thành nào để cho vừa điêu ngoa. (2070)
Phi Chi, Mê Ny phồn hoa, (Phrygie, Méonie)
Thanh niên đàng điếm ba que ngọt lời.
Giờ đây Bá Lộc thua rồi,
Mai Ninh Lạc sẽ đưa tôi trở về.
Mụ còn mưu mẹo rủ rê,
Sao không tìm đến ngủ nghê với chàng.
Bá Lộc đẹp nhất trần gian,
Rồi từ bỏ hẵn con đường thần tiên.
Chẳng về chi nữa Thiên Sơn,
Yêu đương giữ lấy, ngày đêm nuông chiều. (2080)​
Hóa thành người vợ thương yêu,
Hay là nô lệ đi theo hầu kề.
Còn tôi, tôi chẳng thèm về,
Chẳng thèm hèn hạ chát chia chiếu giường.
Dân Troa nhạo báng sau lưng,
Và tim tôi mãi vô cùng đớn đau!
Giận căm, Vệ Nữ khẽ gào:​
Chớ làm ta giận, lời sao khốn cùng,
E rằng ta nổi cơn khùng,
Và ta chẳng bỏ rơi nàng mà đi. (2090)​
Ta chẳng ghét nàng dị kỳ,
Ta yêu thương mới mưu này cao sâu,
Vì nàng thù hận thiên thu,
Troa Yên cùng với kẻ thù Da Niên.
Nàng còn sắc đẹp giai nhân,
Thì còn số phận đã dành đau thương.
Hạ Lan nghe nói kinh hồn,
Bước đi kéo chiếc khăn voan trắng ngà.
Lặng im cất bước đi ra,
Chẳng ai trông thấy bóng hoa ẩn hình. (2100)
Bước theo sức cuốn thần linh,
Nàng đi về chốn tư dinh cung vàng.
Thị tỳ nhanh bước hầu gần,
Đưa nàng về chốn loan phòng lầu cao.
Ngồi trên chiếc ghế nhung đào,
Nữ thần Vệ Nữ cười chào lã lơi.
Cạnh bên Bá Lộc tươi cười,
Hạ Lan ngồi xuống buông lời đắng cay :​
Chàng từ cuộc chiến về đây,
Chẳng thương vong bởi một tay anh hùng. (2110)​
Ấy là chồng của tiện nhân,
Hôm nao chàng mới khoe khoang sức mình,
Sẽ thắng Mai Ninh đấu trường,
Bằng đôi tay, bằng một trường thương lao dài.
Sao không thách đấu nữa thôi,
Một trận đối mặt, một nơi tranh hùng,
Nhưng nay chàng trốn hậu cung,
Tôi khuyên chàng hãy chớ đừng bước ra,
Trước Mai Ninh Lạc hẳn là,
Một người mất trí mới ra chiến trường, (2120)​
Nắm phần chắc chắn bại vong,
Đường lao dũng mãnh phóng nhanh kẻ thù.​
Bá Lộc cười gượng nói mau:​
Nàng ơi chớ nói lời nào mỉa mai,
Trêu gan trách cứ ta hoài,
Hôm nay Mai Lạc hơn tài thắng ta,
Nhờ Quán Trí thế mới là.. (Athéné)
Ngày mai sẽ đến lượt ta anh hùng,
Có các Thần hổ trợ cùng,
Nàng ơi, hãy đến gối giường hợp hoan. (2130​
Lòng ta hoan lạc cùng nàng,
Tự bao giờ đã ngập tràn sướng vui,
Từ La Môn đó xa vời, (Lacédémone)
Ta mang nàng xuống thuyền rời cố hương.
Dong buồm ra thẳng biển ngàn,
Đảo Ca Ná đó cùng nàng ái ân, (Cranae)
Yêu thương ngày tháng kề gần,
Chỉ lòng khao khát mơ màng đam mê.
Nói rồi bước tới gần kề,
Thoát y trang khẽ vỗ về mơn man. (2140)
Nàng như mê đến bên chàng,
Giường hoa trong giấc mơ màng hợp hoan.

Trong khi nơi chốn chiến trường,
An Trích tìm kiếm dọc ngang hét lời.
Như con sư tử háo mồi,
An Lộc đã trốn ở nơi chốn nào ?
Chẳng trông, chẳng thấy nơi nao,
Hai bên quân sĩ chẳng sao trả lời.
Chỉ cho chàng biết chốn nơi,
Một làn sương dịu mê người mang đi. (2150)
Chẳng ai hay biết được gì,
Mơ màng sương khói che mi mắt trần.
An Gia Vương tuyên bố sự tình:​
Lắng nghe quân tướng đồng tâm thề nguyền,
Troa Yên cùng với An Kinh,
Mai Ninh Lạc thắng quang vinh trận này.
Hãy giao trả Hạ Lan ngay,
Và bao tài sản nàng ngày ra đi,
Đền bù chiến phí đã chi,
Từ nay hai nước hội kỳ kết giao. (2160)​
Chỉ còn kỷ niệm bên nhau,
Bây giờ cho đến mai sau kết tình.​
Nghe lời An Trích vang lừng,
Quân An Kinh đã bằng lòng reo vang. (2164​

CHÚ THÍCH

Pygmée: Bích Mê, theo huyền thoại người lùn Éthiopie, là nơi tận cùng phía nam Đại Dương, con sông bao quanh đất liền, hàng năm chiến đấu với con hạc và giết rất nhiều.

Nam Tố: Notos, gió Nam

An Lộc Hèn. Nguyên tác Maupâris, chữ Mau trước tên dùng tỏ vẻ khinh khi. An Lộc Alexandre tên bọn mục đồng đặt cho Pâris nghĩa là Người Bảo Vệ.

Achéens, Argiens, Daniens; Homère dùng 3 tên để chỉ người Hy Lạp

Quan tài đá: nghĩa là ném đá cho chết. Thời Homère người Hy Lạp đốt xác.

Iris (Y Bích): Nữ Thần Cầu Vòng truyền tin.

Tháp Scée trên cổng thành Scée còn gọi là cửa Dardanienne, mở ra cánh đồng Scamandre và chiến trường.

Lampos, Clytios, Hykétaon là em vua Priam.

Castor và Pollux, các em cùng mẹ Léda, nhưng tương truyền thần Zeus hóa thành con ngỗng hiện xuống giao hoan với Léda sinh ra nàng Hélène, nên nàng là con thần Zeus.

Tế Lễ: Hy Lạp thời Cổ Đại thường tế lễ bằng hai con cừu trắng và đen. Con trắng tế các thần cõi Olympe và con đen tế các thần cõi Hadès.

Hai Thần cõi âm là Hadès và vợ là Parséphone, đoạn khấn này là đoạn duy nhất Homère viết về sự trừng phạt tội lỗi sau khi chết.


Paris 12-8-2016.
PHẠM TRỌNG CHÁNH ( Nhất Uyên) chuyển ngữ thơ lục bát
Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris Sorbonne.​
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC IV
VI PHẠM THỎA ƯỚC THỀ NGUYỀN - AGAMEMNON CHUẨN BỊ TIẾN CÔNG
Tinh ranh, lắc léo cuộc chơi,
Ý Thần kỳ diệu chẳng ai đo lường.

Hai câu thơ Homère nói lên những tình huấn xãy ra vượt khỏi ý muốn của con người. Nguyễn Gia Thiều trong Cung Oán Ngâm Khúc cũng đã viết: Trẻ Tạo Hóa đành hanh quá ngán, Chết đuối người trên cạn mà chơi. Tạo hoá như đứa trẻ con, vô tình đối với người trần như con dế, con kiến... Trong Sử Thi Iliade, thi hào Homère đã cho hai Thế giới Thần, và Thế giới Người xảy ra cùng một lúc và tác động lẫn nhau. Cõi Trần là cuộc chiến thành Troie, máu đổ xương rơi, bao khổ đau chỉ vì cõi Thần ba Thần: Héra, Athéné, Aphrodite tranh nhau: Ai là người đẹp nhất ? Điều lạ lùng là cõi thần bất tử, vô thủy vô chung, thần tiên là các bậc hoàn hảo, thánh thiện, tuyệt mỹ mà tranh nhau làm NGƯỜI đẹp nhất. Vệ Nữ là vị nữ thần đẹp nhất cõi Thần mà lại đi tranh đua việc này vì quả táo của thần Bất Hòa giữa tiệc cưới cha mẹ Achille ! Cõi Thần là những bí ẩn, người trần chưa cắt nghĩa được, những điều các nước Á Đông cho là Mệnh Trời, Trời làm.. Cuộc đời xoay vần, xưa nay chưa có triều đại nào đứng vững ngàn năm (trừ Nhật Bản), thế cục Trung Quốc quanh quẩn, xoay vần hết chia rồi đến hợp, hết hợp rồi lại chia. Trong thơ Homère thế giới Thần, lại đầy tính xấu của con người : tranh nhau, ganh ghét nhau khiến trần gian đảo điên, chết chóc, lốc cuốn, bão tố... Con người chỉ là con rối, con sâu, con kiến trong tranh chấp cải vả của các Thần.

Thơ Homère cách đây ba nghìn năm mà sau có những chuyện như xãy ra hôm qua và hôm nay, đâu đó mơ hồ như vang vọng những thần thoại anh hùng: Ai là người đẹp nhất ?. Nơi này nơi kia là Thiên đàng nơi trần giới ? Chủ nghĩa đỉnh cao trí tuệ loài người ? Chủ nghĩa này ưu việt bách chiến bách thắng ? Chủ nghĩa khác đang rẫy chết ? Rồi bỗng nhiên ùm ùm sụp đổ ít ai tưởng tượng được những gì có thể xảy ra ! Cõi Thần giống như những siêu cường quốc, quyết định vận mệnh các nước nhược tiểu, lạc hậu.

Dưới thành Troie, cõi trần con người muốn yên ổn, cúng tế thề nguyền giao ước, cử Pâris và Ménélas đấu nhau, ai thắng sẽ được Hélène và chấm dứt chiến tranh. Pâris đánh thua Ménélas, nhưng Thần Vệ Nữ lại gian lận hoá đám sương mù, cứu thoát Pâris đem về cung thành Troie. Cõi Trời Thần Vương Zeus và bà vợ Thần nữ Héra vẫn đồng sàn dị mộng, cải lộn nhau. Héra hờn dỗi, Zeus phải nhượng bộ, cho Héra được cho phép làm cuộc chiến tiếp tục vì lỗi người Troie, Héra sai Thần Athéné xuống trần, hóa thân thành Laodocos, xúi dục tướng Pandaros bắn vào bụng Ménélas, trúng vào đai thắt lưng, vừa đủ chảy máu. Lương y Machaon cấp cứu, Ménélas không chết nhưng tạo ra việc vi phạm thoả ước thề nguyền cho người trần, và cuộc chiến lại tiếp tục. Người trần không thấy Thần nữ Athéné, chỉ thấy ánh sáng như sao băng, rồi trong ý tưởng Laodocos xúi dục Pandaros. Trong Thi ca khúc III, Thần Vệ Nữ hóa thân thành bà lão thêu thùa cho Hélène, kích động nàng trở về gặp Pâris, nhưng lộ ra cái cổ trong ngần tuyệt đẹp, bị Hélène nhận ra mắng cho một trận, nhưng Thần Vệ Nữ nổi giận, Hélène đành phải nghe theo !

Chuyện cách đây ba ngàn năm sao tựa như ngày nay, như chuyện một Hiệp định ngưng chiến lập lại hòa bình vừa kỳ kết, mà hai bên đã đổ lỗi cho nhau là vi phạm. Rồi tiếp tục đánh nhau cho đến khi một bên sụp đổ. Cuộc sụp đổ bất ngờ khiến cho phe thắng cuộc phải ngẩn ngơ. Nhưng chưa hết, cường quốc môi hở răng lạnh lại dạy cho phe thắng cuộc một bài học. Hoá ra người bạn thần thánh từ lâu đã chuẩn bị chiến lược “Ngư ông đắc lợi” xui dục cho trai cò đánh nhau để chờ thời cơ bắt cả hai bỏ vào rọ.. về nấu cháo, xáo măng. Đất nước cõi người lại thoát nguy cơ trong gang tấc nhờ cõi trời hai cường quốc thần thánh đồng sàn dị mộng. Chưa hết, thế giới trần gian mơ hay thực, tốn bao nhiêu xương máu, bao tang thương, bao đổ vỡ rồi cũng trở lại như xưa ?

Thơ Homère rất xưa mà vẫn bất tử như chuyện hiện đại: Vũ khí cung kiếm, giáo thương, giáp đồng không còn dùng nữa. Tôi đã nhiều lần đi thăm các di tích lâu đài, cung điện, thành quách Hy Lạp chỉ còn những bức tường đá, những nền móng, các trụ đá khổng lồ nghiêng đổ, các anh hùng, giai nhân, thần thánh bất tử đều không còn nữa; nhưng cái đẹp của thi ca, như thân thể trần trụi của con người vẫn tuyệt vời như pho tượng thần Apollon, như tượng thần Vệ Nữ. Trước vẻ đẹp thi ca tuyệt mỹ, tuyệt vời đó những tình cảm con người trong thơ Homère vẫn làm chúng ta xúc động.

Thơ Thi hào Homère tùy theo trình độ người nghe. Người thích chuyện thần thoại hiểu theo chuyện hoang đường thần thoại. Nhà chính trị nhìn thế giới thần thoại, một thế giới ẩn dụ sức mạnh siêu cường vượt khỏi sức mình. Trên bàn cờ thế cục chính trị, người chơi tài giỏi hiểu nước cờ của mình, biết năm mười nước cờ đi trước của đối phương. Những biến chuyển chính trị, kinh tế tương lai ngày xưa phải có những tiên tri Nostradamus, Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên đoán để dự phòng, những chuyên gia chính trị, địa lý chính trị ngày nay có thể viết những nghiên cứu, viết sách để cảnh báo những hiểm họa chính sị sẽ xãy ra.. Những quốc gia tiên tiến, cấp bách sửa đổi, cải cách những sai lầm, những quốc gia lạc hậu chờ định mệnh các thần thánh quyết định, khi thì trôi theo dòng nước cuốn, khi thì gáy vang như con dế mèn bài ca chiến thắng !.

Vua Agamemnon xông xáo cỡi chiến xa, đi kích động từng quân đoàn. Gặp tướng Idoménée quân Crétois, gặp hai tướng Ajax, gặp Vương lão Nestor thành Pylos, gặp Ménesthée tướng thành Athènes, đang trò chuyện cùng Ulysse tướng quân Céphalléniens, gặp Diomède vùng Argos đang đứng nói chuyện với Sthénélos ngựa xe bất động..

Thần Chiến Arès kích động phe này. Thần Athéné phe khác với đôi mắt cú thần. Các thần Kiếp Sợ, thần Trốn, thần Thù Hằn em của thần Chiến lăng xăng chạy khắp chiến trường. Tiếng gào tiếng thét, hai đoàn quân xáp lại như hai giòng thác nước tung trắng trời. Antilochos tiến trước tiên đâm công tử Thalysias, Echépolos quân Troie, lao xuyên sọ người. Éléphénor nắm lấy chân kéo xác địch về mình để cướp lấy giáo khiên bị Agénor tướng Troie đâm vào sườn lúc hở hang, Éléphénor lìa trần. Hai bên lại tranh nhau xác hai tướng quân. Ajax giết Simoisios lao phóng xuyên ngang thân mình, xông lên cướp giáo khiên. Antiphos con vua Priam xông lên phóng lao nhưng trúng vào Leucos bạn Achille ngã lăn. Ulysse xông lên hàng đầu quân Troie lùi bước, Ulysse giết Democoon con vua Priam. Quân Troie sợ hãi lùi mau, Hector kinh hãi. Quân Achéen xông lên.

Thần Apollon từ đỉnh Pergame kêu gọi quân Troie củng cố quân binh. Phe quân Hy Lạp Thần Athéné (Tritogénie) xông lên cổ võ nơi nào quân sĩ lơi là. Peiros khiên tảng đá to, ném trúng chân Diorès, bạn thân đỡ chàng, Peiros lao đến phóng thương xuyên ngang rốn ruột gan tuôn trào. Thoas xông mau phóng

lao trúng Peiros mũi lao xuyên ngang mình, và bồi thêm nhát gươm Peiros lìa trần. Quân Thraces lao dài ngăn chận cướp thi hài bên hai thây dũng tướng lìa đời bên nhau. Chỉ vì Thần Nữ Athéné xui Pandaros bắn tên đồng trúng Ménélas vi phạm thề nguyền, mà bao máu xương lại đổ trên chiến trường.

Cuộc chiến thành Troie, nhìn từ những ẩn dụ, tầm mắt thi hào Homère, nhìn xa, trông rộng cõi thần, cõi người, trông xa từ từ ba ngàn năm. Homère nở nụ cười nhẹ nhàng trêu đùa trước việc các Thần cõi Olympe ăn hối lộ sự cúng tế của người trần, những tranh cải vợ chồng Thần Vương Zeus, trong Hội Nghị trong cung điện Olympe, điều đó không một chính sử nào có thể ghi chép.

Nói về Hội Nghị chư Thần, (2165)
Thần Vương chủ tọa điện vàng Thần Đô (Olympe).
Hạ Ban mang nước cam lồ (Hébé),
Chung vàng mời mọc rót cho các Thần,
Đang nhìn xuống cõi dương trần,
Thành Troa chiến trận, ngỡ tàn cuộc chơi. (2170)
Cồ Nốt Thần tử ngược lời,(Cronos, Zeus)
Trêu Hạ Cơ chọc, nói lời mỉa mai : (Héra)​
Muốn gì, bà hãy làm đi,
Ta đà chẳng muốn những gì lôi thôi.
Tôi, bà to tiếng to lời,
Bất bình bà cứ cải hoài chẳng yên.
Ta đà chẳng muốn lụy phiền,
Còn lời này nữa chẳng quên trong lòng.
Ý ta cũng muốn phá thành,
Cho nên cũng chọn phe thân theo bà. (2180)​
Khi ta thịnh nộ nổi ra,
Mặc ta trừng phạt, mặc ta ta làm.
Vì ta cho phép phá tan,
Thành Troa dù muốn, dù không trong lòng.
Giữa bao phố xá thị thành,
Dưới mặt trời, dưới vô vàn vì sao .
Người người đông đúc đất nào,
Lòng ta quý mến biết bao Troa thành.
Của vua Biam và nhân dân,
Bàn thờ chẳng thiếu phẩm dâng vật quà. (2190)​
Rượu thơm, đùi béo cúng ta,
Mở thơm bay tỏa, khói nhoà vinh danh.
Hạ Cơ, Đôi Mắt Bò Thần.
Trả lới chồng mắt long lanh dỗi hờn :​
Phần tôi yêu ba kinh thành,
My Liên, Xích Bạc và cùng Đạt Gô (Mycènes, Sparte, Argos.)
Thành cao đường rộng thành hào.
Phá đi ông muốn khi nào ghét ganh.
Tôi cũng chẳng muốn nói năng,
Chẳng nề cưỡng lại ngày tàn chúng đâu. (2200)​
Dù tôi bảo vệ mặc dầu,
Tôi chẳng xin xỏ một câu, một lời,
Lời tôi vô ích mà thôi,
Vì ông mạnh bạo hơn tôi ngàn lần,
Nhưng nay ông phải nể nang,
Ý tôi đã muốn phá tan Troa thành.
Ý tôi phải đến tận cùng,
Vì tôi dòng máu thánh thần trong tim.
Giống dòng tôi cũng như ông,
Tôi là con gái quý cưng nhất nhà. (2210)​
Của Thần Cồ Nốt sinh ra,
Tôi còn là vợ ông Vua Thiên Đình.
Hãy chiều tôi, tôi chiều ông,
Ông theo tôi, thế các Thần mới theo,
Hãy ban lệnh chiến một keo,
Quán Trí Tuệ xuống trần gieo thù hằn,
Tướng Troa xúc phạm thề nguyền,
Lúc An Kinh đã reo mừng chiến công.​
Nể tình vợ cũng xiêu lòng,
Cha cõi người, cha cõi Thần làm ngay. (2220)
Truyền: Quán Trí, lệnh tung bay,
Đến nhanh trà trộn ai hay trận tiền,
An Kinh kêu hãnh chiến công,
Khiến Troa quân phá hũy tan thề nguyền.
Quán Trí Tuệ dạ bồn chồn,
Thoả lòng vâng lệnh Thần Vương xuống trần.
Tung mình bay khỏi Thiên Đình.
Thoáng nhanh như ánh sao băng ngang trời,
Tinh ranh, lắc léo cuộc chơi,
Ý Thần kỳ diệu chẳng ai đo lường. (2230)
Ngàn muôn tia sáng hoa đăng,
Quán Trí Tuệ thoáng hiện thân trận tiền.
Người người câm lặng ngắm nhìn,
Bên nhau khẽ bảo là điềm chi đây ?
Tang thương cuộc chiến chinh này,
Hay tình thân hữu từ nay vững bền ?
Troa Yên, An Kinh hoang mang,
Quán Trí Thần Nữ hoá thành quân cơ
Lao Đô, con An Thế Nô, (Laodocos, Anthénor),
Tìm Băng Đa Lộc mưu đồ chiến tranh.(Pandaros) (2240)
Bên bờ Ái Bộ quân hùng, (Aisépos)
Chỉ huy ngồi trước đội binh khiên đồng.
Kề bên thỏ thẻ lời bàn:​
Ly Ca công tử, cung tên lẫy lừng,(Lycaon)
Đây cơ hội quý vô cùng,
Nhắm Mai Ninh Lạc đường tên bất ngờ,
Quân Troa Yên sẽ tung hô,
An Lộc nguy khốn mong chờ tri ân. (Alexandre)
Chiến trường người được vinh danh,
Mai Ninh Lạc gục đường tên lẫy lừng. (2250)
Lên giàn thiêu đốt xác thân,
Chiến công người sẽ ghi danh hàng đầu.
Khấn An Long, Sói Tử cầu,(Apollon)
Tế thần chọc tiết con cừu mới sinh.
Một mai về với kinh thành,
Dương La lừng lẫy chiến công anh hùng .(Zéleia)
Nghe lời ngào ngọt mật đường.
Băng Đa Lộc rút cung tên xuống liền,
Cung bằng sừng con sơn dương,
Hắn từng bắn hạ trên rừng núi cao. (2260)
Trúng sườn ngã quỵ lộn nhào,
Sai người thợ giỏi chuốt trao cung sừng,
Vòng vàng chạm khắc nấc tên,
Băng Đa Lộc đứng giương cung sẵn sàng.
Bao quanh quân sĩ đưa khiên,
Chờ che chở tướng, đường thương trận tiền,
Đưa tay mở nắp ống tên,
Gắn vào nỏ khẽ cầu thần An Long.(Apollon)
Hứa lời cúng tế vật sinh,
Một khi về tới kinh thành Dương La.(Zéleia) (2270)
Dây gân bò kéo bật ra,
Rung lên một tiếng bay qua trận tiền.
Mũi tên đồng nhọn tung lên,
Lúc Mai Ninh chạy đi tìm Bá Ly (Ménélas, Pâris),
Chàng nào hay biết những gì,
Quán Trí Tuệ đẩy đường đi tên đồng,
Trúng vào bút thắt đai lưng,
Ở nơi dày áo giáp đồng gấp ba,
Mũi tên trúng bụng rách da,
Đủ làm máu đỏ chảy ra ròng ròng. (2280)
Thắm trên đùi ướt khủy chân,
Đỏ như sắc phẩm các nàng Mê Niên (Méonienne),
Nhuộm lông trang sức mã hàm,
Cho chàng tráng sĩ lên đường chiến chinh.
Cho hoàng tử đợi phục trang,
Ra đi tuấn mã kiêu hùng lưng yên.
Vua An Gia thoáng rợn mình,
Khi nhìn máu đỏ chảy dòng vết thương,
Mai Ninh Lạc cũng lạnh xương,
Nhìn đai tung đứt, mũi tên giáp đồng. (2290)
Vua An Gia giận thét gầm.
Dìu Mai Ninh Lạc, oán hờn nghiến răng:​
“Các người sẽ chết, đời tàn !
Vì manh tâm đã phá tan lời thề,
Trước các Thần tế cừu dê,
Rượu thề cùng uống, tay kề siết tay,
Chúng ta thề thốt việc này,
Thế mà xâm phạm, phá ngay thề bồi,
Thiên Đình chưa trị liền thời,
Sẽ còn trừng trị những người dối gian. (2300)​
Cái đầu sẽ trả ác mang,
Vợ con nô lệ, gia trang tan tành.
Nghe đây : ta quyết hạ thành,
Ý Long rồi sẽ tiêu tan một ngày. (Illion)
Vua Biam và toàn dân này,
Dớt đà định đoạt riêng tây số phần,
Tang thương sẽ giáng xuống thành,
Việc này chẳng thể quên không trị trừng.
Riêng ta đau xót trong lòng,
Mai Ninh Lạc hỡi đau thương mịt mù, (2310)​
Nếu em nhắm mắt thiên thu,
Lòng anh nhất quyết trả thù cho em,
Nhục về Gô Lịch quê huơng (Argolide),
Mà không mang nỗi vinh quang về cùng.
Thành Vua Biam chẳng tan tành,
Bỏ Hạ Lan lại kinh thành Troa Yên.
Bỏ xương tàn chốn chiến trường,
Mà không đạt được ước nguyền ngày đi.
Troa quân nhảy nhót khinh khi,
Dẫm mồ Mai Lạc, còn chi anh hùng. (2320)​
Toàn quân hùng mạnh An Kinh,
Nhất tâm ta quyết vì em một lòng,
Chẳng về đất tổ thuyền không,
Bỏ mình em lại mênh mông sa trường.
Mai Ninh đáp trấn an anh :​
An tâm anh, chớ lấy làm hoảng kinh,
Quân An Kinh mất tinh thần,
Mũi tên chẳng hiểm nguy thân em nào,
Trúng đai đồng may mắn sao,
Hai tầng áo giáp, chiến bào giáp biên. (2330)
An Gia Vương dạ chẳng yên,
Gọi lương y gấp xem liền vết thương,
Bôi thuốc cầm máu, băng liền,
Cho em xoa dịu, vết lành hết đau,
Gọi cận vệ Thi Bộc mau:​
Mời Mã Công gấp cởi bào chữa thương; (Machaon)
Ất Lê tôn tử y truyền, (Asclépios)
Xem Mai Ninh Lạc bị tên thế nào ?
Troa quân nhảy nhót mừng sao,
Vì ta đau đớn máu đào tuôn rơi. (2340)​
Vội vàng cận vệ vâng lời,
Chạy đi tìm kiếm giữa nơi binh đoàn,
Thấy Mã Công giữa đoàn quân,
Giáp binh che chỡ, một đoàn lương y,
Đến bên kính cẩn truyền lời:​
Ất Lê tôn tử, Vua mời đến xem,
Anh hùng Mai Lạc bị thương
Quân Troa Yên bắn mũi tên bất ngờ.​
Mã Công nghe nói rụng rời,
Bước nhanh theo gót gọi mời thị quan. (2350)
Băng mình phía trước binh đoàn,
Đến nơi Mai Lạc đang nằm, máu tuôn.
Chung quanh tướng lĩnh An Kinh,
Một vòng hộ vệ tướng quân như thần,
Mã Công cúi mở đai lưng,
Rút tên, rút ngọn mũi chùng gãy ra,
Tháo đai lấp lánh đồng xoà,
Tháo manh giáp dưới bụng qua đai viền,
Xét xem nơi trúng vết thương,
Hút dòng máu rỉ, ngại tên độc còn. (2360)
Rồi thoa rắc thuốc dịu êm,
Thuốc công hiệu chữa vết thương gia truyền.
Cha ông truyền bởi Chí Long (Chiron)
Học trò yêu quý thuốc thần tay tiên.
Quanh Mai Ninh Lạc gầm vang,
Tiếng hờn oán hận phá tan lời thề,
Ngại Troa Yên tiến quân về,
An Kinh binh giáp chỉnh tề đấu tranh.
An Gia xông xáo điều quân,
Chẳng thu quân, chẳng tránh thân trận tiền. (2370)
Tấm lòng nung nấu can trường,
Quyết tâm chiến đấu vinh quanh anh hùng.
Bốn con tuấn mã dừng chân,
Chiến xa đồng chạm, vệ nhân hầu kề,
Âu Chi công tử Tô Lê (Eurymédon, Ptolémée)
Vốn dòng Bắc Cước giỏi nghề xa cương. (Peiraeos)
An Gia sai đợi một bên,
Phòng khi mỏi mệt bước chân quân hành.
Nhà Vua vội vả đích thân,
Điều quân xông xáo khắp hàng chiến binh. (2380)
Cất cao tiếng nói can trường,
Hàng hàng binh mã sẵn sàng phi nhanh:​
Đạt Liên chớ có xem khinh,(Argiens)
Tấm lòng dũng cảm nhiệt tình chớ lơi.
Địch quân gian xảo thất lời,
Phụ Vương Dớt chẳng cứu đời kẻ gian,
Kẻ đầu tiên phạm lời nguyền,
Diều hâu sẽ rỉa thịt lòng nát tan,
Chúng ta sẽ hạ lũy thành,
Vợ con chúng sẽ bị mang xuống thuyền. (2390)
Kẻ còn nhút nhát trận tiền,
Nhà Vua mắng nhiếc chẳng thương tiếc lời :​
Đạt Liên xạ thủ sức tài,
Lẽ nào nhút nhát hổ ngươi trước thù ?
Tại sao bất động im ru,
Tại sao thờ thẩn lừ đừ như nai ?
Đồng xa dừng bước mệt nhoài,
Tinh thần uể oải biếng lười ra tay.
Đợi gì sờ sững chi đây ?
Thay vì chiến đấu tung bay ngọn cờ. (2400)​
Đợi Troa quân chúng tiến vô,
Bắn vào thuyền lái bên bờ biển lam,
Cồ Nốt Thần tử chẳng còn,
Ra tay cứu giúp nguy nan đường cùng.
An Gia Vương tiếp bước chân,
Đó đây kích động xa gần đoàn binh.
Đến Kiết Toa, giữa đám đông (Crétois)
Anh Đô hùng dũng được lòng kính yêu.(Idoménée)
Như con dã thú hàng đầu,
Mê Long tiếp bước phía sau binh đoàn. (Mérion). (2410)
Mừng vui Vua đã thân chinh,
Một lời dịu ngọt nói cùng tướng quân:​
Nghĩ rằng binh kỵ Đa Niên,(Danaens)
Dù trong chiến trận, dù bàn quân trung,
Rượu hồng thù tạc hòa chung,
Người người uống cạn rượu nồng ra đi.
Ly anh, tôi vẫn còn đầy,
Uống cùng khi thấy lòng nầy khát khao,
Xông pha chiến trận cùng nhau,
Vinh quang thay khoát chiến bào ra quân. (2420)
Anh Đô Mai đáp tình thân :​
An Trích anh hỡi, lòng trung vững bền,
Dù bao khốn khó trận tiền,
Lòng tôi đã hứa theo anh đến cùng,
Hãy đi khích lệ các quân,
An Kinh dài tóc hợp đồng đấu tranh,
Troa quân phản bội thề nguyền,
Rõ ràng cái chết tóc tan mịt mờ,
Như lời khấn trước bàn thờ,
Ai người bội ước, đợi chờ tai ương. (2430)
Bước đi An Trích vui lòng,
Đến nơi An Bắc trong vòng hùng binh, (Ajax)
Hai chàng cùng đội mũ đồng,
Đoàn binh như đám mây vần theo sau,
Nhìn xa từ ngọn đồi cao,
Như mục đồng trước mưa rào mây đen,
Gió Tây Khuê biển thổi lên, (Zéphyre)
Mây như nhựa quyện mang lên bão bùng,
Mục đồng xông xáo đuổi chăn,
Lùa đàn thú đến đồng xanh cỏ mềm. (2440)
An Bắc dòng dõi Thần Vương,
Bước chân hùng dũng binh đoàn sắt lam.
Khiên tròn lao nhọn rợn mình.
An Gia Vương thấy lòng mừng hân hoan :​
An Bắc hai tướng giáp đồng,
Chỉ huy dũng sĩ tiến quân sa trường.
Hỡi Thần Dớt, đấng Phụ Vương,
An Long, Quán Trí đến bên hộ trì,
Trái tim anh dũng ra đi,
Ngực lồng khí khái, xá gì gian nan. (2450)​
Thành Vua Biam sẽ chóng tan,
Tay ta phá nát thoả hờn binh đao.
Nói rồi cất bước đến mau,
Ninh Tô Vương lão hô hào quân binh,
Hàng hàng đội ngũ hùng cường,
Chung quanh chiến tướng binh đoàn giáp cung.
An Lạc, Cồ Mi, Phê Long (Alastor, Chrominos, Pélagon)
Hải Mông, Bi Án anh hùng kỵ binh. (Hémon, Bias)
Ngựa, xe binh đội theo cùng,
Binh hùng đi trước, binh thường theo sau. (2460)
Trận tiền dù có thế nào,
Cũng cùng chiến đấu, phất cao ngọn cờ,
Kỵ binh quân giáp đứng chờ,
Dừng cương đợi lệnh đến giờ tiến quân:​
Hãy cùng đồng loạt tiến công,
Không sau, không trước, trận binh vững vàng,
Kỵ xa phóng trước đường thương,
Quân sau nhanh bước mở đường, xẻ ngang,
Thành hào sẽ phá tan hoang,
Với lòng can đảm, liên hoàn tiến công. (2470)
Nghe lời cổ võ Lão Vương,
Dạn dày kinh nghiệm chiến trường đấu tranh,
Mừng vui An Gia Đại Vương:
Ngõ lời nói với lão công anh hùng:​
Lão Vương chí ngút trời xanh,
Từ trong tim ngực can trường hùng ca,
Dù cho đè nặng tuổi già,
Bao chàng tráng sĩ xông pha hơn nào ?
Đáp lời Vương lão Ninh Tô:
Lĩnh Nam tôn tử, mưu đồ lược kinh:(Génénia) (2480)​
An Trích Đại Vương khá khen,
Lòng tôi cũng muốn như còn thanh niên,
Từng phen giết Âu Thanh Long,(Ereuthalion),
Nhưng Thần chẳng muốn mãi luôn sức bền,
Ngày xưa còn tuổi thanh xuân,
Giờ đây tôi đã lão niên sức mòn.
Thì tôi ở giữa trung quân,
Cổ võ dũng tướng, lược kinh luận bàn.
Sức già khuyến khích cháu con,
Phóng đường lao chốn chiến trường xông pha. (2490)​
Thanh niên mạnh mẽ hơn ta,
Lời ta thêm sức cũng là đấu tranh.
An Trích mừng vui trong lòng,
Đến Mai Quốc Thế, tướng thành Nhã Kinh,(Ménesthée, Athènes)
Phi Thế tôn tử vây quanh, (Pétéos),
Nhã dân các tướng chiến trường quân binh, (Athéniens)
Mai Quốc bất động đứng yên,
Cạnh bên Uy Lĩnh hàn huyên chuyện trò,(Ulysse)
Quân Kê Phan chẳng tiếng hô (Céphalléniens),
Các đoàn quân khác reo hò tiến công. (2500)
Nghĩ rằng cuộc chiến kề gần,
Mà sao quân chẳng xông lên chiến trường.
An Gia lên tiếng trách hờn :​
Tôn tử Phi Thế giống dòng Thần Vương,(Pétéos)
Và ông đầy kế mưu khôn (Ulysse),
Đợi chi mà chẳng lên đường xông pha,
Khi vui nhập tiệc cùng ta,
Rượu ngon, thịt nướng vật quà đãi bôi,
Lẽ nào chiến trận nhìn cười,
Trước người tiến bước hơn mười đoàn quân. (2510)​
Uy Lĩnh sầm mắt lời rằng :​
Lời nào vừa thoát môi răng muộn phiền,
Vì sao dám nói rằng không ?
Chúng tôi do dự chẳng xông trận tiền,
Rồi đây trên chốn chiến trường,
Cha Thế Viễn Mạc xứng danh thế nào (Télémaque),
Lời Ngài chẳng có làm sao !
An Gia cười đáp lỗi câu lỡ lời :​
Uy Lĩnh ta biết lòng người,
Lòng đầy mưu chước lâu dài kế hay. (2520)​
Cho tôi xin lỗi lời này,
Xin Thần trả lại lời ngay chân thành.
Nói rồi chân rảo bước nhanh,
Gặp tướng Đỗ Mạnh tiếng tăm kiêu hùng. (Tydée Diomède)
Ngựa xe bất động lạ lùng,
Cạnh Thế Ninh Lộc đứng cùng bên nhau. (Sthénélos)
An Gia Vương thấy: Vì sao ?
Ty Đê tôn tử anh hào kỵ quân,
Vì sao còn mãi tần ngần,
Sao không xung trận lập công hàng đầu ? (2530)​
Cha người danh tiếng thiên thu,
My Liên vì nghĩa cơ cầu hợp binh,
Cùng Bồ Ly sức như thần, (Polynice)
Đem binh hỏi tội, vây thành Thép Kinh (Thèbes),
Khẩn cầu Thần thắng quang vinh,
Ngờ đâu ngang trái sự tình chẳng hay,
Dớt làm khốn khó đoạ đầy,
Bên An Cơ Bộ gửi ngay sứ thần, (Aesopos)
Ty Đê gan dạ một mình,
Sảnh đường thành Thép giữa bàn tiệc vui. (2540)
Cung vua Âu Lộc đông người (Étéocle)
Lũ con Cát Mộc ngạo cười khinh khi. (Cadmos)
Tướng Ty Đê chẳng sợ ai,
Thao trường cùng thách giao tài song phương.
Trò nào cũng thắng vẻ vang,
Quán Trí Thần Nữ hiện thân giúp chàng.
Lũ con Cát Mộc bực mình,
Rắp tâm mai phục, đón đường âm mưu.
Năm mươi tên nơi hiểm sâu,
Hai tên chủ tướng tài cao khôn lường. (2550)​
Mai Ôn, công tử Ái Mông (Maion, Aimon),
Sức hùm so với, như thần sánh vai,
Ly Cô Phong Tích ngang tài,(Lycophontès)
Âu Tô Phong Nốt vốn nòi kiếm cung. (Autophonos)
Ty Đê chẳng sợ đám đông,
Một mình đánh bại quang vinh kẻ thù,
Chỉ chừa Mai Ôn khẩn cầu,
Theo Thần dạy chẳng chém đầu, phóng sinh.
Ấy là Ty Đê, Âu Tố Liên (Tydée Etolien)
Người con dũng tướng có bằng cha ông ? (2560)
Đỗ Quân chẳng nói chẳng rằng,(Diomède)
Trong lòng kính phục trung quân chẳng nề.
Cát Ba công tử khó nghe, (Capaneus)
Buông lời đối đáp, chẳng hề sợ ai :​
An Trích chớ nói dong dài,
Chúng tôi anh dũng gấp mười cha ông,
Vinh quang nhờ bởi các Thần,
Nhờ ơn Dớt mới phá thành Thép Kinh.
Kinh thành bảy cửa hùng cường,
Dù binh tôi có ít hơn rất nhiều. (2570)​
Cha ông thắng bại lắm điều,
Chẳng nên so sánh một chiều mà thôi.
Chau mày Đỗ Mạnh trả lời :​
Hãy vâng lời dạy, bạn thời im đi !
Tôi không tự ái những gì,
Lời Vua kích động chỉ vì chúng ta.
Muốn An Kinh phá thành Troa,
Chiếm Ý Long hát khúc ca khải hoàn.
Nếu An Kinh bại trận tiền,
Đớn đau số phận sẽ dành tang thương. (2580)
Chăm lo gắng sức chiến trường,
Phận người dũng tướng lên đường xông pha.
Nói rồi nhảy thót chiến xa,
Tay cầm vũ khí, lời vua động lòng,
Những lời trong ngực nóng ran,
Con tim dũng cảm can trường bùng lên.

Như từng đọt sóng dâng tràn,
Gió Tây Khuê thổi qua ngàn biển sâu.
Tung vào bờ sức sóng trào,
Bọt bay trắng xóa tung vào bờ xa. (2590)
Đa Niên như sóng tràn qua,
Quân đi theo lệnh tiến ra sa trường.
Tướng quân xe ngựa oai nghiêm,
Binh đoàn im lặng nối hàng theo sau.
Bao bầu huyết nóng tuôn trào,
Giáo gươm sáng loáng cất cao thẳng hàng.

Troa Yên như đám cừu non,
Trên đồng vị chủ gia trang sang giàu.
Đợi chờ người vắt sữa mau,
Lao xao nhốn nháo kêu gào chẳng yên. (2600)
Tiếng kêu vang dội triền miên,
Bao nhiêu tiếng nói, bao miền đến đây.
Thần Chiến kích động phe này,
Quán Trí phe khác mắt say Cú Thần.
Thần Kiếp Sợ, Trốn, Thù Hằn,
Các em Thần Chiến, lăng xăng chiến trường.
Gieo căm giận, gieo tang thương,
Đó đây vang tiếng oán hờn binh đao.
Hai bên giáp trận khiên lao,
Xông vào đâm chém, máu đào tuôn rơi. (2610)
Tiếng vang vũ khí lạnh người,
Tiếng gào, tiếng thét, ngút trời máu tanh.
Như dòng thác cuộn chảy nhanh,
Hai dòng thác dội nước tung trắng trời.
Vọng xa đến tận mù khơi,
Vang lên núi biếc đến tai mục đồng.
Chim muôn hoảng sợ bay nhanh,
An Thi Lộ Cốt tiến hàng trước tiên, (Antilochos)
Đâm Troa Yên mũi giáp đồng,
Tha Lý công tử, lao xuyên sọ người, (Thalysias) (2620)
Âu Chinh Lộ gục, mắt lồi, (Echépolos)
Khiên lao rơi rụng tơi bời ngã lăn.
Anh Phi Nô nắm lấy chân, (Eléphénor)
Thanh Cô công tử tướng thành An Băng.(Chalcodon, Abantes)
Xông toan cướp lấy giáp khiên,
Kéo lên xác địch vê bên phe mình.
Anh Gê Nô tướng Troa quân, (Agénor)
Đâm vào sướn lúc giáp đồng hở hang,
Anh Phi đang cúi trúng thương,
Lìa trần, hai xác kinh hoàng cuộc tranh. (2630)
Troa Yên cùng với An Kinh,
Hai đàn chó sói xông lên thét gầm,
Lao vào đao kiếm xả lăn,
Cứu nhau đâm chém tranh giành xác thân.
An Bắc, công tử Thế La Môn.
Giết chàng Si Mộc con dòng Thê Mông. (Simoisios, Athémion),
Núi Y Đa mẹ xuống đồng (Ida),
Sinh chàng nuôi nấng bên dòng Si Mô (Simois)
Mẹ theo phụ mẫu xem bò,
Đặt tên Si Mộc mong cho nên người. (2640)
Uổng công cha mẹ biển trời,
Tấm thân trai trẻ ngậm ngùi dưỡng sinh.
Hàng dầu Troa binh tiến quân,
Ngọn lao An Bắc phóng ngang thân mình,
Xuyên tim phải, gục, bụi tung,
Như cây cao ngã giữa vùng đầm ao,
Lao khiên rơi xuống đổ ào,
Chiến xa lật gọng rơi nhào bên sông.
An Bắc xông cướp giáo khiên,
Bên thây Si Mộc ngã nghiêng chiến trường. (2650)
An Phổ con vua Biam xông lên, (Antiphos)
Ngọn lao phóng tới lướt bên thân mình,
Trúng vào Liêu Cốt ngã lăn, (Leucos)
Bạn An Sinh lúc kéo thân xác thù,
Buông thây hụt hẩng lao đao,
Uy Lĩnh xông tới hàng đầu chắn ngang.
Mũ đồng, lao nhọn sáng choang,
Troa binh lùi bước kinh hoàng tướng quân.
Ngọn lao cũng chẳng nhọc công,
Đề Mô ngã gục con dòng vua Biam.(Democoon) (2660)
Đến từ An Độ viện quân, (Abydos)
Ngã lăn xuống ngựa, lao xuyên đỉnh đầu,
Mũi lao lòi mắt, máu trào,
Kinh hoàng khiên giáp đổ ào đớn đau.
Quân Troa sợ hãi lùi mau,
Hải Tô kinh hãi, cùng nhau chạy dài. (Hector)
Quân Đạt Liên thét vang trời,
Kéo dành xác địch, quân thời xông lên.
Thần An Long đỉnh Bắc Lam (Apollon, Pergame)
Gọi Troa quân cũng cố hàng chiến binh : (2670)
Troa binh, quân kỵ tiến lên,
Chớ nên lùi bước trận tiền Đạt Liên,
Da chúng sắt đá gì chăng ?
Làm sao chống cự gươm đồng chém đâm.
Chẳng còn sợ tướng An Sinh,
Con Thần Thê Túc, đẹp lưng tóc dài,
Bên thuyền chẳng đánh cho ai,
Giận hờn tím mật chẳng nguôi trong lòng.
Phe An Kinh hiện các Thần,
Quán Trí con Dớt, cõi trần quang vinh. (2680)
Xông lên cổ võ quân binh,
Nơi nào binh sĩ giản quân lơi là.
Bắc Tuấn, Thành Các xông ra (Peiros, Thrace),
Công tử Anh Bát, cửa nhà Ái Nô, (Imbrasos, Ainos)
Sức hùm khiên tảng đá to,
Ném Đinh Ô Thiết trúng vào khủy chân, (Diorès)
Mệnh xui, chân nát đứt gân,
Đinh Ô ngã xuống, bạn thân đỡ chàng,
Bắc Tuấn lao đến phóng thương,
Xuyên ngang dưới rốn, ruột gan tuôn trào. (2690)
Tố Liên, Thọ Kha xông mau, (Thoas dân Etolien)
Phóng ngay Bắc Tuấn ngọn lao xuyên mình,
Rồi tiến bước tới rút nhanh,
Bồi thêm Bắc Tuấn nhát gươm lìa trần.
Chẳng xông lên cướp giáo khiên,
Quanh thây Bắc Tuấn bao quanh quân hầu,
Quân Thạch Các túm tóc đầu,
Lao dài ngăn chận tranh nhau thi hài.
Chiến trường cát bụi, mồ hôi,
Hai thây dũng tướng lìa đời bên nhau. (2700)
Âu Biên, Thạch Các máu đào (Épéen, Thrace)
Tranh giành thần xác biết bao máu hồng.
Vì ai bao nỗi điêu linh,
Vì ai xui khiến sự tình máu xương.
Bóng người ngang dọc chiến trường,
Kiếm lao đâm chém, vết thương máu hồng.
Quán Trí xui bắn tên đồng,
Mà bao máu đổ cõi trần tang thương.
Bụi tung mờ mịt chiến trường,
Kề nhau cái chết xác thân duỗi nằm. (2710)
(Còn tiếp)​

CHÚ THÍCH:

Mycènes, Sparte, Argos: Ý đoạn này báo trước ba thành sẽ bị dân Driennne tàn phá.

Méoniênne Mê Niên hay Cariennne, nơi các cô gái chuyên nghề nhuộm lông trang trí ngựa.

Ý Long Ilion do tên vua Ilos người xây dựng thành. Chữ Iliade là chuyện thành Ilion hay thành Troie

Bắc Lam (Pergame). Tên thượng thành thành Troa.

Chiron : Chí Long từng dạy Y học cho Achille.
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC V

CHIẾN CÔNG TƯỚNG DIOMÈDE
ĐÁNH CÁC THẦN VÉNUS, APOLLON, ARÈS
(câu 2711 đến 3676)

Thi Ca Khúc V, thật thú vị. Thi hào Homère đã cho người trần đánh cả các Thần. Với sự hổ trợ của Thần nữ Athéné. Diomède đã đâm bị thương Thần Vệ Nữ Aphrodite may nhờ thần Cầu Vòng Iris dìu lên xe Thần Chiến Arès bay về Thiên Đình, Diomède đánh với Thần Apollon bốn lần, bị thần nạt mới lùi bước. Diomède đâm trúng cả Arès Thần Chiến Tranh phải chạy về Thiên Đình. Thi hào Nguyễn Du viết " Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều " nhưng không kể chi tiết ai đã từng thắng thiên. Thơ Homère cười ngạo Thần Vệ Nữ, Thần bị Diomède đâm trúng cánh tay, bị thương vể nũng nịu với mẹ là Nữ Thần Dioné, bà an ủi con, kể một loạt chuyện các Thần bị người trần đánh :

-Thần Chiến Tranh Arès bị Otos và Ephialtès bắt nhốt trong tù ngục vách đồng 13 tháng, nếu không nhờ thần nữ Eribé báo cho Sứ Thần Hermès cứu đem về, sức đà cùng kiệt thê thảm, những vòng xích sắt không thoát thân được.

-Thần nữ Héra vợ Thần Vương Zeus, cũng bị Héraclès, con Amphytrion bắn lầm ba mũi bên vú phải.

-Thần Hadès, em Zeus cai quản Địa Ngục, tại Pylos bị Héraclès bắn vào bả vai phải trở về ThiênĐình nhờ Paeon cứu chữa.

Người trần đoản mệnh có sống, có chết. Cõi Thần bất tử, vô thủy vô chung. Thế mà Homère cả gan cho người trần đánh với Thần.

Người trần máu đỏ, cõi thần các thần không ăn thịt cá, bánh mì, uống rượu vang nên máu màu trắng. Homère đã nhìn thấy máu Thần chỉ toàn là ‘bạch huyết cầu’ ? Trong Odyssée, tiên nữ Calypso cung phụng Ulysse đãi đầy đủ các món sơn hào hải vị trần gian. Bảy năm chàng dũng sĩ mưu trí, suốt ngày chỉ làm tình với tiên nữ rồi ăn ngon mặc đẹp, nên chán cảnh thiên đường, chiều chiều ra bờ biển ngồi khóc và nhất định đòi về trần gian, phải nhờ Hội Nghị chư thần trên Olympe ra nghị quyết giải cứu người " tình tù ", cho Thần Hermès xuống hăm doạ, chàng mới được Calypso tha cho được đóng bè đi về. Thiên đường Hồi Giáo, mang dây nịt chất nổ , đùng một cái thì được tới 72 tiên nữ như thế, thì chỉ có nước đi tu.

Thật là hài hước Homère đã cười ngạo Thần Chiến Tranh, là thần gây chết chóc tang tóc cho loài người, bị Diomède đâm bị thương trở về mắng vốn với cha là Thần Vương Zeus, lại bị mắng như một đứa trẻ thơ. Nhưng cuối cùng Zeus cũng cho cứu chữa, và sai thần Hébé hầu hạ tắm rửa thay quần áo mới bảnh bao.

Thế giới thần thoại Hy Lạp, có liên hệ gì đến thần thoại Ấn Độ chăng ?. Zeus và Héra, ông Trời và bà Trời có hai đứa con : là Héphaïstos và Arès. Héphaïstos là thần xây dựng, cung điện cõi Olympe đều do thần này dựng xây, có đoạn trong Iliade thần còn sáng chế cả Robot !. Homère đã miêu tả ông thần thợ rèn chân đi cà thọt, dễ thương trên các buổi tiệc Thiên Đình thường đi rót nước Nectar mời mọc và chọc cười mọi thần làm cho không khí Thiên Đình vui vẻ. Héphaïstos được nữ thần Thétis nhờ rèn vũ khí cho con là Achille ; có lúc vì bênh mẹ, bị Zeus nắm chân ném thẳng xuống trần gian, lọt vào núi lửa Etna bên Ý, thành thợ rèn chân đi cà thọt. Arès là thần chiến tranh phá hoại các công trình dựng xây. Héphaïstos có vợ là Aphrodite, thần Vệ Nữ xinh đẹp, nhưng nàng ngoại tình với Arès. Trong Odyssée, Héphaïstos đã làm máy lưới bẩy chụp hai thần đang làm tình trên giường dính vào nhau không cục cựa được và mời cả Thiên Đình đến xét xử.

Thần Vệ Nữ có quyền lực yêu đương , nàng có cái yếm và dãi thắt lưng, ai mang vào thì đối tượng sẽ mê mệt, không cưỡng lại được. Thần nữ đã cho Pâris mượn, làm mê hoặc Hélène, khiến người xinh đẹp nhất trần gian bỏ chồng, bỏ con, mang hết vàng bạc nữ trang đi theo Pâris là nguyên nhân cuộc chiến thành Troie. Trong Iliade, nàng còn cho Bà Trời Héra mượn để quyến rũ Ông Trời Zeus giăng mây vàng làm tình trên đỉnh núi Ida, để mê mệt ngủ quên không giúp cho Hector thành Troia.

Thi hào Homère đã duyên dáng chọc cười mọi người bằng những chuyện trên cõi Thần ; khiến cho các buổi các du tử ngâm thơ Homère, mọi người đều say mê, khoái trá không bị ngủ gục ; nhưng bù lại các du tử bị xem là bất kính với thần thánh, bị hăm doạ choàng vòng hoa và đuổi đi ra khỏi thành phố. Các Thần khác đều do Zeus đa thê, mặc cho bà vợ Héra ghen tuông, đã tằng tịu với các Thần Nữ khác mà sinh ra. Thần Vệ Nữ trong Iliade, sinh bởi Thần Nữ Dioné. Nhưng có chổ lại nói Zeus giết cha Cronos, sinh thực khí rơi xuống đảo Chypre mà sinh ra, nên nàng còn có tên Cypris. Ngày nay phía Nam đảo còn có tảng đá truyền tụng nơi nàng sinh ra.

Thần Nữ Athéné là vị thần duy nhất do Zeus tự sinh ra, phải nhờ Héphaïstos lấy cái búa bửa từ cái trán mà sinh ra. Athéné là thần trí tuệ, là thần chiến thắng cũng là thần hoà bình. Athéné trinh trắng suốt đời, không chồng cũng không có con. Tại Paris, ngôi đền có kiến trúc sao chép giống như đền Athéné tại Athène lại biến thành nhà thờ Thánh nữ Madeleine, vốn là một nàng Kiều có công trạng chăm sóc cho Chúa.

Thần Nữ Athéné thổi bùng tâm can trường Diomède lòng can đảm, cho chàng lập những chiến công anh dũng. Thần nữ Athéné kéo Thần Chiến Tranh Arès đi xa chiến trường. Các tướng Hy Lạp thắng trận, quân Troie rút lui. Diomède mặc dù bị Pandaros bắn trúng vai, vẫn xông lên giết được hắn và đả thương Énée. Thần Vệ Nữ Aphrodite nhảy vào cứu con trai Énée, cũng bị Diomède đâm thương trúng cánh tay. Aphrodite được Thần nữ Iris dìu về Olympe. Thần Apollon cứu Énée và đưa Thần Arès trở lại chiến trường. Quân Troie phản công trở lại, quân Hy Lạp núng thế. Thần nữ Héra và Thần nữ Athéné giúp quân Hy Lạp khiến Diomède đâm trúng Thần Chiến Tranh Arès. Thần Arès bay về Olympe, các Thần cũng về theo sau, Arès mắng vốn với cha, bị Thần Vương Zeus mắng, nhưng vì là con nên cũng cho Paeon chữa trị, và sai Hébé tắm rửa, mặc quần áo mới...

Quán Trí Tuệ thổi bùng lên .(Athéné) (2711)
Vào tim Đỗ Mạnh can trường cuồng điên.
Cho hơn các tướng Đạt Liên, (Argiens-Hy Lạp)
Chiến công rực rỡ vinh quang lẫy lừng.
Nữ Thần hóa phép mũ khiên,
Sao băng như ánh lửa thiêng rực trời.
Lửa hồng chiếu sáng đầu vai,
Tung hoành sôi động dòng người cuộn mau.
Troa quân hai tướng đối đầu,
Phi Quốc, Đa Quốc ngồi vào chiến xa. (Prygeus, Idaios)
Hai con Đa Lạc xông pha, (Darès)
Phụng thờ Hỏa Thái con nhà binh đao. (Thần Héphaïstos) (2720)
Đa Quốc ưởng ngực phóng lao,
Lướt vai Đỗ Mạnh chẳng sao giáp đồng.
Ty Đê công tử phóng nhanh,(Tydée Diomède)
Xuyên giữa lồng ngực, ngã ầm máu me.
Đa Quốc chạy trốn khỏi xe, ( Idaios)
Chẳng còn lòng trí mang về xác anh.
Tấc gang cái chết thoát thân,
Thần Hỏa Thái cứu bao quanh sương mờ.
Mang về hậu cứ làng quê,
Cho cha già bớt não nề đau thương. (2730)
Tydée công tử cướp cương,
Giao cho binh vệ chiến công về thuyền.
Quân Troa kinh hãi bàng hoàng,
Hai trai Đa Lạc mất, còn trốn đi.
Quán Trí Mắt Cú trong mây,
Bên Thần Chinh Chiến cầm tay vài lời :​
Thần Chiến hiểm họa loài người,
Thành trì đổ nát, máu rơi chiến trường.
Mặc cho Troa Yên, An Kinh,
Phụ Vương Dớt phán con đường vinh quang. (2740)​
Cho phe nào thắng mặc tình,
Rút lui chớ để bực mình Thần Vương.​
Nắm tay Thần Chiến kéo lên,
Rời xa chiến trận bên dòng Sa Măng (Scamandre)
Đa Niên đẩy lùi Troa quân,
Mỗi tướng đều thắng chiến công lẫy lừng.
Vua An Gia phóng lao nhanh,(Agamemnon),
Ô Đốc cao lớn vua vùng Hải Đông, (Odios, Halizones)
Hắn đà toan tránh kinh hoàng,
Ngọn lao đã cắm sau lưng xuyên mình. (2750)
Ô Đốc gục xuống máu hồng,
Vất tung xe ngựa, vang rền giáp khiên.
Anh Đô giết Phai Tướng quân (Idoménée, Phaïstos)
Công tử Bồ Lộc từ miền Tà Nê,(Méonien Boros, Tarné)
Trúng vai phải gục xuống xe,
Quân binh tiến đến xông hè phanh thây.
Mai Ninh Lạc phóng lao bay, (Ménélas)
Giết Sa Măng Đốc vốn tài đuổi săn, (Scamandrios)
Sồ Phi công tử giống dòng, (Strophios)
Đạt Thế Mỹ dạy bắn cung sở trường. (Thần nữ Artémis) (2760)
Nuôi trong rừng núi cao xanh,
Bắn tên săn thú, chạy nhanh rừng ngàn.
Hắn toan quay ngựa thoát thân,
Ngọn lao Mai Lạc xuyên lưng đổ nhào,
Mê Long giết Phê Lộc lao (Mérion,Phéréclos)
Hạc Mô công tử tài cao đóng thuyền. (Harmobidès)
Quán Trí khôn khéo dạy nên,
Khéo tay chế biến công trình dựng xây.
Đóng cho Bá Lộc thuyền đi (Pâris Alexandre)
Chiếc thuyền xinh đẹp từ đây khởi đầu. (2770)
Cội nguồn chinh chiến thảm sầu,
Dân Troa, thân phận cơ cầu điêu linh.
Bất hòa tranh chấp các Thần,
Người trần gánh chịu kiếp thân chiến trường.
Mê Long đuổi Phê Lộc nhanh,
Đâm vào mông dưới thấu xương lạnh lùng.
Phê Lộc gục ngã lăn đùng,
Rỉ rên Thần Chết hồn cùng thiên thu.
Mê Thiết phóng lao ngang đầu,(Mégès)
Phê Đài con thứ nàng hầu An Nô. (Pédaios, Anténor) (2780)
Thể Nương kính chồng quý yêu, (Théano)
Nuôi như con ruột như bao con mình.
Phi Lê công tử danh truyền, (Phylée)
Đường lao danh tiếng trúng xuyên gáy đầu,
Bay qua miệng dưới hàm râu,
Cắm ngang dưới lưỡi như hầu ngậm lao.
Âu Phi thấy Hiệp Sê Nô, (Eurypyle, Hypsénor)
Đồ Lô công tử, tự thờ Sa Măng;(Dolopion, thần sông Scamandre)
Dân Troa kính nể như thần,
Toan lui trốn chạy nhanh chân trận tiền. (2790)
Anh Vệ Công vung gươm đồng, (Evaimon)
Cánh tay rơi xuống, máu hồng bắn tung.
Hiệp Sê Nô gục chiến trường,
Đớn đau số mệnh bên đường phù sinh.
Hai bên giáp trận xung phong,
Chẳng còn ranh giới liệt phân trận tiền.
Ty Đê công tử dọc ngang,
Chẳng còn ai biết chàng bên phía nào.
Khi như sông chảy ào ào,
Bão dâng tràn cuốn, đê rào đồng xanh. (2800)
Như mưa sấm Dớt tan tành,
Phá bao mộng đẹp công trình thanh xuân.
Ty Đê công tử đuổi tung,
Hàng hàng binh sĩ Troa quân tiến gần.
Số đông chẳng thể ngăn chàng,
Sức thần đánh bạt đầy đàng máu tuôn.
Băng Đa công tử Ly Ông,(Pandaros con Lycaon)
Thấy tướng Đỗ Mạnh tung hoành dọc ngang.
Nhắm chàng bắn một phát tên,
Trúng bờ vai phải chổ cong giáp đồng. (2810)
Máu tuôn tay áo ướt dầm,
Ly Ông công tử huênh hoang lời rằng :​
Tiến lên toàn quân Troa Yên,
Kẻ anh hùng nhất An Kinh đời tàn,
Ta cam đoan hắn bị thương,
Chẳng còn chịu đựng, sống còn chẳng lâu.
Trừ con Thần Dớt cứu cho.
Lòng đầy tự đắc công to hàng đầu.
Nhưng Đỗ tướng quân đã mau,
Mũi tên địch chẳng làm đau đớn nhiều. (2820)
Lui chân ngựa cạnh bạn hầu,
Tướng Thế Lộc phụ nhổ mau giúp giùm (Sthénélos)​
Kha Ba công tử bạn thân,(Capanée)
Nhổ giùm ngay gấp mũi tên vai mình.
Tướng Thế Lộc rời xe cương,
Đến tướng Đỗ Mạnh nhổ nhanh tên đồng.
Vết thương máu đổ một dòng,
Vải thô bịt chặt, thuốc cầm vết thương.
Tướng Đỗ Mạnh khẩn cầu thần :
Cầu xin Thần nữ sức thân hùng cường. (2830)​
Ái nữ Thần Zeus khiên vàng,
Đã từng phù trợ chiến trường phụ thân,
Ngày nay hãy yêu mến con,
Quán Trí Thần nữ giúp tròn chiến công.
Chế ngự được kẻ bắn cung,
Mũi lao trúng đích, hạ tên địch này.
Huênh hoang khoe mũi tên bay,
Rằng tôi chẳng sống lâu dài ánh dương.
Quán Trí nghe tiếng hiện thân,
Đến bên phù trợ tay chân nhẹ nhàng. (2840)
Bảo chàng : Người hãy yên tâm !
Chiến tướng Đỗ Mạnh, anh hùng An Kinh.
Ta đà mang đặt trong tim,
Tấm lòng dũng cảm can trường cha ngươi.
Ty Đê danh tướng tuyệt vời,
Tấm khiên lay động rung trời trường thương.
Mở to con mắt phi thường,
Rồi ta sẽ đến phủ sương che trời,
Để người phân biệt Thần, người,
Ta cho người chiến đấu chơi với Thần. (2850)​
Vệ Nữ con gái Thần Vương (Aphrodite),
Cứ đâm nàng với mũi gươm sắt đồng.
Quán Trí Mắt Cú biến nhanh,
Ty Đê công tử nhanh chân trận tiền,
Say sưa chiến đấu quyết tâm,
Tấm lòng dũng cảm ba lần nhiều hơn.
Như con sư tử bị thương,
Khi vào chuồng thú bởi tên mục đồng.
Vết thương càng khiến điên lòng,
Cừu bầy co cụm, kẻ chăn trốn vào. (2860)
Bầy cừu san sát lao xao,
Sư tử nhảy phóc vào rào càng say.
Tướng quân Đỗ Mạnh sức dai,
Nhảy vào xông xáo chẳng ai tranh cùng.
Đánh Án Tinh, Hải Phê Long, (Astynoos, Hypéron)
Kẻ lao giữa ngực, kẻ thanh kiếm dài,
Đứt mình đầu cổ tuôn rơi,
A Bát, Phổ Lý rụng rời chạy ra, (Abas, Polyidos)
Con trai Âu Ly chiêm gia (Eurydamas)
Ngọn gươm Đỗ Mạnh chẳng tha sống thừa. (2870)
Săng Thước, Thọ Ôn mới vừa,(Xanthos, Thoon)
Hai trai Phai Thước cha già muộn con. (Phainops)
Gia tài để lại giang sơn,
Lưỡi gươm oan nghiệt oán hờn cho cha.
Thanh xuân chẳng trở lại nhà,
Tóc tang oan nghiệt mắt già lệ rơi.
Gia tài phân tán cho người,
Dòng xa tộc họ cơ ngơi sơn hà.
Hai con vua Biam xông ra,
Mẹ Đạt Nương Tử, chiến xa cùng vào. (Darnanos) (2880)
Âu Thế Mông và Cồ Mao (Echémmon, Cromios),
Gặp tướng Đỗ Mạnh máu đào tuôn rơi.
Như con sư tử vồ mồi,
Kẻ rơi gãy cổ, kẻ rời chiến xa.
Quân tướng Đỗ Quân xông ra,
Cướp cương xe, vũ khí đưa về thuyền.
Anh Quân rung giáo kinh hoàng, (Énée)
Hàng đầu tướng lĩnh trận tiền nát tan,
Chạy tìm Băng Đa trong hàng, (Pandaros)
Mong Ly công tử nỏ thần cứu nguy.(Lycaon): (2890)​
Băng Đa Tử hãy ra tay,
Chẳng ai địch nổi nỏ này của ngươi.
Hãy bắn phát nữa vào người,
Đang gieo tai họa khắp nơi tung hoàng.
Bao tướng anh dũng Troa quân,
Chiến trường ngã gục trước thanh kiếm này.
Phải đây chính là Thần đây,
Lỗi ta chẳng tế Thần nay giận đùng.​
Ly Ca công tử lời rằng:
Anh Quân dũng tướng giáp đồng quân sư,(Énée) (2900)​
Ty Đê công tử hình như,
Chiếc khiên của hắn lắc lư mũ đồng.
Hai con ngựa chạy xe nhanh,
Đỗ Mạnh chính hắn chẳng thần chi đâu !
Nếu Thần hổ trợ sức mầu,
Bờ vai bay nhẹ một màu sương lam.
Chắc Thần đã rút mũi tên,
Trúng bờ vai phải xuyên bên giắp đồng.
Nếu không nhờ sức của thần,
Tên này đưa hắn cõi âm chóng chày. (2910).
Tôi không xe ngựa nơi đây,
Dù trong cung điện lâu đài Ly Công (Lycaon)
Mười hai xe mới đóng xong,
Mỗi xe hai ngựa yên cương sẵn sàng.
Lúa mạch tươi trắng, thóc ngon,
Cha tôi sắp sẵn khởi hành đem theo.
Nhưng tôi từ chối đủ điều,
Ngại đem xe ngựa bao nhiêu nhọc nhằn.
Tôi đi bộ đến Ý Long,(Illion)
Chỉ cây cung nỏ, sức trông cậy nhờ. (2920)​
Chẳng mất công sức đợi chờ,
Hai tướng lĩnh địch bây giờ trúng tên.
Mai Lạc, Đỗ Mạnh máu tuôn,
Lòng tôi khoái trá đả thương địch thù.
Ấy là số mệnh thiên thu,
Tay tôi nâng lấy, tên từ nỏ cong.
Vì tôi yêu mến Ý Long,
Nên càng cứu giúp Troa dân cơ đồ.
Một lòng với tướng Hải Tô,(Hector)
Mà quê nhà biết bao giờ đợi trông. (2930)​
Vợ hiền, mái rộng cung đình,
Hay là đầu rụng lưỡi gươm thù này.
Vất tên, đốt nỏ xuôi tay,
Còn chi mang được tháng ngày hư không ?
Anh Quân dũng tướng Troa quân (Énée) :​
Chiến trường chớ nói dài dòng mà chi,
Chẳng thay đổi được những gì,
Chỉ còn tranh đấu, sức này kiếm cung,
Nào nhanh lên ngựa xe cùng,
Ngựa Trô thần mã nhanh rong chiến trường. (Trôs)* (2940)​
Hãy cầu khẩn với Thần Vương,
Thắng tướng Đỗ Mạnh, vinh quang về thành.
Này đây xe ngựa dây cương,
Chúng ta đây sẽ thay phiên trên đường,
Khi anh roi ngựa quất nhanh,
Thì tôi nghinh chiến đấu tranh chiến trường.
Khi anh xuất trận phóng thương,
Để tôi lo ngựa dây cương mặc tình.
Đáp lời công tử Ly Công:
Anh Quân quen ngựa với cùng dây cương. (2950)​
Hãy lo xe ngựa trên đường,
Xe anh, roi thúc, ngựa quen tiếng rồi.
Ngựa chưa quen tiếng của tôi,
E rằng ngựa chẳng thông nơi chiến trường.
Trước Đỗ Mạnh hoảng sợ liền,
Đổi người cầm lái chẳng nên lúc này.
Anh hãy điều khiển xe đây,
Phần tôi chiến đấu với cây lao đồng.
Nói rồi lên chiến xe chung,
Hướng tướng Đỗ Mạnh, xe tung bụi mờ. (2960)
Thế Lộc công tử Kha Ba Nê,(Sthénélos, Capanée)
Thấy ngay: Công tử Ty Đê xem chừng,
Tướng Đỗ Mạnh, bạn thân thương,
Tôi đà trông thấy tiến lên phía mình,
Xem chừng muốn đấu với anh,
Sức họ dũng mãnh chớ nên khinh thường.
Băng Đa xạ thủ sở trường,
Con trai danh tiếng lẫy lừng Ly Công.
Anh Nê Anh Chi hoàng thân, (Énée, Anchise)
Xưng con Vệ Nữ nữ thần sinh ra. (2970)​
Hãy nên tạm lánh chiến xa,
Chớ nên tiến bước xông pha trận tiền,
E rằng sẽ thiệt đến thân.
Đỗ Mạnh mắt giận long lanh đáp lời:​
Cấm không được bảo ta lùi,
Địch thủ ghê gớm ta thời để yên ?
Ta không phải giống ươn hèn,
Chẳng lui, chẳng trốn, lòng luôn can trường.
Ta sẽ không lên xe cương,
Hiên ngang thẳng tiến gần đường địch quân. (2980)​
Run ư, Thần nữ rằng không,
Ở xa khó phóng trúng tầm ngọn lao.
Quán Trí ban vinh dự nào,
Cho ta lao phóng lộn nhào cả hai.
Phần người yểm trợ vòng ngoài,
Giữ đôi tuấn mã chẳng rời dây cương.
Dụ Anh Nê xa Troa quân,
Gần kề quân đội An Kinh chúng mình
Anh Nê có cặp ngựa dòng,
Giống từ Thần Dớt cho ông hắn là.. (2990)​
Vua Trô người dựng thành Troa,
Ngựa thần tốt nhất tinh hoa dưới trời.
An Chi luyện mã tinh đời,
Đã cho giao hợp giống nòi thuần tinh.
Sinh ra được sáu ngựa dòng,
Bốn con giữ lại nuôi trong lâu đài,
Tặng cho Anh Nê được hai,
Nếu ta thắng bắt được loài ngựa hay.
Thì vinh dự vẻ vang thay.!
Lời vừa kịp dứt đến ngay ngựa thần. (3000)
Chiến xa xuất trận nhanh chân,
Trước chàng công tử Ly Công thét lời :​
Khá khen Ty Đê dẽo dai,
Mũi tên ta chẳng khiến người gục ngay.
Thì nay xem mũi lao này,
Sẽ đưa người đến Âm ty đời đời.
Nói rồi ưởn ngực tung vai.
Hết bình sinh phóng lao dài tung bay,
Ngọn lao trúng cái khiên tay,
Xuyên qua cấm phập gần ngay giáp đồng. (3010)
Tưởng rằng trúng đích reo ầm:​
Xương sườn đã trúng, đời còn chẳng lâu.
Vinh quang thay, đời mi đâu,
Cho ta danh tiếng hàng đầu vẻ vang.
Bình tâm Đỗ Mạnh nói vang :​
Lao mi đã hụt ta không hề gì,
Lao ta sẽ đưa ngươi đi,
Về nơi yên nghĩ Âm Ty đời đời.
Thần Chiến thoả thích máu người.
Chiến tranh gian khổ chẳng nguôi chiến trường. (3020)
Nói rồi phóng ngọn lao băng,
Thần Quán Trí hướng mũi cằm Băng Đa Rô,
Xuyên qua răng cắt lưỡi nhô,
Xuyên cằm ngã xuống, ngựa hồ hoảng kinh.
Buông rơi vũ khí ấm ầm,
Hồn Băng Đa đã bay lên lìa trần.
Anh Quân nhảy cản bước chân,
Sợ An Kinh đến cướp tràn tử thi.
Quay đầu khiên giáo loay hoay,
Như con sư tử, bao vây bởi thù. (3030)
Lao đâm, khiên đỡ thét lo,
Đỗ Mạnh thoáng thấy đá to bên mình,
Đá to cũng mấy người khiên,
Ném Anh Quân đá trúng ngang dưới mình.
Rách chân đứt hai sợi gân,
Anh Quân gục xuống tối sầm mắt hoa.
Nữ Thần Vệ Nữ từ xa,
Tung mình đỡ đứa con qua sương mù,
Cánh tay trắng khói sương thu,
Áo choàng trắng muốt mẫu từ yêu thương. (3040)
Sợ lao kỵ mã Đa Niên,(Danaen)
Cướp đi đời một đứa con anh hùng.
Ca Ba công tử chẳng quên,(Capanée)
Cướp đôi ngựa quý yên cương về mình,
Trao Đề Anh Phi chiến công, (Déipyle)
Đem về hậu tuyến binh thuyền An Kinh.
Rồi lên xe ngựa dục cương,
Ty Đê công tử truy lùng Anh Nê,
Vệ Nữ toan trốn bay về.
Rời xa chiến trận, tiện bề thuốc thang. (3050)
Tướng Đỗ Mạnh đuổi theo nàng.
Biết Thần Nữ chẳng tinh tường chiến tranh.
Như Quán Trí, Âu Nô phá thành,(Enyo)
Đỗ Mạnh phóng lao đâm áo Thần,
Cổ tay trắng nuốt máu tràn,
Vệ Nữ đau đớn hét vang buông mình.
Máu thần trắng, khác máu trần !
Chẳng ăn thịt cá, rượu vang, bánh mì.
Cho nên Bất Tử cõi trời,
An Long bay đến, đỡ người Anh Nê. (3060)
Dấu trong dày đặc sương mê.
Đa Niên quân kỵ phi về đả thương.
Tướng Đỗ Mạnh vẫn hét lên:​
Đi đi, ái nữ Thần Vương chớ về.
Chiến trường chém giết bộn bề.
Vì nàng dụ dỗ, bùa mê hại người.
Nếu nàng còn đến đây thôi,
Sẽ còn run sợ khắp trời máu xương?
Hãy rời xa, hãy tỏ tường,
Vì ai chinh chiến, máu xương chất chồng. (3070)
Chuyết Nương nghe nói động lòng* (Cypris Vénus) ,
Bước đi rên rỉ, đau cùng vết thương.
Thần nữ Y Bích bay lên,(Iris)
Dìu nàng bên trái trận tiền không trung.
Tay nàng thương tích tím đen,
Thấy Thần Chinh Chiến bên thềm mây cao.
Mây hồng nâng đỡ ngọn lao,
Chiến xa, ngựa chiến đợi nhau chiến trường.
Buông mình quỳ cạnh người tình* :​
Chàng ơi cho mượn ngựa nhanh xe vàng,
Để em về chốn Thiên Sơn,
Cõi Thần Bất Tử chữa lành vết thương.
Em đau đớn quá hỡi chàng,
Ty Đê công tử đâm em vết này.
Sẽ còn đánh Dớt nữa đây.
Thần Chiến cảm xúc trao ngay xe vàng.
Dìu nàng bên cạnh mơ màng,
Y Bích bên cạnh tay cầm dây cương.
Thúc nhanh xe ngựa bay lên,
Về Thiên Sơn chốn đỉnh non cõi Thần. (3090)
Xe vàng thẳng đến Thiên Đình,
Xe theo chân gió, đến dinh của nàng.
Tháo cương cho ngựa cỏ vàng,
Dìu Vệ Nữ đến mẹ nàng Độ Khuê (Dioné),
Ôm con âu yếm vỗ về,
Hỏi rằng : Ai đã lỗi thề đâm con,
Ai trên Thượng giới cõi Thần,
Lẽ nào con đã gieo hờn oán ai ?
Vệ Nữ nũng nịu đáp lời :
Kẻ gây thương tích là người trần gian. (3100)​
Con Ty Đê, Đỗ Mạnh cuồng điên,
Đã đâm con một mũi thương bạo tàn.
Vì con muốn cứu đứa con.
Anh Nê yêu quý sinh trên cõi trần.
Troa Yên, An Kinh chiến tranh,
Chúng còn muốn đánh cả Thần trên cao.​
Thần Độ Khuê đáp khổ đau :​
Con ơi kiên nhẫn vì bao muộn phiền.
Biết bao Thần chốn Thiên Đình,
Khổ đau vì cõi dương trần chiến chinh?. (3110)
Thần Chiến cũng chịu số phần,*
Ô Tốt, Âu Thiết hợp đồng tiến công;(Otos, Ephialtès)
Nhốt trong tù ngục vách đồng,
Mười ba tháng chẳn nếu không cậy nhờ,
An Khuê xinh đẹp báo cho,( Éribé)
Sứ Thần Mai Hạc cứu lo đem về (Hermès).
Sức đà cùng kiệt thảm thê,
Những vòng xích sắt khó bề thoát thân.
Hạ Cơ cũng chịu vết thương, (Héra)
Ba mũi vú phải, ngọn tên một tầm. (3120)​
Âm Phi công tử bắn lầm. (Héraclès, con Amphytrion)
Vết thương nhức nhối cõi trần thương đau.
Thần Dạ Đài chịu phận nào, (Hadès)
Phi Lô, Anh Kiệt bắn vào bả vai.(Héraclès bắn tại thành Pylos)
Trận tiền la liệt xác người,
Đớn đau Thần phải vể nơi thiên đình.
Ba Công thoa thuốc chữa lành. (Paeon)
Thuốc thoa bóp giúp dịu liền vết thương.
Khốn thay tàn bạo chiến chinh,
Đã gieo bao cảnh hoảng kinh cõi Thần. (3130)
Quán Trí sắc đẹp ghét ganh,
Nữ Thần Mắt Cú giúp phần An Kinh.
Cho Đỗ Quân đánh cuồng điên,
Người trần đoản mệnh sống còn bao lâu.
Đánh cùng Thần chốn ngôi cao,
Ngày đi con dại trên đầu gối cha,
Mới vừa biết nói ba ba,
Để ra chiến địa đất hòa máu xương.
Tội Ái Gia Lệ khóc thương,(Aigialée)
Nương Tử An Đạt đêm trường thở than (Adraste) (3140)
Sợ lòng thức giấc gia nhân,
Đêm nằm thao thức nhớ chồng chiến chinh.
Người dũng cảm nhất An Kinh,
Phu nhân Đỗ Mạnh, kỵ binh anh hùng.​
Nói rồi xem xét vết thương,
Lau làn máu trắng còn vương tay nàng.
Hai tay xoa bóp thuốc thang,
Cơn đau đà dứt, chữa lành tay con.
Quán Trí, Hạ Cơ thấu nhìn, (Athéné, Héra)
Buông lời mát mẻ với cùng Thần Vương. (3150)
Quán Trí Mắt Cú trước tiên:​
Phụ Vương ơi chớ giận hờn lời con,
Chắc là Chuyết Nương mê hồn (Cypris, Vénus)
Giai nhân nào đó theo chàng Troa Yên.
Vì yêu thương quá mê cuồng,
Vuốt ve nàng áo thời trang tuyệt trần,
Chẳng may chạm phải kim vàng,
Rách bàn tay trắng dịu dàng thần tiên.
Mỉm cười Dớt Đấng Phụ Vương.
Gọi nàng Vệ Nữ đến bên lời rằng: (3160)​
Chiến trường con chớ lăng nhăng.
Phận con giao kết duyên tình thế gian,
Có Thần An Thiết chiến tranh(Arès)
Quán Trí Thần nữ lo phần bại vong.
Ấy lời nơi chốn Thiên Đình,
Cõi trần cuộc chiến sôi cuồng đấu tranh.
Đỗ Quân gào thét hung hăng,
An Long đỡ Anh Quân lăn lộn nhào.(Apollon, Énée)
Chẳng còn kính nể Thần nào,
Tướng Đỗ Mạnh cứ xông vào An Long. (3170)
Ba lần gạt ngọn lao gần,
Lần tư Thần giận thét gầm tiếng lên:​
Ty Đê công tử liệu hồn,
Lui ra, chớ đánh cả Thần thiệt thân.
Các Thần khác giống người trần.
Ty Đê công tử thất kinh bước lùi.
Tránh An Long giận, tháo lui,
Tránh đòn Thần đánh trúng người từ xa.
Thần mang Anh Quân bay qua,
Đặt vào đền, cạnh thành nhà Bắc Lam (Pergame) (3180)
Thần Lã Tôn chữa vết thương, (Latone)
Thần Đạt Thế Mỹ bắn cung tên sáng trời.(Artémis)
Chữa lành gân cốt rã rời.
Anh Quân tỉnh dậy phục gồi sức trai.
Thần An Long chế hình hài,
Giống Anh Quân lại vất nơi chiến trường.
Cho An Kinh mặc tình đâm,
Mũi trên lồng ngực, trên khiên da dày.
Thần An Long lại tung bay,
Đến Thần An Thiết còn say kích lời. (3190)​
An Thiết thảm họa loài người.
Máu đào như nước lả nơi chiến trường.
Thành trì sụp đổ tang thương,
Lẽ nào cứ để dọc ngang anh hùng.
Ty Đê công tử kiên gan,
Đánh luôn cả Dớt, Phụ Vương chúng mình.
Đánh Vệ Nữ tay bị thương,
Hắn còn xông đến đâm càn cả ta.​
An Thiết hừng chí xông ra,
Hóa thân thành Đạt Ca Ma tướng hùng(Arcamas). (3200)
Thủ lĩnh Thạch Các kiên cường,(Thraces)
Tiến lên kích động các hoàng tử Biam :​
Lẽ nào để quân An Kinh,
Xông lên tàn sát toàn quân chúng mình.
Đánh lui đến tận cổng thành,
Thành trì kiên cố mà không chống gì ?
Người ta kính phục cứu nguy,
Anh Quân tài trí kém gì Hải Tô.
Hãy xông vào chốn trận đồ,
Tiến lên ứng cứu giúp cho anh hùng. (3210)
Lời lời kích động quân trung,
Cho quân Troa tiến lên cùng đấu tranh.
Thạc Phê Đông cũng bực mình, (Sarpédon)
Nhìn Hải Tô nói sự tình xót xa :​
Hải Tô dũng tướng tài ba,
Kiên trường can đảm nay là nơi đâu ?
Lẽ nào chờ một ngày nao,
Chẳng còn quân sĩ mới mau giữ thành ?
Rành rành kinh nghiệm nhớ chăng ?
Kinh thành chẳng được viện quân tan tành. (3220)​
Cha vợ, em rể, em anh,
Toàn gia thành Thép chết trong khốn cùng. (Thèbes)*
Lẽ nào kinh nghiệm tiêu vong,
Mà nay trước trận công thành trốn lui.
Như chó quanh sư tử, lùi,
Phải luôn chiến đấu với người đồng minh.
Tôi đây, liên kết giúp quân,
Từ xa xôi đến viện binh chiến trường.
Ly Chi xa thẳm quê hương (Lycie)
Sông Săng cuộn sóng chảy tuôn một dòng. (3230)
Tôi còn để lại vợ hiền,
Con còn thơ ấu lên đường nhớ thương,
Tôi luôn kích động Ly Quân,(Lyciens)
Và thân tôi cũng đi tìm địch quân.
Dù tôi chẳng có gì chăng,
Để An Kinh cướp chiến công mang về.
Còn anh chẳng động chẳng hề,
Ra lệnh chiến đấu chỡ che vợ hiền.
E rồi Bá Lộc và anh, (Pâris)
Rớt trong lưới trận địch giăng chiến trường. (3240)​
Làm thân nô lệ lao công,
Địch quân tàn phá kinh thành phồn vinh.
Chính anh phải nghĩ trước tiên,
Ngày đêm cầu khẩn đi tìm đồng minh,
Luôn luôn giữ vững kinh thành,
Cùng quân binh viện đấu tranh hợp đồng.
Nghe lời nói Thạc Phê Đông,
Hải Tô hừng khí tâm can với lời.
Bước ra khỏi chiến xa ngồi,
Hải Tô xông xáo khắp nơi tuyên truyền. (3250)
Đưa cao lao nhọn vung lên,
Lời lời thúc dục lòng thêm vững bền.
Xông pha nơi chốn trận tiền,
Quân Troa quay lại An Kinh đối đầu.
Đạt Liên co cụm lại mau,
Chẳng lo hoảng, tiến bên nhau đội hình,
Như cơn gió thổi mát lành,
Trên sân sàng thóc nhanh nhanh ngày mùa.
Rạ rơm bay trắng nắng trưa.
An Kinh trắng xóa bụi mờ bay tung. (3260)
Tung trời xanh đám mây đồng,
Gót chân vó ngựa bụi hồng đuổi nhau,
Bên Troa quân kỵ quay mau,
Quân binh hừng chí chiếc lao tay dài.
Thần Chiến hung hãn máu say,
Phủ màu tang tóc tung bay chiến trường.
An Long thúc dục Troa Yên,
Quán Trí Thần Nữ, Đa Niên dục cùng.
An Long quay lại kinh thành,
Mang Anh Quân lại chiến trường đấu tranh. (3270)
Truyền lòng can đảm hùng anh,
Quân Troa mừng thấy tướng quân trở về,
Bình yên, dũng cảm, đam mê,
Lòng không thắc mắc, chẳng hề hỏi han.
Nhờ Thần Cung Bạc kề bên,
Thần Bất Hòa, Thần Chiến luôn luôn dục lòng.
Hai chàng An Bắc xuất chinh (Ajax)
Uy Lĩnh, Đỗ Mạnh vững tình Đa Niên.
Chẳng gì sợ hãi Troa Yên,
Chờ như mây xám Thần Vương non ngàn. (3280)
Như yên tỉnh trước bão giông,
Đứng im trước trận Bắc phong cuộn tràn.
Đợi muôn gió dục mây vần,
Gió lay, gió hú sương dâng chập chùng.
Đa Niên chẳng ngại, vững chân,
An Trích xông xáo ba quân nhiệt tình:(Atride Agamemnon))​
Các bạn ơi, là chiến binh.
Trái tim dũng cảm nhiệt tình tiến công,
Tiến quân cùng đánh liên hoàn,
Vững vàng kiêu dũng vinh quang anh hùng. (3290)​
Chẳng nên trốn chạy chiến trường,
Kiên cường tiến, chẳng tìm đường thoát thân.
Nói rồi vung ngọn lao tung,
Trúng ngay tướng địch tùy tùng Anh Nê
Đới Côn, công tử Bạt Lê, (Deicoon, Pergase)
Hàng đầu quân tiến chẳng hề sợ ai,
Quân Troa kính phục kiên oai,
Như các hoàng tử sánh vai anh hùng.
Khiên đồng, xuyên ngọn lao băng,
Bay qua trung bụng, ngã lăn trận tiền. (3300)
Anh Quân hạ hai Đa Niên,
Ốc Si Lộ Cốt, Kề Thông anh hùng.(Orsilochos, Créthon)
Con trai Đôn Các tướng quân, (Dioclès)
Phi Xứ quê quán, kinh thành đẹp xinh.(Phères)
An Khê xuôi chảy một dòng,(Alphée)
Sông xanh ra đến đồng bằng Phi Liên. (Phyliens)
Đôn Các hai con song sinh,
Kề Thông, Lộ Cốt lên đường chiến chinh.
Đến Ý Long chiến thuyền đen,
Tuổi thanh xuân quyết ra quân trả thù. (3310)
Nào đâu cái chết thiên thu,
Hai con sư tử rừng sâu núi ngàn,
Mẹ nuôi dưỡng dục đầu non,
Xuống rừng bò béo, cừu ngon trại đồng.
Nào hay chết bởi thợ săn,
Anh Quân đánh đổ hai thân bách tùng.
Mai Ninh Lạc thấy xót thương,
Mũ đồng thương sắt tiến lên hàng đầu.
Tấm lòng nung nấu báo thù,
Tay Anh Quân đã gieo sầu tang thương. (3320)
An Thi Lộc bước theo lên,(Antilochos, Anthiloque)
Ninh Tô công tử theo chân anh hùng,
Sợ rằng trắc trở chi bằng,
Được Hạ Lan, cũng sẽ không còn gì.
Anh Quân, Mai Lạc toan tay,
Hai thanh lao nhọn phóng đi, đợi chờ,
Nhưng An Thi Lộc bước vô,
Anh Quân núng thế cơ hồ lui chân.
Hai chàng lôi xác người thân,
Về An Kinh, các quân mang về thuyền. (3330)
Hai chàng lại tiến bước lên,
Mai Ninh Lạc phóng ngọn thương ngang mình.
Phi Lê Mai mạnh như thần,(Pylemènès)
Vua Phan La Quốc khiên cầm ngã lăn,(Phaphlagoniens)
An Thi Lộc ném My Đông(Mydon)
Công tử An Tiến tay cầm cương dây.(Atymnios)
Bằng tảng đá trúng gối tay,
Cán ngà rơi xuống lăn quay trận tiền.
Chiếc xe lăn đổ chông chênh,
Tướng An Thi Lộc tung gươm ngang đầu. (3340)
Đầu văng thân ngã phía sau,
Tướng An Thi Lộc kéo mau ngựa về.
Hải Tô nhìn thấy gần kề,
Xuyên hàng thẳng đến não nề hét vang,
Hai quân lực lưỡng theo chân,
Ấy Thần An Thiết, ấy Thần An Đô (Arès, Enyo),
Cầm thương xông xáo tung hô,
Khi lên phía trước, khi chờ phía sau.
Thương dài sắt nhọn lao xao,
Tướng Đỗ Mạnh thấy ào ào gầm lên. (3350)
Như người chẳng biết bơi sông,
Đứng bên bờ rộng loanh hoanh bẽ bàng,
Dòng sông cuộn chảy biển ngàn,
Bọt tung trắng xóa trường giang một màu.
Nói cùng tướng sĩ, mày cau :​
Bạn ơi, ta phục chi nào Hải Tô,
Vì luôn bên hắn, nhào vô
Bảo toàn số mệnh giúp cho số phần.
An Thiết dưới dạng người trần,
Lòng ta chẳng sợ Troa Yên quân thù. (3360)​
Lẽ nào ta rút lui ư,
Chống Thần cũng quyết, tâm tư vững bền.
Troa quân tiến sát An Kinh,
Hải Tô giết chết hai trang anh hùng.
Mai Thế, An Chi ngồi chung,(Ménesthès, Anchialos)
Chiến xa phóng đến giao tranh chiến trường.
An Bắc công tử Thế La Môn,
Mất hai chiến hữu tổn thương trong lòng.
Tiến lên tiền trận phóng thương,
Trúng Âm Phi Lộc xuyên ngang dưới mình (Amphilos) (3370)
Dưới đai, ngã gục khiên lăn,
Sơn La công tử dân vùng Bái Sô (Sélagos, Paisos)
Xứ giàu đồng lúa ấm no,
Giúp Troa quân viện, quân cơ nhiệt tình.
Âm Phi Lộc gục ngã ầm,
An Bắc toan đến lôi nhanh thi hài.
Chân vừa chạm đến xác người,
Bao thanh lao phóng sáng ngời trúng khiên,
Chàng vừa nhổ được mũi thương,
Nhưng không nhổ được lao trên khiên đồng. (3380)
Sợ Troa quân tiến bước nhanh,
Rút lui rung chiếc khiên đồng đầy lao.
Chiến trường xáp chiến lao xao,
Thế Bồ dũng cảm lớn cao đầu cùng (Tlépolème con Héraclès)
Thạc Đông sức sánh như thần, (Sarpédon)
Hai bên số mệnh anh hùng trần gian.
Con thần gặp phải cháu thần,
Thế Bồ Lâm thét lớn cùng Thạc Đông:​
Thạc Đông quân sư Ly Siên (Lyciens)
Nay ta chẳng phải đi tìm ngươi đây. (3390)​
Dám cùng ta đấu trận này,
Xem mi nói dối, mi đây con thần.
Mi sinh ở chốn dương trần,
Thế mà mi bảo là Thần sinh ra.
Chẳng như Hùng Anh Kiệt cha ta,(Héraclès)
Trái tim sư tử, sức là vô song.
Đến đây vì ngựa Lao Đông (Laomédon)
Sáu chiếc thuyền chiến, vài trăm binh hùng.
Phá Ý Long đốt kinh thành,
Đủ làm góa bụa toàn dân trên đường. (3400)
Còn mi tim óc ươn hèn,
Quân binh già yếu, Troa Yên chẳng thèm,
Viện binh gì chỉ thêm phiền,
Nếu mi hùng mạnh hãy xem lao này.
Đưa mi qua cửa Dạ Đài.
Thạc Phê Đông cũng nhún vai lời rằng :​
Thế Bồ Lâm thực vậy chăng ?
Kẻ nào muốn phá kinh thành Ý Long,
Chỉ là những kẻ điên khùng,
Lao Mê Đông, đáng phục lòng biết bao * (3410)
Đã từ chối ngựa đổi trao,
Con thần, xa đến ai nào biết đâu ?
Còn mi chắc muốn khẩn cầu,
Mũi lao này cướp lấy đầu của ngươi.
Để người xuống cõi Dạ Đài,
Cho ta danh tiếng, cho người đời hay.
Nói rồi phóng ngọn lao bay,
Thế Bồ Lâm cũng phóng ngay lao liền.
Lao Thạc Đông trúng cổ mình,
Đau thương xuyên mắt tối sầm bóng đen. (3420)
Thạc Đông đùi trái trúng thương,
Ngọn lao đâm mạnh thấu xương ngất liền,
Tùy tùng cứu đỡ vào trong,
Chẳng ai kịp lấy lao đồng rút ra,
Thế Bồ Lâm, quân xông pha,
Khiên vào hậu cứ đi xa chiến trường.

Uy Lĩnh nóng bỏng trong lòng,
Nhảy lên xông xáo xả đâm quân thù.
Ly Siên quân sĩ lùi mau,
Bao nhiêu dũng tướng gục đầu ngã lăn. (3430)
Chết trong cơn giận bừng bừng.
Cối Kha, An Lạc, Cồ Mộc ngã cùng đau thương.(Coiranos,Alastor, Chromios)
An Căn, Hà Lộc, Nễ Môn(Alcandre, Halios, Néomon)
Và Phi Tân Mỹ bao chàng Ly Siên (Prytanis)
Bổng đâu xông xáo tiến lên,
Hải Tô mũ trụ sáng choang kinh hoàng.
Thạc Phê Đông mừng trong lòng;
Thều thào khẽ nói thương thân vài lời:​
Hải Tô công tử Biam ơi,
Cứu tôi chớ để xác tôi địch dành. (3440)
Kinh thành anh, tôi từ trần,
Tiếc không về được quê thăm cửa nhà.
Chao ơi, hạnh phúc đã xa,
Vợ hiền con dại bao là đau thương!
Hải Tô không nói tiến lên,
Bước nhanh nhắm phía Đạt Liên xông vào.
Bao nhiêu chiến sĩ máu đào !
Thạc Phê Đông được đưa vào cạnh bên.
Cây Sồi ,đấng Dớt Phụ Vương,*
Phê Lạc Công giúp nhổ liền cây lao (Pélagon) (3450)
Thạc Đông bất tỉnh đớn đau,
Trên mi mắt dậy một màu sương lam,
Nhưng rồi lại tỉnh tâm hồn,
Gió Bắc Khuê thổi con tim trở vào (Borée).
Đạt Liên dưới lực Hải Tô,
Cùng Thần An Thiết cơ hồ thảm thương.
Không còn trở lại thuyền đen,
Không còn trở lại trận tiền tiến công.
Ai người tử trận đầu tiên,
Bởi Thần An Thiết và cùng Hải Tô. (3460)
Từ Thác thần lực lớn to,(Teuthras)
Anh Tuấn luyện mã, tài so đấu trường. (Oreste)
Tề Chước dũng mãnh ngọn thương, (Tréchos)
Ốc Nô, Hệ Lộc, Ô Phong con nhà (Oenomaos, Helonos, Oenopion)
Ô Lạc võ phục đai ngà, (Oresbios)
Ở vùng Hy Lệ kiêu sa sang giàu.
Cạnh hồ Lệ Thủy ngọt ngào,(Céphise)
Quân Bồ Thiên xứ mạnh giàu thế gian (Boétiens).

Hạ Cơ Bạch Thủ Nữ Thần,
Nhìn Đạt Liên bại xác nằm đau thương. (3470)
Bảo Quán Trí giúp An Kinh :​
Hỡi nàng ái nữ Thần Vương khiên vàng,
Chúng ta đã hứa một lòng,
Giúp cho Mai Lạc phá thành Ý Long,
Chớ cho An Thiết lộng hành,
Hãy mau cứu giúp An Kinh chiến trường.
Quán Trí Mắt Cú Nữ Thần,
Đồng tâm hăm hở xuống trần giúp binh.
Hạ Cơ xem lại xe thần,
Mỗi bên chiếc bánh xe đồng tám thanh. (3480)
Hai trục ngù sắt quay nhanh,
Vành vàng vững chắc, niềng đồng đẹp xinh.
Đùm bạc, ghế da nạm vàng,
Lan can, tay lái, ánh ngân sáng ngời,
Ách vàng, vòng ngọc tuyệt vời,
Bốn con Thần Mã, tung trời vượt mau.
Quán Trí trút bỏ lụa đào,
Tấm thân mềm mại gấm thêu cõi Thần.
Mặc vào giáp phục chiến chinh,
Bên vai khiên rủ những vòng thiên quang. (3490)
Đột Tinh đầu quỷ giữa tâm, (Gorgone)
Dấu hiệu khủng kiếp Thần Vương kinh hoàng.
Hai ngù mũ trụ giáp vàng,
Bốn u trang trí hiệu quân trăm thành.
Chiến xa lao nhọn ngựa thần,
Xuống trần cứu giúp anh hùng An Kinh.
Vung roi thần mã bay lên,
Với niềm phấn khởi vô biên ngập tràn.
Bay qua các cửa Thiên Sơn,
Giữ gìn bởi các Thần Nương Bốn Mùa. (3500)
Kéo mây mở lối thần xa,
Ngựa thần thúc dục đi qua đỉnh ngàn.
Đỉnh cao trông thấy Thần Vương,
Ngừng xe ngựa lại than van đôi lời :​
Hỡi Dớt, đấng Phụ Vương ơi !
Bạo tàn An Thiết rằng người chẳng ưa,
Cớ chi để An Kinh thua,
Chẳng tình, chẳng lý, chẳng chừa hung hăng.
Lại thêm Vệ Nữ, An Long,
Điên cuồng chém giết chẳng tuân luật thần. (3510)
Thì nay Dớt chớ phật lòng,
Tôi đâm An Thiết hung thần cuồng điên.
Đuổi hắn ra khỏi chiến trường.
Đùng đùng giận dữ Thần Vương trả lời :​
Hãy nhanh trừng trị hắn thôi,
Quán Trí Tuệ hãy đến nơi hung thần,
Lôi hắn về chốn Thiên Đình,
Đả thương cho hắn biết thân bạo tàn.
Hạ Cơ hả dạ trong lòng,
Đánh xe Thần mã nhanh chân trong trời. (3520)
Ngàn sao lấp lánh xa khơi,
Trong sương thấy một bóng người đỉnh cao,
Ngồi nhìn biển sóng rượu đào,
Đáp bầy Thần mã nghiêng chao nắng hồng.
Đồng Troa dừng gót dưới chân,
Hai con sông chảy hợp chung một dòng.
Sông Si Mai và sông Sa Măng,
Dừng xe Thần Nữ thả sương lam nhòa.
Si Mai đồng trống bao la,
Nhẹ nhàng xe đáp như là chim câu. (3530)
Nóng lòng giúp Đạt Liên mau,
Quanh Tướng Đỗ Mạnh biết bao anh hùng.
Như bầy sư tử đi săn,
Như heo rừng trước địch quân khó lường.
Hạ Cơ Bạch Thủ Nữ Thần,
Hóa Tỉnh Tô giọng như đồng vang lên. (Stentor)
Bằng năm mươi giọng người thường.
Tiếng kêu thúc dục hổ lòng ba quân :​
Hổ thẹn thay quân An Kinh,
Dáng hình dũng cảm sao lòng nhát gan. (3540)​
Khi An Sinh ra chiến trường (Achille)
Địch nào dám vượt cổng thành Đạt Niên (Dardanienne)
Vì chúng sợ sức ngọn thương,
Giờ xa thành, chúng đánh gần thuyền ta.
Những lời hừng chí thốt ra,
Thêm lòng can đảm xông pha chiến trường.
Quán Trí Tuệ đến cạnh bên,
Ty Đê công tử vết thương vẫn còn,
Do Băng Đa Lộc bắn tên,
Đứng trên xe ngựa lau trên máu hồng. (3550)
Mồ hôi ướt đẫm cả mình,
Dây da đỡ chiếc khiên đồng nghiêng nghiêng.
Tay trên ách ngựa mới rằng :​
Ra người chẳng giống phụ thân chi nhiều,
Con trai Ty Đê thân yêu,
Cha người thân bé, nhưng nhiều kiên gan,
Tùy cơ ứng biến một thân,
Đi làm sứ giả nơi thành Thép Kinh,
Bầy con Kha Mộc mưu toan. (Cadmos)
Khích lời nơi giữa lầu trang tiệc trần. (3560)​
Trái tim dũng cảm anh hùng,
Trả lời kêu khích thắng liền cuộc thi.
Đường về phục kích gian nguy,
Nhờ ta ra sức hộ trì kế bên.
Giúp cha nay ta giúp con,
Phù trì bảo vệ vẹn toàn chiến công.
Dù con có mệt mỏi mòn,
Không lòng can đảm chẳng hơn cha mình.
Đỗ tướng quân trả lời rằng :
Biết Ngái ái nữ Thần Vương hộ trì, (3570)​
Nói ngay thẳng chẳng dấu gì,
Chẳng gì nhụt chí, chẳng gì đắn đo,
Nhớ lời Thần Nữ dặn dò,
Nhớ lời Ngài đã giúp cho đối đầu,
Ngài chưa cho phép đánh nhau,
Với Thần Bất Tử ngôi cao Thiên Đình,
Trừ Thần Vệ Nữ trận tiền,
Ngài đã cho phép lao đồng của tôi,
Bây giờ ra lệnh nghỉ ngơi,
Đạt Liên tránh né cùng ngồi nơi đây, (3580)
Chỉ vì tôi nhận biết nay,
Có Thần An Thiết ra tay chiến trường.
Quán Trí Tuệ trả lời rằng :​
Đỗ tướng quân hỡi chớ nên ngại gì,
Khi ta đã xuống hộ trì,
Sợ chi Thần Chiến, sợ chi quỷ thần,
Tiến lên, móng ngựa dày chân,
Đến bên An Thiết đánh gần mới nên,
Sợ chi Thần Chiến cuồng điên,
Gieo bao thảm họa đau thương cõi đời. (3590)
Ta, Hạ Cơ đã hứa rồi,
Hạ Thành Troa quyết tâm đòi Hạ Lan,
Lòng ta chẳng thể nào quên,
Chẳng hề thay đổi ta luôn giúp người.
Lên xe chẳng đợi trả lời,
Đẩy Thế Lộc xuống, bước ngồi kế bên,(Sthénélos)
Trục xe vang tiếng gỗ sên,
Dưới sức Thần Nữ, dưới trang anh hùng.
Cầm cương roi ngựa quất nhanh,
Quán Trí Tuệ tiến gần Thần Chiến Tranh. (3600)
An Thiết chém giết hung hăn
Nhắm vào Phi Phát anh hùng Tinh Liên.(Périphas, Etoliens)
Ô Châu công tử lừng danh (Ochésios)
Ngã nằm sóng sượt trên tầm ngọn thương.
Quán Trí đội mũ Diêm Vương,
Hình hài biến mất chẳng còn ai trông,
An Thiết quay lại bước nhanh,
Bỏ Phi Phát tiến lại gần chiến xa;
Nhắm ngực Đỗ Mạnh phóng ra,
Tầm lao trên chiếc ách và dây cương. (3610)
Quán Trí bắt lấy hất bên,
Đường lao vô hiệu bay trên ra ngoài.
Đỗ Mạnh đánh trả kịp thời,
Quán Trí Tuệ hướng thẳng nơi bụng thần.
Trên đai bào hộ quấn thân,
Ngọn lao Đỗ Mạnh đánh gần đả thương.
Rách da bụng máu trắng tuôn.
An Thiết đau đớn hét vang như đồng.
Kinh thiên động địa vang lừng,
Tưởng chừng như tiếng mười ngàn người la. (3620)
An Kinh, Troa quân hớt ha,
Hớt hải tiếng thét vang xa trận tiền.
Chiến trường bỗng nghịt mây đen,
Gió cuộn Thần Chiến bay lên đỉnh trời.
Thiên Sơn vừa đến tận nơi.
Bên Thần Vương Dớt vạch coi máu trào.
Thở than lời lẽ thương đau :​
Phụ Vương có thấy biết bao bạo tàn,
Hãi hùng thay nỗi tang thương.
Chẳng ngừng đau khổ, các Thần phân chia. (3630)​
Thần này chống với Thần kia,
Giúp cho trần giới xa lìa đánh nhau.
Chống Cha tranh đấu lao đao,
Vì Cha sinh đứa con nào cuồng điên;
Trí Tuệ gì ý dã man,
Chúng con Thần cõi Thiên Sơn vâng lời.
Nhưng riêng Thần Nữ của Ngài,
Chẳng bao giờ có tiếng ai la rầy,
Chẳng đánh, chẳng quở trách chi?
Mặc thị hành động, nói gì cũng nghe. (3640)​
Chính Cha sinh dưỡng mọi bề,
Đứa con phá hủy mối lề cõi Thiên.
Chính thị đã xúi dục nên,
Tên điên Đỗ Mạnh đâm luôn cả Thần.
Đâm Vệ Nữ cổ tay trần.
Đâm con, máu chảy ròng ròng Cha ơi !
Người mà như quỷ cõi đời.
Con bay trốn chạy nhanh thôi không thì,
Nắm trong các đám tử thi,
Không còn hơi sức dưới cây lao đồng. (3650)
Sa sầm Dớt đấng Hội Vân.
Trả lời: Mi chớ than thân trách gi !
Chớ đến đây, chớ nói chi,
Thiên Sơn tàn bạo nhất mi ai bằng.
Chỉ vì mi thích chém đâm,
Thích bất hòa, thích chiến tranh hận thù.
Mẹ con mi giống như nhau,
Chẳng ai chịu thấu, chẳng câu đẹp lòng.
Mẹ mi dạy dỗ mi chăng ?
Theo lời làm những lăng nhăng khổ đời. (3660)​
Dù sao mi con ta thôi,
Lẽ nào ta để kéo dài đớn đau,
Mi là dòng giống của tao,
Tao, Hạ Cơ có tí nhau sinh mày.
Nếu mi con thần khác đây,
Cõi Hư Không Xứ ta đày từ lâu. (Ouranos)
Nói rồi mời Paeon mau,
Dầu hương xoa bóp hết đau vết lành.
Dung dịch hòa sữa trắng tinh,
Vết thương đóng vẩy lại liền da ngay. (3670)
Hạ Ban tắm rửa áo thay (Hébé)
Bảnh bao bên Dớt, mặt mày váo vênh.
Hạ Cơ, Quán Trí về bên,
Dứt cơn tàn sát tang thương Troa thành.
Của Thần An Thiết chiến tranh,
Gieo bao thảm họa điêu linh cõi trần.
CHÚ THÍCH:

Troie: Trôs, cháu nội Dardanos, con Érichthonios, là cha Ganymède, Assaracos và Ilos lập ra Ilion nên còn gọi là thành Troa.

Cypris: Thần Vệ Nữ sinh ra tại đảo Chypre, nên còn có tên là Cypris, thần thoại cho rằng Zeus giết cha Cronos, sinh thực khí rơi xuống đảo Chypre sinh ra Thần Vệ Nữ, tại phía Nam đảo này ngày nay còn có tảng đá truyền tụng là nơi nàng sinh ra, theo Homère nàng là con Zeus và Thần Dioné.

Vệ Nữ có chồng là Thần Hỏa Thái, nhưng ngoại tình với Thần Arès. Trong Odyssée có đoạn diễn vỡ hài kịch Thần Hoả Thái làm máy bẩy cột chặt Thần Arès và Vệ Nữ đang làm tình trên giường và gọi cả Thiên Đình đến phán xét.

Arès: theo truyền thuyết ghen và giết chết Adomis, các Khổng lồ Otos và Éphiaitès bắt giam trong ngục đồng, sau nhờ Eribé báo cho Thần Hermès giải cứu.

Héraclès, con Amphrytrion cũng là con Zeus. Thần Hadès cai quản cõi âm cũng bị Héraclès bắn trúng.

Thèbes : Thành Thèbes bị Achille đánh bại trong một ngày giết Vua là cha vợ Hector và bảy người anh em vợ.

Laomédon, cháu nội vua Trôs hứa cho Héraclès các con thần mã nếu giải thoát công chúa Hésione khỏi con quái vật biển cả đem về. Héraclès giết quái vật cứu công chúa, nhưng vua Laomédon tiếc rẻ bầy ngựa, không giữ lời hứa. Héraclès trở lại thành Troie cướp bầy ngựa, giết vua Laomédon và các hoàng tử trừ Priam (lên làm vua).

Cạnh cửa thành Scée có cây sồi lớn..

Paris, 15-10-2016

PHẠM TRỌNG CHÁNH​
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC VI
DIOMÈDE VÀ GLAUCOS TỪ TRẬN TUYẾN ĐỐI NGHỊCH NHÌN NHAU ANH EM
HECTOR TỪ BIỆT ANDROMAQUE
(câu 3678 đến 4260)​

Thi ca khúc VI có hai đoạn thú vị là hai dũng tướng hai trận tuyến đối nghịch là Diomède và Glaucos nhìn nhau anh em, vì hai gia đình đã kết giao thân thiết và cuộc chia ly của một đôi trai tài gái sắc giữa chiến tranh Hector và Andromaque, có thể gọi đoạn này là một Chinh Phụ Ngâm Khúc của Tây Phương.

Quân Hy Lạp đánh mạnh, quân Troie rút lui về thủ thành. Theo lời khuyên của em là Hélénos, Hector vào thành Troie nói với mẹ là Hoàng Hậu Hécube cầu Thần nữ Athéné. Diomède và Glaucos hai tướng hai trận tuyến đối nghịch nhận mặt nhau anh em giữa chiến trường. Diomède sau khi được Athéné phò trì đã đánh lần lượt với ba thần Aphrodite, Apollion, Arès, bổng dưng thấy một người không sợ mình, tiến đến giao chiến. Diomède phân vân hỏi ra cặn kẻ. Glaucos trả lời hóa ra là hai gia đình là bạn thân từng kết nghĩa với nhau. Diomède đề nghị tránh đánh nhau và hẹn khi hòa bình sẽ đến thăm nhau. Hector về cung gặp mẹ, mẹ mời rượu ngon chàng không uống vì sợ rượu làm biếng nhác chân tay, nghe lời Hector, hoàng hậu Hécube cùng các phụ nữ thành Troie dâng khăn tơ, cúng tế cầu Thần nữ nơi đền Athéné ở Thượng thành. Hector đến cung Pâris, gọi Pâris từ bỏ loan phòng với Hélène ra chiến trận. Hélène gặp Hector, mỉa mai cho thân phận mình về thành Troie bị mọi người khinh rẻ. Hector về cung không thấy vợ, Hector ra cổng thành Scée gặp vợ Andromaque và thị tỳ đang bế con. Nàng thở than với chồng., bày tỏ nỗi lo lắng. Bé Astyanax thấy cha đội mũ đồng có lông đuôi ngựa sợ hãi khóc thét, chàng cởi mũ xuống ẳm con, khấn thần. Hector ra chiến trường gặp Pâris cùng đến.

Troa Yên còn với An Kinh,
Cùng trong trận chiến đấu tranh kinh hoàng,
Chiến trường dàn rộng khắp vùng,
Tang thương nội cỏ hoa đồng máu xương (3680)
Người thù, kẻ địch phóng thương,
Sông Si Giang tới chiến trường Sa Măng.(Simois, Scamandre)
An Bắc, công tử Thế Môn, (Ajax con Telamon)
Lũy thành quân đội An Kinh anh hùng.
Đoạt thêm chiến thắng lẫy lừng,
Thắng tướng Thạch Các hùng cường lớn cao. (Thraces)
An Ca Mạc, công tử Âu Sao, (Acamas con Eussoros)
Ngọn lao An Bắc phóng vào mũ lông,
Xuyên qua trán đến thấu xương,
Ngọn lao đồng nhọn, bóng sương mắt mờ (3690)
Đỗ Mạnh giết An Chi Lô (Diomède, Axylos)
Tựu Các công tử, nhà bờ An Khê,(Teuthras, Arisbè)
Sang giàu yêu mến dân quê,
Chiêu Anh Các đón khách về tiếp tân.
Nhưng nào thoát khỏi tử thần,
Ngọn lao An Bắc đổ ầm chiến xa.
Kẻ hầu Ca Lộc ngựa xe, (Calésios)
Cả hai chủ tớ hồn lìa về âm.
Âu Dương tiến đánh anh em (Euryale)
Đề Lộc, Ô Thước đoạt cùng giáp khiên (Drésos, Ophdltios) (3700)
Ai Bối, Đa Sốt trận tiền, (Aisépos, Pédasos)
Con Băng Lan Nữ nàng tiên suối ngàn. (Abarbarée)
Yêu Ban Long con Lao Đông (Boucolion, Laomédon)
Thuở chàng mục tử đồng xanh chăn cừu.
Cùng nàng ân ái thương yêu,
Sinh đôi trẻ chốn rừng sâu non ngàn.
Mê Xích công tử đánh tung (Euryale con Mécistée),
Cánh tay rơi rụng, đoạt cùng giáp khiên.
Ất Ty bị cắt cổ ngang (Astyalos)
Bởi Bồ Ly Tích bạo tàn tiến công. (Polypoetès) (3710)
Uy Lĩnh vung mũi lao đồng, (Ulysse)
Giết Phi Đinh Tuấn trong vòng giao tranh (Pydytès)
Tựu Khê giết tướng An Tôn, (Teucer, Aréton)
An Thy giết Áp thương đồng sáng choang. (Anthiloque, Ablère)
An Gia thống lĩnh An Kinh, (Agamemnon)
Giết Âu La Tuấn, lầu trang sông dài,(Elatos)
Bờ Sa Ni thủy xanh tươi (Satnioeis)
Bá Đa Sóc chém ngang vai giáp mình. (Pédasos)
Phi La Cốt chạy lòng vòng, (Phylacos)
Dưới lao Lai Tổ anh hùng ngã lăn. (Leitos) (3720)
Âu Dương Linh giết Mê Lăng (Eurypyle, Mélanthe)
Mai Ninh bắt An Đắc tù binh mang về. (Ménélas, Adrestos)
Chiến xa vướng phải cành me,
Đôi ngựa sợ hãi, bánh xe gảy càng.
Ngựa chạy đằng ngựa về thành,
An Đắc té xuống miệng ăn đất bùn,
Mai Ninh Lạc chỉa trường thương,
An Đắc quỳ lạy bò càn ỉ ôi :​
An Lê công tử tha tôi (Atrée)
Tôi xin chuộc mạng, tiền tài xứng danh (3730)​
Cha tôi giàu có bạc vàng,
Bao đồ đồng sắt, nghìn tiền trả công.
Muốn gì Ngài cũng vừa lòng,
Cha tôi đều sẵn chuộc thân sống còn.
Giá nào cũng trả thương con,
Biết tin tôi sống nơi thuyền An Kinh.
Nghe lời Mai Lạc chạnh lòng,
Toan giao hầu cận tù binh về thuyền.
An Gia Vương bỗng tiến lên:​
Mai Ninh em hỡi chớ phiền âu lo.
Em từng hậu đãi khách Troa,
Khách đà cướp vợ, cướp ta bạc vàng.
Phản bội Thần đã thề nguyền,
Thì nay cái chết trả muôn hận này.
Chẳng ai thoát chết nơi đây,
Bào thai bụng mẹ chẳng tày thoát thân.
Giết Ý Long cả kinh thành,
Chẳng gì hối tiếc lưu tăm tiếng đời.
Lời anh nói lòng bồi hồi,
Mai đẩy An Đắc xa nơi chẳng nhìn (3750)
An Gia Vương đâm vào hông,
An Đắc ngã xuống, lao đâm nhát bồi.
Ninh Tô cất tiếng truyền lời: (Nestor)​
Đa Niên anh dũng chớ lơi kẻ thù,
Chớ mất công nhặt quân nhu,
Giáp binh lao kiếm khiên thu về thuyền.
Hãy xông giết địch trận tiền,
Thắng xong rồi mới nhặt binh giáp thù.
Một lời chí lý dứt câu,
Toàn quân dũng cảm hàng đầu xung phong. (3760)
Quân Troa lùi bước thủ thành,
Lòng nao núng, tướng bỏ thân chiến trường.
Anh Quân, Hải Tô quây quần,( Énée, Hector)
Hạ Linh Công giỏi bói điềm tiên tri. (Hélénos)*
Con vua Biam lắm anh tài,
Cùng Cát Tâm đó sinh đôi một bào. (Cassandre):​
Anh Quân và anh Hải Tô,
Các anh trách nhiệm cơ đồ toàn quân,
Troa Yên, Ly Siên đấu tranh,
Nhìn vào dũng tướng anh hùng làm gương. (3770)​
Hãy dừng phòng tuyến tiền biên,
Dọc ngang cổ võ quân liền phản công.
Chớ nên rút chạy kinh hoàng,
Về trong tay vợ để quân địch cười.
Khi các trận tuyến vững rồi,
Phần em ra sức các nơi giữ thành.
Việc còn khẩn cấp cho anh,
Hãy về nhanh gấp báo cùng mẫu thân,
Các phu nhân đến thượng thành,
Cầu Quán Trí Tuệ, nữ thần phúc ân (3780)​
Mở kho khăn đẹp hiến dâng,
Đặt trên đầu gối tượng thần tóc mây.
Cùng lời cầu khẩn tỏ bày,
Bê cái tròn tuổi mười hai mâm đồng.
Xin Ngài thương xót từ tâm,
Cho thành ta với dân lành Troa Yên.
Cho ta thắng được An Kinh,
Ty Đê công tử bại vong chiến trường.
An Sinh ta ít sợ hơn, (Achille)
Con Thần Thê Túc chẳng còn xuất quân (3790)​
Nhưng tướng Đỗ Mạnh dữ dằn,
Chẳng ai có thể đo lường hăng say.
Hải Tô nghe chí lý thay,
Dừng xe xuống ngựa ra ngay trận tiền,
Khích lòng quân sĩ quay mình,
Ra thân đối mặt đấu cùng Đạt Liên.
Đạt Liên ngừng tiến trận tiền,
Bảo nhau có một thần linh giáng trần.
Hải Tô lên tiếng dục quân :
Troa quân anh dũng, đồng minh kiên cường. (3800)​
Hãy xứng đáng là anh hùng,
Xả thân sống chết đấu tranh chiến trường.
Tôi đi hội kiến triều đình,
Luận bàn việc nước hiện tình đấu tranh,
Và mời tất cả phu nhân,
Đến đền Quán Trí cúng dâng cầu thần.
Hải Tô dong ngựa về thành,
Mũ vàng sáng chói, khiên đồng giáp da,
Trong lúc đó chiến trường xa,
Đối đầu Đỗ tướng quân là Lỗ Cô. (Glaucos) (3810)
Hy Mã công tử bước vô (Hippolochos),
Hiên ngang chẳng sợ chẳng chờ nguy nan.​
Đỗ tướng quân thấy lạ lùng :
Hãy xưng danh hỡi anh hùng thế gian,
Ta chưa từng thấy chiến trường,
Ai đi đối mặt với cùng lao ta,
Khốn khổ thay cho mẹ cha,
Kẻ nào muốn đến cùng qua đối đầu.
Nếu người thần tự trời cao,*
Thì ta chẳng muốn đấu lao cùng người (3820)​
Di Ất tôn tử tốt vời, (Dryas)
Vua Ly Cước dám đánh roi các thần. (Lycurgue)
Cho nên mệnh yểu dành phần,
Một ngày các Nhũ Mẫu Thần Rượu say,(Hyades Dionysos)
Sợ Ni Sơn hổn loạn đi,
Nhà vua sai lính dùng dây quất bò,
Đuổi đám rước Thần Rượu Nho,(Dionysos, Bacchus)
Các nàng vất trượng vắt giò trốn đi,
Bắc Cước kinh hoảng ngờ chi, (Dionysos)
Nhảy ngay xuống biển biết gì tỉnh say (3830)​
Sợ người trần lại gặp may,
Nữ Thần Thê Túc ôm ngay vào lòng,(Thétis)
Từ Thủy cung kiện Thiên Đình,
Cồ Nốt Thần tử phạt sinh mắt mù,
Thế là vua chẳng sống lâu,
Bởi vì đã ghét cay sâu các thần.
Với Thần ta chẳng đấu tranh,
Nhưng mi là một người trần thế gian,
Ăn hoa quả hãy lại gần,
Ta cho nhanh chóng đời tàn âm cung (3840)
Hy Mã công tử mới rằng :​
Đỗ đại hiệp muốn hỏi tên cớ gì ?
Con người như lá rừng cây,
Mấy ai hỏi tuổi tên chi lá rừng ?
Lá rơi mặt đất thu tàn,
Xuân sang lại nẩy lá non trên cành.
Con người thế hệ này sinh,
Bao thế hệ khác lụn tàn chết đi.
Nhưng người muốn hỏi ta thì,
Nói cho người biết ta đây cội nguồn (3850)​
Đạt Quốc sâu thẳm rừng xanh, (Argos)
Giỏi chăn nuôi ngựa kinh thành Âu Kha,(Ephyre)
Chi Bích tài trí làm vua, (Sisyphe)
Âu Ôn công tử tên là Lỗ Cô (Eole)
Sinh Băng Phong nối cơ đồ. (Bellérophon).
Lỗ Cô bị nạn ngựa đua tàn đời.(Glaucos, ông cố cùng tên)
Gian hùng Băng Lễ cướp ngôi,(Belléros)
Băng Phong giết chết rồi rời quê hương.
Ty Thanh vua Bối ân cần, (Tirinthe, Proitos)
An Thê vợ Bối lòng yêu thương chàng.(Antée) (3860)​
Tức tình ngay thẳng Băng Phong,
Cho nên lại nói dối cùng phu quân :
Bối Tổ sẽ chết một ngày,
Nếu chàng không giết hay đày Băng Phong.
Hắn ta yêu mến thiếp thần,
Hắn muốn cùng thiếp thành thân ở đời.
Dù lòng thiếp chẳng nào vui.
Bối Tổ nghe nói ghen lời giận căm.
Hắn ta muốn giết Băng Phong.
Ngại ngần lo sợ thần linh phạt vì (3870)​
Nên gửi đi sang Ly Chi (Lycie)
Tính nhờ cha vợ ra tay giết giùm.
Trao thư mật mã thông đồng.
Băng Phong đi đến kinh thành Ly Chi.
Nhưng nhờ thần phúc hộ trì,
Nhà vua hậu đãi tiệc khi thật lòng;
Chín ngày thết chín bò non.
Ngày thứ mười lúc bình minh nắng hồng.
Mới là xem thẻ thư đồng,
Mới hay lời dặn của chàng rể kia (3880)​
Bèn cử đi giết Si Me (Chimère)
Mượn tay yêu quái hang khe giết người.
Đầu sư tử rắn đuôi dài.​
Mình dê khủng kiếp thở hơi lửa hồng.
Băng Phong lại lập chiến công.
Giết con quái vật nhờ thần chở che.
Lần hai Sô Lâm trận về,(Solymes)
Lại đánh thắng gặc sơn khê núi rừng.
Lần ba đánh A Ma Dôn,(Amazones)
Chiến trường đẩm máu khải hoàn quang vinh. (3890)​
Trở về vua chận phục binh,
Trăm quân tinh nhuệ đặt trong hiểm nghèo.
Chẳng ai thoát chết về triều.
Băng Phong lại thắng, trăm điều vẻ vang.​
Vua Ly Chi kính phục chàng,
Gả công chúa nửa giang sơn gia tài.
Nhà vua chia đất cho người,
Ruộng vườn hoa trái tốt tươi cánh đồng.
Công chúa sinh ra ba con,
Ý Sơn, Hy Mã và nàng Lã My (Isandre, Hippolochos, Laodamie)(3900)
Lã My với Dớt thụ thai,
Sinh Thạc Đông đó tài trai mũ đồng. (Sarpédon)
Băng Phong bị phạt bởi thần,
Cỡi ngựa bay đáp vào vùng hoang khai (Pégase)
Đông An Sư tránh loài người, (Alion)
Ý Sơn chết nơi chiến trường (Isandre)
Lã My, Đạt Thế bắn tên lìa đời *
Hy Mã đã sinh ra tôi,
Gửi tôi ra trận giúp người thành Troa (3910)​
Khuyên tôi can đảm xông pha,
Chớ làm xấu hổ ông cha giống nòi.
Âu Kha vinh dự giúp người.(Ephyre)
Tôi mang dòng máu sáng ngời quang vinh.
Đỗ Mạnh nghe nói vui mừng,​
Phóng lao cắm đất, nói cùng tướng quân.
Vậy tôi, anh chỗ tình thân,
Cha ông xưa đã thề nguyền cùng nhau.
Cung Ô Nê đã đổi trao,(Oenée)
Vật quà lưu niệm kết giao tâm đồng (3920)​
Hai mươi ngày tiếp cung đình,
Ô Nê tặng chiếc đai đồng tím than,
Băng Phong tặng chìếc cúp vàng,
Hai quai, tôi đã chẳng mang theo mình.
Cha tôi, tôi nhớ gì chăng ?
Tôi còn thơ ấu chiến trường ra đi.
Thành Thép tử trận gian nguy,
Bây giờ ta nhận nhau vì anh em.
Đạt Quốc tôi sẽ tiếp anh,
Còn tôi, tôi sẽ thăm thành Ly Si (3930)​
Chúng ta tránh đánh nhau đi,
Hẹn ngày tái ngộ mai đây hòa bình.
Chúng ta trao đổi chân tình,
Trao nhau vũ khí một lòng tình thân.
Cha ông ta đã anh em,
Giờ đây ta cũng một lòng cùng nhau.
Nói rồi tay nắm đổi trao,
Lao đồng xe ngựa bên nhau chân thành.
Ngọn lao Lỗ Cô bằng vàng.
Lao tướng Đỗ Mạnh bằng đồng sáng choang. (3940)
Thiên Đình Dớt cũng bằng lòng,
Trăm con bò đổi chín con chẳng màng.

Hải Tô đến cổng Khuê, thành,
Gia đình binh sĩ, vây quanh hỏi dồn.
Người hỏi tin tức các con,
Tin em thân thuộc, tin anh, tin chồng.
Người mong cầu nguyện các Thần.
Bao nhiêu lo lắng tương thân đang chờ.
Hải Tô về cung điện vua,
Đi qua các cổng cung hoa chạm hình (3950)
Năm mươi phòng ốc dãy liền,
Cung các hoàng tử sống cùng vợ con.
Bên kia một quảng sân trong,
Mười hai cung các riêng phòng công nương,
Cùng các phò mã sống chung.
Hải Tô vào gặp mẫu thân tường trình.
Lan Khuê công chúa đưa chàng (Laodicée)
Cầm tay Hoàng Hậu, hỏi con: Cớ gì ?
Giả từ chiến tuyến về đây,
Biết con mòn mỏi vòng vây quân thù (3960)​
Biết lòng con muốn nguyện cầu,
Mong ơn Thần Dớt đền cao thượng thành,
Mẹ cho con rượu mật ong,
Con cầu Thần Dớt, các Thần Thiên Sơn,
Rồi con hãy uống cạn chung,
Sức con mỏi mệt rượu ngon phục hồi.
Bao ngày con đuối sức rồi,
Ra thân che chỡ đền bồi song thân.
Hải Tô mũ trụ ánh đồng,
Trả lời : Mẹ chớ cho con rượu này, (3970)​
Rượu say biếng nhác chân tay,
Chẳng còn sáng suốt chỉ huy chiến trường.
Con không dám khấn Thần Vương,
Tay chưa thanh tịnh miệng nồng men cay.
Máu còn say, hồn ngất ngây,
Lời cầu hoen ố như mây mịt mờ.
Mẹ ơi hãy đến điện thờ,
Quán Trí Thần Nữ cậy nhờ chiến công.
Hãy mời tất cả phu nhân,
Dầu hương, khăn lụa y trang vật quà (3980)​
Bên Thần Nữ tóc thước tha,
Đặt bên đầu gối gấm hoa dâng Ngài.
Lụa tơ quý báu nhất đời,
Khấn lời cúng tế mười hai con bò,
Bê con một tuổi còn tơ,
Chưa đặt lên ách, cậy nhờ xót thương.
Che chỡ kinh thành Troa Yên,
Trẻ thơ phụ nữ thoát cơn bạo tàn.
Ty Đê công tử dã man,
Ngọn lao khủng kiếp kinh hoàng ba quân. (3990)​
Phần mẹ đến đền cầu Thần,
Con đến Bá Lộc khuyên răn tỏ bày. (Pâris)
Biết hắn có nghe con đây,
Đất còn sụp đổ nơi này dưới chân.
Hắn nuôi mối hận Thiên Đình,
Vua Biam hào hiệp với cùng các con.
Chỉ khi hắn cõi Diêm Vương,
Hồn con mới hết nỗi buồn tang ma
Huê Cúc vào chốn cung nhà, (Hoàng Hậu Hécube)
Sai các thị nữ truyền ra lệnh mời (4000)
Các phu nhân khắp mọi nơi,
Hẹn cùng nhau đến cầu nơi thượng thành.
Hoàng hậu bước xuống hương phòng,
Tơ thêu gấm dệt các nàng Si nương (Sidoniennes)*
Bá Lộc từng chất cả thuyền,
Đem về cùng với Hạ Lan ngọc ngà.
Huê Cúc mang một khăn tơ,
Chiếc khăn đẹp nhất thêu hoa tế thần,
Quán Trí Tuệ ban phúc ân,
Khăn tơ lóng lánh như ngàn sao đêm (4010)
Khăn thêu đẹp nhất thế gian,
Để nơi quý giá dành riêng tế thần.
Rồi cùng thị nữ một đoàn,
Theo sau các đấng phu nhân đến đền.
Đền Quán Trí Tuệ, đỉnh Thượng Thành,
Khải Các nương tử, má hồng khói hương,(Kissès)
Thể Nương, An Thế phu nhân, (Théano, Anténor)
Mở ra cửa lớn cung nghinh nữ đoàn,
Thể Nương nghi lễ hương trầm,
Đưa tay xướng lễ, hoà đồng tiếng thanh. (4020)
Thể Nương nâng lấy tấm khăn,
Cung nghinh đặt phủ đùi Thần tóc xinh,
Rồi quỳ cầu khẩn thần linh:​
Quán Trí bảo vệ kinh thành chúng con,
Linh thiên cầu khẩn Nữ Thần,
Bẻ lao Đỗ Mạnh, tan tành bại vong,
Ngã gục trước cổng Khuê Thành,
Chúng con sẽ cúng bê non, mâm đồng.
Mười hai bê cái tuổi tròn,
Chưa đặt cương ách , cầu ơn an lành (4030)​
Xót thương cho cả Troa dân,
Toàn dân phụ nữ và cùng cháu con.
Mặc lời khấn hứa lăng nhăng,
Quán Trí chẳng nhận, tỉnh không lắc đầu.

Trong khi phụ nữ nguyện cầu,
Hải Tô đã đến cung lầu Lộc Sơn (Alexandre, Pâris)
Vua cho xây dựng đẹp xinh,
Bởi bàn tay thợ khéo tinh nhất vùng,
Cạnh cung Hải Tô, cung Biam,
Sảnh đường, phòng rộng, sân vuông, thượng thành(4040)
Tay cầm lao mười hai tầm,
Mũi đồng sáng chói vòng vàng cán lao,
Gặp An Lộc Sơn chùi lau,(Alexandre, Pâris)
Khiên đồng, giáp sắt, thử nào nỏ cong.
Hạ Lan giữa đám nữ nhân,
Thị tỳ thêu dệt hoa vân vẽ vời.
Hải Tô trách cứ nặng lời :​
Quỉ yêu, mi đã gây đời hờn căm;
Vì nàng xinh đẹp gì chăng ?
Bao nhiêu quân tướng nhọc công quanh thành. (4050)​
Tường cao dốc thẳm liều mình,
Chính mi nguyên cớ chiến tranh oán hờn,
Chính mi, đấu địch thề nguyền,
Thế mà bỏ trốn chiến trường về đây,
Nào mau hãy đứng dậy ngay,
Bảo vệ thành phố tro bay lửa hồng.
Bá Lộc lên tiếng nói rằng:​
Hải Tô anh nói chẳng lầm, đúng sai,
Hãy nghe em nói một lời,
Nếu em phải ở nghỉ ngơi trong phòng, (4060)​
Chẳng vì hèn nhát trong lòng,
Mà vì thương tích phải cần nghỉ ngơi,
Bây giờ em sẵn sàng rồi,
Sẽ ra chiến đấu bên ngoài cùng anh.
Để em mặc lấy giáp binh,
Đi sau, em sẽ theo anh ra thành.
Hạ Lan cất tiếng nhẹ nhàn,
Mỉa mai cay đắng dịu dàng mật thơm :​
Thân tôi chó cái nào hơn,
Bao điều xấu hại, con tim lạnh lùng (4070)​
Mẹ tôi sinh có ngờ rằng :
Thân tôi cơn lốc núi ngàn mang đi,
Hay cơn sóng dữ biển khơi,
Xui tôi đến một phận đời trớ trêu.
Các Thần hành hạ khổ đau,
Đời tôi đang được yêu thương bên chồng.
Người chồng quý phái yêu cưng,
Giờ đây nguyền rũa xem khinh bao người.
Kẻ nào phá hoại thân tôi,
Rồi đây phải trả quả đời đắng cay (4780)​
Anh chồng tôi, hãy ngồi đây,
Vì anh gánh vác trên vai nhọc nhằn.
Vì tôi chó cái đáng khinh,
Là nguyên nhân của em anh lạc lầm.
Trời cho số mệnh gian truân,
Mà mai sau các thi nhân viết đời.
Hải Tô Mũ Trụ trả lời :​
Hạ Lan, việc gấp tôi rồi phải đi.
Cám ơn nàng có lời mời,
Tôi còn trăm nỗi, chẳng vui được gì ! (4090)​
Tim tôi lửa bỏng dầu sôi,
Thủ thành, cấp cứu, giúp người Troa dân.
Đang cần có mặt tướng quân,
Phận nàng thì hãy dục chồng ra đi.
Ra ngay cố thủ thành trì,
Tôi còn trở lại cung tôi gặp nàng
Vợ tôi, con dại cưu mang,
Tôi còn có biết ngày còn với nhau,
Chiến trường ai biết ra sao ?
Nếu Thần xui ngọn lao nào An Kinh. (4100)
Nói rồi cất bước đi nhanh,
Về tư cung cũng ở gần cạnh bên.
Vắng An Độ Mai, nhà không (Andromaque)
Nàng đang trên đỉnh cổng thành thở than,
Cùng con trai với vú em,
Hải Tô trước cửa hỏi thăm kẻ hầu,
Hỏi : An Độ Mai đi đâu ?
Hỏi nàng : đến các em dâu, em chồng ?
Đền Quán Trí, các phu nhân,
Cầu nguôi cơn giận khiếp kinh Nữ Thần. (4110)
Quản gia mới trả lời rằng :​
Công nương chẳng đến các em dâu chồng.
Chẳng đi cầu khẩn Nữ Thần.
Công nương đi hướng cổng thành Ý Long.
Nghe tin thua trận lui binh,
Nóng lòng vội chạy như điên ra thành.
Thị tỳ bế bé theo chân.
Hải Tô nghe nói vội vàng đi nhanh.
Cổng Khuê qua lối phố phường,
Gặp nàng An Độ dịu hiền và con (4120)
Công chúa con vua Âu Thông,( Éétion)
Ở vùng Phà Cổ, Thép thành, Chi Liên,(Placos, Thèbe, Ciliciens)
Gặp nàng mừng rỡ ôm chầm,
Thị tỳ âu yếm bến con trong lòng.
Sa Măng Tử tên dòng sông,
Sông xanh che chở cánh đồng vùng Troa,
Bé xinh như một vì sao,
Hoàng Đô Vương tên nghĩa là Vua kinh thành,(Astyanax)
Mỉm cười trông thấy bé con,
Riêng nàng nước mắt chứa chan ôm chồng: (4130)​
Chàng ơi, chớ có liều thân,
Thương em góa bụa, con còn ấu thơ,
Nếu chàng xuất trận bây giờ,
An Kinh xông đến lao cờ vây quanh,
Nếu chàng chiến địa hủy thân,
Thì em chỉ biết quyên sinh theo chàng.
Còn vui gì để mơ màng,
Nếu chàng số mệnh sẽ tàn chốn nao !
Đời em toàn những thảm sầu,
Chẳng cha, chẳng mẹ, đớn đau tâm tình. (4140)​
Cha em giết bởi An Sinh, (Achille)
Tay thần tàn phá kinh thành Chi Liên,
Thành Thép bảy cổng cao tường,
Cha Âu Thông chết đau thương vô cùng.
Đốt thân cùng với giáp binh,
Đắp lên một nấm nộ con cây trồng.​
Cung đình thiếp bảy anh em,
Một ngày tử trận, Diêm Vương hồn chầu.
An Sinh cướp sạch còn đâu,
Bầy bò chân lớn, bầy cừu trắng lông (4150)
Mẹ em bị bắt trên đồng,​
Đòi phần chuộc mạng tiền nong bạc vàng.
Nhưng khi được thả về cung,
Đạt Thế Mỹ đã bắn tên lìa đời.*
Mình em trơ trọi chàng ơi !
Chàng là: cha, mẹ, là người anh thương !
Là phu quân đức vẹn toàn,
Chàng ơi ở lại cùng em chớ rời.
Chớ làm con dại mồ côi,
Vợ chàng góa bụa rồi đời đau thương (4160)​
Bên cây vả hãy thêm quân,
Nơi này hiểm yếu lũy thành dễ leo,
Gấp ba lần chốn hiểm nghèo,
Địch quân dũng cảm toan trèo tiến công.
An Bắc, Anh Đô, An Gia Vương,
Mai Lạc, Đỗ Mạnh tấn công nơi này.
Hải Tô thương cảm, thẳng ngay :​
Nàng ơi, đau xót điều này nghĩ suy,
Cho ta lo lắng hiểm nguy,
Những điều bất hạnh mai này xảy ra (4170)​
Nếu ta hèn chẳng xông pha,
Nàng ơi sao thể nhìn ta cõi trần,
Nhìn họ hàng, nhìn toàn dân,
Lòng anh chẳng muốn làm thân phận hèn.
Xưa nay ta đã từng quen,
Hàng đầu anh dũng giữ gìn tiếng danh.
Cho vua cha và cho anh,
Chính anh linh cảm ngày tàn Ý Long,
Vua Cha Biam và cả toàn dân,
Sẽ ra tro bụi trước quân địch thù (4180)​
Vua, anh em gục trước lao,
Điều anh lo nghĩ, nhục nào trước tiên,
Một tên giáp trụ An Kinh,
Bắt nàng trong tiếng khóc than đau lòng.
Ngày này hạnh phúc đã tàn,
Bắt về Đạt Quốc dưới quyến khiến sai (Argos),
Nàng phải dệt vải ngày ngày,
Mai Khê, đội nước lòng đầy xót thương. (Messeis)
Thấy nàng nước mắt chứa chan,
Người ta khẽ bảo: vợ chàng Hải Tô (4190)
Những ngày chiến đấu thành Troa,
Người anh dũng nhất cơ đồ tiêu tan.
Nàng càng tủi phận khốn cùng,
Nàng không còn có người chồng cưu mang.
Thoát đời nô lệ nhọc nhằn,
Nàng ơi thà chết để đừng thấy chi,
Đất đen phủ kín sầu bi,
Không nghe nàng khóc, lôi đi kẻ thù..
Nói rồi bế đứa con thơ,
Trẻ thơ khóc thét, nép vô nữ tỳ (4200)
Nhìn cha sợ hãi mấy khi,
Thấy cha mũ trụ, lông đuôi ngựa hồng.
Lắc lư trên mũ sáng choang,
Cha cười mẹ cũng rộn lòng yêu thương.
Hải Tô đặt mũ xuống nền,
Chàng bồng con dại, ru êm trong lòng.
Rồi đưa lên khấn cầu thần :​
Dớt và các đấng thiêng liêng hộ trì.
Cho con tôi đứa bé này,
Khắp dân Troa sẽ vang đầy tiếng danh (4210)​
Như tôi vô địch sức thần,
Oai hùng ngự trị Ý Long uy quyền,
Xin ngày mai sáng huy hoàng.
Nó từ chiến trận vinh quang trở về,
Người người thán phục tỉ tê,
Nó còn hơn bố trăm bề chiến công.
Giết quân thù cướp giáp đồng,
Về dâng cho mẹ một lòng sướng vui.
Trao con cho vợ ngậm ngùi,
Ôm con trong ngực thơm cười lệ tuôn (4220)
Vuốt ve âu yếm tay nàng,
Bảo rằng : Đau khổ, chớ buồn vì anh.
Bao giờ số mệnh đã dành,
Dạ Đài ai thoát được chăng kiếp người,
Nhát hèn, gan dạ cõi đời !
Hãy về chăm chỉ việc nơi gia đình,
Dệt tơ, sai khiến gia nhân,
Chiến tranh là việc đàn ông thành này.
Nói rồi đội mũ ra đi,
Nàng về, quay lại mắt mi lệ tràn (4230)
Nàng về chốn vắng lầu trang,
Nàng than thở nhớ thương chồng Hải Tô.
Chàng ra đi, sợ âu lo,
Sợ chàng có thoát trận đồ An Kinh.

Bá Lộc chẳng ở lâu hơn,
Giáp đồng, lao nhọn, xăm xăm đến thành.
Ngựa phi hối hả, nhanh nhanh,
Ngựa nuôi lúa mạch lâu trong trại chuồng.
Tháo dây cương dạo trên đồng,
Quen đi tắm mát bên sông, suối nguồn (4240)
Dận chân trước đợi yên cương,
Mũ đồng, giáp sắt, vai choàng khiên, gươm.
Theo bầy lên đỉnh Bắc Lam,
Mũ đồng lấp lánh như ngàn ánh sao,
Hí vui chân bước phi mau,
Nửa đường Bá Lộc, gặp chào Hải Tô.
Mới cùng lìa vợ, vừa vô :​
Anh ơi ! em chẳng mất giờ trể chi,
Đến vừa kịp lúc anh đây.
Hải Tô Mũ Trụ, thẳng ngay khuyên lời : (4250)
Xấu hổ thay để nhạo cười,
Bao nhiêu dân chúng khổ đời vì mi,
Chớ nên buông thả mặc chi,
Chẳng còn ý chí , mặc gì nổi trôi.
Ta chẳng muốn trách mi hoài,
Vì mi sức lực trên đời kém ai ?
Nhanh lên phòng thủ kịp thời.
Nếu Dớt cho phép cõi trời vinh danh.
Trước mắt đuổi quân An Kinh,
Ra khỏi xứ sở thanh bình quê hương (4260)​

CHÚ THÍCH

*Hélénos : có tài tiên tri như Cassandre, theo Virgil về sau nối ngôi Pyrrhus thành vua Épire và lấy chị dâu Andromaque làm Hoàng Hậu. Con Andromaque và Hector bị Néoptolème con Achille giật lấy trong tay, nếm xuống thành chết.

* Diomède không có Thần nữ Athéné bên cạnh nên nghi ngờ không biết thần hay người.

*Nhũ mẫu Dionysos là Hyades trở thành một chòm sao trong bầu trời. Nyzéion núi thánh nơi hành hương. Các Hyades thường cầm cây Tửu Trượng (Thyrses) là cây gậy phía trên còn cành lá, có treo một quả thông và có dây nho leo. Dionysos thường đi khắp thế gian với chiếc xe do con báo kéo và đoàn tùy tùng, có ông già Silène ngồi ngất ngưỡng trên lưng lừa, kè kè bình rượu, có thần Satyres nửa dê nửa người, râu tóc bờm xòm, đầu có sừng, tay người chân đuôi dê, tánh nết thô lỗ, ham mê tửu sắc, đeo trước ngực dương vật bằng gỗ, thần Pan và bảy nàng tiên Hyades, là tiên nuôi Dionysos thuở bé. Đám rước đi đến đâu cờ trống, nhảy múa dậm dật, ầm ỉ, đó là đức tin tín đồ thần Rượu Nho. Một ngày đám rước tới xứ Thrace của vua Lycurgue. Vua cho rằng nếu để Thần Dionysos cư ngụ dân chúng sẽ hư hỏng vì say sưa, nên ra lệnh quân sĩ đuổi đám rước, đánh bằng roi quất bò.. Họ bỏ chạy tán loạn bình rượu bị đập vỡ. Dionysos đường cùng nhảy xuống biển, nữ thần Thétis ôm mang về thủy cung. Dionysos kiện lên Olympe, được các thần giúp đỡ, dùng pháp thuật trả thù làm vua Lycurguemắt mờ, mất trí, điên rồ, thấy con trai trưởng tưởng là cây nho chém chết. Dionysos làm đất đai khô cằn, kiệt quệ. Dân chúng cầu thần dược sấm truyền phải trừng trị kẻ xúc phạm. Vua Lycurgue bị xử tứ mã phanh thây. Từ đó xứ Thrace trở lại phì nhiêu, dân chúng trở lại thờ thần Dionysos. Cuối vườn Luxembourg Paris có nhóm tượng đám rước Dionysos, nghi lễ này là nguồn gốc hài kịch.

*Amazones : bộ tộc hoàn toàn do đàn bà cai trị.

*Sisyphe : con Eole vua Thessalie thành lập Corinthe, chuyện thần thoại Sisyphe đẩy tảg đá lên dốc AcrôCorinthe để xây dựng đền, cứ lên dốc đá lại tuột xuống, việc làm hoài công. Glaucos cùng tên ông cố đang đối thoại với Diomède, chết vì xe đổ trong cuộc đua, bị chính ngựa ông ăn thịt.

*Ellérophos theo thần thoại dùng ngựa có cánh Pégase đi lên núi Olympe nên bị các thần thù ghét trừng phạt.

*Sidoniennes, vải vóc vùng Tyr nay là Liban nổi tiếng ngày xưa.

*Ngày xưa người Hy Lạp cho rằng đàn bà chết bất ngờ (bệnh tim) là do Artémis, nữ thần săn bắn bắn tên. Đàn ông chết bất ngờ do Apollon bắn tên.

*Achille sau khi đánh thành Troie không được quay sang đánh đồng bằng chung quanh và các thành nhỏ cướp lương thực nuôi quân. Cha Andromaque và 7 anh em đều bị giết chết, mẹ được trả tiền chuộc mạng xong chết bất ngờ.
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC VII
HECTOR ĐẤU VỚI AJAX
HƯU CHIẾN, THU DỌN CHIẾN TRƯỜNG

Trận chiến tiếp diễn, tướng quân Troie hạ được nhiều tướng Hy Lạp. Thần nữ Athéné lo lắng sự tình gặp Thần Apollon. Bàn chuyện hai bên cử hai tướng hai bên đánh nhau để đỡ phần xương máu. Hélénos tiên tri, nghe được lời các thần, khuyên Hector thách đấu với một tướng Hy Lạp. Ménélas xung phong nhưng Agamemnon không cho. Vương lão Nestor kể chuyện mình chiến đấu thời trẻ kích động các tướng. Mười tướng trẻ xung phong muốn tranh tài, nên phải bắt thăm, Ajax Télémon trúng thăm. Trận đấu giữa Hector và Ajax cả hai ném lao đều dùng khiên đỡ được trong gang tất, hai người quần thảo dùng đá ném nhau, bất phân thắng bại , hai người rút gươm các trọng tài lên tiếng phải ngừng lại vì đêm tối. Triều đình Troie họp bàn, lão thần Anténor khuyên trả Hélène và tài sản nữ trang cho Hy Lạp, Pâris không chịu chỉ trả tài sản và giữ Hélène vì Thần Vệ Nữ đã ban cho. Vua Priam sai sứ giả Idaios đến thông báo theo lời Pâris. Diomède lên tiếng không chịu , nhất định đòi cho được Hélène, mọi người đều đồng tình. Hai bên đồng ý hưu chiến để dọn dẹp chiến trường, hỏa táng các chiến sĩ tử trận. Quân Hy Lạp xây một bức tường và đào chiến hào sâu trước trại. Thần Poséidon phàn nàn cùng Zeus, đã vâng lệnh Apollon giúp xây dựng tường hào nhưng không được cúng tế. Thần Vương Zeus khuyên Posséidon ráng chờ xong chiến trận thì phá sập cả tường hào trong một ngày. Màn đêm buông xuống, Hy Lạp khoản đãi binh sĩ.​

Nói rồi cất bước lên đường, (4261)
Hải Tô xông tới chiến trường cùng em.
An Lộc Sơn, với con tim, (Alexandre Pâris)
Nấu nung hiếu chiến muốn tìm địch quân.
Quân Troa như thủy thủ mong,
Gió lên, tay đã mỏi dầm chèo bơi,
Cho thuyền xông lướt ra khơi,
Sức mòn, bủn rủn rã rời tứ chi.
Như Thần hiện đến tức thì,
Lúc lời cầu nguyện, những gì ước mơ. (4270)
Bá Ly hạ Mai Thiết Tô (Pâris, Ménesthios)
Con vua An Thước thành đô Đạt Huề (Areithoos, Darnè)*
Mẹ Phi Lô Đức mắt bê (Phylomédus)*
An Kinh vì nghĩa cùng về hợp binh.
Hải Tô đâm Anh Nê thương, (Hector,Eipnée)
Mũi thương trúng cổ thân xuyên mũ đồng.
Lô Cốt tướng quân Ly Siên (Glaucos, Lyciens)
Giết Anh Phi Cốt, trận tiền sát nhau, (Iphinoos)
Chiến xa gãy đổ lật nhào,
Trúng vai đứt nát, hồn vào thiên thu. (4280)
Quán Trí Tuệ Mắt Cú từ,
Đỉnh Thiên Sơn thấy lòng sầu chẳng yên.
Thương cho quân tướng Đạt Liên,
Xuống trần tìm đến trận tiền Ý Long.
Đỉnh Bắc Lam, gặp An Long,(Apollon)
Đang mừng chiến thắng về phần Troa quân.
Hai Thần bên gốc cây sên,
An Long đã hỏi chuyện Thần nữ khuê :​
Vì đâu Thần nữ say mê,
Giúp cho chiến thắng nghiêng về An Kinh.(4290)​
Chẳng thương số phận Troa Yên,
Trẻ già tàn sát kinh thành tiêu vong ?
Cớ chi Thần nữ nở lòng ?
Làm cho đổ nát tang thương đô thành ?
Quán Trí Tuệ mắt long lanh:
Biết làm sao dứt chiến tranh hận thù ?
Hai bên quân tướng đối đầu,
Các Thần xua đuổi về đâu kiếp người ?
Chính vì ý nghĩ đó thôi,
Mà tôi không thể yên nơi Thiên Đình. (4300)
An Long mới đáp lời rằng :​
Dục Hải Tô thách đầu cùng Đa Niên,
Hy Lạp chọn một tướng quân,
Hai bên song đấu dành phần quang vinh.
Ai người thắng trận sẽ dành,
Hạ Lan, tài sản, rút quân hòa bình.
Quán Trí Tuệ cũng đồng tình,
Không còn phản đối lời thần An Long.
Hạ Linh con vua Biam (Hélénos)
Tài tiên tri đã tỏ tướng thần ban : (4310)
Phút giây thần mộng rõ ràng,
Lời thần mặc khải trong lòng mừng vui.
Tìm Hải Tô đến bên người :
Hải Tô anh hỡi nghe lời em đây.​
Thắng An Kinh một trận này,
Chọn người dũng tướng tranh tài cùng anh.
Ai người thắng sẽ dành phần,
Hai quân ngồi xuống xem cùng cuộc tranh.
Tướng anh không chết ắt còn,
Số phần chưa mãn tất dành phần hơn. (4320)​
Ấy lời Thần mộng bảo em,
Hai Thần bàn luận trận tiền thấp cao.
Hải Tô nghe nói vui sao,
Đến ngay giữa trận, lệnh chào sứ quân.
Lệnh Troa quân ngồi thẳng hàng,
An Gia Vương cũng truyền quân sĩ ngồi.
Hai Thần cũng hiện đến nơi,
Hóa chim ưng đậu bên trời, gốc sên.
Hai bên quân sĩ ngồi im,
Khiên bày chật đất, lao ghim chỉa trời. (4330)
Gió Tây Khuê thổi tơi bời, (Zéphire)
Thổi qua biển vắng, lạnh người, mây giăng.
Hải Tô lên tiếng, lời rằng :
Lắng nghe quân sĩ hai bên chiến trường,
Lời tôi thốt tự đáy lòng,
Vì lời thề ước chẳng thành xảy ra,
Cồ Nốt Thần tử xui ta,
Chẳng tròn thệ ước, thật là đau thương,
Hai bên quân sĩ chiến trường,
Đẩy vào cùng tận giáo gươm mù loà. (4340)​
Các ông, quyết hạ thành Troa,
Đem bao thuyền chiến vượt qua biển ngàn.
Bao người vô tội chết oan,
Nên xin mời đến đấu trường cùng tôi.
Chọn người anh dũng phe người,
Chúng ta cùng đấu sức tài lược thao.
Ai mà thắng được Hải Tô,
Sẽ dành phần thắng cuộc cờ vinh quang.
Sẽ dành chiến phẩm giáp thương,
Xác tôi xin trả cung đình Troa Yên (4350)​
Gia đình tang lễ thiêu thân,
Chính tôi sẽ đối địch trong trận này.
Nếu tôi thắng trận, ai đây,
Thần An Long ầ thưởng cơ may chiến trường,
Tôi xin thu giáp gươm đồng,
Về trao lễ tạ nơi đền An Long,
Và tôi xin trả xác thân,
Cho An Kinh sẽ lo phần lễ tang.​
Hoan Lạc Cầu mộ huy hoàng (Hellespont)
Đời sau bao kẻ sẽ còn đến đây. (4360)​
Vượt qua biển sóng rượu say,
Bảo rằng mồ của một tay lẫy lừng,
Cùng Hải Tô trận thư hùng,
Vinh quang thành bại, tiếng danh để đời.
An Kinh chẳng tiếng trả lời,
Chối từ hổ thẹn, nhận thời ngại thân.
Mai Ninh Lạc chợt đứng lên,
Trách lời khích nhục, uất hờn trong tim:​
Hải Tô thách đấu huênh hoang,
Nếu không đối địch, thì còn nhục chi ! (4370)​
An Kinh chí khí nam nhi,
Nếu không nhận đấu, còn gì danh ta.
Chúng ta từ đất nước ra *
Tim không danh dự, thế là còn chi.
Tôi xin nhận đấu trận này,
Trời cao thành bại, đầu dây các thần.*
Nói rồi mặc áo giáp đồng,
Mai Ninh Lạc sức chẳng bằng Hải Tô,
Mệnh chàng ai cũng âu lo,
An Gia quyết định quân cơ chiến trường:(4380)​
Mai Ninh Lạc chớ có điên,
Em chưa đến lúc mà quên thân mình,
Hải Tô con trưởng vua Biam,
Ai ai cũng ngại đấu cùng hắn ta.
Cả An Sinh cũng ngại va,
An Sinh sức mạnh hẳn là hơn em,
Hãy ngồi kiên nhẫn đợi thêm,
Tướng ta như nấm, mọc lên đối cùng.
Bao người gan dạ anh hùng,
Bao người can đảm đua tranh sức tài. (4390)
Mai Ninh Lạc đành nghe lời,
Lời anh chí lý đúng nơi, đúng tình.
Quân hầu vui vẻ nhẹ mình,
Cất khiên cởi giáp cho chàng đặt bên.
Ninh Tô Vương lão đứng lên,
Lời lời kích động thanh niên tranh hùng:​
Đau thương thay quân Đạt Liên,
Lẽ nào chẳng có một trang anh hùng.
Từ khi vắng Nguyệt Mi Đông (Achille, Myrmidons)
Chẳng ai dám đối mặt cùng Hải Tô. (4400)​
Nhục giống dòng, nhục cơ đồ,
Hồn về Địa Phủ sao mơ cõi Thần (Hadès)
Thời tôi còn tuổi thanh xuân,
Phi Liên cùng với Ca Diên một nhà,(Phyliens, Arcadiens)
Hợp quân chinh phạt thành Pha (Phéas)
Đạt Đa Nốt bên bờ sông xanh (Iardanos)
Vua Âu Thanh Long hùng anh, (Ereuthalion)
Sức như thần mấy ai tranh chiến trường.
Ỷ vào áo giáp danh truyền,
Vua An Tây Thước từng mang bên mình (Areithoos)(4410)​
Nhà vua danh tiếng chùy đồng,
Chẳng cần cung nỏ, lao gươm bên mình,
Vua Ly Cước sức chẳng bằng,(Lycurgue)
Dùng mưu lừa đến hẻm thông hẹp vào,
Chùy đồng vướng chẳng vươn cao,
Ly Cước giết cướp áo bào hộ thân.
Thần Chiến ban thưởng quang vinh,
Đến già trao lại trong cung điện mình.
Tướng hầu cận Âu Thanh Long (Ereuthalion)
Hắn ta ra trận thách cùng thế gian, (4420)​
Ai mà gặp hắn đời tàn,
Giáp dày chẳng sức nào đâm được mình.
Ai ai cũng ngại giao tranh,
Riêng tôi chẳng sợ chấp cùng hiểm nguy.
Dù tôi trẻ nhất trận này,
Quán Trí Tuệ đã ban tài trí mưu.
Lừa cơ đâm chết kẻ thù,
Lớn cao, mạnh bạo, mặc dù thấp hơn.
Xác thân to lớn lăn đùng,
Chân tay từng mảnh, giáo gươm cắt lìa. (4430)​
Nếu tôi còn trẻ xông pha,
Hải Tô tôi cũng chẳng chừa phần ai.
An Kinh hào kiệt sức tài,
Lẽ nào để mặc cho người trêu gan.
Nào nhanh lên các anh hùng,
Mau ra đối mặt với cùng Hải Tô.
Lời Vương Lão xóa âu lo,
Chín chàng tướng trẻ chẳng chờ đứng lên.
An Gia Vương đứng trước tiên,
Đỗ Mạnh lực lưỡng xông liền xưng danh. (4440)
Hai chàng An Bắc cùng dành (Ajax)
Anh Đô Mai cũng muốn tranh phần mình,(Idoménée)
Mê Long cũng tranh hùng (Mérion)
Âu Ly Minh cũng sức thần kém ai .(Eurypyle)
Thọ Kha cũng kém chi tài (Thoas)
Uy Lĩnh mưu trí cũng đòi đua tranh (Ulysse)
Ninh Tô Vương Lão hài lòng :​
Thôi thì ta phải rút thăm phen này.
Mỗi người một dấu hiệu đây,
Ai mà ra trước sẽ thay tranh tài. (4450)​
Quân An Kinh sẽ mừng vui,
Được xem trận đấu hai người hùng anh.
An Gia Vương đưa mũ đồng,
Mỗi người bỏ dấu hiệu mình vào trong.
Toàn quân cùng khấn nguyện Thần,
Đưa tay thành kính mắt nhìn trời xanh.
Ninh Tô lắc chiếc mũ đồng,
Một thanh dấu hiệu rớt văng ra ngoài,
Thị vệ đưa mọi người coi,
An Bắc nhận biết thanh rơi dấu mình. (4460)
Trong lòng hớn hở vui mừng,
Ném thanh dấu hiệu dưới chân thét lời :
Bạn ơi, đây số phần tôi,
Quyết tâm một trận tơi bời Hải Tô.
Bây giờ tôi mặc giáp vô,
Nào nào các bạn cầu cho trận này.
Dớt ban số phận cơ may,
Nhỏ thôi chớ để hắn hay biết gì,
Sợ hãi tôi mà trốn đi,
Thi tôi mất dịp danh người Sa Minh. (Salamine) (4470)
Mọi người mắt hướng trời xanh,
Khẩn cầu Thần Dớt ơn lành phút ban :​
Hỡi Dớt Đấng Phụ Vương,
Y Đa cai quản vinh quang đời đời .(Ida)
Cho An Bắc thắng rạng ngời,
Nếu ngài yêu mến đồng thời Hải Tô,
Thì xin Ngài hãy ban cho,
Bách phân thắng bại trận đồ quang vinh.
An Bắc khiên giáp đã xong,
Tiến lên về giữa đấu trường hai bên. (4480)
Môi cười rạng rỡ oai hùng,
Lao dài, chiếc bóng đổ nghiêng trên đường.
Hải Tô tim cũng rộn ràng,
Đã cùng thách thức trêu gan anh hùng.
Thể nào lui một bước chân,
An Bắc mang chiếc khiên đồng chắc to.
Chiếc khiên bảy lớp da bò,
Vùng Hy Lê, thợ Ty Ô giỏi nghề. (Hylé, Tychios)
Bảy da bò mộng chở che,
Lớp khiên thứ tám, vàng hoe ánh đồng. (4490)
An Bắc tiến bước đến gần,
Trước thù, lên tiếng lời hăm dằn lời :​
Hải Tô, mi biết ta rồi,
Một mình có dám sức tài phong ba ?
Sau An Sinh, chính là ta.
Sức Thần dũng cảm xông pha đối đầu.
An Sinh gát kiếm giờ lâu,
Có ta đây, chẳng cần cầu ai chi,
Nào, nhanh xông trận mau đi,
Chúng ta đối địch, cần gì số đông. (4500)
Hải Tô Mũ Trụ lời rằng :​
Tê La công tử vốn dòng Thần Vương,
Thủ lĩnh đoàn quân kiên cường,
Trước ta xin chớ xem thường ba hoa,
Như trẻ con, như đàn bà,
Không hay không biết chi là chiến tranh.
Ta bao năm đã tập tành,
Biết nâng tả hữu khiên đồng da nâu,
Tinh thần thượng võ đối đầu,
Không bao gờ đánh đòn sau thấp hèn. (4510)​
Đường đường chính chính anh hùng,
Nào xem đây, hãy đối cùng với ta.
Nói rồi phóng ngọn lao ra,
Ngọn lao bị chận trúng qua khiên đồng.
Xuyên qua sáu lớp da khiên,
Đến lớp thứ bảy, đứng yên, lao chùng.
Đến phiên An Bắc trả đòn,
Ngọn lao xuyên chiếc khiên ngang vang lừng.
Xuyên qua mảnh giáp áo đồng.
Rách tung lớp áo mặc trong thân mình. (4520)
Hải Tô né tránh một bên,
Cho nên thoát số phần đen ngày tàn.
Hai bên tiến nhổ lao khiên,
Hai bên quần thảo, khiên còn trong tay,
Như sư tử thịt máu say,
Như heo rừng khó ai lay sức hùng.
Hải Tô kéo mũi lao đồng,
Khiên dày chẳng thủng lao cong mũi chùn.
An Bắc nhảy đánh vào khiên,
Ngọn lao thêm sức đâm thêm kẻ thù. (4530)
Trúng nhẹ cổ, máu đen tuôn,
Hải Tô lùi bước buông liền lao khiên.
Nhặt ngay tảng đá gần bên,
Ném An Bắc trúng hồng tâm khiên đồng.
Tiếng đồng đá dội vang rền,
An Bắc nhặt đá to hơn trả đòn,
Đá tung bể chiếc khiên tròn,
Hải Tô trúng gối ngã liền sau lưng.
Chiếc khiên cũng ngã theo cùng,
Thần An Long hiện, tay nâng đỡ chàng. (4540)
Cả hai đồng loạt rút gươm,
Toan bề cận chiến, trời đen tối sầm.
Các trọng tài đến cản ngăn,
Các Thần cũng muốn dứt phần đấu nhau.
Y Đai cầm hốt đưa cao, (Ydaios) :​
Hãy ngừng ngay cuộc đấu nhau trận này.
Bách phân thắng bại hôm nay,
Dớt đều yêu mến cả hai anh hùng.
Ngọn lao tuyệt diệu lẫy lừng,
Giờ đêm đã tối, hãy ngừng cuộc tranh. (4550)
An Bắc lên tiếng hỏi rằng:​
Y Đai, phải Hải Tô ông trả lời
Hải Tô thách đấu tranh tài,
Tướng quân đánh trước, còn tôi trả đòn.
Hải Tô vội trả lời rằng :​
An Bắc, Thần đã ban ông trí tài,
Lớn cao khỏe mạnh hơn người.
Sở trường một chìếc lao dài tiếng danh.
Hôm nay thắng bại bất phân,
Ta nên ngừng đấu, hẹn phần ngày mai. (4560)​
Chúng ta còn đấu nhau hoài,
Đến khi số mệnh định đời tàn thôi.
Ban ơn chiến thắng Thần Trời.
Bây giờ đem đã buông rơi tối rồi.
Ta nên ngừng đấu mà thôi,
Quân An Kinh sẽ mừng vui trận này.
Bên thuyền bạn hữu mừng thay,
Còn tôi cũng thế thành trì vua Biam.
Troa Yên cầu nguyện ơn trên,
Chiến trường ngỡ hận căm hờn thương đau. (4570)​
Thế mà ta giả từ nhau,
Anh em bằng hữu, tâm đầu thiết thân.
Nói rồi cởi kiếm đeo lưng,
Bao da đinh bạc tay nâng trao chàng.
An Bắc cũng cởi đai vàng,
Đổi trao quà tặng và cùng lui chân.
Troa quân cổ vũ vui mừng,
Công nghênh chủ tướng về thành vua Biam.
An Bắc, An Kinh reo vang,
An Gia Vương đón mừng chàng chiến công. (4580)
Đưa về hậu tuyến trung quân,
Thưởng công sai mổ bò tròn lên năm.
Khấn Cồ Nốt Thần Tử xin,
Rồi cùng dạ tiệc quang vinh ăn mừng.
An Gia Đại Vương ban phần,
Thịt lưng, ban thường anh hùng cuộc tranh.
Sau khi ăn uống đã xong,
Ninh Tô Vương Lão việc chung luận bàn :​
An Trích, quý tộc An Kinh,
Bao nhiêu dũng tướng trận tiền tử vong. (4590)​
Sa Măng sông nhuộm máu hồng,
Máu say An Thiết, hồn nương Dạ Đài.(Arès, Hadès)
Cũng nên ngừng chiến ngày mai,
Chiến trường thu dọn xác người hỏa thiêu,
Bò lừa chuyên chỡ nhanh nhiều,
Cũi rừng đốt xác, nhặt thu xương tàn.
Mang về trao lại vợ con,
Mai sau khi chúng ta còn hồi hương.
Giờ đây xây nắm mộ chung,
Đặt xương tàn nhớ anh hùng hy sinh. (4600)​
Giờ đây gấp rút dựng thành,
Hào sâu bảo vệ, cổng thành cửa canh.
Bảo vệ khu vực chiến thuyền,
Tôi e ngại địch đánh đường rút quân.
Hội đồng Vua tướng bằng lòng,
Thảy đều đồng ý thi hành khẩn trương .
Bên Troa Yên họp triều đình,
Cùng Vua Biam đỉnh thượng thành Ý Long.
An Thế Công lão Đại thần .(Anténor)
Hãy nghe tôi nói, điều mong ước này. (4610)​
Lời chân thành tim tôi đây,
Troa, An Kinh kết từ nay giao tình;
Trả Hạ Lan với bạc vàng,
Anh em An Trích thuyền mang trở về,
Chúng ta chiến đấu não nề,
Chẳng gì hy vọng, chẳng hề vinh quang.
Ai ngăn cản việc ta làm,
Từ nay hòa hiếu giao bang chân tình.
Nói rồi ngồi xuống lặng thinh,
Cả triều im lặng, mắt nhìn chung quanh. (4620)
An Lộc Sơn giọng kiêu căng,(Alexandre Pâris)
Trả lời thách đố răn hăm sự tình :
An Thế Công chớ thở than,
Những lời bạc nhược chẳng còn tiếng danh,
Nếu theo ý muốn các Thần,
Lời người nếu đúng, thần linh hộ trì.
Thần Vệ Nữ kết duyên tôi,
Tôi không thể trả nàng thời cho ai !
Riêng phần vàng bạc tiền tài,
Gia tài tôi trả, đền bồi phần hơn. (4630).
Vua Biam quyết định đứng lên, (Priam)
Lời như thần thánh, trang nghiêm lệnh truyền :​
Lắng nghe, ý muốn ta rằng,
Làm sao cho được hoà bình ước mơ.
Tiệc khao quân sĩ đến giờ,
Cũng nên cẩn mật quân cơ đề phòng.
Ngày mai Y Đai sứ quân (Ydaios)
Đến vua An Trích xin hoàn trả cho,
Như lời Bá Ly thăm dò,(Pâris)
Xin được hưu chiến cùng lo chiến trường.(4640)​
Dọn dẹp, thiêu xác ba quân,
Dù mai này có đấu tranh đến cùng,
Các Thần quyết định số phần,
Trong hai dân tộc, ai vòng vinh quang.
Quân Troa vâng lệnh khao quân,
Theo từng đội ngũ, canh phòng chẳng ngơi.
Bình minh hồng đỏ chân trời,
Sứ Y Đai đã đến nơi chiến thuyền,
Trước An Gia đủ tướng quân,
Sứ quan cất tiếng tâu trình hiệp thương :(4650)​
Tâu vua An Trích, các tướng quân,
Tôi đây vâng lệnh Triều đình vua Biam,
Theo lời đề nghị An Lộc Sơn,
Người gây gốc tích phân tranh, cội nguồn.
Sẵn sàng trả mọi bạc vàng,
Tiền tài của cải mang cùng Hạ Lan
Cả gia tài cũng chẳng màng,
Chiến tranh hao tổn, khao quân đền bồi.
Riêng Phu nhân Ninh Lạc thời,
Chối từ trao trả cho người An Kinh. (4660)​
Triều đình còn dặn dò thêm,
Xin được hưu chiến, chiến trường dọn thây,
Các tử sĩ trong trận này,
Dù mai còn đấu đến ngày vinh quang.
Các Thần quyết định thiệt hơn.
Trong hai dân tộc sống còn vinh quang.
Mọi người không nói lặng im,
Cuối cùng Đỗ Mạnh đứng lên thét lời :​
Chẳng ai thèm nhận tiền tài,
An Lộc Sơn nếu chẳng giao hồi Hạ Lan. (4670)​
Dù cho một trẻ sơ sinh,
Cũng không thể nhận sự tình trêu gan.
Troa Yên số phận rành rành,
Sợi dây định mệnh buộc ràng tang thương.
Khắp nơi reo tiếng An Kinh,
Lời nói Đỗ Mạnh nguồn cơn rõ ràng.
An Gia lên tiếng lời rằng :​
Sứ Y Đai đã nghe lòng toàn quân.
An Kinh nhất quyết đòi nàng,
Cả ta cũng muốn có ngần ấy thôi. (4680)​
Còn việc thiêu dọn xác người,
Ta chẳng chống đối, việc thôi phải làm.
Lửa hồng thiêu đốt cầu Thần,
Dâng lời xin Dớt với cùng Hạ Cơ.
Đưa tay vương trượng truyền qua,
Y Đai từ giả lên xe về thành.
Hai bên cùng bắt tay nhanh,
Người khiên xác chết, kẻ cành củi khô.
Đại Dương vừa đỏ vầng ô,
Hai quân giáp mặt, nhấp nhô đầy đồng. (4690)
Khó mà nhận diện xác thân,
Rửa lau bùn máu, nhỏ dòng lệ tuôn.
Vua Biam chẳng để thời gian,
Quân Troa than thở khóc vang đau lòng.
Dàn thiêu thân xác chất chồng.
Đốt bùng gian hỏa, lửa hồng bốc cao.
Lễ nghi thiêu xác cháy mau,
Đoàn quân dọn dẹp kéo nhau vào thành.
An Kinh cũng thế dọn nhanh,
Chất lên giàn hỏa xác thành tro than. (4700)
Đắp lên một nấm gò con,
Rồi chung sức dựng lũy đồn hào sâu.
Cổng thành vững chắc bền lâu.
Một con đường rộng đỉnh cao chạy dài.
Hào sâu cắm cọc, chông gai.
Thủ phóng kiên cố khó người vượt qua.

Thiên Sơn đỉnh núi mây xa,
Chư Thần bên Dớt, chớp lòa sấm vang.
Ngắm nhìn vào cõi thế gian,
Công trình xây dựng An Kinh giáp đồng.(4710)
Cất lời Thần Hải Long Vương, (Poséidon)
Phàn nàn cùng Dớt thế gian coi thường :​
Hỡi Dớt Đấng Phụ Vương,
Con người nơi cõi đất liền mênh mông,
Đã quên cúng tế trình thần.
Chương trình xây dựng thành ngăn chiến thuyền.
An Kinh đào hố xây tường,
Mà quên phẩm vật cúng dường chư thiên.
Công trình to lớn quang vinh,
Sẽ theo cùng ánh bình minh rạng ngời. (4720)​
Thế mà quên cúng cho tôi,
Cùng An Long đã giúp người Lao Đông.(Apollon, Laomédon)
Chúng tôi hao sức nhọc công,
Nổi cơn, Dớt đấng Hội Vân mới rằng:
Nhà ngươi rung đất xa gần,
Cớ sao mà nói lời than thế này.
Các Thần khác chẳng mạnh tay,
Yểu điệu thục nữ mới tày thở than.
Còn ngươi rung núi đổ ngàn,
Nhanh tay hơn ánh sáng tràn bình minh.(4730)​
Thôi thì hãy đợi An Kinh,
Đáng xong trận địa quê hương về rồi,
Tha hồ người đập phá thôi,
Cuốn theo biển sóng phủ bồi cát bay.
Xá gì một bức tường này,
An Kinh xây dựng, một ngày phá tan.
Ấy lời bàn luận cõi Thần,
Mặt trời khuất bóng công trình vừa xong,
Mổ bò, mở tiệc khao quân,
Từ Lâm Mốt chỡ rượu ngon đầy thuyền. (4740)
Hy Sĩ Bình vận quân lương, (Hypsipyle)
Tặng riêng An Trích một ngàn thùng vang,
Người đem đổi sắt, đổi đồng,
Đổi da bò, đổi tù binh chiến trường.
Suốt đêm nhập tiệc hai quân,
Nào hay số mệnh định phần Thần Vương.(4746)​

Chú Thích:

Hélénos: anh em song sinh với Casandre con vua Priam, cả hai cùng có tài tiên tri.

Đầu dây các thần: Người Hy Lạp cho rằng con người chỉ là con rối, các Thần cõi Olympe điều khiển bằng dây trong cuộc chơi.

Darnè: Kinh thành vùng Boétie

Phylomédus: có mắt bò như thần nữ Héra. Hy Lạp chịu ảnh hưởng các tín ngưỡng Ai Cập. Thần Chim Cú sang Hy Lạp chỉ còn đôi mắt cú của Thần nữ Athéné. Thần Bò Mộng sang Hy Lạp chỉ còn đôi mắt Thần nữ Héra Mắt Bò Cái.

Xénophane nói: Chúng ta sinh từ đất, nước mà ra.

Rút thăm: mỗi người chọn một viên sỏi hay mảnh gỗ ghi dấu tên mình.
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC VIII
TRẬN CHIẾN GẤP RÚT (Câu 4747 đến 5296)

TÓM LƯỢC: Thần Vương Zeus ra lệnh cho các thần Olympe trung lập, không ủng hộ phe nào trong cuộc chiến. Zeus giáng trần xuống đỉnh núi Ida quan sát chiến trận, từ bình minh đến giữa trưa thây người la liệt vẫn chưa định phần thắng bại. Zeus lấy bàn cân, cân số phận đôi bên: Quân Troie nghiêng phần thắng. Zeus dâng sấm sét ầm ầm, các tướng Hy Lạp sợ hãi, lui dần, chỉ còn Vương lão Nector cầm quân chiến trường. Pâris bắn trúng ngựa Nector, Hector xông đến nơi, nhưng Diomède dục Ulysse đánh băng qua, Diomède đã cứu được Lão Vương Nector. Diomède phóng thương nhắm Hector nhưng trúng chết người hầu cận Éniopée cầm cương chiến xa, Hector phải bỏ đi tìm được Archeptolème thay thế. Quân Troie co cụm về thành Ilion, nhưng Zeus giáng sấm sét khét lẹt không trung, Diomède phải thu bình. Quân Troie lại xông lên, quân Hy Lạp lùi đến tận chiến lũy của mình. Thần nữ Héra nhờ Thần Posséidon giúp đỡ, nhưng thần không dám đấu mặt với Zeus. Héra khuyến khích vua Agamemnon nhận lỗi lầm để xin Achille xuất trận, đi khắp nơi kích động binh sĩ và cầu khẩn Thần Vương, Zeus chứng kiến cho một con đại bàng cắp một con nai vàng thả xuống trước cổ bàn Thần Vương. Quân Achéens nức lòng xông lên qua chiến hào. Diomède phóng lao giết Agélaos. Anh em Atride, hai Ajax, Indoméné, Mérion đồng xông lên. Tướng Teucer, em Ajax Télamon, núp sau sự che chỡ của anh, bắn tên giết tám tướng thành Troa, Teucer nhắm Hector nhưng bắn hụt trúng Acheptolème người giữ yên cương, Hector nhờ em là Kébrion thay thế và dùng đá ném Teucer bị thương và đẩy lùi trở quân Hy Lạp lại chiến lũy. Héra và Athéné can thiệp nhưng Zeus bảo Thần Cầu vòng Iris xuống ngăn cản để quân Hy Lạp để chịu đựng thêm nhiều tổn thất. Hai Thần ấm ức về Thiên đình. Màn đêm buông xuống quân Troie hạ trại khao quân và đốt lửa suốt đêm kế bên ngoài chiến lũy quân Hy Lạp.

Bình minh choàng tấm khăn vàng, (4747)
Bóng khăn tỏa sáng tràn lan đất trời.
Thần Vương Sấm Sét lệnh mời,
Chư Thần đến họp bên ngôi Thiên Đình. (4750)
Oai nghiêm cất giọng phán rằng:
Lắng nghe tất cả chư thần lời ta :​
Từ nay cấm ngặt tham gia,
Chư thần nam, nữ vào ra chiến trường.
Giúp quân Troa, giúp Đa Niên,
Ai không tuân lệnh ta trừng phạt ngay.
Thần nào tham dự trận này,
Trở về thương tích, mặt mày sầu đau,
Thì ta nắm cẳng quăng mau,
Địa Không sương trắng thẳm sâu đất dày.(Tartare) (4760)
Cửa sắt, đồng khóa từ đây,
Tầng dưới Địa Ngục, trời mây xa vời,
Ta không nói dọa mà chơi,
Nhắn các Thần biết đây lời nghiêm minh.
Biết ta đây, sức ai bằng,
Sức ta mạnh nhất, trăm thần chẳng hơn.
Muốn thử : co kéo dây vàng,
Ta treo lơ lửng mênh mang đất trời.
Các Thần nam nữ cột chơi,
Một mình ta ở trên trời kéo lên. (4770)​
Xem ta rớt xuống trần gian,
Hay các Thần được ta mang lên trời.
Hay bỏ lơ lửng chơi vơi,
Cả Thần Đất, Biển ta thời kéo lên,
Không tin cứ thử mà xem.
Chư thần im lặng chẳng còn nói năng.
Giây lâu Quán Trí mới rằng :​
Cồ Nốt Thần tử, ai bằng Phụ Vương,
Sức cha ai dám đua tranh,
Chúng con cầu khẩn cha ban ơn lành. (4780)​
Quân Đa Niên phận mong manh,
Lẽ nào chịu cảnh tan tành bại vong.
Cho nên mặc khải lời thần,
Để không chết hết vì cơn lôi đình.​
Mỉm cười Dớt, Đấng Hội Vân :​
Tam Thiên Tài hỡi, ta lòng nỡ sao, (Trigénie)*
Lời ta dù có thế nào,
Chiều con sáng suốt, ta theo ý này.
Nói rồi thắng ngựa xe ngay,
Chiếc xe song mã móng bay gót đồng. (4790)
Bờm hồng đôi cánh vỗ nhanh,
Xe vàng khối, chiếc roi song ánh vàng.
Lên xe dục ngựa phi nhanh,
Xuống dương trần cõi đất lành trời sao.
Núi Y Đa nguồn suối đào,
Giác Gia Thần Miếu, ngạt ngào hương bay. (Gargare)
Thần Vương dừng chiếc xe mây,
Vén màn vân quyện núi dày sương lam.
Từ trên đỉnh núi bạt ngàn,
Nhìn thành Troa thấy ngổn ngang chiến trường. (4800)
An Kinh dùng bữa thật nhanh,
Trong lều trại mặc gíáp binh gọn gàng.
Quân Troa đội ngũ trong thành,
Sẵn sàng chờ lệnh ban truyền từ cao.
Cổng thành mở, tiến ào ào,
Như dòng thác cuộn đổ mau xuống ngàn.
Hai bên giáp mặt trận tiền,
Giáp khiên vang dội lao đồng phân tranh.
Lửa tên khói lửa mù tung,
Tiếng gào, tiếng thét, máu tanh chan hòa. (4810)
Từ bình minh đến giữa trưa,
Thây người la liệt, vẫn chưa định phần.
Thần Vương mang chiếc kim cân,
An Kinh phận xấu, dĩa nghiêng nặng vào.
Quân Troa dĩa nhẹ nâng cao,
An Kinh thảm họa lao đao số phần.
Dớt dâng sấm sét ầm ầm,
Chói loà mặt đất, dư âm vang trời. (4820)
Báo An Kinh điềm họa tai,
Tướng, quân sợ hãi lạnh vai rung mình.
Anh Đô Mai chẳng dám xông, (Idoménée)
An Gia Vương cũng lui dần hậu quân.
Hai An Bắc tránh tranh hùng,
Ninh Tô còn lại cầm quân chiến trường.
Một ngựa đầu trúng mũi tên,
Do Bá Lê bắn, nhảy chồm đớn đau. (Pâris)
Cổ xe nghiêng ngã lao chao,
Ninh Tô dừng ngựa rút dao bên sườn. (4830)
Cắt dây cho ngựa rời cương,
Hải Tô xe ngựa đến liền tới nơi.
Lão Vương tưởng đã xong đời,
Đỗ Mạnh bỗng thấy, thét lời xông pha.
Dục: Uy Lĩnh đánh băng qua.
Lã Đạt tôn tử cùng ta nơi này, (Laërte)
Giữ cho quân chớ lùi chi,
Quay lưng kẻ địch phóng ngay trúng mình.
Để tôi xông cứu Lão vương.​
Nói rồi phóng ngựa xe liền tới nơi. (4840)​
Lão Vương bỏ ngựa sang tôi,
Tuổi già sức yếu, tránh thời hiểm nguy,
Trao cho hầu cận xe này,
Xe tôi có ngựa Trô hay chiến trường. (Trôs)
Anh Nê trốn bỏ yên cương,( Énée)
Tôi đà đoạt lấy luyện thuần ngựa hay.
Hai chàng dũng sĩ xông ngay,
Âu Chi, Thế Lộc đỡ tay cụ già.(Eurymédos, Sthénélos)
Trao xe hầu cận chiến xa,
Ninh Tô mừng rỡ bước qua xe chàng. (4850)
Cầm dây đìều khiển xe cương,
Hải Tô xe ngựa đã liền kề bên,
Ty Đê công tử phóng thương,
Hụt Hải Tô lại, trúng tim cận hầu.
Âu Nô Bê bạn kính yêu. (Éniopée)
Ngã lăn xuống đất đớn đau lìa trần.
Điều hai ngựa quay về thành,
Hải Tô đau bỏ người thân bên đường.
Đi tìm kẻ giữ dây cương,
Gặp Đạt Chi Tố bên đường thay chân. (Archeptolème) (4860)
Lên xe cương ngựa giúp chàng,
Quay về nơi chốn hổn mang chiến trường.
Quân Troa thiếu tướng điều hành,
Quay về co cụm bên thành Ý Long.
Như đàn cừu sợ kinh hoàng,
Bổng đâu đất chuyển mây vần nổi lên.
Cha cõi người, cha cõi Thần,
Hiện ra sấm sét đùng đùng ầm vang .
Hai ngựa Đỗ Mạnh kinh hoàng,
Chớp giăng sét đánh, không trung khét mùi. (4870)
Ngựa Trô kinh sợ bước lùi,
Ninh Tô lòng sợ buông lơi cương vàng.
Cùng Đỗ Mạnh, khẽ bảo chàng :​
Ty Đê công tử, lui quân lúc này.
Lòng dũng cảm Dớt cho đây,
Hôm nay Ngài chẳng an bài vinh quang.
Nhưng ngày mai lại ban ơn.
Chẳng ai cưỡng được Thần Vương lúc này.
Sức Ngài thật mạnh bạo thay,
Chẳng ai chống lại, hiểm nguy ý Thần. (4880)
Tướng Đỗ Mạnh trả lời rằng :​
Lão Vương nói đúng lời trong lúc này,
Nhưng lòng tôi tủi nhục thay,
Hải Tô từng có những ngày huênh hoang.
Tướng Đỗ Mạnh sẽ kinh hoàng,
Vì hắn bỏ chạy về thuyền thất kinh.
Nếu nay tôi bỏ, lui quân.
Thì còn mặt mũi nào trong cõi đời.
Ninh Tô Vương Lão trả lời :​
Ty Đê công tử, sự đời chẳng sao. (4890)
Dù Hải Tô nói thế nào,
Tướng công hèn nhát rêu rao mặc tình.
Thì lời cũng chẳng ai tin,
Cả quân Troa, cả Đa Niên chiến trường.
Cả vợ con những kẻ từng,
Sống đang chiến đấu hay thành bụi tro.
Nói rồi quất ngựa móng to,
Quay về phía địch quân co cụm dần.
Hải Tô đầu đội mũ đồng,
Phi nhanh ngựa đến chiến trường hét vang : (4900)​
Ty Đê công tử, An Kinh,
Vinh gì chiến mã rượu ngon thết mời.
Người là tướng đáng khinh thôi.
Quay đầu trốn chạy, than ôi đàn bà,
Nữ nhi trắc nết thối tha,
Riêng ta chẳng để xông pha leo trèo,
Vào thành phá lũy phá hào,
Cướp bóc phụ nữ, hầu bao về thuyền.
Ty Đê công tử ngại ngần,
Ba lần toan muốn quay chân đối dầu. (4910)
Óc tim muốn dục vó câu,
Ba lần Dớt chớp sáng mau đỉnh ngàn,
Y Đa điềm báo chẳng lành,
Chàng đành đánh ngựa về thuyền, thu binh.

Hải Tô thúc dục Troa quân :​
Nhanh chân, hãy tiến xông lên đến gần.
Nam nhi dũng cảm đấu tranh,
Thần Vương ban phúc quang vinh trận tiền.
An Kinh lùi bước đảo điên,
Lũy đồn yếu ớt, chẳng sờn lòng ta. (4920)​
Hào không ngăn ngựa vượt qua,
Lửa tên ta đốt tiêu ma chiến thuyền.
Quyết tâm quét sạch An Kinh,
Khói đen bay khắp địch quân hãi hùng.
Nói rồi thúc dục ngựa hồng.​
Sơn Tô, Bồ Đạt, Âu Thông, Lâm Bào..(Xanthos,Podargos,Ethon,Lampos)
Hãy nhanh chân vượt đường hào,
Tri ân An Độ sớm chiều chăm nom; (Andromaque)
Âu Thông nương tử tốt lòng ; (Eétion)
Thóc ngon lo trước cả chồng yêu thương,(4930)​
Hãy nhanh chân đuổi địch quân,
Ninh Tô Lão tướng cán son xe vàng.
Diệt Đỗ Mạnh cướp giáp khiên,
Là hai bảo vật khéo tinh tay Thần.
Thần Hoả Thái khéo đúc nung,
Nếu ta cướp được hai danh vật này,
An Kinh sẽ rút đêm nay,
Lên thuyền tẩu thoát chẳng tày đấu tranh.
Mặc cho ý định dương trần,
Hạ Cơ Vương Mẫu cung vàng giận run.(4940)
Thiên Sơn sấm chớp đùng đùng,
Hải Vương Thần đến sân đình hỏi han,
Hạ Cơ truyền lệnh Hải Vương :​
Thần Rung Chuyển Đất uy quyền giúp ta,
An Kinh chiến bại xót xa,
Huê Lịch, Ai Lạc vật quà tế sinh, (Hélicè, Aiges)
Bao năm hậu hỉ lòng thành,
Lẽ nào để họ tan tành bại vong.
Chúng ta phù hộ một lòng,
Cho Đa Niên đẩy lui quân Troa thành.(4950)
Hãy giữ Thần Vương xa xăm,
Đỉnh Y Đa ở một mình chẳng hay.​
Thần Rung Chuyển đất lời ngay:​
Hạ Cơ đề nghị điều này phải chăng ?
Sức Thần Vương mạnh ai bằng,
Tôi nào dám đấu mặt cùng Thần Vương.
Ấy lời nơi cõi Thiên Sơn,
Trần gian : hào rộng, chiến trường, ngựa xe.
Giáp binh Thần Chiến đuổi xua,
Thần Vương ban một cơ đồ vinh quang.(4960)
Nếu Hạ Cơ chẳng giúp công,
Thuyền An Kinh đã tan cùng khói mây.
An Gia Vương được giải bày,
Đi khắp doanh trại nối dài An Kinh,
Áo choàng tím khắp quân binh,
Chính giữa Uy Lĩnh đóng quân bên thuyền.
Một đầu An Bắc Thế La Môn,
Một đầu binh đội An Sinh hùng cường.
Nhà vua cất tiếng vang lừng:
Hổ ngươi chăng, tướng anh hùng An Kinh;(4970)​
Từng khoe sức mạnh can trường,
Hợp quân Lâm Mốt uống chung rượu nồng, (Lemmos)​
Thịt bò thơm béo khao quân,
Một người khoe sức đấu cùng trăm binh,
Thế mà nay chẳng anh hùng,
Hải Tô toan đốt chiến thuyền chúng ta,
Cầu Phụ Vương Dớt, Xin Cha,
Cớ sao để chúng con ra thế này,
Chẳng cho chiến thắng hôm nay,
Chúng con cầu khẩn đêm ngày Thần Vương.(4980)​
Bàn thờ đùi béo cúng dâng,
Cầu mong toại nguyện phá thành Troa quân.
Thần Vương chứng kiến lời thành,
Cho người ra thoát khỏi vòng gian nan,
Thương lời cầu nước mắt tràn,
Ban điềm cho chốn binh thuyền hiểm nguy.
Từ cao ngất đỉnh mây bay,
Thần Vương gửi đến cánh bay Đại Bàng,
Dưới chân cắp một nay vàng,
Thả nai tơ trước cổ bàn Thần Vương.(4990)
An Kinh trông thấy được điềm,
Nức lòng hớn hở, chiến trường reo vang.
Ty Đê công tử xông lên,
Qua hào sâu đánh tướng quân địch nhào.
Phát Môn công tử An Lao (Phradmon, Agélaos)
Toan quay đầu ngựa tránh nhau đối đầu.
Chiếc lao Đỗ Mạnh đâm sâu,
An Lao lưng thủng đổ nhào ngựa nhanh.
Nối chân Đỗ Mạnh xung phong,
Anh em An Trích giáp đồng tiến lên. (5000)
Hai chàng An Bắc kiên cường,
Anh Đô Mai với anh hùng Mê Đông .(Indoménée, Mérion)
Như Ân Gia Lộc sát nhân (Enyalion- Arès)*
Theo sau Phi Lộc con dòng Thái Môn. (Enrypylos, Evaimon)
Tựu Lê tiến bước cuối cùng (Teucer)
Dưới khiên An Bắc dương cung bắn vào.
Địch thù ngã gục máu đào,
Tựu Lê như trẻ núp sau mẹ hiền.
Kề bên An Bắc che khiên,
Tướng Troa quân gục trận tiền thảm thương. (5010)
Ôn Chi Lệ Cốt trước tiên, (Orsilochos)
Ốc Mê, Lô Phát tiếp liền lăn quay. (Orménos, Ophélestès)
Đại Tô, Cô Mộc lất lây. (Daïtor, Chromios)
Ly Cô Phong Tích sức tay như thần. (Lycophontès)
An Mô, Mê Lạng anh em, (Amopaon, Mélannippos)
Thi nhau ngã gục lăn trên chiến trường.
Vua An Gia mừng chiến công,
Tựu Lê diệt tám tướng hùng thành Troa.
Đến bên vui vẻ thiết tha.
Tựu Lê xứng đáng con nhà Thế Môn.(Télamon) (5020)​
Người là đuốc sáng Đa Niên,
Công cha dưỡng dục sinh thành vinh quang.
Với người xứng đáng tiếng danh,
Dớt và ái nữ riêng dành chiến công.(Zeus, Athéné)
Chiếm được kinh thành Ý Long,
Thì người sẽ được tặng phần đầu tiên.
Sau ta người được vinh danh,
Vạc ba chân , ngựa xe vàng chiến xa.
Một giai nhân của thành Troa,
Cùng người sánh bước giao hòa giường chung. (5030)
Tựu Lê khiêm tốn đáp rằng :​
Vinh quang An Trích tôi lòng nấu nung.
Sức tôi hừng chí chẳng ngừng,
Đuổi quân Troa chạy về thành Ý Long.
Cung tên tôi bắn địch quân,
Tám tên trúng tám tướng hùng Troa quân.
Ngã như tượng đất bùn đen,
Nhưng tôi còn muốn bắn cùng Hải Tô.
Hắn như chó dại điên rồ.
Nói rồi gắn mũi tên vô dây lòng. (5040)
Nhắm Hải Tô lòng ước mong,
Mũi tên lại hụt trúng chàng kế bên,
Quốc Ly Thông con vua Biam,(Gorgythion)
Cắm sâu lồng ngực nghiêng nằm chiến xa.
Mẹ Cát Tiên như tiên nga, (Castianire)
Ái Sim kỳ ngộ sinh ra trai hùng. (Aisyme)
Như cành hoa nha phiến hương,
Cành buông nặng trĩu, mưa xuân nghiêng đầu.
Mũ đồng trĩu nặng phía sau,
Tựu Lê lại nhắm tên vào Hải Tô. (5050)
Lại trông trúng đích mong chờ,
Nhưng An Long lại đẩy bờ mũi tên,
Trúng Đạt Chí giữ yên cương, (Archeptolème)
Phía dưới lồng ngực ngã buông lộn nhào.
Hồn lìa khỏi xác thương đau,
Bốn ngựa hoảng hốt, chân mau lùi về,
Hải Tô mất kẻ đánh xe,
Rỉ rên đau đớn nằm lê bên đường.
Kê Long bào đệ đứng bên (Kébrion)
Hải Tô vội bảo giữ cương xe mình. (5060)
Kê Long kèm ngựa vừa xong.
Hải Tô hét tiếng thất kinh điên cuồng.
Nhảy xuống xe nhặt bên đường,
Một viên đá tảng xăm xăm tiến về,
Tựu Lê đang bắn mãi mê,
Đá tung trúng cổ nặng nề vết thương,
Dứt dây cung rủ tay buông,
Gục đầu vào gối, nỏ văng tay cầm.
An Bắc chẳng bỏ rơi em,
Che khiên chắn lối tiến công bên mình. (5070)
Cho hai cận vệ trung thành,
Mê Xích, An Lạc khiên em về thuyền. (Mécistée, Alastor)
Quân Troa hừng chí tiến lên,
Đẩy An Kinh trở về nhanh lũy hào.
Hải Tô đắc chí hàng đầu,
Như con sư tử cắn vào chó săn.
Giết quân địch chậm bước chân,
Chẳng kịp trốn thoát vào trong chiến hào.
Hải Tô xông xáo ào ào,
Máu tung đẫm ướt chiến bào, ngựa xe. (5080)
An Kinh lùi bước rút về,
Đưa tay cầu khẩn não nề thần linh.
Lạnh lùng dưới mắt Đột Tinh (Gorgone),
Hay Thần Chinh Chiến còn hăng máu đào.
Hạ Cơ Thần Nữ xót đau ,
Bảo Thần Quán Trí : Lẽ nào không thương !
Bao nhiêu số phận thác oan,
Hải Tô gieo rắc tóc tang chiến trường ?
Quán Trí Thần Nữ lời rằng :
Số phần hắn sẽ chẳng còn bao lâu ! (5090)​
Rồi đây sẽ chết thương đau,
Đạt Liên giết giữa đất màu cha ông .
Hắn còn còn ngang đọc chiến công,
Chẳng qua là ý Phụ Vương si tình.
Theo lời Thê Túc cầu xin (Thétis)
Gối quỳ tay vuốt râu cằm Thần Vương.
Khẩn cầu phục hận An Sinh,
Làm cho quân sĩ An Kinh tơi bời.
Dớt si tình, ghét cả tôi,
Nhưng rồi đây sẽ nghe lời con yêu. (5100)​
Ái nữ đôi mắt Cú Mèo,
Giờ đây chẳng cách chi nhiều cản ngăn.
Mẫu Vương lo ngựa xe vàng,
Còn tôi về chốn cung đình mang khiên.
Phục trang chuẩn bị đấu tranh.
Chúng ta thử xuống bên thành xem sao ?
Xem Hải Tô hắn thế nào,
Thấy ta cản lối bên hào chiến tranh.​
Cho xoay chiều thế đao binh,
Quân Troa ngã gục vất thân sói diều. (5110)
Hai Thần nhanh chóng cùng nhau,
Xe vàng thắng ngựa yên mau xuất hành.
Quán Trí áo quyện đến chân,
Chính tay Thần Nữ thêu đan tuyệt vời.
Áo choàng khiên, giáo sáng ngời,
Bước lên xe chiến tung trời ngựa bay.
Hạ Cơ quất ngựa tung bay,
Cổng trời rộng mở, trắng mây bềnh bồng.

Đỉnh Y Đa, đấng Phụ Vương,
Bồn chồn trông thấy chẳng yên trong lòng. (5120)
Truyền Y Bích Thần Cầu Vòng :​
Bảo hai Thần chốn Thiên Đình về ngay,
Bảo chư Thần chớ đến đây,
Đối đầu cuộc chiến trận này cùng ta.
Vì ta giận lệnh truyền ra,
Sấm ta đánh gãy chiến xa, ngựa què.
Mười năm thọt cẳng lếch lê,
Cũng không lành nỗi máu me búa thần.
Bảo cho Thần Mắt Cú rằng,
Chớ nên lộn xộn chống cùng Phụ Vương. (5130)​
Còn Hạ Cơ ta đã quen,
Luôn luôn nghịch ý trêu gan ta hoài.
Y Bích phóng chiếc Móng Trời,
Bảy màu rực rỡ đến nơi Thiên Đình.
Chận xe vàng cổng Thiên Sơn,
Truyền lời hăm doạ Thần Vương bảo rằng :​
Đằng vân đâu hỡi chư Thần ?
Điều gì kích động bồn chồn ra đi ?
Cồ Nốt Thần Tử cho hay,
Cấm đi tiếp cứu giúp gì Đạt Liên. (5140)​
Dớt hăm đánh gãy xe vàng,
Đánh cho ngựa chiến què chân cõi trần.
Thần Vương khi giận sấm rung,
Vết thương có chữa mười năm chẳng lành.
Thần Mắt Cú chống Phụ Thần,
Không tin trước Dớt thử tầm ngọn lao ?
Nói rồi Y Bích bay mau,
Hạ Cơ e ngại lời nào Thần Vương.
Nhìn xe lộng lẫy yên cương,
Lấy chi bảo hiểm bay lên Thiên Đình ? (5150)
Bên Quán Trí khẽ bảo rằng :​
Ta không thể đấu với cùng Thần Vương,
Mặc người trần cõi phù dung,
Nay còn, mai chết mỏng manh phận dành.
Thần Vương quyết định số phần,
Sống còn giữa cuộc chiến tranh tương tàn.
Nói rồi quay ngựa Thiên Sơn,
Các Tiên Giờ* cỡi xe vàng áo hoa ; (Heures)
Dắt cương ngựa đến cung nhà,
Các nàng tiên nữ thướt tha mây hồng. (5160)
Y Đa, Dớt cũng lên đường,
Đánh xe về chốn Thiên Sơn ngai vàng.
Ngựa bay, mây ruổi quan san,
Chiếc xe rung bóng non ngàn dậm mây.
Ngai vàng Dớt ngự riêng tây,
Hạ Cơ một đống mặt mày ngồi bên.
Lặng yên chẳng nói, hỏi han,
Thần Vương trăm nỗi xốn xang tiếng lòng :​
Hạ Cơ, Quán Trí sao buồn ?
Chẳng là mệt nhọc chiến trường gì đâu ? (5170)​
Thù quân Troa hận thù sâu,
Muốn Troa chiến bại, thành mau tan tành.
Phần ta chẳng đổi ý lành,
Ý ta chẳng muốn tương tàn chiến tranh.
Cho nên không muốn các Thần,
Tiếp tay thù hận cõi trần tang hoang.
Cho nên ra lệnh răn hăm,
Sét ta đánh gãy xe không còn đường,
Về Thiên Sơn cõi tiên đình.
Mặc Thần Vương nói, hai Thần lặng im. (5180)
Ngồi bên nhau khẽ thì thầm,
Chú nguyện điều xấu xuống thành Troa Yên.
Quán Trí Tuệ chẳng nói năn,
Dù bao ấm ức với cùng Phụ Vương.
Hạ Cơ chẳng thể dừng cơn :​
Cồ Nốt Thần Tử ông còn nói chi ?
Sức ông mạnh chẳng ai bì,
Chúng tôi muốn cứu chỉ vì Đa Niên,
Vì Hải Tô chết thảm thương,
Vì ông xui khiến cho nên tan tành. (5190)​
Chúng tôi chẳng đấu cùng ông,
Chúng tôi muốn cứu một phần Đạt Liên ,
Vì cơn giận dữ của ông.
Thần Vương Dớt, đấng Hội Vân trả lời :​
Mai bình minh bà hãy coi,
Còn bao hăm dọa tơi bời Đạt Liên,
Hải Tô tiến tận chiến thuyền.
Pê Lê công tử chẳng yên giận hờn (Pélé -Achille)
Quân An Kinh quyết sống còn,
Bên thây Ban Tuấn, mệnh phần Hải Tô. (5200)​
Dù ba có giận chi mô,
Tôi nào ngăn được bến bờ bà đi,
Chân trời cuối biển mù mây,
Cõi Dạ Bích chẳng thấy chi mặt trời. (Japet)
Cõi Địa Không thẳm mù khơi. (Tartare)
Gió không còn đến trắng trời mù sương.
Dù bà ngang dọc ngàn phương,
Tôi nào ngăn được bước đường bà đi,
Giận hờn bà chẳng ai bì,
Chẳng ai tàn nhẫn lắm khi như bà. (5210)

Mặt trời khuất bóng biển xa,
Màn đêm nhanh xuống bóng nhòa sương đêm.
Quân Troa luyến tiếc ngày tàn,
An Kinh mừng rỡ đêm tàn xuống nhanh.
Tướng Troa bàn hội bên thành,
Bên dòng sông cuộn, nghe chàng Hải Tô,
Tử thi dọn dẹp dãi bờ,
Tướng Troa tề tựu lệnh chờ quân giai.
Hải Tô dừng ngựa khoan thai,
Tay cầm một chiếc lao dài chục cân. (5220)
Một vòng vàng bịt cán đồng,
Dựa lao chàng cất tiếng thanh hùng hồn :​
Lắng nghe Troa quân, đồng minh,
Hôm nay tôi đã quyết tâm nói rằng ,
Đốt tan thuyền chiến An Kinh,
Trước khi về lại kinh thành Ý Long.
Nhưng giờ trời đã hoàng hôn,
Mắn may cho các con thuyền Đạt Liên.
Bây giờ chờ đợi qua đêm,
Hãy khao binh sĩ bữa cơm dọn phần. (5230)​
Tháo cương cho ngựa nghỉ chân,
Ăn cỏ, uống nước, thóc vàng no nê.
Lệnh vào thành, tiếp tế về,
Bò, cừu, rượu mật, phủ phê bánh mì.
Sai người chặt cũi chất đầy,
Chúng ta sẽ đốt đêm dầy tan sương,
Cho ngày mai đến hừng đông,
Lửa ta cháy sáng đêm không mịt mờ.
E rằng An Kinh thừa cơ,
Đêm đen sẽ lén cuốn cờ ra đi. (5240)
Nếu chúng lên thuyền, một khi,
Chúng ta phá lũy, tức thì đuổi theo.
Tung lao, tên bắn phía sau,
Để chúng sợ chẳng quay vào tiến công;
Chống Troa quân giỏi kỵ binh,
Cháu con Thần Chiến vinh danh chiến trường.
Sai thị vệ báo về thành,
Trẻ, già đầu bạc, thi hành khẩn trướng.
Trên thành đốt lửa sáng đêm,
Gác canh cẩn mật, chia phiên đề phòng. (5250)​
Thừa cơ địch lẻn vào thành,
Trong khi vắng mặt binh đoàn chúng ta.
Troa Yên trai gái trẻ già,
Quyết tâm thắng giặc nghe ta lệnh truyền.
Qua đêm nay đến hừng đông,
Chúng ta chuẩn bị tiến công anh hùng.
Ta đầy hy vọng thành công,
Nhờ Thần Vương với các Thần ngôi cao,
Đuổi khỏi quê bầy chó ngao,
Số phần đã định phận nào tối tăm. (5260)​
Tàn đêm thay thức gát canh,
Ngày mai tiến đánh tan tành thuyền đen.
Ty Đê công tử rồi xem,
Đỗ Mạnh hung bạo có còn xuất chinh,
Cùng ta một trận thư hùng.
Ngọn lao ta diệt, thân thành máu me,
Lao ta trăm trận thắng về,
Hắn, đầu tiên sẽ lết lê đất này.
Mặt trời bừng sáng mai đây,
Chiến công vang dội từ nay đời đời. (5270)​
Anh hùng bách thắng sáng ngời,
Toàn dân chiêm ngưỡng như thời thần linh.
Quán Trí Tuệ, Thần An Long,
Ngày mai đánh bại tan tành Đạt Liên.
Quân Troa tay vỗ vang rền,
Làm theo lời nói hùng hồn Hải Tô,
Tháo cương, xe ngựa chăm lo,
Trong thành mang đến cừu bò khao quân,
Rượu ngon, thơm phức mật ong,
Bánh mì, củi chụm, lửa hồng sáng trưng. (5280)
Lễ bày, đùi béo cúng thần,
Khói hương bay ngát thơm lừng trời xanh.
Nhưng nào phù hộ các Thần,
Ghét Ý Long, ghét vua Biam dân tình.
Troa quân kiêu ngạo trong lòng.
Đốt từng đống lửa sáng trưng đêm dài.
Mờ ngàn sao sáng, trăng soi.
Không cơn gió thoảng, đất trời lặng im,
Lũ mục đồng núi xa xăm,
Nhìn về bờ bến lửa hồng như sao. (5290)
Từ biển xanh chiến lũy nào,
Đến sông Săng chảy lao xao lửa hồng.
Mỗi đống lửa năm mươi quân,
Ngàn muôn ngọn lửa mênh mông đêm trường,
Ngựa ăn lúa mạch trắng tinh,
Bên xe chiến đợi bình minh sáng hồng. (5296)
Chú Thích :

Tiên Giờ : Heures canh cổng trời Olympe ngăn các đám mây dày, mây đen, mây xám.

Athéné: còn có tên Trigénie: Tam Thiên Tài

Gargare: Một trong ba đỉnh núi Ida nhìn xuống thành Troie.

Enyalios: một tên khác của Thần Arès

Aisyme thành phố xứ Thrace

Kébrion: về sau bị giết bởi Patrocle

Gorgone : Khiên vàng của Zeus có hình mặt quỷ Gorgone.
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC IX. ĐOÀN SỨ GIẢ ĐẾN THUYẾT PHỤC KHẨN CẦU ACHILLE

TÓM LƯỢC: Agamemnon triệu cuộc họp, đề nghị các thủ lĩnh Hy Lạp, bỏ cuộc vây thành. Diomède chống lại, mọi người đều đồng ý theo Diomède. Bảy viên tướng trẻ xung phong canh phòng đồn lũy. Nestor đề nghị làm nguôi cơn giận Achille, là tướng có thể xoay chuyển tình thế trong lúc này. Vua Agamemnon hối lỗi, xin trả lại nàng Briséis và nhiều tặng phẩm hậu hỉ và hứa sẽ gã con gái cho Achille cùng bảy kinh thành làm của hồi môn. Một đoàn sứ giả đến Achille gồm Ulysse, Phénix, Ajax và hai vệ quan. Achille đang gảy đàn, hát bài ca hùng tráng trận công thành Eétion, Patrocle lắng nghe. Achille mừng rỡ gặp các bạn thân, đãi tiệc tự tay nướng thịt mời. No nê, Ulysse ngỏ lời, Achille từ chối. Phénix là thầy và quân sư Achille thuyết phục, gợi chuyện ngày thơ ấu, kể chuyện tấm gương Méléagre xứ Étoiliens, trong trận chiến với Courètes, giận mẹ bỏ cuộc chiến mặc quân địch vây thành, nhưng đã nghe lời vợ là Cléopatre phân bày, lại khoát chiến bào ra chiến trường, đánh thắng quân địch giải vây được thành Calydon; nhưng Achille vẫn từ chối và tuyên bố sẵn sàng ngày mai trở về quê hương. Ajax Lớn có họ hàng với Achille bày tỏ nỗi thất vọng, Achille cho là Ajax nói đúng nên chẳng giận hờn, và nói rằng dù Hector có đốt các chiến thuyền khác trước thuyền Achille sẽ phải dừng tay. Phénix ở lại với Achille. Đoàn sứ giả Ulysse dẫn đầu thất bại trở về trình bày lời Achille, mọi người im lặng. Diomède kích động lòng can trường các tướng.

Quân Troa cẩn mật canh phòng, (5297)
An Kinh nao núng toan chừng rút quân.
Nãn lòng các tướng anh hùng,
Gió đêm nổi dậy qua vùng biển ngư. (5300)
Gió qua Thạch Các gìó ru,(Thrace)
Gió Bắc phong, gió lại từ Tây khuê.(Borée, Zéphire)
Sóng đen vỗ nhịp bờ khuya,
Sóng tung rong biển, não nề tim gan.
An Trích lòng dạ xốn xang,
Truyền cho thị vệ triệu bàn quân trung.
Hội đồng Tướng lĩnh quây quần,
An Gia Vương mắt lệ tràn chứa chan.
Như nguồn suối, lách lau buồn,
Tuôn trên tảng đá vọng hồn tối tăm. (5310)
Thở dài vua mới nói rằng :​
Các bạn ơi ! đến Hội Đồng Đạt Liên,
Dớt không phù hộ, đảo điên,
Tình hình nguy khốn trận tiền thương đau.
Ngày xưa Thần hứa gật đầu,
Cho ta phá được thành hào Ý Long.
Chín năm tổn thất quân binh,
Địch quân vẫn mạnh, phá thành được đâu ?
Chúng còn hùng mạnh dồi dào,
Chúng ta chẳng có đường nào tiến công. (5320)​
Chi bằng rút hết cho xong,
Trở về đất tổ cha ông chúng mình !
Mọi người nghe nói lặng thinh,
Giây lâu, Đỗ Mạnh hùng hồn quát lên:​
An Trích, ngài chớ nhát hèn,
Vì ngài ta đến trận tiền đấu tranh.
Dớt ban vương trượng điều quân,
Chỉ huy toàn thể An Kinh chiến trường.
Thế mà ngài chẳng anh hùng,
Mỗi khi nguy khốn toan lòng rút lui. (5330)​
Còn ai muốn trốn theo ngài,
Lên thuyền thảm bại về nơi quê nhà,
Chỉ mình Thế Lộc và ta,(Sthénélos)
Chúng tôi quyết hạ thành Troa đến cùng.
Vì ta được sức các Thần,
Các Ngài giúp sức kiêu hùng ta đây.
Lời Đỗ Mạnh nói thẳng ngay,
Mọi người hừng chí tiếp tay đồng tình,
Ninh Tô Vương, Chiến Xa Công :
Ty Đê công tử, anh hùng thanh niên. (5340)​
Xông pha chiến thắng trận tiền,
Cùng ngang độ tuổi, ai hơn được tài.
Thẳng ngay trung chính ai bì,
Dù lời nghịch nhĩ với người cấp trên,
Ta xem người tựa như con,
Lời ngay thẳng thắng, thiệt hơn tỏ tường.
Bây giờ đêm đã tối đen,
Hãy lo sữa soạn buổi ăn cuối chiều,
Quân trai tráng thủ lũy hào,
An Trích ngài hãy thưởng khao binh hùng. (5350)​
Trong kho còn rượu tiếp lương,
Hãy khao thưởng tướng chiến trường nhọc công.
Thưởng lời trung chính luận bàn,
Những lời dũng cảm hiên ngang anh hùng.
Kẻ thù đốt lửa đầy đồng.
Cho quân canh gác đề phòng tiến công.
Lời Vương lão nói vừa xong,
Bảy viên tướng trẻ xung phong canh phòng.
Thái Chí con Chiến Xa Công,(Thrasymède)
Xếp đặt cẩn mật điểm canh lũy thành. (5360)
Ấn Phổ, Y Án, Mê Long,(Ascalaphos, Ialmenos, Mérion)
An Phan, Đối Phụng, Kế Ông anh hùng. (Apharès, Deipyros, Créon)
Ly Cô Mạnh sức như thần, (Lycomède)
Mỗi người lãnh một trăm quân canh phòng.
Lửa to đốt mỗi chặng thành.
Nội quân mang đến chia phần thức ăn.
An Trích quy tụ quần hùng,
Trại trung quân thưởng khao danh tướng tài.
Sau khi buổi tiệc no say.
Ninh Tô Vương lão lời ngay luận bàn : (5370)​
An Trích Nguyên Soái Đại Vương,
Dớt ban vương trượng, uy quyền làm vua,
Trận tiền thắng bại hơn thua,
Dùng người tài trí cho vừa lòng nhau.
Lòng tôi còn một nỗi đau:
Khi ngài gieo mối hận nào An Sinh.
Khi ngài ra lệnh vệ quân,
Bắt nàng Băng Tuyết mỹ nhân đem về, (Briséis)
Tôi từng phân giải mọi bề,
Ngài, lòng kiêu ngạo chẳng hề giảm suy. (5380)​
An Sinh tài sức ai bì,
Cả thần thánh cũng nể vì tài năng.
Ngài làm sỉ nhục tiếng danh,
Chia cho rồi lại dành phần giai nhân.
Giờ đây cuộc chiến khó khăn,
Chỉ An Sinh mới chuyển vần mối nguy.
Bây giờ ăn nói sao đây ?
Lời ngon dịu ngọt ra tay anh hùng.
Tham gia cuộc chiến đấu chung,
Cứu cơ đồ thoát khỏi vòng nguy nan. (5390)
An Gia Vương hổ thẹn rằng :​
Lão Vương nói đúng, tôi lòng ăn năn,
Trót vì kiêu ngạo lỗi lầm,
Gây bao bất mãn trong lòng tướng quân,
Thần Vương yêu mến An Sinh,
Không An Sinh khó thành công chiến trường.
Vì tôi nóng nẩy bất công,
Cho nên gieo mối hận lòng đớn đau.
Giờ đây tôi muốn làm sao,
Vật quà hậu hỉ cho nhau vui lòng. (5400)​
Bảy chân bình rượu bằng đồng,*
Và trao mười lượng vàng ròng thưởng công.
Hai mươi nồi nấu lửa hồng,
Mười hai ngựa chiến lẫy lừng cuộc đua.
Bảy thị tỳ giỏi thêu thùa,
Sắc tài toàn vẹn đủ nghề công dung.
Nàng Lệ Biên đẹp vô cùng.(Lesbiennes)*
Lệ Bối thắng trận, An Sinh mang về. (Lesbos)
Trả nàng Băng Tuyết hầu kề,
Với nàng tôi có lời thề trắng trong. (5410)​
Tôi chưa hề bước đến phòng,
Chưa hề bắt ép giao hoan với nàng.
Đó là quà tặng trao liền,
Mai đây nếu chiếm kinh thành vua Biam.
An Sinh muốn lấy vàng đồng,
Bao nhiêu chất hết xuống thuyền tùy nghi,
Hai mươi nỹ nữ xinh tươi,
Mặc tình chọn lựa mang đi xuống thuyền,
Mai về Đạt Quốc An Kinh (Argos achéenne)*
An Sinh trọng đãi, làm con rể nhà. (5420)
Ngang hàng Anh Tuấn con ta (Oreste),
Ta ba con gái tuổi vừa cập kê,
Hoàng Cúc, Loan Bích, Anh Khuê (Chrysothémis, Laodice, Iphianasse)
Ưng ai ta gã mang về quê hương,
Ta cho : trai, ngọc, bạc, vàng,​
Hồi môn của cải nhất trên cõi đời.
Tặng cho bảy kinh thành vui,
Kiệt Đà, Ngưng Bích đẹp tươi phố phường. (Cardamulè, Enopès)
Ý Lê cây cỏ tốt tường (Irè)
Phê Thiết thánh tích, đồng vườn An Thê. (Phérès, Anthée)(5430)​
Ái, Pha nho trái đồng quê,(Aipéa, Pédasos)
Bảy kinh thành lớn gần kề Phi Lô (Pylos).
Dân giàu gia súc cừu bò,
Thuế thu thừa thải ấm no mọi nhà,
Vương quyền cai trị thái hòa,
Toàn dân kính phục xem vua như thần.
Vật quà sám hối lỗi lầm,
Mà ta phần lỗi phật lòng tướng quân.
An Sinh nghĩ lại cho rằng,
Chỉ thần An Thiết Chiến Tranh mặt dày, (5440)​
Mới không có thể chuyển lay,
Người trần thù ghét đắng cay bạo tàn,
Còn ta vua của tướng quân,
Ăn năn nhận hết lỗi lầm xảy ra !
Ninh Tô, thương cảm xót xa :​
Đại Vương An Trích biết ta biết người,
Sẵn sàng nhận hết lỗi rồi,
Bề trên nhận lỗi, giải lời oán ân.
Quà trao hậu hỉ chân tình,
Mong hoàng tử sẽ nguôi lòng oán than. (5450)​
Giờ đây nên lập sứ đoàn,
Chọn người thân thiết An Sinh tặng quà.
Ngỏ lời vua đã thiết tha,
Lời hay thuyết phục tướng nhà ra quân.
Tôi xin tiến cử sứ đoàn :
Bàn Phượng, thầy bạn thiết thân cầm đầu; (Phénix)
An Bắc (Lớn) thân tộc cùng nhau,
Uy Lĩnh ăn nói, trí mưu biệt tài.
Quan vệ tiến cử hai người,
Ô Đông, Âu Bạt khiến sai quân hầu.(Odios,Eurybate) (5460)​
Bây giờ mang nước, chậu thau,
Rửa tay, mặc niệm khẩn cầu Thần Vương,
Xin Ngài phù hộ xót thương.
Lời truyền quan vệ vội vàng đi nhanh,
Mang vò nước rửa tay chân,
Mang bình rượu rót tế thần hiển linh.
Cầu Thần xong uống cạn chung,
Sứ đoàn vội bước nhanh chân lên đường.
Ninh Tô nháy mắt như thầm,
Nói cùng Uy Lĩnh hoàn thành ước mong. (5470)
Đoàn người dọc bến thuyền đồng,
Đến đầu bến đóng binh thuyền Nguyệt Đông (Mirmidons),
An Sinh đang gảy cung cầm,
Hát lời hùng tráng trận thành Âu Thông. (Eétion)
Thanh tao đàn chạm kim ngân,
Lòng chàng theo tiếng cung cầm lên cao.
Bài ca tráng sĩ anh hào,
Ban Tuấn trước mặt hồn vào cõi xa. (Patrocle)
Chàng vừa chấm dứt lời ca,
Sứ đoàn thuyết phục cũng vừa đến nơi. (5480)
Uy Lĩnh tiến trước mọi người,
An Sinh đứng dậy lòng vui hỏi mừng.
Tay đàn còn dỡ dang cung,
Ban Tuấn trông thấy cũng cùng đứng theo.
Hỏi rằng: Lâu mới gặp nhau,
Hẳn là có chuyện cần nào đây thôi.
Dù cho cơn giận chưa nguôi,
Các bạn thân thiết của tôi, nhất đời.
Nói rồi mời đến ghế dài,
Trải lên thảm tím, bảo người bạn thân : (5490)​
Ban Tuấn mang lấy rượu ngon,
Đãi các bằng hữu ta hằng mến yêu.
Nói rồi dọn tiệc cùng nhau,
Sườn heo, dê béo, lưng cừu ướp thơm.
Ban Tuấn đốt lửa vừa tàn,
An Sinh tự nướng và mang thịt mời,
Cầu Thần rồi đến tiệc vui.
No nê Uy Lĩnh ngỏ lời An Sinh :​
Cám ơn buổi tiệc chân tình,
Tự tay hoàng tử đãi đằng anh em. (5500)​
Tiệc vui nào có gì hơn,
Mà lòng nặng nỗi sống còn âu lo.
Quân ta đang lúc nguy cơ,
Hải Tô tiến sát đánh vô lũy hào.
Đêm nay lửa địch như sao,
Dớt tung sấm chớp, điềm nào chẳng hay.​
E rằng trận tuyến mai đây,
Địch còn tiến đánh đốt ngay chiến thuyền.
Hải Tô kiêu ngạo trận tiền,
Quân ta e chẳng còn đường tháo lui. (5510)​
Ngại rằng số phận ngậm ngùi,
An Kinh thảm bại xa nơi quê nhà.
Tướng quân hãy nghĩ gần xa,
Ra tay cứu giúp quân ta lúc này.
An Kinh thảm bại hôm nay,
Tướng quân không thể sống thay bao người.
Đến khi hối hận đã rồi,
Chẳng còn ai nữa trên đời bạn thân.
Quang vinh tủi nhục chia phần,
Tướng quân nỡ đứng một mình mà vui ? (5520)​
Vua Phê Lê phó thác người, (Pélée)
Giúp An Gia, sứ mệnh lời chẳng quên.
Quán Trí, Hạ Cơ ban ơn,
Tài năng hùng dũng kiên cường đấu tranh.
Con tim khí khái ai bằng,
Hãy luôn gìn giữ tấm lòng kiên trinh.
Chớ nên để nỗi bất bình,
Cội nguồn thảm hại sự tình tang thương.
Hãy vì danh dự An Kinh,
Trẻ gíà yêu mến quang vinh anh hùng. (5530)​
Lời cha dặn buổi xuất quân,
Tướng quân còn nhớ nỡ đành quên sao !
Chưa nguôi cơn giận hôm nào,
Cho lòng ta mãi đớn đau nhọc nhằn.
An Gia Vương hối hận lòng,
Giao cho sứ mệnh tỏ cùng Tướng quân.
Tặng cho bảy vạc ba chân,
Mười lạng vàng, số nồi đồng hai mươi,
Mười hai ngựa chiến tinh khôi,
Bảy thị tỳ khéo vẽ vời thêu đan, (5540)​
Người Lệ Biên buổi công thành,
Tướng quân chiến thắng quang vinh mang về.
Và nàng Băng Tuyết hầu kề,
Nhà vua xin trả lại về Tướng quân,
Nhà vua long trọng thề rằng,
Chưa từng bước đến hợp hoan với nàng.
Tặng phần mang đến ngay liền,
Hứa rằng chiến thắng kinh thành vua Biam,
Thưởng công chiến trận anh hùng,
Tướng quân mang hết xuống thuyền tùy nghi. (5550)​
Giai nhân mỹ nữ hai mươi,
Tự tay chọn lựa chẳng ai tranh phần.
Chỉ kém Hạ Lan giai nhân,
Hẹn rằng về với kinh thành quê hương.
Vinh quang danh tướng anh hùng,
Ngang hàng Anh Tuấn như con triều đình.(Oreste)
Ba nàng công chúa đẹp xinh:
Hoàng, Loan, Anh tuổi kết hôn lấy chồng.*
Ưng ai vua sẽ gả liền,
Mang về cung điện kinh thành quê hương. (5560)​
Tặng phần hậu hĩ hồi môn,
Cắt chia cho bảy kinh thành đông vui.
Kề Phi Lô đất tốt tươi,
Đất giàu dân mạnh chăn nuôi cừu bò.
Đầy đồng xanh tốt vườn nho,
Nhân dân kính phục ơn Vua như Thần.
Dưới Vương trượng của Tướng quân,
Nhân dân giàu có góp phần thuế vua.
Gọi là chuộc lỗi lầm kia,
Tướng quân còn giận vẫn chưa nguôi hờn. (5570)​
Hãy thương binh tướng An Kinh,
Trong cơn nguy khốn, hãy tìm giúp nhau,
Người người kính phục ơn sâu,
Vinh danh cao cả dài lâu như Thần.
Hải Tô xông trận tiến công.
Sẽ còn tiến đánh đến gần Tướng quân,
Chẳng ai cản nỗi bước chân,
Sẽ còn đốt cháy thuyền thành chúng ta.
An Sinh Phi Túc lơi là :
Tướng quân Uy Lĩnh vốn đa trí tài, (5580)​
Tôi xin nói thẳng với ngài,
Điều tôi nói trước một lời thẳng ngay.
Dù An Trích có đến đây,
Cũng không thuyết phục tôi thay đổi lời.
Tính tôi ghét nói nước đôi,
Dối lời, mang xuống Dạ Đài lòng ngay.
Tôi từng chiến đấu gian nguy,
Xông pha đánh địch chẳng suy suyển lòng.
Đến khi chiến phẩm định công,
Kẻ nhát lười, kẻ anh hùng đồng cân. (5590)​
Mọi người sống chết như cùng,
Kẻ chẳng làm, kẻ tranh hùng như nhau.
Tôi luôn xông trận hàng đầu,
Như con chim mẹ cơ cầu chỡ che,
Nuôi con thơ mang mồi về,
Quản chi khó nhọc, chẳng nề gian nan.
Tôi từng gian khổ đấu tranh,
Những đêm không ngủ, ngày tanh máu hồng.
Cũng không ngừng nghỉ chiến trường,
Vì người tranh đấu, mang phần giai nhân. (5600)​
Tôi từng hạ mười hai thành,
Bằng đoàn thuyền chiến lẫy lừng biển xanh,
Đường bộ hạ mười một thành,
Trô Án trù phú vô vàn chiến công. (Troade)
Dâng cả An Gia Đại Vương:
Chia công chút ít giữ mình phần to.
Tướng vương chia đủ cừu bò,
Riêng phần tôi thưởng công cho một nàng.
Cũng dành lấy lại ơn ban,
Mang về mây gió truy hoan cho đành. (5610)​
Vì ai tôi phải đấu tranh,
Vì Hạ Lan mái tóc xanh diễm kiều,
Gian nan vì một người yêu,
Còn tôi xông xáo thân liều cho ai ?
Người tôi yêu lại cướp đi,
Dối lừa gian trá, nói gì nữa đây ?
Uy Lĩnh ơi, một lời này,
Vua đà lo liệu gian nguy chiến thuyền,
Cho đào hào cho dựng tường,
Hào sâu, cọc nhọn, chẳng cần gì tôi. (5620)​
Chống Hải Tô đủ sức rồi,
Khi tôi xuất trận, hắn nơi cung đình,
Chẳng ra khỏi cổng Khuê thành (Scée).
Nơi cây sồi hắn một lần thoát nguy.
Ngọn lao tôi phóng nhanh bay,
Làm cho hắn sợ ra tay đối đầu.
Giờ tôi chẳng đánh hắn đâu,
Ngày mai tôi sẽ lễ cầu Thần Vương,
Cùng các Thần cõi Thiên Sơn,
Thuyền tôi ra biển thong dong trở về. (5630)​
Nếu Thần cho gió thuận hòa,
Trong hai ngày sẽ về quê hương mình.
Phi Thành giàu có no lành, (Phthie)
Chẳng cần điên đảo đấu tranh làm gì !
Vàng, bạc, đồng, sắt mà chi,
Bao nhiêu mỹ nữ thắt đai diễm kiều,
Chia phần nhỏ mọn bấy nhiêu,
Cũng giành giật lấy ai liều mà chi ?
Của An Gia mang về đi,
Tôi không dám nhận từ khi bị lừa. (5640)​
Cho rồi cướp lại như Vua,
Tôi không dám đụng vật quà tóc tơ.
Dù Vua ban tặng bây giờ,
Mười lần, hai chục lần cho cũng từ.
Dù quà như cát sông thu,
Cũng không cảm động, tôi như chai lỳ.
Con Vua tôi chẳng cưới đâu,
Dù cho nhan sắc diễm kiều thế nao
Dù như Vệ Nữ thân đào,
Cũng không xúc động xuyến xao tấc lòng. (5650)​
Dù như Quán Trí tài năng,
Lòng tôi chẳng muốn cưới nàng mà chi !
An Kinh dũng tướng thiếu gì,
Chọn làm phò mã, sức tài hơn tôi.
Nhờ Thần tôi trở về rồi,
Cung Phê Lê sẽ chọn người kết hôn.
Hy Lạc biết mấy công nương. (Hellias)
Phi Thành quý tộc, cháu con công thần.
Người tôi yêu làm vợ hiền,
Gia tài giàu có, ngai vàng cha ông. (5660)​
Với tôi chẳng có chi bằng,
Sống còn hơn cả bạc vàng thế gian.
Ý Long hùng mạnh giàu sang,
Trước khi ta đến vây thành tiến công.
Bò cừu no béo đầy đồng,
Vạc ba chân, ngựa hồng hoang thiếu gì.
Cha tôi hứa hẹn mà chi,
Tôi vào chinh chiến, ích gì, đảo điên.
Mẹ tôi Thê Túc Nữ Thần,
Tiên tri điều sẽ chẳng lành cho tôi. (5670)
Đời tôi sẽ ngắn ngủi thôi,
Khi quang vinh với đất trời thành Troa.
Nếu tôi về với quê nhà,
Cuộc đời phúc lộc thái hòa dài lâu.
Mẹ tôi khuyên nhủ trước sau,
Trở về nơi chốn đất màu cha ông.
Dù cho phá được Ý Long,
Đời tôi số mệnh chịu phần đau thương.
Số phần đã định, Thần Vương,
Sống còn Dớt đã tỏ tường phúc ân. (5680)​
Hãy về trình với Hội Đồng,
Lời tôi tỏ rõ với cùng Tướng quân.
Chẳng còn có cách nào hơn,
Điều quân bảo vệ chiến thuyền đấu tranh.
Phần tôi chẳng đổi hận lòng,
Bàn Phượng có muốn về cùng với tôi.
Ở lại đây, đêm nay thôi,
Tôi không ép buộc một lời với ai.
Mọi người câm lặng bồi hồi,
An Sinh khí khái, một hơi chối từ. (5690)
Bàn Phượng nhỏ lệ u sầu,*
Lo toàn quân ngại nguy cơ chiến thuyền :​
An Sinh dũng tướng anh hùng,
Nếu con nhất quyết mặc tình bỏ đi.
Mặc bao thuyền chiến gian nguy,
Lòng con vướng mãi hận này trong tim.
Làm sao lời dặn cha con,
Vua trao sứ mệnh bước đường ra quân,
Giúp vua An Gia Đại Vương,
Ngày đi con tuổi chưa tròn thanh xuân. (5700)​
Còn chưa kinh nghiệm chiến tranh,
Chưa biết ăn nói Quân Trung Hội Đồng.
Vua cha giao ta giúp con,
Giúp con ăn nói, điều hành ba quân.
Ta không ở lại một mình,
Xa con, sứ mệnh Vua dành cho ta.
Dù cho Thần có hiện ra,
Cho ta xóa hết tuổi già sớm hôm.
Cho ta trở lại thanh xuân,
Như con khí khái yêu thương một lòng. (5710)​
Về Hy Lạc xứ mỹ nhân,(Hellade)
Trốn cha cơn giận, mối tình trái ngang.
Cha An Minh Tô tướng công, (Amyntor)
Muốn nàng thiếu nữ tóc vàng thứ phi,
Mặc dù chống đối, mẹ tôi,
Mặc nàng từ chối những lời yêu đương.
Quỳ bên tôi, nàng van lơn,
Yêu tôi nàng muốn đẹp duyên đá vàng.
Lòng nàng chẳng muốn trái ngang,
Làm thân thứ thiếp sánh cùng lão ông. (5720)​
Nàng yêu tôi, đã hiến thân,
Cha tôi giận dữ, từ con vì tình,
Thần nào gieo nỗi bất bình,
Lời nguyền ác Bạch Lê Phong, Dạ Đài .(Perséphone, Hadès)*
Tôi đà toan rút gươm dài,
Nhưng thần linh đã kịp thời cản ngăn.
Nếu không nhơ nhớp sử xanh,
Tên tôi mang nặng tội hình giết cha,
Lòng tôi muốn trốn đi ra,
Bỏ lâu đài bỏ cửa nhà người thân. (5730)​
Mẹ và quyến thuộc cản ngăn,
Tiệc vui trò lạ đãi đằng sớm hôm.
Chín ngày canh giữ giải buồn,
Một đêm tôi đã trèo tường trốn đi,
Qua vùng Hy Lạc ngựa phi,
Đến Phi Thành đất màu đầy cừu dê.
Xin yết kiến vua Phê Lê,
Nhà vua tử tế vỗ về thương yêu.
Xem như con ruột nuông chiều,
Phong cho mãnh đất địa đầu trị dân. (5740)​
Đô Lộc cai trị an lành,(Dolopes)
Thuở tôi trạc tuổi An Sinh bây giờ.
Ngày ấy, con hãy còn thơ,
Bế ngồi đầu gối vui đùa thương yêu.
Miếng ăn cắt thịt chia đều,
Rượu vang con cũng muốn liều như ai,
Nếm vào phun ướt áo dài,
Cùng cười sặc sụa lại đòi đùa vui.
Đời ta chẳng có con trai,
Thương con dìu dắt nên người hùng anh. (5750)​
Con khôn lớn đẹp như thần,
Tâm hồn cao thượng, trắng trong cõi đời.
Thể nào sống chết mặc ai,
Thần cho sức mạnh, tiếng đời nhục vinh.
Các Thần uy vũ ai bằng,
Ban cho đạo đức tiếng danh an bài.
Con người khi phạm lỗi rồi,
Hương hoa, rượu, thịt mỡ chài cầu xin.
Thần Nguyện Cầu, con Thần Vương,
Thọt chân, mắt lé da nhăn tồi tàn. (5760)​
Chạy theo chân Thần Lỗi Lầm,
Con người sám hối, ăn năn việc làm.
Lỗi Lầm tráng kiện chạy nhanh,
Mau hơn tất cả bước chân trong đời.
Làm đau buồn kiếp con người.
Nguyện Cầu chữa nỗi đau đời phía sau.
Người kính trọng Thần Nguyện Cầu,
Thì Thần xóa giận, nhiệm mầu chỡ che.
Người chối từ chẳng lắng nghe,
Thì Thần Lầm Lẫn kết phe, kéo bè. (5770)​
Làm cho đau đớn ê chề,
Làm cho tội lỗi, não nề đau thương.
An Sinh suy nghĩ hỡi con !
Tâm hồn cao thượng, Thần Vương nguyện cầu,
Cho con trí tuệ cao sâu,
Nguôi hờn hiện tại tránh sầu mai sau.
An Trích nhận lỗi lầm nào,
Đã gây bao nỗi đớn đau bất bình,
Xin đền bù những lỗi lầm,
Để con nguôi nỗi hận tình hôm nao. (5780)​
Gửi sứ giả, bạn tâm giao,
Những người quý trọng thanh cao chân tình.
Xin con nguôi giận trong lòng,
Giúp An Kinh thoát qua cơn hiểm nghèo.
Chớ vì lầm lỡ bấy nhiêu,
Làm cho đại cuộc chịu nhiều đau thương.
Bao anh hùng gương sử xanh,
Nghe lời thành khẩn, tiếng danh để đời.
Nguôi đi cơn giận nhất thời,
Rồi tôi sẽ kể chuyện người hùng anh. (5790)​
Quy Thiết, Tinh Liên chiến tranh, (Courètes, Etoiliens)
Quy Thiết xâm lấn kinh thành Ca Đông. (Calydon)
Chiến tranh vì một nguyên nhân,
Thần Đạt Thế Mỹ giận căm ngai vàng, (Artémis)*
Tà Ly tế lễ mùa màng,(Thalysies)*
Cỗ bàn cúng đủ các Thần Thiên Sơn,
Mà quên ái nữ Thần Vương.
Nữ Thần săn bắn sai con lợn rừng,
Vùng Ốc Nê phá tan tành, (Oenée)
Cây cao trốc gốc, hoa đồng nát tan. (5800)​
Hoang tàn cây trái mùa màng,
Mai Lân hoàng tử mời hàng thợ săn, (Méléagre)
Cuộc săn đuổi thú khắp vùng,
Bao tay tuấn kiệt, heo rừng phanh thây,
Ất Ta Lăng bắn nhanh tay,(Atalante)*
Mai Lân tiến đến đâm ngay lao dài.
Các anh hùng khác đâm bồi,
Nữ Thần tức giận lũ người giết heo,
Gây nên tranh chấp công lao,
Quanh đầu, da thú ồn ào cuộc tranh. (5810)​
Mai Lân đã giết cậu mình,
Vì ông vu cáo, bôi danh dự nàng.
Ất Lăng, bắn giỏi, chạy nhanh,
Chuyện từ bé xé ra thành chiến tranh.​
Quy Thiết tuyên chiến công thành,
Mai Lân chiến đấu, lẫy lừng chiến công.
Đang khi chiến đấu được tin,
An Thê, người mẹ đau lòng xót thương. (Althée)
Cầu Thần Báo Oán giết con báo thù, (Erinys) (5820)​
Trước Bạch Lê Phong gối đầu (Perséphone, Hadès)
Thẳng tay trừng trị, chẳng cầu con trai,
Mai Lân nổi giận đắng cay,
Bỏ luôn cuộc chiến, về ngay cung mình,
Trước nàng Lệ Bạch thở than, (Cléopâtre)
Mặc cho cục diện chiến trường bại vong.
Địch quân ào ạt bên thành,
Ngữa nghiêng cuộc chiến đau thương kinh kỳ.
Quần thần bô lão cử đi,
Tăng lữ, quý tộc ngõ lời cầu xin: (5830)​
Chàng ra bảo vệ kinh thành,
Hứa quà hậu hỉ đất phong hoa màu,
Năm mươi mẫu đất vườn nho,
Mai Lân chẳng muốn đất nào thưởng công.
Vua cha Ân Nê thân hành (Oenée)
Khẩn cầu đứng trước cửa phòng kín bưng,
Các em gái mẹ cầu xin,
Chàng càng chẳng tiếp giận hờn chẳng ra,
Đợi quân thù địch đến nhà,
Đốt kinh thành phá cửa là mới nguôi. (5840)​
Nàng Lệ Bạch thiết tha lời :
Chàng ơi, hãy bớt giận thôi làm lành,
Lẽ nào chàng nỡ để đành,
Kinh thành đốt cháy tan tành bụi tro,
Lẽ nào chàng chẳng âu lo,
Gia đình thân thích thành nô lệ đành.
Ca Đông bất hạnh toàn dân,
Có cha, có mẹ, vợ thân yêu chàng,
Nếu không chết dưới lao tên,
Cũng đành nhục nhã kiếp thân nô tỳ. (5850)​
Nỗi hờn dai dẵng hôm nay,
Làm chàng mất cả lòng này khôn ngoan.
Linh hồn chiến sĩ chết oan,
Muôn đời sẽ giữ mối hờn thiên thu.
Trước Thần Âm Phủ hận sầu :
Vì Mai Lân đã nuôi câu giận hờn,
Vì mẹ bỏ cuộc giao tranh,
Nên chúng tôi mới lìa trần tiếc thương.
Nhưng chàng còn có thoát chăng ?
Số phần nhục nhã làm thân tội đồ ? (5860)​
Hay trong khói lửa thành đô,
Đường lao mũi kiếm, hồn vô cõi nào ?
Nghe lời vợ nói xót đau,
Tỉnh hồn, khoát áo chiến bào, lao khiên,
Xông pha nơi chốn chiến trường,
Quân Tinh Liên thấy tướng mừng xung phong.
Khí thần dũng mãnh như hùm,
Giải vây được cả kinh thành Ca Đông.
An Sinh ơi, tấm gương lành,
Hãy nên sáng suốt tinh thần xông pha. (5870)​
Chớ nên mặc lũ yêu ma,
Nguy cơ to lớn lửa sa chiến thuyền.
An Kinh kính phục như thần,
Nếu con trách nhiệm, khốn cùng cứu nguy.
An Sinh Phi Túc lời ngay :​
Già Bàn Phượng hỡi, con đây chẳng cần,
Thần Vương định đoạt số phần,
Giữ con ở cạnh chiến thuyền mũi cong,
Vì còn mối hận trong lòng,
Vì đầu gối chẳng mỏi mòn cầu xin. (5880)​
Cho An Trê một chiến công,(Atrée Agamemnon)
Già ơi ! thương ghét một lòng đều nhau.
Thương con, già ở lại đây,
Giường êm bên cạnh đợi ngày hôm mai.
Ta còn nói chuyện tương lai,
Trở về hay ở với người ra sao.
Còn các bạn khác trình tâu,
Cho An Trê biết tôi câu trả lời.
Quay sang Ban Tuấn mắt cười, (Patrocle)
Trải cho Bàn Phượng nằm nơi dinh đường. (5890)
An Bắc quay nói bạn rằng :
Uy Lĩnh, mục đích đã không hoàn thành,
Hãy mau về trả lời nhanh,
Bao người mong đợi dù tin chẳng lành.
An Sinh kiêu ngạo mặc tình,
Bao nhiêu danh dự đợi mong ích gì.
Lòng đầy tàn nhẫn xá chi,
Ra tay giúp đỡ cứu nguy bạn bè.
Một người cũng chẳng chở che,
Tấm lòng ích kỷ chẳng hề vì ai ! (5900)​
Một mỹ nhân, xem như trời,
Đền bù cho bảy, vốn lời biết bao,
Còn bao báu vật tặng trao,
Xem ra đối xử anh hào nào hơn.
An Sinh chẳng giận, chẳng hờn:​
An Bắc anh hỡi, chẳng buồn trách anh.
Lời anh đúng với sự tình,
Riêng tôi không muốn tiếng danh chẳng còn.
An Trích đối xử xem thường,
Trước ba quân chẳng nể nang mặt mày. (5910)​
Hãy về gặp trả lời ngay,
Tôi không lo ngại trận này máu tuôn,
Hải Tô có đốt chiến thuyền,
Trước dinh tôi, chắc phải dừng tay ngay.
Sứ đoàn lần cuối nâng ly,
Uy Lĩnh ra trước, dẫn đi đọc thuyền,
Ban Tuấn ra lệnh vệ quân,
Trải cho Bàn Phượng tấm chăn da cừu.
Chăn bông vải lụa hoa thêu,
Cụ già nằm xuống lòng nhiều âu lo.
Mong bình minh sáng đợi chờ,
An Sinh nằm ngủ vật vờ gian trong.
Bên Đỗ Mai Lan giai nhân, (Diomèlè)
Nương tử Phượng Bối, từ thành Lệ Bô. (Phorbos, Lesbos)
Ban Tuấn với một tiểu thơ,
Nàng Ý Phi, trận Sĩ Cơ mang về. (Iphis, Scyros)
Sứ đoàn về trại não nề,
Hai hàng vương tướng gần kề hỏi han,
Vua An Gia hỏi trước tiên:
Thế nào Uy Lĩnh, được không sứ đoàn. (5930)​
An Sinh giúp trận cứu thuyền,
Hay là từ chối, giận hờn chẳng nguôi.
Buồn rầu Uy Lĩnh trả lời :​
Đại Vương, hắn chẳng chưa vơi giận hờn.
Bảo rằng cứu lấy một mình,
Bao nhiêu dũng tướng anh hùng An Kinh.
Hắn còn hăm đến bình minh,
Kéo thuyền ra biển rút quân trở về.
Hắn còn khuyên nhủ chẳng nề,
Thành Troa kiên cố chẳng bề hạ đâu. (5940)​
Ấy lời hắn bảo về tâu,
Bảo tôi, An Bắc, hai hầu vệ nhân,
Riêng già Bàn Phượng tình thân,
Ngủ lại dinh trại, bình minh mai về.
Mọi người câm lặng như tờ,
Cuối cùng Đỗ Mạnh chẳng chờ đứng lên :​
Vinh quang An Trích Đại Vương,
Chẳng còn cần, cứ mặc tình An Sinh.
Lòng hắn kiêu ngạo đã đành,
Càng cầu, càng khẩn, hắn càng làm cao. (5950)​
Bây giờ mặc kệ hắn nào,
Ở đi, hắn muốn làm sao mặc tình.
Bây giờ ta hãy dưỡng quân,
Nghỉ ngơi, canh gác đợi bình minh lên.
Chiến xa kỵ mã sẵn sàng,
Hàng đầu chiến đấu, trận tiền phản công.
Mọi người đồng ý lui chân,
Ai về trại nấy an lòng nghỉ ngơi. (5958)​

Chú thích:

Chân bình: trépied, dùng để đặt các bình rượu amphores đáy nhọn.

Lesbiennes: phụ nữ đảo Lesbos, ngày nay chỉ phụ nữ đồng tính luyến ái.

Ba cô con gái vua Agamemnon tên; Chrysothémis (Hoàng Cúc) Laodice hay Électre (Loan Bích). Iphianase (Anh Khuê), con trai là Oreste (Anh Tuấn)

Argos d’Achaie là vùng Péléponnèse khác với Argos Pélasgique là vùng Thessalie

Câu 5558: Hoàng , Loan , Anh, tuổi kết hôn lấy chồng. Câu này tạo nên cuộc tranh luận vì có người cho rằng Iphianassa là Iphigénie đã hiến tế cho Nữ Thần Artémis. Sophocle cho là một người khác, hay là Homère không biết đến huyền thoại cuộc hiến tế Iphigénie.

Câu 5691 Khi ra quân đánh thành Troie, Achille chưa đến hai mươi tuổi. vua Pélée giao cho Phénix làm quân sư giúp Achille. Việc này gây ra nhiều tranh cải vì là năm sau, khi Achille tử trận con trai lại ra trận thay cha. Mẹ Achille cải trang chàng thành con gái, dấu với các công chúa. Achille có con lúc 14 tuổi, khi đi đánh thành Troie chàng 20 tuổi, thì mười năm sau con trai 16 tuổi có thể ra trận. Achille tử trận lúc 30 tuổi.

Câu 5724 Perséphone là vợ thần Hadès cai trị cõi Âm Phủ.

Câu 5759 Đoạn thơ Thần Nguyện cầu và Thần Lầm Lẫn rất nổi tiếng được Volitaire dịch thành thơ trong Tự Điển Triết Học, mục Épopée.

Câu 5795. Thalysies: Tế lễ đầu vụ thu hoạch mùa màng

Artémis còn gọi là Diane: Nữ Thần Săn bắn

5805. Phénix không nói đến nguyên nhân cuộc chiến, Méléagre định công trao cho Atalante, nữ thợ săn có tài chạy nhanh, bắn phát đầu tiên trúng heo rừng, chiếc đầu heo, vinh dự cao nhất, nhưng người cậu Méléagre giật lại, xúc phạm Atalante, vu cáo chàng thiên vị, chàng điên tiết giết người cậu, gây nên cuộc chiến.

Bản dịch thơ lục bát Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh (năm 2007-2011, nhuận sắc 2016)​
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại

Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC X : DIOMÈDE, ULYSSE ĐỘT KÍCH QUÂN ĐỊCH BẮT DOLON VÀ GIẾT VUA RHÉSOS

Theo Eustathe, các nhà phê bình thành Alexandrie (Ai Cập) và Aristarque chương này gọi tên là Dolonie, do việc Diomède và Ulysse bắt kẻ do thám của Hector tên Dolon, là một thi ca khúc của Homère, được dân chúng thích thú thường mời các du tử ngâm hát với đàn lyre, nên nhiều người lầm tưởng là một ca khúc nằm riêng biệt được, Pisistrate đem vào Iliade vị trí chương 10. Néron thành Roma cai trị đế quốc La Mã, sinh thời rất thích chương này và ông truyền đọc cho ông nghe trước khi chết.

TÓM LƯỢC : Agamemnon và Ménélas lo lắng tình hình, đánh thức các tướng lãnh, bàn việc do thám tình hình địch. Buổi họp Hội Đồng ở ngoài dinh trại giữa vùng chiến địa, (nhiều tác giả cổ đại đã bình luận về cuộc họp này). Diomède và Ulysse xung phong ra đi, Thrasymède trao Diomède kiếm hai lưỡi, khiên và mũ lông da mềm, Mérion trao Ulysse nỏ tên, gươm sắc và mũ nanh heo rừng, hai chàng cầu nguyện được Thần nữ Athéné hóa thân chim hạc chỉ đường. Vừa ra khỏi lũy hào đã bắt sống được Dolon, do Hector gửi đi do thám tình hình quân Achéens. Sau khi khai thác biết được viện binh vua Rhésos mới đến ban chiều, hai chàng giết Dolon và đột kích giết vua Rhésos cùng 12 sĩ quan cận vệ, cướp bầy ngựa trắng đem về. Vua Agamemnon và mọi người mừng thưởng chiến công.

Nằm kề dinh trại chiến thuyền, (5960)
Quân binh cẩn mật gát canh giấc nồng.
Vua An Trích thức trở trăn,
Nỗi lòng nặng trĩu, rối răm tâm hồn.
Vài cơn chớp sáng đêm đen,
Mưa rơi nặng hạt bên thềm biển lam.
Rồi cơn giá lạnh đêm tàn,
Tuyết rơi trắng xóa sa trường mênh mông.
Nỗi niềm cay đắng trong lòng,
Gieo bao lo sợ rẫy run sự tình.
Nhìn xa xa tít chân thành,
Trăm, ngàn lửa địch, bập bùng bóng đêm. (5970)
Tiếng kèn, tiếng sáo thê lương,
Tiếng người thao thức vọng vang đêm trường.
Nhìn qua dinh trại vọng canh,
Bứt đầu, bứt tóc sự tình chẳng an.
Thở than cùng với cao xanh,
Cầu mong cứu vớt chiến trường nguy cơ.
Phải tìm Vương lão Ninh Tô,
Nghĩ rồi thức dậy, khoát vô áo choàng.
Áo da sư tử lông vàng,
Chân mang hài bóng, tay quàng ngọn lao. (5980)
Mai Ninh Lạc chẳng ngủ nào,
Lo âu chiến cuộc thương đau tâm tình.
Nhớ Hạ Lan, cuộc viễn chinh,
Chiến tranh liều lĩnh vây thành bại vong.
Khoát choàng da báo quanh mình,
Mũ đồng đầu đội, tay cầm ngọn lao.
Muốn đi đánh thức anh hào,
Cùng anh bàn bạc, binh đao địch tình.
Lời bàn muốn ngõ cùng anh,
Gửi người dò thám phía thành Troa quân. (5990)
Ai người lãnh việc khó khăn,
Can trường xông xáo, liều mình trong đêm.
An Gia Vương đáp lời em :​
Lời em chí lý ta nên họp bàn,
Vì Thần Vương đổi thay lòng,
Đã thiên vị với cổ bàn Hải Tô.
Ta chưa từng thấy bao giờ,
Hắn gieo bao nỗi nguy cơ thảm sầu.
Nên bàn kế hoạch đối đầu,
Biết âm mưu hắn để hầu ra tay. (6000)​
Em gọi các tướng đến ngay,
Đến gần gọi nhỏ khẽ lay giấc nồng.
Chớ nên kinh động quân tình,
Gọi tên húy tử *, thì thầm đủ nghe.
Nói rồi thẳng hướng đi về,
Ninh Tô Vương lão cận kề quân trung.
Lão Vương đang ngủ chập chờn,
Khiên, lao, mũ, giáp kề gần một bên,
Sẵn sàng có biến khoát lên,
Tuổi già kinh nghiệm nhanh chân chiến trường. (6010)
Thấy vua An Trích vén màn:
Cớ chi vua lại thân hành trong đêm.
An Gia Vương vội thì thầm:​
Ninh Tô Vương lão, tôi tìm đến đây.
Thần Vương gieo mối hận này,
Lòng tôi bối rối, chẳng say giấc nồng.
Đi tìm ý kiến Lão Vương,
Lòng tôi trăm mối, ngỗn ngang sự tình.
Quân thù đã đánh lại gần,
Chúng ta chẳng biết sự tình địch quân. (6020)​
Đêm nay e sợ bóng đêm,
Địch quân do thám lũy đồn chúng ta.
Ninh Tô nhanh bước chân ra,
Đại Vương An Trích, chúng ta họp bàn.
Ty Đê công tử anh hùng,
An Bắc, Uy Lĩnh, lẫy lừng nghìn mưu.
Ninh Tô Vương lão vội mau,
Áo dài, choàng áo hồ cừu tím than.
Chân mang hài bóng thêu vàng,
Một tay cầm chiếc lao đồng nhanh chân. (6030)
Bước đi theo dọc bến thuyền,
Đến trại Uy Lĩnh, thì thầm gọi tên.
Uy Lĩnh choàng dậy ra liền:​
Cớ chi Vương lão trong đêm một mình..
Việc cần khẩn cấp gì chăng ?
Ninh Tô rằng : Việc quân trung cần bàn.
Tình hình khẩn cấp nguy nan,
Theo tôi, nhanh gọi Hội Đồng Tướng Quân..
Uy Lĩnh vào lấy lao khiên,
Và cùng Vương lão dọc thuyền theo chân. (6040)
Đến trại Đỗ Mạnh đóng quân.
Quân hầu nằm ngủ gối trên khiên đồng.
Lao dài tua tủa dựng bên,
Anh hùng nằm ngủ ngon trên da mềm.
Trên đầu tấm thảm len đan,
Kề bên Vương lão, lay chân giấc nồng :​
Ty Đê công tử dậy nhanh,
Lẽ nào ngũ mãi, đêm tàn ngáy vang.
Địch quân đã đánh kề bên,
Chỉ trong gang tấc đạn tên chiến trường. (6050)​
Đỗ Mạnh thức giấc vội vàng :​
Lão vương kinh thật, chẳng yên được nào !
Quân thị vệ, con cái đâu ?
Cớ chi lao khổ đi vào đêm đen.
Để đánh thức các tướng quân,
Chẳng chi ngăn cản, sờn lòng Lão vương.!
Ninh Tô cười trả lời rằng :​
Tướng quân nói đúng, tôi con trai tài,
Quân hầu đông đúc khiến sai,
Nửa đêm có thể đi mời các vua. (6060)
Tình hình nguy, có cơ thua,
Ngọn gươm sống chết chỉ vừa tầm tay.
Hãy gọi An Bắc giùm ngay,
Người còn trẻ, giúp việc này cho ta.
Đỗ Mạnh nhanh bước chân ra,
Áo choàng sư tử khoát qua thân mình.
Cầm cây lao nhọn cán đồng,
Nhanh chân đến các trại quân gọi mời.
Các Vương tướng hẹn đến nơi,
Quân canh gươm giáo chọc trời vây quanh. (6070)
Như bầy khuyển cạnh cừu canh,
Mắt nhìn chọc thủng đêm thanh đề phòng.
Chẳng còn giấc điệp chập chờn,
Đêm dài cẩn mật, sống còn hiểm nguy.
Quân Troa đột nhập bất kỳ,
Lão Vương khích lệ duy trì quân canh :​
Luôn luôn phòng ngự các con,
Chớ nên ngủ gục, địch quân vui mừng.
Nói rồi băng khỏi hào tường,
Theo sau Vương tướng, âm thầm trong đêm. (6080)
Cạnh nơi trận tuyến chiều hôm,
Quân canh dọn dẹp, chẳng còn tử thi.
Ninh Tô Vương lão thầm thì :​
Hỡi các chiến hữu, cực kỳ khó khăn,
Muốn bàn hoạch định giao tranh,
Quân ta cần biết ý tình quân Troa,
Muốn đêm trời còn tối nhòa,
Một viên dũng tướng xông pha kiên cường,
Lẻn vào doanh trại địch quân,
Thám thính trinh sát, tình hình ra sao ? (6090)​
Lắng nghe bàn bạc thế nào,
Bắt quân canh vọng tiền tiêu thăm dò,
Khai thác tin tức ý đồ,
Đem quân đóng tạm xa đô xa thành,
Chúng dừng chân cuộc tiến công,
Hay mưu đồ đánh lũy đồn chúng ta.
Chỉ cần dũng tướng trở ra,
Cho tin tức địch ấy là chiến công.
Hội đồng Tướng lãnh vinh danh,
Tặng cừu đen, ghế tiệc trần đầu tiên. (6100)​
Mọi người nghe nói lặng im,
Giây lâu Đỗ Mạnh Kinh Thanh đáp lời :*
Ninh Tô Vương lão, có tôi,
Sẵn sàng đột nhập vào nơi hiểm nghèo.
Nhưng xin một tướng đi theo,
Hai người yểm trợ thế nào cũng hơn.
Các tướng đều muốn theo chàng,
Hai chàng An Bắc, sẵn sàng Mê Long.
Mai Ninh Lạc hiệu Trường thương.
Uy Lĩnh Bách Kế, chiến trường mưu mô. (6110)
An Gia Đại Vương thăm dò:​
Các tướng tài giỏi cơ hồ chọn ai ?
Đỗ Tướng quân hãy chọn người,
Hợp tình, hợp tánh đến nơi mới thành.
Tướng Đỗ Mạnh trả lời nhanh :​
Tôi chọn Uy Lĩnh kinh hành đêm nay.
Mưu cao cẩn mật dạn dày,
Quán Trí Thần nữ giúp bày trí mưu.
Uy Lĩnh: Chẳng cần bàn nhiều,
Việc cần khẩn cấp là điều đi ngay, (6120)​
Đêm dài sắp hết rồi đây,
Bình minh sắp hiện, non tây sao tàn.
Thái Chí trao kiếm hai tầm*
Khiên cho Đỗ Mạnh, mũ lông da mềm.
Mê Long trao Uy Lĩnh mang,
Nõ tên, gươm sắc, mũ nanh heo rừng.
Hai người từ giả nhanh chân,
Quán Trí Tuệ dẫn đường băng hạc ngàn,
Mắt không nhìn suốt bóng đêm,
Nhưng tai nghe cánh hạc vàng trong sương. (6130)
Uy Lĩnh cầu khấn Nữ thần :​
Lắng nghe, Ái nữ Thần Vương Khiên Vàng,
Dẫn đường phù hộ bước chân,
Giúp tôi chiến thắng bao lần vinh quang,
Giúp nay, nhiệm vụ vẻ vang,
Hoàn thành sứ mệnh, khải hoàn chiến công.
Đỗ Tướng quân cũng khấn thần :​
Lắng nghe, ái nữ Thần Vương chẳng nề,
Đã từng giúp đỡ Ty Đê,
Một mình sứ giả đi về vinh quang. (6140)​
Một mình chiến thắng phục binh,
Giờ đây tôi cũng khinh hành gian nan.
Bao giờ sứ mệnh thành công,
Sẽ xin cúng một bê non tuổi tròn.
Chưa từng khiên ách trên lưng.
Chạm vòng vàng đặt trên sừng tế sinh.
Sau khi cầu khấn Nữ thần,
Hai chàng nhanh gót băng mình trong đêm.
Như hai sư tử đi săn,
Giữa vùng tử khí sa trường âm u. (6150)
Máu đen, mặt đất mịt mù,
Tử thi vương vãi, bạn thù đó đây.
Tướng Troa cũng chẳng ngủ say,
Hải Tô triệu tập quân giai họp bàn :​
Ai người sứ mệnh tiền phong,
Thưởng phần xứng đáng, chiến công can trường.
Thưởng hai xe ngựa thếp vàng,
Nếu len lõi chốn chiến thuyền địch quân.
Thăm dò xem xét tình hình,
Quân An Kinh có họp bàn rút lui. (6160)​
Sau khi thảm bại vừa rồi,
Có canh cẩn mật các nơi lũy thành.
Mọi người còn đứng lặng thinh.
Đô Long Âu Mạch, cận thần giàu sang (Dolon con Eumèdes).
Xấu trai nhưng chạy rất nhanh,
Con trai duy nhất, năm nàng chị em.
Can trường nói Hải Tô rằng :​
Tôi xin nhận lãnh điều danh dự này,
Tiến gần thuyền địch đêm nay,
Hãy nâng vương trượng hẹn ngày chiến công. (6170)​
Thưởng tôi xe ngựa thếp vàng,
Chiếc xe đồng chạm vua thành Phi Lô.*
Tôi thề sẽ lập công to.
Sẽ len lõi tận dinh cơ quân thù.
Dò xem hội hợp quân cơ,
Phản công hay sẽ trốn mau xuống thuyền.
Hải Tô đưa vương trượng lên:​
Chứng minh có Dớt và Thần Hạ Cơ,(Zeus, Héra)
Chiến công bắt được chiến xa,
Người được trọng thưởng ấy là Đô Long. (6180)
Chẳng ai nào khác vinh danh.
Đô Long sung sướng băng mình chạy nhanh.
Trên vai mang chiếc nỏ cung,
Áo da sói trắng, mũ lông đuôi chồn.
Tay cầm lao nhọn nhẹ nhàng,
Hướng về phía biển, chiến thuyền An Kinh.
Hắn nào biết cuộc liều thân,
Hải Tô chẳng được tin trông trở về.
Bỏ sau binh đội ngựa xe,
Lòng đầy khí khái, vắng hoe lối mòn. (6190)
Mắt Uy Lĩnh sáng trong đêm,
Kề bên Đỗ Mạnh thì thầm vào tai :​
Này Đỗ Quân có thấy người,
Đi hướng ta mới vừa rời địch quân.
Hắng đi do thám chiến thuyền ?
Hay đi hôi của trên thân xác người ?
Để hắn qua khỏi đồng rồi,
Chúng ta núp bắt hắn thời phía sau.
Để xem hắn chạy hướng nào ,
Hướng thuyền hay sợ phóng mau về thành ? (6200)
Hai chàng ẩn tránh bên đường,
Giữa vùng tử khí các thân xác nằm,
Đợi Đô Long vượt qua tầm,
Chạy theo cách khoảng bước chân luống cày,
Hai chàng choàng dậy theo ngay,
Đuổi theo bắt kịp chân bay lối mòn,
Đô Long chạy chẳng đề phòng,
Chợt nghe có bước thập thình phía sau,
Ngỡ rằng đồng bọn rượt theo,
Hải Tô ra lệnh phải mau quay về. (6210)
Hắn nằm xuống đất lắng nghe,
Hai chàng phóng đến, gần kề tầm lao.
Mới hay chẳng phải bạn nào,
Cắm đầu tung chạy, đuổi theo hai chàng.
Như hai chó luyện đi săn.
Nhọn răng xông xáo bắt con thú rừng.
Đuổi nai thỏ chẳng rời chân,
Đô Long hoảng hốt thấy gần trạm canh.
Kề bên cạnh bức hào tường,
Đỗ Mạnh thét lớn: Hãy dừng chân ngay! (6220)​
Không thì chết với lao này,
Đường lao ta sẽ đưa mày Âm cung.
Ngọn lao phóng lướt vai trên,
Cắm ngay xuống đấy sức còn rung rinh.
Đô Long dừng lại rẫy run,
Răng đánh bồ cạp, tái xanh mặt mày.
Hai chàng dừng lại trói tay,
Hắn còn khóc ngất: Ơn này xin tha,
Tôi xin chuộc mạng sống thừa,
Vàng đồng, sắt luyện, báo cha chuộc mình. (6230)​
Cha tôi giàu có vô cùng,
Sẵn sàng hậu tạ chuộc thân vẹn toàn.
Uy Lĩnh: Mi muốn sống còn,
Hãy mau khai báo rõ ràng thực hư,
Mi dời dinh trại đi đâu ?
Trong đêm tăm tối, ngỏ hầu tìm chi ?
Mi đi hôi của tử thi,
Hay Hải Tô gửi mi đi thăm dò ?
Chiến thuyền binh đóng quân cơ,
Mi theo sứ mệnh hay do tự mình ? (6240)
Đô Long run rẫy lời rằng :​
Hải Tô hứa thưởng tặng công xe vàng.
Xe ngựa Phi Lô nổi danh,
Nên tôi lóe mắt điên cuồng ra đi.
Hải Tô bảo tôi đêm nay,
Dò xem nước bước đường đi quân thuyền,
Rằng sau thảm bại lui quân.
Quân binh còn có đề phòng gác canh.
Uy Lĩnh nghe nói cười rằng :
Thật là quý giá tặng phần cho mi. (6250)​
Ngựa Âu Xích quý báo thay !(Eacide)
Người trần đoản mệnh khó tay luyện thuần.
Chỉ An Sinh, mẹ là thần,
Mới điều khiển được ngựa dòng như chơi.
Này đây, mi hãy trả lời,
Hãy cho ta biết các nơi quân tình,
Ý đồ đóng trại xa thành,
Hay toan lui bước rút quân ra về ?
Đô Long: Tôi đã được nghe.
Hội Đồng tướng lãnh họp kề mộ lăng. (6260)​
Gác canh dàn trải khắp vùng,
Đồng minh mới đến viện binh rất nhiều.
Uy Lĩnh: Binh viện bao nhiêu ?
Ngựa xe, binh ngũ, ai điều khiển binh ?
Đô Long vột trả lời rằng :​
Dọc bờ biển, đội quân thuần nỏ cung,
Ca Liên cùng với Bồ Niên, (Cariens, Péoniens)
Lê Le, Phê Lạc, Cô Côn kéo về, (Lélèges, Pélasges, Caucônes)*
Dọc bờ phụ lưu Thẩm Khuê,(Thymbré)*
Ly Liên, Phi Chiến chuyên nghề mã binh. (Lyciens, Phrygiens)(6270)​
Mê Niên binh đội nón đồng,(Méoniens)
Các ông muốn hỏi quân tình làm chi ?
Các ông muốn đánh đêm nay,
Có quân Thạch Các phía tây đội hình. (Thraces)
Hạ Quốc, Âu Nê quốc vương,(Rhésos con Eionée)
Có bầy chiến mã tuyết sương đẹp thuần,
Phi nhanh như gió hùng cường,
Xe vàng chạm bạc, giáo gươm ánh vàng.
Thật là quý báu vô cùng,
Tưởng như bảo vật thiên đình giáng lâm. (6280)​
Tôi đà kể hết sự tình,
Hãy mang tôi đến gần bên chiến thuyền.
Giam tôi buộc chặt xích đồng,
Cho khi ông đoạt chiến công trở về,
Tôi không nói dối, xin thề !
Cúi nhìn Đỗ Mạnh chẳng hề xuyến xao :​
Đô Long mi chẳng thoát nào,
Nếu ta tha chết, mi mau dẫn đường,
Biết đường, biết lối chiến thuyền.
Dẫn binh trở lại chiến trường xông pha. (6290)​
Nay mi ở trong tay ta,
Thì ta chẳng thể nào tha mi về,
Để cho thảm họa đến kề.
Đô Long nghe nói quỳ lê đập đầu.
Đỗ tướng quân rút ngọn dao,
Chiến đầu rơi rụng máu đào bắn tung.
Uy Lĩnh đoạt mũ đuôi chồn,
Nỏ cung và khấn nữ thần cầu xin:​
Quán Trí trước đã ban ơn
Đến nơi Thạch Các trại quân trận tiền. (6300)
Dứt lời bóng hạc bay lên,
Đậu cành me lại dẫn đường phi lao.
Hai chàng vội bước chân mau,
Xuyên vùng chiến địa, nơi vào bản doanh.
Chiến binh Thạch Các ngũ ngon,
Kề bên vũ khí, giáp gươm đội hình.
Đường xa mệt mỏi bước chân,
Mỗi hàng đôi ngựa trắng tinh một màu.
Vua Hạ Quốc ngủ phía sau,
Hai chàng nhanh chóng tiến vào trại dinh. (6310)
Đỗ Mạnh khẽ: Đúng sự tình,
Đô Long khai báo rành rành chẳng sai.​
Uy Lĩnh : Anh hãy ra tay,
Tô lo bầy ngựa cướp ngay mang về.
Đỗ Mạnh vung ngọn lưỡi lê,
Quân Thạch rên rĩ, trong mê xuất hồn,
Mắt thần soi sáng dục lòng,
Như sư tử bước vào trong dê cừu.
Mỗi khi hạ một kẻ thù,
Uy Lĩnh kéo cẳng lôi vào một bên. (6320)
Dọn đường cho ngựa nhanh chân,
Chẳng còn sợ hãi dẫm thân xác người.
Giết mười hai lính đến nơi,
Vua Hạ Quốc ngủ hồn vời cõi xa.
Lìa đời trong giấc mơ hoa,
Còn mơ con trẻ bên nhà đùa vui.
Uy Lĩnh buộc ngựa dây dài,
Huýt sáo ra hiệu bạn thời đi ngay,
Đỗ quân còn mãi mê say,
Tiếc xe vàng tính cột dây ngựa cùng. (6330)
Quán Trí Tuệ đến gần bên,
Dục chàng mau chóng nhanh chân trở về:​
Chớ mang xe ngựa bộn bề,
Quân thù thức dậy đến kề khó khăn.
Nghe lời Thần Nữ báo tin,
Ty Đê công tử lên nhanh ngựa bầy,
Uy Lĩnh đánh chiếc nỏ tay,
Một đoàn ngựa chạy như bay về thuyền.
Khi Quán Trí giúp An Kinh,
An Long Cung Bạc giúp đoàn quân Troa. (6340)
Bay xuyên qua các dinh cơ,
Dục người em họ nhà vua dậy liền.
Quân sư Hĩ Bố đến nhanh,(Hippocoon)
Than ôi trận địa đã thành tang thương,
Ôm thây thương tiếc khóc than.
Quân Troa náo động bàng hoàng bước chân.
Đỗ quân xua ngựa về thuyền,
Đến ngang thi thể Đô Long nằm dài,
Trao thay Uy Lĩnh cầm tay,
Xách đầu lên ngựa như bay về nhà. (6350)
Ninh Tô nghe tiếng vó khuya,
Tươi cười tiên đoán việc đà thành công.​
Tiếng chân bầy ngựa đến gần,
Hẵn là một trận chiến công hàng đầu.
Ninh Tô vừa nói dứt câu,
Một đoàn ngựa trắng như nhau lại gần.
Mọi người nhảy múa nhanh chân,
Reo hò tay bắt chào mừng chiến công.
Ninh Tô Vương lão hỏi rằng :​
Kể đi Uy Lĩnh anh hùng An Kinh, (6360)​
Làm sao đoạt ngựa bạch tuyền ?​
Lẽn vào nơi chốn trại tiền làm sao ?
Thần nào giúp chiến công nao ?
Ta chưa thấy vó câu nào đẹp hơn !
Thật là quà tặng thần tiên,
Con yêu quý Đấng Hội Vân Khiên Vàng
Quán Trí Mắt Cú Nữ thần.
Soi đường dẫn lối chiến công lẫy lừng.
Uy Lĩnh bước xuống cười rằng:
Lão Vương tiên đoán sự tình chẳng sai ! (6370)
Ngựa này mới đến chiều nay,
Chạy từ Thạch Các vượt bay dậm ngàn,
Đỗ quân đã giết Quân vương,
Mười hai cận tướng áo quần sang thay !
Một tên do thám gần đây,
Hải Tô gửi đến, này thây hắn nào.
Trao bầy ngựa trắng bên rào,
Quân mang lúa mạch dẫn vào trại dinh.
Uy Lĩnh mang đặt cạnh bàn,
Thây Đô Long để tế thần hôm mai; (6380)
Chàng ra biển tẩy mồ hôi,
Rồi vào bồn tắm hương lài thơm tho.
Hai chàng nhập tiệc nê no,
An Gia hậu đãi một vò rượu thơm. (6384).​


Kỳ tới Thi ca khúc XI : Chiến công vua Agamemnon (câu 6385 đến 7096)
Phạm Trọng Chánh (Nhất Uyên) chuyển ngữ thơ lục bát 2006-2011, nhuận sắc 2017

Chú thích:

(6004): tên húy tử. Hy Lạp ngày xưa không có họ, nên thường gọi dong dài với tên cha, ví dụ "Ulysse con ông Laërte". Tôi dùng công tử Laërte. Với các thần dùng thần tử và với phụ nữ dùng chữ nương tử cho đẹp câu thơ. Nhưng đối với Ulysse mà gọi là " Ulysse cha Télémaque " là phỉ báng.

Diomède có tiếng hét kinh thiên động địa nên còn có tên là Kinh Thanh.

Ménélas nổi danh ngọn lao dài nên gọi là Trường Thương.

Thrasimède trao Diomède đoản kiếm hai lưỡi đều sắc bén.

(6172). Xe vua Nestor thành Pylos. Vương lão Nestor còn có danh hiệu Chiến Xa Công, xe nổi tiếng đóng bền chắc và đẹp nhất đương thời.

(6260) Lăng mộ Ilios nằm trên cánh đồng Scamandre.

(6268), Lélèges vùng bờ biển phía nam xứ Troade.

(6269). Thymbré phụ lưu sông Scamandre.

(6274) Thraces vùng Albanie ngày nay
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC XI : CHIẾN CÔNG VUA AGAMEMNON (câu 6385 đến 7096)

TÓM LƯỢC: Sáng hôm sau trận chiến lại bắt đầu. Vua Agamemnon chiến thắng, chỉ huy đánh lui quân Troie về thành. Nhưng Thần Vương Zeus phù hộ Hector, vua Agamemnon bị thương, quân Hy Lạp lại co cụm, mặc dù có Diomède, Ulysse, Ajax. Diomède bị thương bởi Pâris phải trở về trại, Ulysse bị thương được Ménélas và Ajax giải cứu. Pâris còn đả thương lương y Machaon và Eurypyle. Achille đứng trên cao quan sát tình hình thấy Machaon trở về gửi Patrocle đến hỏi thăm tin tức. Nestor vương lão thuyết phục Patrocle, nhắc lại lời dặn dò của vua Pélée và cha Patrocle, kể chuyện chiến công mình thời trai trẻ cầu xin Patrocle nói với Achille xuất trận cứu nguy quân Hy Lạp, nếu không thì Patrocle mượn khiên lao áo giáp Achille xuất quân để quân Troie hoảng sợ. Patrocle trên đường về gặp Eurypyle bị thương, đem về trại và băng bó cứu thương cho chàng.

Bình minh rời khỏi giường hồng, (6385)
Rời Tịnh Không sáng cõi trần, cõi thiên. (Tithon)
Thần Vương gửi đến bên thuyền,
Bất Hoà Thần Nữ, phất trần trong tay.*
An Kinh doanh trại thuyền bày,
Giữa thuyền Uy Lĩnh, chạy dài hai bên. (6390)
An Bắc, An Sinh đầu thuyền,
Nữ thần khơi náo nức lòng ba quân.
An Trích mặc áo giáp đồng,
Hai chân che phủ khủy bằng ngân kim.
Giáp che phủ ngực căng tròn,
Giáp vua Kỳ Thiết tiếp tân tặng quà.(Kinyrès)
Đảo Chuyết hưởng ứng vây Troa,(Chypre)
Dâng vua An Trích làm quà xuất chinh.
Mười hai băng sắt đen tuyền,
Mười hai vàng, thép, bạch kim nối dài. (6400)
Cổ cao, rồng chạm vẽ vời,
Như cầu vòng bảy sắc trời mây mưa.
Hai cầu vai rủ hai tua,
Đỉnh đầu sáng chói, mũ vua bạc vàng.
Bao gươm bạc, cán sơn dương,
Khiên tròn, vòng bạc, giữa vòng bạch kim.
Chạm hình đầu quỷ Đột Tinh, (Gorgone)
Mắt nhìn máu lửa hoảng kinh trừng trừng.
Một dây da choàng qua mình,
Vẽ vời chạm một thanh long ba đầu. (6410)
Nhà vua đội mũ hai ngù,
Bốn u thép nhọn, lắc lư đuôi dài.
Hai thanh lao nhọn trong tay,
Hạ Cơ phù hộ vua đầy thiên ân.(Héra)
Giáp binh tiến bước trùng trùng,
Ngựa xe dũng tướng nối hàng theo sau.
Thần Vương thổi trận sương đào,
Diêm Vương chờ đón hồn vào âm cung.

Quân Troa trên dãy đồi nương,
Quanh ba dũng tướng kiên cường tiền quân. (6420)
Hải Tô vĩ đại kiêu hùng,
Bồ Ly Đa Mạc tài năng vẹn toàn. (Polydamas)
Âu Nê dân phục như thần(Énée)
Ba trai An Thế lĩnh hàng hậu quân.(Anténor)
Bồ Linh, An Giác anh hùng,(Polybe, Agénor)
An Ca Mạc tuổi trẻ trung như thần (Acamas)
Hải Tô đi trước hùng binh,
Khi thì dục ngựa đi vòng phía sau.
Điều quân binh kỵ tiếp mau,
Mình đồng chớp sáng chiến bào Thần Vương. (6430)
Quân như thợ gặt mang liềm,
Đi theo từng luống cày trên ruộng đồng.
Nơi trang trại của phú nông.
Ngọn lao giáp trận máu hồng tuôn rơi.
Lao bay, tên bắn tơi bời,
Chẳng ai chạy trốn phận người đau thương.
Như bầy sói dữ hung hăng,
Nhanh chân xông xáo trên đồng máu xương.
Thần Bất Hòa vui thù hằn,
Là Thần duy nhất lăng xăng chiến trường. (6440)
Các Thần khác chẳng dự bàn,
Trách hờn thiên vị, Thần Vương dành phần.
Cho Troa quân thắng chiến trường,
Thần Vương chẳng cải, chẳng màng ngồi riêng.
Mắt nhìn theo dõi việc trần,
Thành Troa cùng với chiến thuyền An Kinh.
Ngọn lao sáng loáng vẫy vung,
Sát nhân, nhân sát, hồng trần cuộc chơi.
Bình minh máu đỏ ngày dài,
Khắp vùng chiến địa thây người máu tanh. (6450)
Như tiều phu nghỉ trưa ăn,
Để bờ thung lũng cây rừng ngỗn ngang.
Chán chê chém giết sức mòn,
Mới lui về nghỉ dưỡng quân bên thành.
An Gia Vương lập chiến công,
Mở đầu đã diệt anh hùng Bi Nô (Biénor)
Hàng đầu quân đội thành Troa,
Oai Lê phó tướng nhào vô đời tàn. (Oïlée)
Chạy xe đối mặt lãnh đòn,
Ngọn lao phóng thẳng xuyên ngang trán đầu. (6460)
Óc trào trong mũ trắng phau,
Máu hồng nhuộm đỏ chiến bào, ngã lăn.
Mặc cho quân nhặt lao khiên,
Nhà vua lại hạ hai hoàng tử Biam,
Ân Thi Phổ con Chánh cung, (Antiphos)
Y Lộc dòng thứ, cầm cương ngựa hồng. (Isos)
Nổi danh dũng cảm chiến công,
Xưa từng đối địch với cùng An Sinh.
Vùng Y Đa làm tù binh,
Lúc làm quản trại chăm nom bầy cừu. (6470)
Trói dây mây, đổi địch thù,
Món tiền chuộc mạng kếch xù vua Troa.
Ngọn lao An Trích phóng ra,
Trúng ngay lồng ngực, chiến xa đổ nhào.
Ngọn gươm An Trích tung mau,
Cắt tai Ân Phổ máu đảo đổ tuôn. (Antiphos)
Nhận ra hình dáng tù binh,
An Sinh dẫn độ, chiến công lẫy lừng.
Như sư tử giữa cánh đồng,
Bầy nai tơ dại dưới nanh vuốt dài. (6480)
Dưới đòn dũng mãnh hùm oai,
Rừng dày tung chạy, mồ hôi kinh hoàng.
Dũng tướng chẳng thoát tử thần,
Còn ai đối địch trong hàng Troa quân.
Phi Nam, Hy Bảo tiến lên,(Pisandre, Hippolochos)*
Cả hai cùng nhận tiền vàng Lộc Sơn (Alexandre, Pâris)
Chối từ trao trả Hạ Lan,
Hai con Mã Chước lên cùng chiến xa. (Antimachos)
Đối đầu trước xe ngựa vua,
Ngựa hồng hoảng sợ đong đưa lật nhào. (6490)
Đứng lên run trước ngọn lao,
Gập đầu, quỳ gối lòng nào van lơn:​
Ân Thi Mã Chước giàu sang,(Antimachos)
Cha tôi đều sẵn bạc vàng chuộc con.
Biết chúng tôi vẫn sống còn,
Làm tù binh ở chiến thuyền An Kinh.
Cả hai cùng khóc ròng ròng,
Đợi Vua nguôi giận cho thân sống còn,
An Gia càng giận quát lên :
Chúng bay là một lũ con nghịch thần. (6500)​
Ân Thi Mã Chước hung hăng,
Bác lời Mai Lạc sứ thần chúng ta. (Ménélas)
Bây giờ bây trả cho cha,
Ý đồ chủ chiến bỏ qua lời cầu.
Nói rồi phóng thẳng ngọn lao,
Nhắm vào lồng ngực đổ nhào chiến xa,
Hy Bảo hoảng sợ nhảy qua,
Thanh gươm Vua đã chém lìa đôi tay.
Chiếc đầu gục xuống lăn quay,
Vua hô, binh sĩ phanh thây trận tiền. (6510)
Quân Troa hoảng sợ lui chân,
Bụi tung mù mịt trắng đồng máu tuôn.
An Gia Vương dục binh hùng,
Troa quân đầu rụng xác thân chiến trường.
Chiến xa nghiêng ngữa đổ quanh,
Lửa hồng cháy đỏ, rừng xanh gió bừng.
Diều, ưng bay lượn không trung.
Bao nhiêu chinh phụ nỗi lòng xót xa.
Hải Tô co cụm quân nhà,
Qua lăng Y Quốc (Ilios) mới ra đối đầu. (6520)
Đám tàn quân chạy theo sau,
Dưới chân sư tử cấu cào vuốt nanh.
Màn đêm buông xuống dần dần,
Trốn đâu chẳng khỏi thoát thân tử thần.
Như bầy bò chậm bước chân,
Vuốt nanh đứt cổ, máu đầm thảm thương.
An Gia Vương đuổi Troa quân,
Đối đầu hay trốn mệnh thân chẳng toàn.
Dưới tay An Trích tiến quân,
Ngọn lao tàn sát chẳng dung địch thù. (6530)
Dưới chân thành rộng hào sâu,
Thần Vương từ đỉnh mây cao non ngàn.
Y Đa nhìn xuống bên thành,
Uy quyền sấm sét cõi trần trong tay.
Truyền Y Bích đến bên ngai,(Iris)
Thần Cầu Vòng bảy sắc bay sứ truyền :​
Hãy đi bảo Hải Tô rằng ,
Hãy đấu với An Gia Vương tuyến đầu,
Đả thương hắn với tên, lao,
Đến khi hắn phải lùi vào ngựa xe. (6540)
Ta cho chém giết thỏa thuê,
Đánh cho đến tận thuyền bè biển xanh.
Đến khi trời tối đỏ hồng,
Đêm thiêng bao phủ chiến trường mới ngưng.
Nghe lời Y Bích bay nhanh
Gót chân cuộn gió đến thành Ý Long,
Gặp Hải Tô, thái tử Biam,
Đứng sau song mã vững vàng xe cương,
Kề bên truyền lệnh Thần Vương,
Rồi nhanh chân gió Cầu Vòng bay đi. (6550)
Hải Tô đi khắp quân nghi,
Kích lời cận chiến tức thì An Kinh.
An Gia Vương tiến trước tiên,
Đoàn quân hăng máu trận tiền xung phong.

Hát tôi nghe ! Hỡi Nữ Thần
Thi Ca nơi chốn cung đình Thiên Sơn.
Ai người đối địch Đại Vương,
Tướng Troa hay tướng viện binh giúp thành.
Anh Phi An Thế con dòng, (Iphidamas con Anténor)
Quê hương Thạch Các ruộng đồng phì nhiêu. (Thrace) (6560)
Vóc người lực lưỡng lớn cao,
Rời lâu đài bước đi vào chiến chinh.
Mười hai thuyền chiến giáp binh,
Đậu bến Bạch Cốt đến thành Ý Long. (Percote,Ilion)*
Xuất quân giáp mặt Đại Vương,
Ngọn lao An Trích phóng gần hụt trên,
Anh Phi đâm trúng đai vàng,
Ngọn lao toan ấn sâu tràn bên thêm.
Nhưng lao như mũi chì mềm.
Uốn cong trên lớp bạc vàng dây đai. (6570)
An Trích giận tuốt gươm dài,
Vờn như sư tử, con mồi kề bên.
Chém tung đứt cổ địch quân,
Anh Phi dũng tướng đầu lăn ngã đùng.
Xót xa vợ trẻ khuê phòng,
Chinh phu vĩnh biệt lên đường xa nhau.
Chẳng còn về nữa thương đau,
Trăm bò sính lễ, nghìn cừu mà chi.
An Trích toan cướp tử thi,
Mang về vũ khí uy nghi giáp đồng. (6580)
Bổng đâu xông đến tướng Công (Coon)
An Thế con trưởng anh hùng vinh danh. (Con Antenor).
Đau thương trước mắt sự tình.
Thấy em bị hạ dưới thanh kiếm thù.
Xông vào phóng thẳng ngọn lao,
Trúng tay An Trích, xuyến xao rùng mình.
Nhà Vua xông chẳng sờn lòng,
Ngọn lao bay thẳng như giông gió tràn,
Tướng Công thương tích ngã lăn,
Rút gươm An Trích chém phăng đứt đầu. (6590)
Hai con An Thế còn đâu,
Dưới tay An Trích thương đau số phần.
Về chầu Dìêm Chúa đau thương,
An Gia Vương đứng hiên ngang anh hùng.
Khi đá tảng, gươm lao đồng,
Mặc cho máu chảy ròng ròng vết thương.
Đến khi dòng máu ngừng tuôn,
Mới hay đau đớn thấm dần tay thôi.*
Như phụ nữ đến lúc thời,
Nỗi đau xé ruột chào đời con thơ. (6600)
Y Lý Thy, ái nữ Hạ Cơ,(Ilithys, Héra)
Là Thần Đau Đớn xé da thịt người.
Bước lên xe chiến nghỉ ngơi,
An Trích ra lệnh xe lui về thuyền.
Vẫn còn sang sảng lệnh truyền :​
Các bạn tướng lĩnh Đạt Liên anh hùng,
Hãy thay tôi giữ chiến trường.
Nói rồi đánh ngựa về thuyền dưỡng thương.
Chiến xa phất phới áo choàng,
Bụi tung trắng bóng quân vương về thuyền. (6610)

Hải Tô quay lại tiến quân,
Thần Vương phù trợ kiên cường tiến công.
Mang về chiến thắng vinh quang,
Phen này nhất định đánh thuyền An Kinh.
Như thợ săn lệnh vừa ban,
Bầy chó dũng mãnh, nhe hàm trắng răng.
Xông lên sư tử, heo rừng,
Hải Tô tai họa chiến trường An Kinh,
Hàng đầu xông xáo trận tiền,
Thổi cơn bão tố khắp miền biển lam. (6620)
Ai người ngã gục đau thương,
Dưới tay Thái tử Vua Biam anh hùng,
An Sài, Âu Tố máu tung, (Asaios, Autonoos)
Ô Thế, Đô Lộc con dòng Ly Tô, (Opotès, Dolops, Clytios)
Ô Phê, An Giã, Ái Mô (Opheltions, Agelaos, Aisymnos)
Ô Lộc, Hy Cốt cơ đồ tang thương. (Oros, Hipponoos)
Và bao quân sĩ An Kinh,
Như Tây Khuê thổi, Nam phong mây ngàn. (Zéphyre, Notos)
Như cơn gió lốc cuốn vần,
Ngàn muôn đợt sóng cuộn tung trắng hào. (6630)
Bao đầu rơi rụng máu đào,
Xác thân gục ngã gươm đao anh hùng.
Trước cơn thảm bại lui dần,
Uy Lĩnh bảo với bạn thân lời rằng:​
Ty Đê công tử hãy nhanh,
Bên tôi phản kích chận đường Hải Tô.
Chớ nên để hắn tiến vô,
Chiến thuyền đốt cháy, cơ đồ thảm thương.
Đỗ Tướng quân trả lời rằng :
Có tôi ở lại cản ngăn bước đường. (6640)​
Nhưng Thần Vương Đấng Hội Vân,
Cho quân Troa thế thượng phong chiến trường.
Ngọn lao Đỗ Mạnh xông lên.
Hất tung Thân Bá khỏi thềm chiến xa.(Thymbraios).
Đâm vào ngực trái máu sa,
Uy Lĩnh hạ thủ tướng nhà Mê Long (Mélion).
Như heo rừng húc chó săn,
Quân Troa tàn sát dưới chân hai chàng.
An Kinh nhẹ nhỏm trong lòng,
Chẳng còn trốn tránh gươm thần Hải Tô. (6650)
Một xe song mã xông vô,
Hai chàng Bạch Cốt tài cao lẫy lừng. (Percote),
Lào thông binh mã sức hùng,
Trước lao Đỗ Mạnh, đời cùng hồn bay.
An Kinh xông cướp ngựa ngay,
Uy Lĩnh lại giết hai tay tướng hùm.
Hy Mộc, Hy Bắc đường tàn. (Hippodamos, Hypeirochos)
Hai bên chiến trận lại bằng sức nhau.
Thần Vương xuyên thấu mây cao,
Đỉnh Y Đa thấy máu đào trào tuôn. (6660)
Ty Đê công tử phóng thương,
An Giác Tô Phổ trúng ngang háng đùi. (Agastropos con Péon)
Phê Ông công tử toan lui,
Ngựa xe lại cách xa nơi cận hầu,
Chân chưa kịp chạy nơi đâu,
Ngọn lao phóng tiếp thương đau lìa đời.
Hải Tô trông thấy bồi hồi,
Đỗ Mạnh, Uy Lĩnh tiến nơi phía mình,
Hét hô tiền đội xông lên ,
Đỗ Mạnh khẽ bảo với cùng bạn thân : (6670)​
Hải Tô tai họa vô ngần,
Đón đầu mình đấu với cùng hắn ta.
Nói rồi phóng ngọn lao ra,
Hải Tô trúng nón văng xa mũ đồng.
Mũ dày ba lớp bắn tung,
Món quà Phổ bút An Long tặng chàng. (Thần Phébus Appolon)
Hải Tô vội vả nhanh chân,
Chạy vào lẫn với đám đông quân mình,
Ngã nhào tay chống đất mềm,
Mắt mờ như thấy bóng đêm ngang đầu, (6680)
Ty Đê công tử đuổi mau,
Ngọn lao vừa cắm rung theo sức hùng,
Hải Tô hoảng hốt nhanh chân,
Nhảy lên xe chạy thoát thân tử thần,
Cầm lao Đỗ Mạnh hầm hầm :​
Chó kia lại nữa một lần thoát thân.
Hôm nay nhờ có mũ thần,
Chạy còn kiếp đảm tiếng dòn ngọn lao.
Hẹn mi gặp gỡ lần sau,
Ta còn chiến đấu, Thần cao hộ trì. (6690)
Nói rồi đâm thẳng lao dài,
Phê Ông công tử sóng soài nằm lăn.
Lột mũ áo còn mình trần,
Trao quân chiến phẩm lao đồng giáp gươm.
Bá Lê đứng tự xa trông, (Pâris)
Giương cung nõ dựa trên tầm mộ bia.
Gò Ilios lăng mộ vua,
Ngọn tên bay bổng trời xa rơi vào,
Trúng Đỗ Mạnh dội chiến bào,
Lại rơi xuống đất, cắm vào bàn chân. (6700)
Bá Lê hớn hở vui mừng,
Rời ngay chổ nấp tưng bừng huênh hoang :​
Đời tàn mi trúng mũi tên,
Trúng ngay hạ bộ chẳng còn sống chi.
Quân Troa mừng hội cơ này,
Chẳng sợ sư tử như bầy dê con.
Đỗ Mạnh lòng dạ chẳng sờn :​
Hỡi tên bắn lén chốn chôn mộ phần,
Hãy ra đây đấu với ông,
Ngọn tên mi chỉ gải chân ta nào. (6710)​
Ra đây mà nếm ngọn lao,
Lao ta chẳng dễ thoát sao tử thần.
Vợ thương khóc xé má hồng,
Con mồ côi đớn đau lòng bơ vơ.
Xác thân máu đẩm bùn nhơ,
Thối tha cho ác điểu chờ xé ăn.
Uy Lĩnh cầm lao hộ gần,
Cho chàng ngồi xuống tay cầm rút tên.
Cơn đau đớn xé thịt xương,
Vội vàng bảo kẻ hầu lên xe về. (6720)
Lui về hậu cứ thuyền bè,
Dưỡng thương lau vết máu me chân trần.
Uy Lĩnh còn lại một mình,
Chẳng còn một tướng quân cùng đấu tranh.
Hiên ngang chàng tự nhủ rằng :​
Lẽ nào trốn chạy trước quân địch thù.
Sự tình còn lắm thảm sầu,
Mình ta sẽ phải đương đầu gian nan.
Biết bao kẻ nhát bỏ hàng,
Cũng không thoát trận quét càn địch quân. (6730)​
Chi bằng chiến đấu anh hùng,
Đánh hay bị đánh giáo gươm kẻ thù.
Uy Lĩnh đứng lại đối đầu,
Quân Troa đã đến như hầu vây quanh.
Như heo rừng giữa chó săn,
Hung hăng nanh trắng húc quân địch thù.
Quân Troa nôn nóng xông vào,
Vây quanh Uy Lĩnh ngọn lao anh hùng,
Đới Phi Tử trúng vai trên, (Deiopitès)
Thọ Ôn, An Mộc chết cùng thảm thương.(Thoon Ennomos) (6740)
Kế Chi Mạc nhảy xe cương, (Chersidamas)
Ngọn lao trúng bụng lóc lăn bụi hồng.
Sa Cước thương tích tay chân, (Charops)
Sô Cô, anh hắn tiến gần giúp em. (Socos con Hippasos))
Vác lao lực lưỡng hầm hầm,
Đến gần Uy Lĩnh giận căm dằn lời :​
Uy Lĩnh Mưu Kế hết thời,
Gặp Hy Bá Cước tàn đời mà thôi.(Hippasos)
Hãy xem đây ngọn lao dài,
Gặp ta mi biết họa tai đến ngày. (6750)
Nói rồi phóng ngọn lao bay,
Xuyên qua đến lớp áo dày sườn non.
Quán Trí Tuệ chỡ che chàng,
Không cho lao trúng tim gan anh hùng.
Uy Lĩnh biết nhẹ vết thương,
Lui ra chàng hét với cùng Sô Cô :
Đời mi tàn mạt đáy mồ,
Ta cho mi ngọn lao chờ Âm Cung.
Sô Cô toan trốn quay lưng,
Ngọn lao Uy Lĩnh đã đâm sau mình. (6760)
Hắn rơi rụng xuống ngã ầm :​
Sô Cô mi đã đời tàn thiên thu,
Mẹ cha vuốt mắt được đâu,
Chim ưng xé xác dập dìu cánh bay.
Còn ta có chết trận này,
Anh hùng tang lễ là ngày vinh quang .
Rút lao ra khỏi khiên tròn,
Uy Lĩnh đau xót máu tuôn bên mình.
Troa quân trông thấy vết thương,
Càng thêm hừng chí tiến lên dần dần. (6770)
Uy Lĩnh lùi bước kêu vang,
Gọi bạn bè đến giúp chàng thoát nguy,
Ba lần nghe tiếng gió bay,
Mai Ninh Lạc đã bảo ngay bạn gần :​
An Bắc ! Uy Lĩnh nguy nan,
Mãi mê chống chọi Troa quân một mình.
Hãy mau cứu giúp bạn thân.
Nếu không hối tiếc vô cùng quân ta.
Hai chàng hăng hái xông ra,
Thấy Uy Lĩnh giữa vòng đà siết nhanh. (6780)
Như con nai đã bị thương,
Giữa đàn sói dữ vuốt nanh đến gần,
Máu tuôn ướt đẫm đến chân,
Sói dữ toan xé thịt ăn giữa rừng,
bỗng đâu thấy chúa sơn lâm,
Sói rừng hoảng sợ lùi dần trốn đi,
An Bắc xông xáo cứu nguy,
Mai Ninh Lạc đã đến ngay đỡ chàng.
Đưa Uy Lĩnh khỏi chiến trường,
Quân hầu đón đỡ xe cương về thuyền. (6790)
Đưa chàng cứu chữa vết thương,
An Bắc tiếp tục đánh cùng quân Troa,
Giết Đô Chí hoàng tử Biam (Doryclos)
Đả thương Băng Cốt và cùng Lý Săng. (Pandacos, Lysandre)
Phi Sa, Phi Lạc thương vong, (Pyrasos, Pylartès)
Như con sông chảy xuống đồng phù sa,
Nước tràn trận lũ giông mưa,
Bao thân sên mục, thông già cuốn theo.
Trôi ra biển cả sóng đào,
Dưới lao An Bắc biết bao máu hồng. (6800)
Hải Tô phía tả trận tiền,
Chẳng hay biết đến trận tiền Sa Măng (Scamandre)
Bao đầu rơi rụng máu tanh,
Ninh Tô Vương lão đấu tranh chiến trường.
Anh Đô Mai tướng anh hùng (Idoménée)
Các Thần phù hộ lẫy lừng dọc ngang.
An Lộc Sơn bắn phát tên (Alexandre, Pâris),
Tên ba mũi trúng Mã Công anh hùng. (Machaon)
An Kinh lo ngại sự tình,
Anh Đô Mai đã bảo cùng Ninh Tô: (6810)​
Nhờ Vương lão hãy nhanh vô,
Cứu Mã Công gấp mau cho xe vàng,
Ngựa phi về chốn chiến thuyền.
Một lương y quý gấp trăm mạng người,
Nhổ tên, chữa thuốc trên vai.
Ninh Tô vội vã theo lời, xe nhanh
Nâng Mã Công lên xe mình,
Dục cương cho ngựa băng băng hướng thuyền.
Kê Long nhìn phía trận tiền,(Kebrion)
Quân Troa bỏ trốn bảo cùng Hải Tô: (6820)​
Hãy nhìn phía trái trận đồ,
Quân ta hoảng sợ lui vô tránh mình,
Do An Bắc Thế La Môn,
Tôi nhìn ra hắn với cùng khiên to,
Chúng ta hãy đổ quân vô,
Cản ngăn An Bắc trận đồ tang thương.​
Nói rồi đánh ngựa dục cương,
Đưa quân vào chốn chiến trường hiểm nguy,
Xác thân gục ngã máu đầy,
Bắn tung mặt đất vòng quay bánh tròn. (6830)
Hải Tô xông giữa trận tiền,
Nhưng tránh An Bắc phân tranh đối đầu.
Thần Vương gây ngại ngùng nhau,
Khiến cho An Bắc lùi mau chiến trường.
Như sư tử bỏ trại chuồng,
Khi đàn chó dữ, dân làng cản ngăn.
Bỏ mùi thịt béo máu hồng,
Chẳng mang mồi lại gầm gừ bỏ đi.
An Bắc lo lắng tiếc vì,
Lòng chàng lo ngại lâm nguy chiến thuyền. (6840)
Như con lừa giữa cánh đồng,
Trẻ con gõ nhịp vào thanh gỗ tròn,
Con lừa chẳng sợ gì hơn,
Cứng đầu chẳng chạy, chẳng buồn thong dong.
Trước An Bắc Thế La Môn,
Quân Troa cầm kiêm gõ khiên vang lừng.
An Bắc quay lại đánh đâm,
Quân Troa lại tránh lùi dần xa xa,
An Bắc thong thả bước qua,
Quân An Kinh tiến quân ra gần kề. (6850)
Âu Chi Phi Lộc tiến về, (Eurypylos)
Đến bên An Bắc bốn bề vung lao,
Đánh An Phi té lộn nhào, (Apisaon)
Đứt đầu gối, đến lột mau khiên đồng.
An Lộc Sơn thấy giương cung,(Alexandre, Pâris)
Trúng ngay đùi gãy mũi tên gỗ tròn.
Âu Chi Phi Lộc lùi dần,
Thúc quân tiến bước đánh cùng Troa quân :
Chớ nên lùi bước ươn hèn,
Cùng bên An Băc vẻ vang anh hùng. (6860)
An Kinh nhanh bước che khiên,
Âu Chi Phi Lộc về liền trại dinh.
Ninh Tô Vương lão xe vàng,
Mang Mã Công đến về thuyền chữa thương,
An Sinh từ đứng xa trông (Achille)
Cột buồm quan sát mênh mông chiến trường,
Thấy bao thảm bại đau buồn,
Gọi Ban Tuấn đến, tỏ tường chẳng yên.
Mà lòng hối tiếc căn nguyên,
Gây bao nhiêu nỗi thảm thương quân tình. (6870)
Mai Tuấn công tử mới rằng (Patrocle con Ménoetios)
Việc gì bạn gọi, An Sinh cần gì ?
An Sinh Phi Túc sầu bi :​
Bạn thân ta hỡi giờ đây là ngày,
An Kinh cầu khẩn gối quỳ,
Tình hình chiến địa lâm nguy khốn cùng,
Ban Tuấn, ái tử Thần Vương,
Sang Ninh Tô để hỏi thăm sự tình.
Ninh Tô đánh ngựa về dinh,
Hỏi người thương tích chiến trường là ai ? (6880)​
Ta thấy người ấy lưng vai,
Phải Mã Công trúng thương nơi trận tiền,
Ta không thấy được hình dung,
Tình hình khẩn cấp là trong phút này.​
Lời hờn giận dỗi chẳng hay,
Ta không có thể khoanh tay ngồi nhìn.
Ban Tuấn vâng lệnh bạn hiền,
Đến nơi Vương lão bên thềm trại dinh.
Âu Đông hầu cận tháo cương,(Eurymédon)
Hai người ướt đẫm bụi đường mồ hôi. (6890)
Hạnh Mai tóc bính bờ vai, (Hécamède),
Vội pha nước uống rót mời tướng quân.
Nàng con Đạt Sĩ trâm anh, (Arsinoos)
Kinh đô Thệ Độ, An Sinh hạ thành. (Ténédos)
Thưởng ban cho Chiến Xa Công,
Lời bàn cơ mật chiến trường chẳng sai.
Dựng bàn gỗ chạm chân dài,
Đặt lên một giỏ trái cây chạm đồng.
Nước thơm mật ngọt, thời trân,
Bình bốn quai chạm bạc vàng thanh tao*. (6900)
Mỗi quai hình hai bồ câu,
Rượu thơm Ban Mễ cất từ tay tiên (Pramné)
Cắt viên bánh sữa dê thơm.
Rắc lên một lớp bột mền trắng tinh ,
Rót mời Vương Lão, Mã Công.
Cùng nhau giải khát hàn huyên luận bàn.
Ban Tuấn vừa tới bên dinh,
Ninh Tô Vương lão vội vàng cầm tay.
Mời vào ghế bạc riêng bày,
Ban Tuấn nôn nóng lời ngay chối từ: (6910).​
Rằng thưa chẳng dám ở lâu,
Hỏi thăm Vương lão ai nào bị thương. ?
Giờ đây nhìn thấy Y vương
Tôi xin về gấp thưa cùng An Sinh,
Bấy lâu uất ức trong lòng,
Chỉ vì đối xử bất công nên đành,
Ninh Tô Vương Lão lời rằng:​
An Sinh ấm ức giận hờn mãi sao?
Đau thương thảm bại biết bao,
Bao nhiêu dũng tướng, anh hào bị thương. (6920)​
Đỗ Mạnh tên đã trúng chân,
Uy Lĩnh thương tích bên sườn mũi lao,
An Gia Vương vai vết đau,
Âu Chi Phi Lộc tên nao trúng đùi.
Mã Công tên trúng bờ vai,
Mới vừa từ chiến trận tôi mang về.
An Sinh sao nỡ hững hờ,
Chẳng lo âu, đứng bên bờ dững dưng.
Đợi địch tiến đánh đốt thuyền,
Sức tôi giờ đã lụn tàn, nếu không (6930)​
Nếu tôi còn tuổi thanh xuân,
Kiên cường như buổi anh hùng Âu Liên, (Eliens)
Chúng cướp bầy bò trại chăn,
Tôi hạ Ý Tỵ con dòng Hy Cơ. (Itrymonès, Hyperochos)
Một vùng Âu Lịch cơ đồ (Elide)
Tôi đã đem đại quân vô trả thù,
Ngựa lao tôi phóng hàng đầu,
Trúng ngay tướng địch, quân mau tan hàng.
Tôi đà thâu được vô vàn,
Năm mươi bò mộng , dê hàng trăm con. (6940)
Bao lừa, ngựa mẹ, ngựa non,​
Chúng tôi lùa hết về thành Phi Lô.
Nê Lê mừng thết tiệc to (Nélé cha Nestor)
Con trai thắng trận, cơ đồ vẻ vang.
Loa truyền, mở hội rạng đông,
Chia phần chiến thắng, dân đồng vinh quang,
Tướng quân tuổi trẻ lập công,
Từ nay xóa hết nợ nần Âu Biên (Épéens)*
Đền bù năm tháng đảo điên,
Kẻ thù ngược đãi, siết rên bạo tàn. (6950)​
Sưu cao thuế nặng cơ hàn,
Bao nhiêu dũng sĩ nhất thành tiêu vong.
Mười hai hoàng tử Phi Liên,
Mình tôi sống sót nối dòng vương gia,
Âu Biên kiêu ngạo lọc lừa,
Quân binh giáp ức hiếp vua bạo tàn.
Mỗi năm cống nộp định phần,
Một bầy bò với ba trăm dê cừu.
Bốn ngựa giống thắng giải đua,
Chiến xa vật báo, chẳng vừa lòng tham. (6960)​
Vua Nê Lê tức giận căm,
Chia phân tài sản công bằng cho dân,
Hịch truyền tế lễ xuất chinh,
Quân Mâu Long vẫn xem khinh, xem thường.(Moulios)
Vây Thy Bích thành biên cương (Thryoessa)
Quán Trí Tuệ giúp can trường Phi Lô.
Toàn dân hăng hái vô bờ,
Riêng tôi, cha chẳng muốn cho đối đầu,
Cất ngựa xe, dấu chiến bào,
Rằng tôi tuổi nhỏ, biết sao chiến trường. (6970)​
Quán Trí Thần Nữ dẫn đường,
Tôi đi đến tận trận tiền chân không.
Đến Minh Thủy dòng sông xanh(Minyos),
Đổ vào biển cả bên vùng An Nê (Arènè)
Đợi bình minh sáng sơn khê,
Các dân bộ tộc cùng về hội binh.
Đỉnh An Phê tế các thần (Alphée)
Tế Dớt bò mộng, Hải Long bò vàng.
Quán Trí Mắt Cú bê non,
Binh đoàn dưỡng sức bên dòng sông xanh. (6980)
Âu Biên nôn nóng phá thành (Épéens),
Bình minh bừng sáng ra quân trận tiền.
Mâu Long tướng địch xông lên (Moulios rễ Augias))
Phò mã Âu Giác tính tình huênh hoang.
Cưới Âu Nương gái dầu lòng,(Augamède)
Xem khinh địch thủ xưng danh anh hùng.
Tôi phóng một ngọn lao đồng,
Ngã ngay xuống đất, lăn đùng bụi bay.
Tôi lên cướp chiến xa ngay,
Hàng đầu xông xáo, đông tây chiến trường. (6990)
Âu Biên chạy trốn hoảng hồn,
Khi nhìn Nguyên soái, quân tình thảm thương.
Tôi hăng hừng chí xông lên,
Như cơn giông bão tối đen bầu trời.
Mang về chiến thắng mình tôi,
Năm mươi xa chiến, trăm người giáp binh.
Mỗi xe hai kẻ địch quân,
Dưới lao tôi ngã gục trong bụi đường.
Mâu Long huynh đệ tang thương,*
Con Ất Tô lắm uy quyền tiêu vong.(Actor) (7000)
Rung trời, chuyển đất quyền hành,
Cũng không cứu được con trong chiến trường.
Dớt cho Phi Liên vinh quang,(Pyliens)
Toàn dân chiến thắng khắp đồng nương sâu.
Ngựa xe chỡ nặng biết bao,
Chiến công : thóc lúa, hoa màu, giáp binh.
Rời Bầu Long về kinh thành (Bourprasion)
Dớt cho vinh hiển dân lành Phi Lô.
Chiến công danh dự Ninh Tô.
Nay tôi già vẫn chăm lo góp phần. (7010)
An Sinh hờn giận một mình,
Rồi đây sẽ khóc sự tình đơn côi.
Khi An Kinh thảm bại rồi,
Có còn hối tiếc chẳng khôi phục gì ?
Thuở từ Phi Thi biệt ly, (Phthie)
Mai Tuấn cha cháu, chân đi dặn dò.
Theo Vua vì nghĩa dưới cờ,
Tôi và Uy Lĩnh đợi chờ lắng nghe,
Chúng tôi đến cung Pê Lê,
Anh hùng Mai Tuấn cận kề với con. (7020)
Ban Tuấn đứng cùng An Sinh,
Pê Lê tế lễ cầu thần trong sân.
Đùi bò cúng tế Thần Vương,
An Sinh kinh ngạc lại gần nắm tay,
Mời ngồi vào ghế khán đài,
Tiệc trần danh dự đãi bôi chân tình.
Tôi đà kể rõ nguyên nhân,
Hai bạn tỏ chí nhiệt tình tham gia.
Đồng tình cả hai người cha,
Tướng quân Mai Tuấn thiết tha dặn lời.: (7030)
Ra đi chinh chiến con ơi,
An Sinh tuy lớn cao người hơn con,
Nhưng mà còn nhỏ tuổi hơn,
Dù sức cao trội, con nên luận bàn,
Điều hay lẽ phải thật lòng.
An Sinh thấy phải sẽ cùng lắng tai.
Ấy lời sáng suốt của người,
Chớ quên đi hết những lời thân thương.
Con ơi, nói với An Sinh,
Lời con thắm thiết bảo khuyên chân tình. (7040)
Lời ngay sẽ thấu con tim,
Đổi thay ý tưởng gì hơn bạn bè.
Những lời phải ắt lắng nghe,
Nếu An Sinh sợ lỗi thề Thần Vương,
Hay vì lời mẹ Nữ Thần.
Thì con hãy bảo xin chàng xuất chinh.
Binh Nguyệt Mi Đông ra quân (Myrrmidons)
Sẽ làm hứng chí bội phần An Kinh.
Con mượn vũ khí bạn hiền,
Quân Troa sẽ sợ tưởng lầm An Sinh. (7050)​
Sẽ càng sợ hãi lui binh.
Chẳng công nhọc sức giúp quân thủ thành.
Rời xa chiến lũy chiến thuyền.
Cho An kinh được bớp phần nguy nan.
Ban Tuấn hừng chí trong lòng,
Nghe lời chạy gấp báo cùng An Sinh,
Ngang thuyền Uy Lĩnh đóng quân,
Cùng nơi hội họp trung quân tế thần.
Thấy Âu Chi đã bị thương (Eurypylos),
Đôi chân cà nhắc, mũi tên ngang đùi. (7060)
Mồ hôi ướt đẫm đầu vai,
Tinh thần tỉnh táo, chân đi nhọc nhằn,
Ban Tuấn thương xót hỏi nhanh :​
Chó Troa nào đã bắn anh thế nào ?
Quân ta chống, sức còn bao ?
Hải Tô tai họa thế nào, tướng quân ?
Âu Chi bình tỉnh lời rằng :​
Ban Tuấn bạn hỡi, sự tình lầm than,
Bao anh hùng nhất An Kinh,
Đã thương tích bởi lao tên quân thù. (7070)
Sức còn hung hãn đánh mau,
Hãy mang tôi chữa vết đau tên này,
Đưa tôi về chiến thuyền ngay,
Nhổ tên lau máu, bạn này, giúp tôi.
An Sinh có thuốc diệu kỳ,
Sĩ Tông truyền dạy thuốc thầy Mã nhân,
An Sinh có trao tặng anh,
Có lương y đã bị thương chiến trường.
Mã Công bị tên, lui chân,
Còn cần lương tướng tốt lành chữa thương. (7080)​
Bồ Đa Linh ở chiến trường, (Podalyre)
Còn đang đối phó địch tràn tiến công.
Ban Tuấn nhanh nhẩu bảo rằng :​
Sự tình nguy cấp hay chăng thế nào,
Bây giờ tôi phải làm sao ?
An Sinh cần gặp gấp mau sự tình,
Ninh Tô Vương lão nhắn bàn,
Nhưng tôi không bỏ bạn mình bị thương .
Nói rồi dìu bạn vào dinh,
Kẻ hầu phụ giúp trải lên da mềm. (7090)
Ban Tuấn tay đỡ bạn nằm,
Dùng dao cắt mũi, nhổ tên trên đùi,
Dùng nước nóng ấm lau chùi,
Mở bao lấy thuốc bên người rắc lên,
Hết cơn đau đớn thuốc tiên.
Vết thương khô máu, lành liền thịt xương. (7096)​

(Còn tiếp kỳ tới ) :

Thi Ca khúc XII: Cuộc chiến bên chiến hào (câu 7097 đến 7460)


Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh * Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne
dịch thơ năm 2006-2011, nhuận sắc năm 2017.

CHÚ THÍCH:

6388: Dấu hiệu chiến tranh. Các nhà văn thời cổ đại bàn về dấu hiệu chiến tranh của Thần Nữ Bất Hòa: có người cho rằng là ngọn lao, thanh gươm, chớp sáng. Virgile cho rằng đó là ngọn phất trần.

6393. Theo Homère : Atride Agamemnon làm vua Mycènes. Diomède là vua Argos, nhưng có khi lại lẫn lộn. Agamemnon là vua cả Aros, dân Argiens (do chữ Argos) là dân Hy Lạp, phải chăng Diomède làm vua dưới quyền trực tiếp của Agamemnon. Thủ lĩnh của mỗi vùng đều gọi là vua, Agamemnon vua mạnh nhất, vua các vùng đều thần phục.

6396. Kinyrès, vua đảo Chypre nổi tiếng kỹ nghệ kim loại.

6485 Hai tướng này lúc đầu theo Anténor, có ý theo lời sứ giả trả Hélène lại cho Ménélas, nhưng sau đó Pâris mua chuộc bằng tiền vàng, nên cùng cha Antimachos, bênh vực cho Pâris.

6564 Percote bến tàu ở Hellespont giữa Abydos và Lampsaque.

6660. Tiếng Hy Lạp chơi chữ có nhiều tiếng khi tả sự đau đớn : đau khi sinh đẻ, đau khi bị lao đâm, đau khi thất tình, đau khi ngườ thân qua đời, đau đớn khi dương vật vào âm hộ.. họ rất phong phú trong ngôn ngữ diễn tả sự đau đớn.

6900. Chiếc bình hai quai chạm chim bồ câu bằng vàng, các nhà khảo cổ tìm thấy tại Mycènes, có chưng bày tại viện bảo tàng Hy Lạp ( tôi đã nhìn thấy chiếc bình này ).

6948. Épìéens do tên Épéos tên người cha sáng lập ra triều đại Élis.

6959. Bốn ngựa đua phải nộp cống cho Épéens là ngựa từng đoạt giải đua thể thao Olympiques.

6999. Hai Moulios tên Cteatos và Erytos con Actor, em vua Augias theo một truyền thuyết mà Homère không nói đến là anh em sinh đôi.

7076. Chiron người ngựa đầu người, từng cứu Pélée khỏi bị các Centaures khác giết.
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC XII : CUỘC CHIẾN BÊN CHIẾN HÀO

TÓM LƯỢC: Quân Troa chuẩn bị vượt qua lũy hào Hy Lạp, Asios tự đắc vào cửa bỏ ngõ, cho quân tràn vào bị phục kích bởi anh em Lapithes nên chết thảm hại. Điềm chim xuất hiện, tướng Polydamas sợ hãi khuyên Hector lui quân, nhưng Hector vẫn thúc đẩy tiến công. Sarpédon, Glaucos đánh vào chổ hào thành mỏng nhất do Ménésthé phòng thủ. Ménesthée vội sai người kêu cứu Ajax Quân Hy Lạp nơi phòng thủ Ménesthée nhờ sự hổ trợ của Teucer và Ajax Télamon chống lại quân Lysiens của Sarpédon. Glaucos bị trúng tên Teucer nơi cánh tay phải lui về thành. Sarpédon vượt qua tường nhưng không tiến công được. Trong lúc đó Hector dùng tảng đá to phá được một cửa thành, quân Troie tràn vào.

Đoạn chim Đại Bằng xuất hiện là một đoạn nổi tiếng của Sử thi Iliade, được Platon bình luận. Virgile bắt chước trong (En.XI 751-6). Voltaire dịch thơ trong tựa quyển Rome sauvée, trong bản dịch từ tiếng La Tinh của Cicéron (De divin, 97)

Trong khi Ban Tuấn chữa thương,(Patrocle) (7097)
Cho Âu Chi mũi tên đồng nhức đau.(Eurypylos)
Hai bên chiến trận sát nhau,
Hào sâu chẳng cản ngăn nào địch quân. (7100)
An Sinh còn mãi giận hờn,(Achille)
Thành vua Biam đó còn nguyên cơ đồ.
Vẫn còn dũng tướng Hải Tô. (Hector)
An Kinh hào lũy trơ trơ giữa trời.
Mười năm chiến cuộc chẳng nguôi,
Bao nhiêu quân tướng ngậm ngùi kiếp thân.
Kẻ còn sống với cõi trần,
Nhìn thành Troa sẽ tan tành tro than.
An Kinh cất bước lên thuyền,
Mang theo phẩm vật chiến công khải hoàn. (7110)
Bao cơn sông lũ nước nguồn,
Hải Long Vương với An Long cõi thần.*
Từ lâu muốn phá lũy tường,
Góp bao sức nước cội nguồn Y Đa.
Từ núi cao về biển xa,
Kê Sóc, Hạc Tả rừng già Ca Lê. (Rhésos, Heptaporos, Carèse)
Lộ Đốc, Gia Nịch chảy về. (Rhodios, Granique)
Sa Măng, Si Mộc tràn trề nước non (Scamandre, Simoïs)
Dớt cho mưa chín ngay đêm ,
Biển dâng xóa sạch lũy tường hào sâu. (7120)
Chỉ còn bãi cát trắng phau,
Dòng sông đổi cửa qua nào ai hay.
Đó là chuyện xảy sau này,
Giờ đây chiến địa cát bay bụi hồng.
Tiếng gào vang dội lũy tường.
Hải Tô xông xáo như cơn bão tràn.
Như heo rừng lúc nguy nan,
Chung quanh chó dữ thợ săn quây quần.
Vẫn còn dũng mãnh sức hùng,
Chẳng còn nghĩ đến đường cùng thoát thân. (7130)
Kiên cường anh dũng đấu tranh,
Hai bên khi tiến, khi chân lùi dần.
Hải Tô bước giữa đoàn quân,
Thúc quân Troa tiến bước lên hàng đầu.
Thúc quân cận chiến nhanh mau,
Sẵn sàng san hố, lấp hào xông lên.
Nhưng bao ngựa chiến dậm chân,
Hí vang sợ hãi, hào gần, tường cao.
Tên bay, đạn đá tung vào,
An Kinh kín mít, chẳng sao phá thành. (7140)
Ngựa lôi xe chiến tung nhanh,
Chẳng sao bước được đường gần quanh co.
Bồ Ly khuyên nhủ Hải Tô, (Polydamas, Hector):​
Thật điên dại mới xông vô lũy hào.
Thật là nguy hiểm biết bao,
Ngàn muôn cọc nhọn chỉa vào chiến xa,
Trước là tường lũy khó qua,
Đường cát chật hẹp khó mà tháo lui,
Chẳng bước xuống, chẳng yên ngồi,
Địa hình tôi nghĩ khó thời tiến công. (7150)
Nếu Thần Vương ghét An Kinh,
Ra tay sấm sét diệt quân địch thù.
Giúp quân Troa trận đối đầu,
Trên vùng đồng cát chúng hầu tiêu tan.
Chiến thuyền chúng sẽ lui quân,
Xa Đạt Quốc sẽ chuốt phần bại vong.(Argos)
Chớ nên hao tổn quân binh,
Lao mình rớt xuống chết trong lũy hào.
Tôi đề nghị tiến như sau,
Ngựa xe , phu mã tiến mau bên rào. (7160)​
Hải Tô đánh thẳng cửa vào,
Giáp binh xuống ngựa theo sau hợp đồng.
Chẳng ai chống nổi Tướng quân,
Bất ngờ chúng sẽ bại vong tan tành.
Hải Tô đồng ý lời bàn,
Rời xe ngựa với lao khiên công thành.
Ra lệnh binh giáp theo nhanh,
Bỏ xe ngựa tiến lên cùng Tướng quân.
Giao hầu cận giữ xe mình,
Năm đoàn quân tiến theo chân tướng hùng. (7170)
Hải Tô, Bồ Ly công thành,
Gồm quân thiện chiến đội binh hùng cường.
Thứ ba là tướng Kê Long (Kébrion)
Bỏ xe cho kẻ hầu gần bước theo.
Bá Lê, An Thước, Khê Nô (Pâris, Alcathoos, Agénor)
Chỉ huy binh giáp quân cờ thứ hai.
Thứ ba Hạ, Đới, anh tài (Hélénos, Deïphobos)
Hai chàng hoàng tử sánh vai như thần.
Cùng An Sĩ Ốc anh hùng (Asios)
Hiệt Cốt công tử sinh vùng An Bê. (Hyrtacos,Aribè) (7180)
Ngựa hoang to lớn mang về,
Bờ Sơn Lai nổi danh nghề mã phu. (Selleïs)
Anh Nê đoàn quân thứ tư (Énée),
Đạt Chi, Ca Mạc binh thư toàn tài. (Archiloque, Acamas)
Con An Thế Công cân đai .(Anténor)
Thạc Phê Đông chỉ huy thời ngũ quân (Sarpédon)
Lô Cô, Ất Thệ theo cùng, (Glaucos, Astéropée)
Đoàn quân lừng lẫy anh hùng tài ba;
Năm đoàn quân tiến xông pha,
Khiên da, lao nhọn bước ra công thành. (7190)
Trong khi các tướng Troa quân,
Bồ Ly Đa Mạc xếp hàng tiến công,
An Sĩ Ốc chẳng bằng lòng,
Quyết cùng xa mã đánh cùng thuyền đen,
Tự tin ngựa giỏi chiến trường,
Đã không thoát khỏi phận đen số phần.
Ngọn lao công tử Đô Long (Deucalion)
Anh Đô Mai phóng trong tầm tử thương; (Idoménée)
An Sĩ phía trái chiến trường,
Nơi An Kinh trở về cùng chiến xa. (7200)
Cổng thành phóng thẳng băng qua,
Cửa thành chẳng đóng thanh đà gát ngang.
Nghỉ rằng quân địch hoảng hồn,
Chạy về thuyền sợ chẳng còn gát canh.
Xua quân xông thẳng vào thành,
Chẳng còn nghi ngại canh phòng phục binh.
Cổng thành hai tướng tài năng,
Ngọn lao La Bích con dòng Phi Thao ; (Lapithes, Pirithoos)
Bồ Ly Phổ Thế lớn cao, (Polypoetès)
Lê Ôn Thê thảm sầu gieo chiến trường. (Léontée) (7210)
Hai cây sồi giữa núi rừng,
Hiên ngang chống đỡ với cùng gió mưa,
Cây cao sâu bám rễ già,
Cánh tay mạnh vững sơn hà chẳng lui.
Quân Troa tiến bước reo vui,
Khiên che đầu tiến theo người quân vương,
Ý Nhược, Anh Tuấn xông lên, (Iameros, Oreste)
An Mạc, Ốc Mạo và cùng Thọ Ôn (Adamas con Asios, Oenomaos, Thoon)
An Kinh núp giữ bức tường,
Một phần dụ địch cổng thành chạy xa. (7220)
Quân Troa vào giữa cửa qua,
Hai chàng dũng tướng bước ra chận đường,
Như heo rừng giữa núi ngàn,
Đợi thợ săn, chó bên truông hiểm nghèo.
Cổng thành gỗ đá lăn mau,
Trúng vào quân địch trên đầu ngã lăn,
Kẻ còn sống sót trong tầm,
Lao tên phóng đến tan tành thịt xương.
Thành cao vững chắc lũy tường,
Trận mưa đá rớt , khiên đồng đỡ chi. (7230)
An Sĩ đá trúng chân đùi,
Gầm lên ngữa mặt than trời bỏ rơi:​
Thần Vương lừa dối ta rồi,
Ta đà khinh địch ở nơi hiểm nghèo,
Nghĩ rằng địch chẳng bao nhiêu,
Như bầy ong kiến, lêu bêu xá gì.
Tưởng rằng chỉ có hai người,
Nào ngờ mưu địch cao vời dụ ta.
Mới vừa thoát cửa thành xa,
Địch đà ào tới diệt ba quân rồi. (7240)​
Thần Vương nghe chẳng kể lời,
Vì lòng chỉ muốn giúp đời Hải Tô.
Chiến trường các cổng thành vô,
Khó mà kể hết mưu mô giữ thành,
Khắp nơi ngọn lửa bừng bừng,
Quanh thành gỗ đá vững bền một phương.
An Kinh trong bước thế cùng,
Quyết tâm bảo vệ chiến thuyền lâm nguy.
Hai chàng La Bích ra tay,
Bồ Ly Phổ Thế đâm ngay thương đồng,
Đạt Ma xuyên má máu hồng, (Damasos)
Mũi lao vỡ sọ óc tung ngã nhào,
Giết tiếp Phi Long, Ốc Mao, (Pylon, Orménos)
Hy Phổ Ma Chước trúng vào ngang đai ; (Hippomachos)
Vì Lê Ôn Thế gươm dài,(Léontée)
An Thi Pha Thế ngã nhoài quay lăn. (Anthiphatès)
Ý Nhược, Anh Tuấn, Mê Nông,
Trước sau ngã gục xác thân đất mầu.
Trong khi lục xác quân thù,
La Bích chiến thắng dọn thu chiến trường. (7260)
Theo Hải Tô đám thanh niên,
Mong phá tường đốt chiến thuyền địch quân.
Bên bờ hào rộng tần ngần,
Bỗng đâu có cánh đại bằng bay cao,
Ngậm con rắn đỏ máu đào,
Vẫn còn vùng vẫy, thoát nào vuốt nanh.
Rắn kia bỗng chợt phóng mình,
Mổ ngay nơi cổ, chim tung hoảng hồn,
Thả ngay rắn giữa chiến trường,
Chim kêu một tiếng, chập chờn bay cao. (7270)
Quân Troa nhìn rắn xuyến xao,
Thần Vương gửi báo điềm nào tiên tri ?
Bồ Ly Đa Mạc bảo ngay :​
Hải Tô anh bác giải bày của tôi,
Dù bao cương trực thức thời,
Tôi luôn nói khác ý lời quân trung.
Bây giờ tôi nói thật lòng,
Chớ nên đánh phá chiến thuyền An Kinh,
Là điềm tiên báo điềm chim,
Quân Troa như cánh chim ưng vượt rào. (7280)​
Mang con rắn đỏ máu đào,
Vẫn còn sống mổ tung vào cổ chim,
Chim đành bỏ cuộc bay nhanh,
Chẳng còn mang được mồi ngon mang về;
Cho đàn con dại hang khe,
Chúng ta cũng thế toan bề tiến công.
Phá tung cữa lũy địch quân,
Quân ta chỉ tiến được dăm ba người.
Có đường tiến, chẳng đường lui,
Thoát sao tàn sát địch thời số đông. (7290)​
An Kinh bảo vệ chiến thuyền,
Ấy là lời báo điềm chim rõ ràng.
Hải Tô cúi mặt ngang tàng :​
Mi chưa chiến đấu, đã bàn bại hư,
Lời chim chóc đúng thế ư ?
Cớ sao ngược lại ý từ Thần Vương ?
Ngài đà cho sứ thần truyền,
Gật đầu ưng thuận đánh thuyền tiến công.
Người còn bói quẻ chim muông,
Chớ làm nhu nhược tâm hồn chúng ta. (7300)​
Đường ta ánh sáng chan hòa,
Ta làm theo ý chói lòa Thần Vương.
Quyết tâm đốt cháy chiến thuyền,
Sợ gì cái chết, chiến trường hy sinh.
Nếu ngươi nhác sợ đấu tranh,
Nói lời thối chí ba quân nhụt lòng.
Liệu hồn ăn ngọn lao đồng,
Ta không tha thứ mạng cùn mi đâu.!
Nói rồi hăng hái hàng đầu,
Bao chàng trai trẻ theo sau reo hò. (7310)
Thần Vương sấm chớp chói lòa,
Từ Y Đa thổi trận đồ cuồng phong.
Tung trời mù cát bụi hồng,
Ù tai, nhức óc binh thuyền An Kinh.
Cho Hải Tô thắng quang vinh,
Đập thân cây lớn, cổng thành lung lay.
Đa Niên cố thủ, chống cây,
Tên đồng, đạn đá bắn bay mưa rào.
Cản ngăn địch sát tường rào,
Hai chàng An Bắc nâng cao tinh thần. (7320)
Khích lòng khen thưởng quân hùng,
Răn đe kẻ nhát cầm chừng đấu tranh:​
Quân ta chiến đấu hùng anh,
Có người nhút nhát kiếp thân ươn hèn,
Giờ đây địch đến đánh thuyền,
Chẳng ai có thể can tâm bước lùi.
Quân thù hò hét điếc tai,
Hãy mau xông tới sánh vai diệt thù.
Thần Vương sấm sét non mù,
Hộ trì ta đuổi chúng mau về thành. (7330)
Hai chàng xông xáo khích quân,
Tuyết rơi bay khắp chiến trường trắng phau.
Thân Vương báo hiệu Đông vào,
Trắng đầu non, trắng hoa mầu đồng sâu.
Dọc bờ trắng xóa thuyền tàu,
Sóng ngàn biển thẳm, mây cao mịt mù.
Đá bay, tên phóng xuống thù,
Cổng thành vẫn vững, cửa dù rung rinh.
Hải Tô còn mãi công thành,
Quân Troa chưa đánh gãy thanh chốt cài. (7340)
Thạc Phê Đông tựa hùm oai,(Sarpédon)
Đầu như bò mộng sừng dài cong cong,
Tay mang một chiếc khiên đồng,
Như sư tử giữa cánh đồng cừu non.
Trái tim trai tráng can trường,
Sẵn sàng vào chốn hào tường sâu cao.
Trước mục đồng chực vung lao,
Trước đàn chó dữ lao xao canh chừng.
Thạc Phê Đông tránh đối cùng.
Quay sang đánh chổ thành không vững bền. (7350)
Lòng thề đánh vỡ bức tường,
Cho quân Troa tiến bước tràn vào trong.
Nhìn Lô Cô khẽ bảo rằng : (Glaucos)​
Sĩ, quân kính phục như thần hai ta,
Miếng ngon rượu ngọt vật quà,
Sông Săng giàu có, cửa nhà, đồng nương.(Xanthe)
Bây giờ ta ở chiến trường,
Ly Siên thống lĩnh, quân vương hàng đầu. (Lyciens)
Vinh quang tước trọng quyền cao,
Ta cùng sống chết, có nhau chân thành. (7360)​
Sống thì vinh hiển chiến tranh,
Có già chết cũng gương lành thế gian.
Dù Thần chết đến đời tàn,
Ngàn muôn người chẳng ai còn trách chi.
Trốn làm sao, tránh được gì,
Chỉ còn danh tiếng người đi cõi đời.
Lô Cô không nói trả lời,
Cả hai cùng bước trước người Ly Siên.
Trên tường trấn thủ quảng thành,
Mai Nết Thê ngại trước đường tiến công.(Ménesthé) (7370)
Mắt nhìn gần gũi trong tầm,
Mong tìm các tướng viện binh đỡ đầu,
Chợt trông An Bắc, may sao,
Tựu Xê từ trại bước theo hai chàng. (Teucer)
Chiến trường vang vọng trời xanh,
Tiếng gươm, khiên gõ, mũ đồng lông đuôi.
Cửa thành đóng chặt then gài,
Quân Troa tung gỗ đánh hoài cổng vô.
Mai Nết Thê vội gửi mau,
Gửi ngay Thọ Tích lời cầu cứu nguy :(Thootès) (7380)​
Thọ Tích hãy chạy đi ngay,
Mời hai An Bắc ra tay giúp mình,
Bảo đây là mũi chiến trường.
Thọ Tích vâng lệnh lên đường chạy ngay.
Đến hai An Bắc giải bày,
Phê Tô công tử hiểm nguy chiến trường. (Pétéos)
Thế Môn công tử đi liền (Télémon)​
An Bắc, Ly Mạc hãy cùng trấn đây, (Ajax, Lycomède)
Tôi đi cứu viện nơi này,
Sẽ về khi giải cơn nguy trận tiền. (7390)
Tựu Xê rảo bước theo chàng,
Băng Đông mang hộ cung tên bên mình.(Pandion)
Đến nơi trận địa ngỗn ngang,
Quân Ly Siên đã vượt tường leo lên,
Như cơn giông bão tối đen,
Hai chàng xông tới giúp quân giữ thành.
Chiến công An Bắc đầu tiên,
Giết Âu Phi Liệt bạn hiền Thạc Đông. (Epiclès, Sarpédon)
Bằng tảng đá tựa chiếc bàn,
Sức trai tráng cũng khó lòng chuyển lay. (7400)
An Bắc nâng lấy hai tay,
Ném Âu Phi Liệt trúng ngay đỉnh đầu,
Bốn ngù trụ cũng vỡ đầu,
Từ tường cao rớt xuống hào nằm co,
Tựu Xê bắn trúng Lô Cô,
Từ thành cao xuống trúng vô tay trần,
Lô Cô rời bãi chiến trường,
Lui chân tránh các tên còn bắn theo.
Thạc Phê Đông đến thành cao,
Gặp ngay An Mẫn đâm lao xuyên mình. (Alemaon) (7410)
Thừa cơ quân sĩ theo chân,
Tựu Xê, An Bắc đến nhanh bên tường.
Mũi tên trúng dãi da vòng,
Thạc Phê Đông ngực giáp thân an tòan.
An Bắc đâm mũi lao xuyên,
Thần Vương phù hộ trận tiền tấc gang.
Thạc Đông chùng bước nhìn quanh,
Quay sang kêu gọi quân mình bước theo. :​
Ly Siên hãy kịp tiến mau,
Một mình ta khó lòng nào tiến quân. (7420)​
Hãy cùng nhanh với số đông,
Mới mong thẳng tiến tấn công chiến thuyền.
Quân Ly Siên bước nhanh chân,
Kề bên bảo vệ quanh mình quân vương,
Trên thành binh đội An Kinh,
Đã ngăn được bước tiến công vượt thành.
Hai bên chiến trận dậm chân,
Quân Ly Siên chẳng tiến quân hướng thuyền.
An Kinh chẳng đuổi khỏi tường,
Sau khi đông đảo đã tràn vào trong. (7430)
Từng đôi thắng bại bất phân,
Đánh nhau sau bức tường thành hổn mang.
Máu rơi thịt đổ chiến trường,
Xác thân la liệt nằm lăn bên thành.
An Kinh chẳng sợ Troa quân,
Quân Troa vào cũng liều mình xông lên.
Như hai đầu giữa cán cân,
Thợ nữ lương thiện cân đồng lông len.
Nhắc đòn cân, dĩa cân đong,
Nuôi bầy con dại đồng lương hẹp hòi. (7440)
Chiến trường còn ngữa ngang thôi,
Thần Vương cho Hải Tô thời vinh quang.
Phá tung cánh cửa An Kinh,
Cất cao giọng nói khích truyền ba quân:​
Troa quân luyện mã tinh thuần,
Hãy mau cùng vượt đốt nhanh chiến thuyền.
Người leo thang để vượt tường,
Hải Tô nhắc trước cửa thành đá to,
Hai đầu nhọn hoắc kềnh cồ,
Hai người lực lưỡng xáp vô mới hòng. (7450)
Bẩy đòn đá, đặt xe lăn,
Hải Tô nhấc nhẹ tỉnh không chẳng màng.
Dạng chân, cửa vỡ ầm,
Thanh cài không thể nào ngăn sức hùng.
Đẩy ra cánh cửa bật tung,
Quân Troa tràn đến theo cùng sóng cao,
Đa Niên hoảng sợ tránh mau,
Trở về phòng ngự kề nhau chiến thuyền.
Tiếng reo hò vọng rối ren,
An Kinh rối loạn trận tiền hổn mang. (7460)​

Nhất Uyên PHẠM TRỌNG CHÁNH ( viết năm 2006 đến 2011 nhuận sắc 2017)

Kỳ tới: bài 14
THI CA KHÚC XIII Trận chiến cạnh chiến thuyền. (Câu 7461 đến 8270)

CHÚ THÍCH

* câu 7115 : Quân Troie lúc xây thành quên cúng hai vị Poséidon và Apollon.

Lapides : là người Thessaliens phía Bắc Hy Lạp ngày nay, tương truyền con cháu Thần Apollon, nổi danh đánh Centaures, Pirithoos. Nhà vua là bạn Thésée.
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC XIII ( câu 7461 đến 8270)

TÓM LƯỢC : Thần Vương Zeus nhìn về các hướng Thraces, Mysiens, Hippémolges, Abies xem có thần nào xuống trần giúp quân nhưng nào thấy hết. Thần Poséidon từ đền Aiges thắng xe song mã, hai bên thủy quái theo sau đến giữa Ténédos và gần Imbros, tháo cương cột ngựa. Thần Poséidon hiện ra dưới dạng hình Tiên tri Calchas giúp đỡ quân Hy Lạp. Trước tiên giúp hai Ajax tiếp được sức thần trở nên hăng hái, nhẹ nhàng, dũng mãnh. Rồi sau đó khích lệ các tướng khác. Mérion phóng trúng khiên Deiphobos, lao gãy phải chạy về dinh tìm lao khác. Teucer giết tướng Imbrios, Hector lại phóng lao vào Teucer nhưng trúng Amphimachos, Hector tiến nhặt mũ đồng bị Ajax đâm một lao trúng giáp chẳng sao, hoảng sợ lùi vào hàng. Ménesthée và Stichios đem Amphimachos về đội hình. Ajax trả thù lột binb giáp chặt đầu Imbrios ném trúng vào chân Hector. Thần Poséidon giúp Idoménée chữa lành vết thương và trở ra chiến trường cùng với Mérion. Hector bị chận đứng cuộc tiến công bởi Idoménée và Mérion phía tả và hai chàng Ajax ở giữa. Chiến công Idoménée, giết ba tướng Troa : Othryoneus, Asios, Alcathoos. Nhưng Deiphobos bên quân Troa giết Hypsénor. Deiphobos kêu các tướng Énée, Pâris, Agénor tiếp sức. Idoménée đánh với Énée, Deiphobos lại phóng lao vào hụt nhưng trúng Ascalaphos, Mérion đâm trúng bàn tay Deiphobos phải lui về thành Troa. Énée giết Apharès. Antilochos lại đâm chết Thoon quân Troa. Thần Poséidon giúp Antilochos tránh được ngọn lao Adamas, Mérion đuổi theo đâm chết Adamas. Hélénos quân Troa giết Deipyros, Ménélas trả thù phóng lao trúng tay Hélénos, đồng đội đưa về hậu cứ thành Troa. Ménélas đấu với Pisandre và giết Pisandre. Mérion bắn tên giết Harpalion. Các đội quân Troa vào được chiến lũy lần lượt bị quân Achéens tiêu diệt, quân Troa tháo lui, Polydamas khuyên Hector họp các tướng lãnh và đánh trở lại. Ajax đấu với Hector trận chiến tiếp diễn.

Cho quân Troa đánh hướng thuyền, (7461)
Thần Vương gieo nỗi đảo điên nhọc nhằn.
Mắt Thần nhìn cõi xa xăm,
Đất mầu Thạch Các ngựa thuần yên cương. (Thraces)
Mỹ Xuyên cận chiến danh truyền, (Mysiens)*
Hỉ Bê Môn sữa ngựa thơm, giỏi tài, (Hippémolges)*
An Bi tính tốt con người, (Abies)*
Thẳng ngay trung chính cuộc đời sáng trong.
Hướng về Troa nhìn mắt thần,
Chẵng thần bất tử xuống trần giúp quân. (7470)
Nhưng nào thấu hết cõi không.
Thần Rung Chuyển Đất âm thầm giúp công.
Sa Mô nhìn thấu núi rừng, (Samos)
Thành Biam lẫn chiến thuyền biển xanh (Priam).
Thương An Kinh việc chẳng lành,
Tung mình đi bước chân nhanh ào ào.
Bước chân rung chuyển rừng cao,
Đất rung nhanh bước đã vào đến ngay.
Đền Ái danh tiếng xưa nay, (Aiges)*
Bên hồ soi bóng tường xây ánh vàng. (7480)
Nguy nga lầu gác vững bền,
Thắng xe song mã, móng đồng thềm mây.
Lên xe vàng thúc cương dây,
Ngàn muôn đợt sóng tung bay ào ào.
Hai bên thủy quái nối nhau,
Biển xanh rẽ sóng, ngựa đào tung bay.
Sóng ngàn chẳng đẩm móng dầy,
Đến An Kinh chiến thuyền đầy biển xanh.
Dừng chân trước động đá ngầm,
Giữa Tê Nê Độ và gần Âm Bô, (Ténédos, Imbros)* (7490)
Tháo cương cột ngựa bên bờ,
Cho đôi song mã ăn no thóc mầu.
Rời thủy động ruổi chân mau,
Hóa thân Cát Sĩ cất cao tiếng hùng. (Calchas)*
Hộ phù khích lệ An Kinh,
Cản quân Troa tiến đoàn quân đốt thuyền.
Gặp hai An Bắc xung phong,
Cát Sĩ khích lệ hai chàng ra tay:​
An Bắc hai tướng cứu nguy,
Giữ lòng dũng cảm trận này chẳng lui. (7500)​
Chúng qua tường chẳng sợ chi,
Dấn thân điên dại, xá gì Hải Tô,
Xưng danh con Dớt, chớ lo,
Có Thần phù hộ giữ cho quân mình.
Hai tướng sức mạnh kiên cường,
Đẩy Hải Tô khỏi chiến trường thuyền đen,
Cõi Thiên Sơn phục như thần. (Olympe)
Nói rồi Thần trượng phất ban phép mầu.
Hai chàng bỗng tựa chiêm bao,
Tay chân hùng dũng, cất cao nhẹ nhàng. (7510)
Tiên tri nhảy bước chân nhanh,
Như chim ưng phóng lên tầng đá cao,
Như vang đất chuyển ào ào,
Chim ưng bay đuổi, bay theo cánh hồng.
Ôi Lê công tử nhận chân, (Oilée)
Kề vai công tử Thế Môn bảo rằng: (Télamon)​
An Bắc, Thần ở Thiên Đình,
Hiện thân Cát Sĩ xuống trần giúp ta.
Hãy nhìn dấu vết chân qua,
Chẳng là Cát Sĩ, mà là thần tiên. (7520)​
Tôi nghe máu nóng trong tim,
Tay chân nhẹ nhõm như thêm sức thần.
Thế Môn công tử cũng rằng :​
Tôi cũng thấy thế, lao cầm nhẹ tay.
Trong lòng muốn nóng, đi đây,
Đối đầu với Hải Tô ngay trận tiền.
Hai chàng vui vẻ kiêu hùng,
Tự tin nhờ có sức thần giúp cho.
Quân binh tay mỏi, âu lo,
Lo hồi chung cuộc, cụm co bại tàn. (7530)
Bỗng dưng tiếp được sức thần,
Xông lên hăng hái, tay chân nhẹ nhàng.
Tựu Xê, Lai Tốt can trường, (Teucer, Leïtos)
Thọ Kha, Bình Lộc sức hùng sánh vai. (Thoas, Pénéleos)
Đới Phi, Mai Lĩnh trai tài, (Deipyros, Mérionès)
Chàng An Thy Lộc dẽo dai chiến trường. (Antilochos)
Cất lời khích lệ thanh niên :​
Ôi bao nhục nhã tủi hờn An Kinh,
Nếu không cứu được chiến thuyền,
Nếu ta đại bại chiến trường tiêu vong. (7540)​
Thuyền ta chúng cướp, chiến công,
Còn gì nhục nhã cho bằng dân ta.
Xưa chúng như nai rừng già,
Như chồn, như cáo chẳng ra tranh hùng.
Giờ đây chúng phá lũy thành,
Tiến gần đến chốn chiến thuyền chúng ta,
Vì vua lầm lỗi bất hòa
Pê Lê công tử chẳng ra chiến trường.(Pélée Achille)
Chẳng vì thế lấy làm gương,
Chúng ta mặc kệ chiến thuyền buông tay. (7550)​
Chớ làm tủi hổ hôm nay,
Hải Tô đánh gãy thanh cài cổng ta,
Chúng đang tiến hướng trại nhà,
Hãy nhanh chặng đứng chúng, đà tiến công.
Mấy lời khích lệ ba quân,
Bao người dũng cảm bao quanh hai chàng.
Quán Trí Tuệ thúc dục binh,(Athéné)
An Kinh hùng dũng đón đường quân đi,
Lao dài đấu với lao dài,
Khiên đập khiên dội vang trời tiếng vang. (7560)
Mâu đối với thuẫn, gươm vàng,
Mũ đồng quay tít, ánh quang chói lòa.
Người người giáp trận hò la,
Binh hùng, giáp mạnh, gươm nhòa ánh dương.
Quân Troa đông đảo như nêm,
Sau Hải Tô tựa như viên đá tròn.
Khiên che binh giáp lấn dần,
Đến khi giáp trận đến gần thuyền dinh.
Gặp hàng quân cản An Kinh,
Lao dài đánh bật mới chùng bước chân. (7570)
Hải Tô lùi bước vào hàng
Thét quân Troa bước kiên cường bên nhau :​
An Kinh còn chẳng bao lâu,
Như thành trì bị thọc sâu phá tường,
Trước lao ta chúng lùi dần,
Thần Vương phù trợ đẩy chân địch thù.
Đới Phô Bộc tiến bước mau, (Deiphobos)
Con vua Biam đứng hàng đầu nhanh chân,
Mê Long nhắm thẳng vào thân,(Mérion)
Ngọn lao phóng tới, xuyên tầm trúng khiên. (7580)
Khiên dày lao gãy mũi đồng,
Đới Phô Bộc sợ tay buông khiên dày,
Mê Long mất vũ khí dài,
Vội vàng chạy kiếm lao nơi trại mình.
Tựu Xê xông xáo phóng nhanh,
Giết tướng An Bốc con dòng Mẫn Tô. (Imbrios, Mentor)
Quê Phê Đông xứ ngựa hồ,(Pédaeon)
Cưới Mê Chi Cát con hờ vua Biam.* (Médésicastès)
Tài năng xông xáo chiến trường,
Vua Biam quý rễ nuôi trong lâu đài. (7590)
Ngọn lao đâm trúng dưới tai,
Như cây tùng đổ bên trời núi xanh.
Gốc già bị đẳng đổ ấm,
Tiếng khiên giáp đổ rền vang tiếng đồng.
Tựu Xê xông nhổ lao mình,
Hải Tô trông thấy, thương đồng phóng nhanh,
Tựu Xê nhanh bước lách mình,
Âm Phi Mã Chước đứng gần trúng lao, (Amphimachos)
Chế Tô công tử nhã nhào, (Ctéatos)
Ất Tô dòng dõi, thương đau lìa đời. (Actor) (7600)
Hải Tô tiến nhặt mũ rơi,
An Bắc trông thấy, đâm thời một lao,
Giáp đồng che chỡ chẳng sao,
Hải Tô hoảng sợ lùi vào tránh thương.
Mai Nết Thê, Quán Trí Thành, (Ménsesthée, Athéniens)
Cùng Tích Chi Ốc mang thân bạn mình, (Stichchios)
Tướng Âm Phi về đội hình,
Cho quân cận vệ mang sang dinh thuyền.
Riêng xác An Bốc nằm lăn,
Hai chàng An Bắc hung hăng xông mình. (7610)
Như hai sư tử vuốt nanh,
Xông vào cắn xé dành con dê rừng,
Trong hàm răng đám chó săn.
Đem vào bụi rậm lột trần giáp khiên,
Trả thù cái chết bạn hiền
Ôi Lê công tử phóng gươm chặt đầu.
Tay cầm núm tóc quăng mau,
Như banh bay vút trúng vào Hải Tô,
Dưới chân bụi đất tung mờ.
Hải Long thương cháu Mã Cơ đời tàn.*(Amphimachos) (7620)
Đi dọc theo các chiến thuyền,
Lời lời khích lệ quân tình Đa Niên.
Xông lên giết quân Troa Yên,
Anh Đô Mai bỗng gặp, Trường Thương anh hùng,
Đang rời đội ngũ chiến trường,
Nhượng chân đau bởi lao đồng máu tuôn,
Cận vệ khiên về chữa thưong,
Trong dinh lại muốn ra liền đấu tranh.
Hóa thân Thọ Kha, Tinh Liên (Thoas, Etoliens,
Thần Rung Chuyển Đất bảo rằng: Tướng quân, (7630)​
Toàn quân kính phục như Thần,
Anh Đô Mai hỡi địch tràn nguy vong.
Anh Đô Mai đáp lời rằng :​
Chẳng ai hèn nhát trong hàng quân ta,
Chẳng ai sợ hãi kêu ca,
Chẳng ai do dự trước đà địch quân,
Thần Vương phù trợ An Kinh,
Không gieo thảm họa xa thành Đạt Gô (Argos).
Thọ Kha ơi, vững cơ đồ,
Đấu tranh khích lệ giúp cho quân mình. (7640)
Thấy ai hờ hững đấu tranh,
Hãy mau khuyến khích sự tình nguy nan.
Hải Long Vương trả lời rằng :​
Địch quân rồi sẽ không đường về Troa,
Trò chơi chó má bất ngờ,
Ngày tàn của chúng đợi chờ là đây.
Hãy nhanh mang vũ khí ngay,
Hai ta sẽ tỏ mặt tay anh hùng.
Nói rồi về chốn quân trung,
Anh Đô Mai cũng về dinh sẵn sàng. (7650)
Mặc ngay giáp phục vào mình
Hai lao dài bỗng nhẹ nhàng trong tay.
Vết thương bỗng dứt đau ngay,
Lại thêm sức lực như bay hùng cường,
Ánh lao như chớp Thần Vương,
Cõi Thiên Sơn chói muôn ngàn hào quang.
Ngực tràn hơi thở nóng ran,
Bước ra cận vệ, hùng binh lên đường.
Mê Long mới từ chiến trường,(Mérion)
Trở về tìm chiếc lao đồng trong dinh. (7660)
Anh Đô Mai vội bảo rằng:​
Mê Long anh hỡi, bạn hiền hùng anh,
Vì đâu lại về trại dinh ?
Có thương tích bởi lao đồng hay chằng ?
Hay ai nhờ gửi nhắn tin ?
Riêng ta chẳng muốn ngồi nằm mãi đây.
Ta đi xuất trận đánh này.
Mê Long vội vả đáp ngay sự tình :​
Hỡi Anh Đô Mai Tướng quân,
Dinh anh còn có lao thương dư nào ? (7670)​
Vì tôi phóng gãy mũi lao,
Đánh Đề Phô Bộc trúng vào chiếc khiên.​
Vua Kiết Toa vội đáp liền: (Crétois)​
Trong dinh ta đó hãy còn lắm lao,
Hai mươi chiếc để phía sau,
Tịch thu địch mỗi trận nào ra quân.
Khiên đồng mũ giáp mới tinh,
Em vào chọn lấy mặc tình vũ trang.
Mê Long vội đáp cười rằng :
Tôi còn cũng lắm lao đồng chiến công, (7680)​
Để trong dinh trại thuyền đen,
Nhưng hơi xa phải mất công kiếm tìm,
Mượn anh một chiếc lao đồng,
Rồi tôi sẽ trả bội phần chiến công.
Tôi luôn xung trận đầu quân,
Với lòng dũng cảm đấu tranh can trường.
Người khác có thể chẳng nhìn,
Nhưng anh biết rõ kiên cường của tôi.
Vua Kiết Toa cũng trả lời :
Cần chi em nói, ta người biết em. (7690)​
Trận này kề cận chiến thuyền,
Hai ta hãy chọn nơi cần phục binh,
Phục binh, tỏ rõ sự tình,
Nhát hèn vẻ mặt bồn chồn đổi thay,
Người nhát chẳng yên ổn ngồi,
Chẳng lòng nhẫn nại, tim thời đập nhanh.
Nghĩ tới Thần Chết tóc tang,
Rắng đánh bồ cạp chẳng an tay cầm,
Người can đảm mặt lì lầm,
Chẳng lòng sợ hãi kiên tâm đợi chờ. (7700)​
Đợi cho quân địch tiến vô,
Phía sau cổ địch, bất ngờ tiến công,
Khác khi xung trận tiền quân,
Cùng các chiến hữu giáp thân kẻ thù,
Nào nhanh chớ nói việc thừa,
Chuyện như con trẻ nói đùa mà chơi.
Hãy vào dinh trại xem coi,
Chọn lao nặng nhất xem thời vừa tay.
Nhanh như Thần Chiến bước ngay,
Mê Long vào trại vác cây lao đồng. (7710)
Hai chàng xông xáo bước chân,
Như An Thiết với hầu thần Kinh Khi ( Arès, Effroi)
Đứa con mạnh bạo gan lì,
Cả hai hùng dũng bước đi chiến trường.
Mê Long hỏi bạn hiền :​
Đô Long công tử, phục binh phía nào ?
Phía phải, trái, giữa ra sao ?
Phía nào chẳng thiếu anh hào An Kinh ?
Ở giữa An Bắc hai chàng,
Tựu Xê, tài bắn nõ tên lẫy lừng. (7720)​
Hải Tô dù có sức hùm,
Cũng không đánh nỗi hướng thuyền tiến vô,
Trừ khi Thần Tử Cồ Nô,
Cho chúng ngọn đuốc vất vô thuyền mình.
Hai An Bắc chẳng lùi chân,
Chẳng ai trần thế sức hùng nào hơn !
Dù cho có trước An Sinh,
Hai chàng An Bắc chẳng nhường chân đua;
Ta tiến phía trái là vừa,
Nơi đây trận địa còn thưa anh hùng. (7730)
Tướng Mê Long vội nhanh chân,
Anh Đô Mai tiến thúc gần quân binh.
Quân Troa trông thấy hai chàng,
Thúc quân giục giã tiến gần giáp binh.
Trận tiền trước các thuyền đồng.
Quân vào giáp trận ầm ầm lao khiên.
Bão bùng gió rít không trung,
Chiến trường mây nặng, cát tung bụi mờ.
Hai bên đánh sáp đợi chờ,
Tìm khe kẽ hở đâm vô giáp đồng. (7740)
Mắt người sáng dưới mũ cong,,
Khiên lao đâm đỡ chẳng sờn tim gan.
Say trong chiến trận can trường,
Chẳng ai sợ hãi tránh đường hiểm nguy.
Khác lòng tình cảm sầu bi,
Cồ Nốt Thần tử sánh vai hai thần,
Dớt mong điên đảo An Kinh,
Cho An Sinh thoả lời xin giận hờn.
Như lời Thê Túc cầu thần,
Nhưng mà chẳng muốn tan tành An Kinh. (7750)
Hải Long Vương lại giúp phần,
Tung giông biển trắng đánh cùng Troa quân.
Chống lại với Dớt đấu tranh,
Dù hai Thần mạnh nhất cùng mẹ cha,
Dớt em, cứu hết cả nhà,*
Biết bao phép thuật hơn là Thần anh.
Hải Long Vương giúp âm thầm,
Hóa thân dưới dạng người trần khuyên răn;
Các Thần khác cũng giúp quân,
Thắt nút chiến trận * chẳng riêng ai chừa. (7760)
Cho chân vấp vỡ gối đầu,
Hàng trăm dũng sĩ thương đau phận người.
Anh Đô Mai lao đánh lui,
Giết Ô Tri Nhược ngay nơi hàng đầu. (Othryoneus)
Từ Kha Biên bậc công hầu, (Cabèse)
Cầu vua Biam một nàng dâu đức tài.
Cát Tâm nhan sắc tuyệt vời, (Cassandre)
Thông minh tiết hạnh, bói lời tiên tri,
Hứa chiến thắng ngày vu quy,
Đuổi An Kinh hứa hẹn ngày sướng vui. (7770)
Nào ngờ giáp chẳng che người,
Ngọn lao phóng thẳng xuyên nơi bụng tròn.
Hắn đà gục xuống ngã lăn,
Anh Đô Mai thét cười gằn vinh quang :​
Ô Tri Nhược, bậc siêu nhân,
Nếu lời hứa hẹn chiến công mang về,
Huênh hoang thay lời hẹn thề,
Triều Đạt Đa Nốt chẳng hề tốn chi, (Dardanos)
Riêng ta hứa sẽ đưọc ngay,
Cưới con vua An Trích, hẹn ngày vinh quang. (7780)​
Chúng ta vượt biển thuyền đồng,
Chẳng vì cưới vợ, chẳng lòng hứa xuôi,
Cha vợ như thế rất tồi !
Nói rồi nắm cẳng hắn lôi phía mình,
An Sĩ tiến tới tranh giành,(Asios)
Anh Đô Mai đã đề phòng phóng thương,
An Sĩ gục như cây sên,
Cây sồi, thông đốn từ trên núi ngàn.
Bởi người thợ gỗ làm sườn,
Lưỡi rìu sắc bén đóng thuyền vượt khơi. (7790)
An Sĩ run rẫy hắt hơi,
Máu phun như suối trước đôi ngựa hồng.
Quân hầu như chết đứng trân,
Chẳng còn xoay ngựa đánh vòng trốn đi,
An Thi Lộ phóng như bay (Antilochos)
Ngọn lao xuyên giáp trúng ngay giữa mình,
Xuôi tay rơi ngã cương buông,
An Thi Lộ đánh ngựa hồng chạy nhanh,
Cho quân sĩ bắt về dinh,
Đề Phô Bộc đứng kề gần toán quân. (7800)
Xót An Sĩ lao phóng nhanh,
Anh Đô Mai lách dưới tầm chiếc khiên,*
Lao lướt vành dội vang rền,
Trúng Hy Lê cạnh gan vòng cách mô. (Hypsénor)
Hy Bá công tử ngã xô, (Hippasos)
Đề Phô Bộc thét, được cơ trả thù :​
An Sĩ về cõi thiên thu,
Ta cho ngươi một kẻ hầu cho vui.
Quân An Kinh chẳng ngại lùi,
An Thi Lộ đỡ khiên vai đến gần. (7810)
Lôi bạn ra khỏi chiến trường,
Hai hầu cận đón về thuyền chữa thương.
Anh Đô Mai vẫn quyết tâm,
Phủ vây quân địch bóng râm tử thần.
Tránh nguy khốn quân An Kinh,
Đâm An Ca Thước đui con mắt trần, (Alcathoos)
Ái Sĩ công tử tiếng danh, (Aisỳtès)
Dòng hoàng gia rễ công thần An Chi,* (Anchise)
Cưới trưởng nữ Hải Đà My, (Hippodamie)
Nổi danh tài sắc yêu vì mẹ cha. (7820)
Công dung toàn vẹn tài hoa,
Môn đăng hộ đối, trai nhà trâm anh.
Tiếng anh hùng khắp Troa thành,
Anh Đô đâm trúng chẳng còn thấy chi,
Chẳng lui, chẳng tránh được gì,
Như bia đá đứng, như cây trời trồng.
Lao đâm xuyên suốt thân mình,
Giáp đồng rách chẳng đỡ đần thịt da.
Tiếng kêu khô xé vụt qua,
Giữa tim cấm phập, chan hòa máu tung. (7830)
An Ca Thước dẫy run run,
Chờ Diêm Chúa đến nâng hồn thiên thu. (Hadès)
Anh Đô Mai thét trả thù :​
Đới Phô Bộc hỡi, mi chừ thấy chăng ?
Ba đổi lấy một được không ?
Mi còn có muốn vinh danh thế nào ?
Tên khốn nạn hãy đến mau,
Trước ta nếm thử thanh lao gia truyền.
Dớt ban Minh Tuấn phong vương (Zeus, Minos)
Làm vua đảo Kiết lưu truyền cho con. (Crète) (7840)​
Đô Long Vương truyền con dòng, (Deucalion)
Ta Vua dũng sĩ, anh hùng biển xanh.
Ta đem thuyền đến vây thành,
Cha con mi sẽ tan tành thành Troa.
Đới Phô Bộc còn đắn đo,
Tìm người trợ giúp hay lo một mình.
Nghĩ suy chợt thấy cận mình
Anh Nê đứng cách cũng gần không xa,( Énée)
Anh Nê thường chẳng mặn mà,
Không ưa hoàng tử con nhà vua Biam.* (7850)
Tiến phía sau cả đoàn quân,
Dù chàng sức lực anh hùng kém ai.
Đới Phô Bộc đến bên tai:​
Anh Nê người hãy bên tôi trả thù
Nhạc huynh An Ca Thước thương đau,
Xưa người từng ở cùng nhau thiếu thời.
Anh Đô Mai đã giết người. !
Anh Nê xúc động tim thời đâp nhanh .
Tấm lòng nung nấu đấu tranh,
Anh Đô chẳng sợ, kiên tâm đứng chờ. (7860)
Tựa heo rừng giữa rừng mơ,
Đợi người săn đến bên bờ hoang vu,
Vươn vai mắt nẩy lửa thù,
Mặc bầy chó đến sủa tru bên người,
Anh Đô Mai đứng chẳng lui,
Gọi các bạn đứng bên thời đấu tranh.
An Ca, Pha Lạc , Mê Long (Ascaphalos, Apharès, Mérion)
Đới Phi, Thi Lộc khích lòng tướng quân : (Deipyros, Antilochos)​
Các bạn ơi, tôi một mình,
Anh Nê sức mạnh anh hùng kém ai. (7870)​
Tuổi còn trẻ mạnh sức tài,
Một sống, một chết đấu nơi trận này.
An Kinh các tướng đến ngay.
Khiên mang vai đứng ra tay đợi chờ.
Đới Phô Bộc cùng bước vô,
Anh Nê, Bá Lộc, An Gê sức thần, (Énée, Pâris, Agenor)
Đoàn quân theo đứng dàn ngang,
Như sơn dương đứng bên hàng cừu non.
Xuống ngàn tìm cỏ nước trong,
Mục đồng vui sướng thả chăn trên đồng. (7880)
Anh Nê khoan khoái dàn quân,
An Ca Thước đó ngã lăn xác nằm.
Hai bên xung trận tiếng đồng,
Vang lừng khiên giáp tiến gần hai quân.
Hai địch thủ sức phi thường,
Anh Đô Mai với anh hùng Anh Nê.
Sức so Thần Chiến chẳng vừa,
Tìm khe bở giáp phóng vô địch thù,
Anh Nê phóng ngọn lao đầu,
Đô Mai tránh khỏi, cắm sâu đất mầu. (7890)
Cán còn tung bật rung mau,
Anh Đô Mai đã đâm vào Ô Mâu,(Oemomaos)
Máu tuôn đổ ruột thương đau,
Ngã lăn xuống đất, thanh lao buông rời,
Anh Đô Mai nhặt lao rơi,
Nhưng không lấy được khiên nơi xác nằm.
Các đường lao đánh chung quanh,
Chân không đứng vững ném thanh lao dài,
Bước lui chạy tránh ra ngoài,
Đới Phô Bộc lại nhắm người phóng nhanh. (7900)
Đới Phô Bộc hận vô cùng,
Đường lao lại hụt trúng thân bất ngờ,
Ất Ca con Ân Gia Lô .(Ascalaphos con Enyalios Thần Chiến)
Trúng vai ngã quỵ, bụi mờ cào tay,
Thần Chiến từ đỉnh ngàn mây,
Chẳng hay con đã lăn quay cõi trần.
Đỉnh Thiên Sơn hội chư Thần.
Mây vàng phủ kín Thần Vương luận bàn.
Giữ chư thần xa chiến trường,
Quanh Ất Ca lại tranh giành giao tranh. (7910)
Đới Phô Bộc cướp mũ đồng,
Mê Long phóng tới tay trần lao đâm,
Rơi vang chiếc mũ đuôi lông,
Mê Long như bóng chim ưng lại nhào,
Giật bàn tay rách thanh lao,
Lùi nhanh lại nhập bọn vào đoàn quân.
Bồ Ly Tích đến đỡ anh (Polytès)
Ôm lưng Phô Bộc, lui quân chiến trường.
Ngựa đưa về chữa vết thương,
Máu tuôn rên rĩ, lăn cuồng đớn đau. (7920)
Chiến trường huyên náo ồn ào,
Anh Nê lại phóng lao vào Pha Rê (Apharès)
Ca Lê công tử thảm thê,
Trúng ngay cổ đổ khiên che mũ đồng.
Đớn đau theo bóng tử thần.
An Thi Lộ Cốt quyết tâm trả thù. (Anthilochos)
Thấy Thọ Ôn vừa quay đầu, (Thoon)
Ngọn lao đâm vạch lưng sau nát ngầu,
Rách gân máu đổ ngã nhào,
Với tay đồng đội cứu mau giúp mình. (7930)
An Thi Lộc lột lao khiên,
Quân Troa tứ phía vây chàng lao đâm.
Chiếc khiên lấp lánh đỡ mau,
Khiên đồng vững chẳng trúng vào da non.
Bên chàng Thần Hải Long Vương,
Thần Rung Chuyển Đất đỡ thương giúp chàng.
Ninh Tô công tử anh hùng,
Đột xông tả hữu trong vòng hiểm nguy.
Ngọn lao chẳng ngớt mấy khi,
Quay cuồng đánh bật kẻ đi đến gần. (7940)
Mãi mê trong cuộc giao tranh,
Lao A Đa Mạc nhắm chàng phóng nhanh,(Adamas con Asios)
Lao An công tử trúng khiên,
Hải Long Vương khiến ngọn thương yếu dần.
Thần Thanh Phát cứu độ chàng*
Ngọn lao trúng chiếc khiên đồng gãy ngang,
Như bị ngọn lửa rèn mềm,
Nửa rơi xuống đất gãy tan lao dài.
An Đa Mạc vội quay lui,
Tránh cơn tai họa trên người tay không. (7950)
Mê Long duổi sau lưng,
Đâm vào dưới rốn xuyên tầm ngọn lao.
Nơi Thần An Thiết cay sâu (Arès)
Gây phần đau đớn nhất cho người trần.
An Đa Mạc đau ngã lăn,
Như con bò giữa núi đồng vẫy vung.
Khi bọn mục tử trói chân,
Vẫy vùng rồi lại im dần chịu đi.
Đớn đau dãy dụa ai bi,
Mê Long đã đến bên người rút lao. (7960)
Mắt mờ phủ bóng thương đau,
Còn Đới Phi Lộc cũng chầu Diêm Vương. (Deipyros)
Hạ Linh Long cầm thanh gươm, (Hélénos)
Gươm dài Thạch các đã thương trúng đầu.
Mũ đồng tung bắn lăn mau,
Văng nơi đồng đội chân người An Kinh.
Vội vàng nhặt chiếc mũ lên,
Đới Phi Lộc mắt phủ đêm chập chùng.
An Trích trông thấy đau lòng,
Mai Ninh Thanh Chiến miệng hăm trả thù. (Ménélas)* (7970)
Vung lao đồng nhọn hoắc đầu,
Đánh người dũng sĩ, vị vua anh hùng,
Một người phóng ngọn lao đồng,
Một người giương nỏ tên băng một đường,
Biam hoàng tử nhắm thân,
Tên băng trúng mãnh giáp cong chệch tầm,
Như từ chiếc xẻng tung văng,
Trên sân rộng hạt đậu tầm bay xa,
Tay tung gió thoảng rít qua,
Tên bay xa tít bật ra giáp đồng. (7980)
Giáp Mai Ninh Lạc quang vinh,
Ngọn lao An Trích bay vòng trúng tay,
Bàn tay vừa bắn tên bay,
Lao xuyên ngang nỏ cắm ngay tay cầm.
Hạ Linh Long lui hoảng hồn,
Về trong đồng đội tránh thần tai ương,
Kéo lê lao nhọn tay buông,
An Gê đại hiệp nhổ giùm thanh lao (Agénor)
Bó băng bằng sợi len cừu,
Đưa về hậu cứ, quân hầu nỏ tên. (7990)
Phi Nam thẳng tiến xông lên, (Pisandre)
Hướng Mai Ninh Lạc phận đen số phần,
Giao tranh Mai Ninh vinh quang,
Hai chàng cùng bước gần bên đối đầu,
An Trích tôn tử phóng lao,
Ngọn lao hụt đích chếch vào một bên.
Phi Nam phóng trúng chiếc khiên,
Lao không chọc thủng mũi thương gãy càn.
Chiếc khiên to vững sức bền,
Phi Nam hớn hở tưởng rằng chiến công. (8000)
Nào ngờ An Trích nhảy tung,
Vung gươm đinh bạc đánh trên đỉnh đầu.
Phi Nam khép dưới khiên mau,
Rút ngay búa gỗ cán màu ô liu.
Đánh vào chớp mũ lông treo,
Gươm Mai Ninh Lạc trúng vào trán cao,
Trên mũi xương sọ vỡ đầu,
Mặt Phi Nam đẩm máu đào ngã lăn.
Dưới chân cát bụi gập mình,
An Trích dẫm ngực lột trần giáp khiên. (8010)
Thét gào đắc thắng thốt lên :​
Hỡi quân chó má Troa quân bội thề,
Chúng bay chẳng có đường về.
Trước thuyền ta trước ngựa đề nhanh chân,
Chúng bay khao khát chiến tranh,
Chúng bay dối trá, chẳng cần sỉ liêm.
Bay chẳng sợ Sấm Thần Vương,
Phản lòng hiếu khách Dớt ban cõi trần.
Thành đô bay sẽ tan tành,
Chúng bay đã phạm lỗi lầm cuồng điên. (8020)​
Bắt vợ ta cướp bạc vàng,
Chúng ta tiếp đãi vẹn toàn trước sau,
Giờ đây nôn nóng muốn mau,
Đốt thuyền ta, đánh anh hào An Kinh.
Rồi đây bây sẽ đời tàn,
Xa rời Thần Chiến dù tâm nhiệt tình.
Phụ Vương Dớt dạy khôn ngoan,
Sẽ thắng tất cả thế gian, cõi thần,
Thế mà ngài đã bất công,
Gia ân cho kẽ đổi lòng cực đoan. (8030)​
Quân Troa tính khí bạo tàn,
Gây bao hổn loạn, chiến tranh, hận thù,
Người đời say giấc êm ru,
Nhạc êm, múa đẹp, tình yêu ngọt ngào.
Quân Troa chỉ khát đánh nhau,
Làm nên chinh chiến thương đau cõi trần.
Nói rồi lột vũ khí người,
Giao cho hầu cận, lại dời chân lên.
Hàng đầu đánh Hạc Ba Long, (Harpalion)
Theo cha Mê Nét, Ý Long giữ thành. (vua Pylaiménès) (8040)
Hắn phóng An Trích trúng khiên,
Ngọn lao chẳng thủng vội vàng lui chân,
Vào đồng đội tránh tai ương,
Mắt nhìn lấm lét ai đang đâm mình.
Mê Long giương nỏ tên đồng,
Bắn vào mông thủng bàng quang ngã nhào.
Trong tay đồng đội đớn đau,
Như sâu quằn quại, máu đào, hắt hơi.
Quân Bá La xót xa người, (Paphlagoniens)
Đặt lên xe đẩy, nhanh lùi về Troa. (8050)
Mắt buồn nhỏ lệ cha già,*
Giá nào đổi được, con đà chết đi.
Bá Lê bực bội sầu bi, (Pâris)
Hạc Ba Long khách riêng y đãi đằng,
Nổi cơn bắn mũi tên đồng,
Trúng Âu Chi Ngọ, con dòng Lý Đô. (Euchénor, Polyidos)
Quê Cô Thanh giỏi thiên cơ, (Corinthe)
Con nhà quý tộc cơ đồ giàu sang.
Cha Lý Đô vẫn thường bàn :
Số phần chết thảm thương trong lâu đài. (8060)​
Hay nơi thuyền chiến xứ người,
Quân Troa sẽ giết chết nơi trận tiền.
Bấy lâu lánh mặt hậu quân,
Lo cơn bạo bệnh số phần mong manh,
Nào ngờ tên trúng qua cằm,
Dưới tai chẳng thoát số phần thiên thu.
Trận tiền như lửa liếm mau,
Hải Tô chẳng được tin nào cánh quân,
Phía bên trái, các chiến thuyền,
Đang dần diệt bởi anh hùng An Kinh. (8070)
Bởi Thần Rung Chuyển đất bằng,
Hộ trì góp sức lực phần đấu tranh.
Hải Tô dừng trước cổng thành,
Nơi chàng phá vỡ cửa tường tràn vô.
Thủng hàng khiên giáp Đạt Gô,
Trước thuyền An Bắc bên bờ biển ngân,
Phía trên tường thấp xây thành,
Diễn ra cuộc chiến phân tranh ngựa người.
Bồ Thiên, Ý Niên áo dài, (Béotien, Ioniens)*
Lộ quân , Phi , Kiếm mệt nhoài phản công. (Lociens, Phthiens, Épéens) (8080)
Chống Hải Tô đang xung phong,
Lòng như thiêu đốt tiến quân hướng thuyền,
Tuyến đầu điều Quán Trí quân (Athéniens)
Mai Thê con tướng anh hùng Phê Tô. (Ménesthée, Pétéos)
Theo sau Phi Đạt, Tích Cô, (Phidas, Stichios)
Bi Ất gạn dạ đa cơ theo cùng, (Bias)
Mai Giác thống lĩnh Kiếm quân, (Magès, Epéens)
Âm Phong, Đa Cốt tướng hùng điều binh. (Amphion, Drakios)
Mê Đông tướng quân Phi Thiên, (Médon, Phthiens)
Cùng Bồ La Kiệt trận tiền hùng anh.(Podarkès) (8090)
Con hoang Ô Long hùng anh,
Em tướng An Bắc, chẳng cùng mẫu thân.
Ở Phi La xa quê hương, (Phylakès)
Mê Đông đã giết người em mẹ nhà,
Âu Chi Bích bỏ đi xa,.(Eriopis)
Bồ Đa Kiệt tướng, cha là Phi Cô (Iphiclos)
Vồn dòng dõi Phi La Cô, (Phylakos)
Hai chàng thủ lĩnh cơ đồ Phi Thiên,
Cùng với đoàn quân Bồ Thiên,
Hai quân bảo vệ chiến thuyền An Kinh. (8100)
An Bắc chẳng xa bạn hiền,
Thế La công tử cùng tên, phút nào,
Như hai bò mộng đỏ ao,
Kéo cày ngang sức, anh hào xông lên,
Mồ hôi ướt đẫm góc sừng,
Vừa tầm chiếc ách ngang cùng cách nhau.
Luống cày thong thả đồng sâu,
Hai chàng An Bắc tiến mau đôi hàng,
Thế Môn công tử nhiều quân,
Theo cùng nâng đỡ nặng cân khiên đồng. (8110)
Ô Lê công tử cận tranh,
Quân Lộ Kiên chẳng theo chân được nào,
Vì không mũ đội đồng thau,
Đuôi bờm chẳng có thuẫn mâu tròn dài.
Chẳng cán mâu gỗ tần bì,
Họ theo vua đánh kinh kỳ Ý Long,
Vũ trang bằng chiếc nõ cung,
Dây cung bện chắc bằng len lông cừu.
Nhiều lần cung nõ tinh mau,
Họ từng phá vỡ hàng đầu Troa quân. (8120)
Đánh Hải Tô tướng mũ đồng,
Hàng sau họ bắn đường tên bất ngờ.
Quân Troa xáo trộn quân cơ,
Nhụt lòng chẳng biết trở cờ tránh tên.
Quân Troa lùi bước dần dần,
Bước lùi xa trại, xa dinh chiến thuyền.
Về Ý Long khoáng đảng hơn,
Nếu Bồ Ly Mạc chẳng cùng Hải Tô :​
Hải Tô anh chẳng bao giờ,
Nghe lời người khác khuyên cho sự tình. (8130)​
Vì anh được các thần linh,
Cho anh sức mạnh người trần kém thua,
Hội Tham Mưu anh chẳng vừa,
Anh muốn hơn hết, chẳng chừa một ai,
Người Thần Chinh Chiến ban tài,
Người tài nhảy múa, người tài đàn ca,
Trong lồng ngực Dớt ban ta,
Đặt vào đây lý mưu gia thật lòng,
Cho bao người khác hưởng phần,
Ra tay cứu vớt vô ngần sinh linh. (8140)​
Biết mình tác dụng vô song,
Là điều hay, phải trong lòng nói ra,
Bốn bề như một vòng hoa,
Bừng lên cuộc chiến quanh ta lửa thù.
Quân ta từ vượt tường rào,
Còn ôm vũ khí xa nhau trận tiền.
Hoặc từng nhóm nhỏ xông lên,
Đấu tranh từng nhóm ít hơn quân thù.
Đó đây cạnh các thuyền tàu,
Hãy lui hội tướng quân mau họp bàn. (8150)
Xét phương án tốt rõ ràng,
Xông đánh thuyền chiến nhiều thanh chèo dài.
Nếu Thần phù hộ an bài,
Cho ta chiến thắng hay lui an toàn.
Tôi e quân địch An Kinh,
Trả ta món nợ kinh hồn hôm qua.
Vì bên cạnh các thuyền kia,
Người say chinh chiến, chẳng xa chiến trường.
Bồ Ly Đa Mạc tường trình,
Hải Tô nghe phải chí tình lời khuyên. (8160)
Nhảy khỏi xe tay cầm khiên,
Dặn nhanh dũng tướng, lời cùng gió bay:​
Bồ Ly Mạc trấn nơi này,
Tập trung họp lại chỉ huy trận tiền,
Còn ta đến phía giao tranh,
Về liền khi đã ban hành lệnh ta.
Nói rồi nhanh bước lao qua.
Xuyên qua quân viện, quân Troa đội hình,
Như non tuyết lạnh thét gầm,
Mọi người nghe tiếng về quanh tướng hùng. (8170)
Ban Thước công tử kiên cường, (Panthoos)
Quanh Bồ Ly Mạc hội bàn quân trung,
Hải Tô tìm các tướng hùng,
Đới Phô Bộc đã chẳng còn thấy đâu, (Déiphobos)
Hạ Linh dũng cảm nơi nào, (Hélénos)
Đa Mạc, An Sĩ thương đau chẳng còn,(Adamas, Asios)
Ngưiời nằm bị trói sau thuyền,
Người rên rĩ trút linh hồn tang thương,
Bị thương thành lũy chân tường,
Bị tên xa, ngọn lao gần tả tơi. (8180)
Gặp Bá Lê kích động người,
Chồng Hạ Lan mái tóc dài đẹp xinh. (Hélène)
Dừng chân, chàng sỉ nhục rằng :​
Mô Bá Lê hỡi đẹp xinh làm gì ? (Maupâris)
Dại gái liếc mắt đắm say,
Nào đâu Đới, Hạ anh tài hùng anh ?
Đa Mạc, An Sĩ thương vong,
Ô Thi Nhược cũng chẳng còn, nhờ em!(Othryoneus)
Hôm nay sắc nước nghêng thành,
Hôm nay chờ đợi tan tành Ý Long. (8190)
Bá Lê uy dũng đáp rằng :​
Hải Tô anh chớ mắng lầm, tội em,
Có lần vì phải dưỡng thương,
Cho nên ở chốn chiến trường chẳng nên.
Mẹ sinh nào thiếu kiên gan,
Từ khi cuộc chiến đánh thuyền có em,
Lời anh khích lệ ba quân
Đội hình em đánh Đa Niên chẳng ngừng,
Các tướng lĩnh khác anh tìm,
Đã không còn nữa, đời tàn giao tranh. (8200)
Chỉ hai người đã lui chân,
Đới Phô Bộc với anh hùng Hạ Nô.
Trúng thương tay vì ngọn lao,
Cồ Nốt Thần Tử cứu cho số phần.
Giờ đây em quyết theo anh,
Nơi nào anh muốn dục lòng đấu tranh,
Em tin chẳng thiếu nhiệt tình,
Trong vòng sức lực hoàn thành khả năng.
Nhưng mà lực bất tòng tâm,
Nếu ngoài giới hạn, khó lòng đến nơi. (8210)
Lời anh hùng khiến nguôi ngoai,
Họ ra đi giữa tơi bời đấu tranh,
Bên tướng Kề Long chung quanh,
Bồ Ly Đa Mạc anh hùng trách chi,
Pha Kiệt, Đốc Thái anh tài, (Phalkès, d’ Orthais)
Bồ Ly Phê Tết sức trai như thần,
Ban My, Ất Can hùng anh,(Palmus, Ascagne)
Mô Tích, Hy tử xứ đồng An Canh. (Morys, con Hippotion, Acanie)
Mới bình minh trước quân đi,
Dớt đà đưa đẩy thay kỳ chiến chinh.* (8220)
Họ như cơn lốc đi nhanh,
Dưới làn sấm sét băng đồng Thần Vương,
Lao xao tiếng nổ kinh hoàng,
Hòa tan trong sóng sôi tung biển trào.
Dâng ngàn bọt sóng đuổi nhau,
Quân Troa như thế trước sau nối hàng.
Đi theo tướng mũ ánh đồng,
Hải Tô dẫn trước, sức Thần Chiến Tranh.
Gieo bao tai họa dương trần,
Chiếc khiên che trước, da đồng phủ ban, (8230)
Mũ đồng trán lóng lánh màu,
Dẫn quân dò dẫm hướng nào An Kinh,
Lui chân, thì chàng tiến lên,
Thấy chàng dũng sĩ An Kinh chẳng màng.
An Bắc tiến thách thức chàng :​
Quỷ kia hãy lại, ta không sợ gì !
Chơi trò con trẻ mà chi,
Thần Vương trừng trị, ngọn roi hung tàn.
Vì ta con cháu An Kinh,
Hẳn mi mong đốt chiến thuyền chúng ta? (8240)​
Ta tay bảo vệ xông pha,
Rồi đây sẽ đốt nguy nga Ý Thành,
Với mi ta nói chắc rằng :
Đến ngày mi sẽ phóng thân chạy dài,
Giơ tay cầu khẩn Thần Trời,
Ban cho ngựa đẹp phi thời như chim,
Băng đồng bụi trốn về kinh.
Nói lời bỗng thấy chim ưng, bay liền,
Lượn bay phía phải cao tầm,
An Kinh phấn khởi điềm lành sướng vui. (8250)
Hải Tô lừng lẫy đáp lời :​
An Bắc giả dối, mi thời huênh hoang,
Ta con Thần Dớt khiên vàng,
Hạ Cơ từ mẫu mẹ sinh tôn sùng,
Như Quán Trí Tuệ, An Long,
Sẽ gieo thảm họa vô cùng hôm nay.
Cho người Đạt Quốc chúng tay,
Mi đây, cả lũ, đợi đây lao đồng.,
Cắm vào da mỡ trắng ngần,
Như hoa huệ, chó diều ăn thịt mềm. (8260)
Khi mi ngã xuống bên thuyền.
Nói rồi thúc tướng quân càn xông lên..
Tiếng hô, tiếng hét kêu vang,
An Kinh cũng hét, chiến trường kém chi.
Như ban đầu buổi từ khi,
Không quên dũng khí ngày đi đợi chờ.
Đối đầu dũng sĩ thành Troa,
Cuộc xung phong đánh dưới cờ vinh quang.
Tiếng hai dân tộc lừng vang,
Tận trời xanh, Dớt hào quang sáng ngời. (8270)​

(Còn tiếp kỳ tới) Thi ca khúc XIV. Zeus bị đánh lừa (câu 8271 đến 8852)

TS PHẠM TRỌNG CHÁNH (NHẤT UYÊN ) viết xong năm 2006-2011, nhuận sắc 2017.

CHÚ THÍCH.


7465 Theo Strabon, người Mysiens ở Thrace là tổ tiên người Mysiens ở Anatolie, nổi tiếng cỡi ngựa giỏi.

7466: Người Hippémolges tức người Scythes, nổi tiếng kỵ binh, thích ăn sữa ngựa.

7467: Người Abìes dường như một dân tộc huyền thoại như dân Hyperboréens. Sống vùng đất tốt có đủ cây trái khỏi cần trồng trọt. Eschyle trong Prométhée délivré gọi là Gabies. Theo Quint-Curce (VI I,6) gọi dân Abies là dân sòng phẳng nhất trong những người hoang dã. Zeus ngồi nhìn về phía Bắc quay lưng với xứ Troade.

7479 : Có hai thành Aigès, một ở Eubé, một ở Achaie đều có đền thờ Thần Poséidon.

7490 Đảo ở phía Bắc biển Egée, Ténédos ở trước mặt xứ Troade, trong khi Imbros ở bờ biển Thrace.

7494 Poséidon hoá thân dưới dặng hình tiên tri Calchas, cầm cây trượng có nhiều phép lạ, hiện ra với Ajax.

7588. Médésicastès con không chính thức vua Priam.

7620 Cha Amphimachos, Cléatos là một trong hai Molions con Poséïdon.

7755 : Thần Cronos nuốt hết các con trong bụng. Zeus sinh cuối cùng, mẹ Thần Đất cho Cronos nuốt hòn đá và đem Zeus đi nơi khác nuôi, lớn lên Zeus đánh cha, cứu các chị, anh, chia Poséidon trị biển xanh và Hadès trị cõi Âm Phủ.

7760 Hình ảnh các chiến trận không phân thắng bại trong thần thoại Hy Lạp, do các thần trên Olympe giật dây và thắt nút đầu với nhau, người trần bị thần thắt nút vấp ngã vỡ đầu gối, bị địch thủ giết.

7802. Idoménée giết ba tướng Troa là : Othryonée, Asios và Alcathoos. Déiphobos giết một là Hypsénor.

7818 Nguyên tác gọi : Trẻ thơ Zeus, là dòng dõi nhà vua.

7850 : Vì có nhà tiên tri đoán rằng : Énée con Aphrodite sẽ làm Vua, nên giữa các hoàng tử con vua Priam và Énée không ưa nhau. Sau khi thành Troie bị hạ. Énée dắt dân Troie còn sống sót đi lập thành Rome.

7945. Poséidon còn có danh hiệu Thần Thanh Phát, Thần Tóc Xanh, Thần Rung Chuyển Đất.

7970 Ménélas hiệu Thanh Chiến (Giỏi Thét Chiến Tranh)

8018 Ménélas nhắc lại luật Thần Zeus là tiếp đãi ân cần khách phương xa tới, nhưng Pâris đã phản bội luật Thần, bắc cóc vợ Ménélas và mang theo vàng bạc, nữ trang, gấm vóc.

8051 Hai câu có tác giả cho rằng mới thêm sau, không ăn khớp lắm vì cha Harpalion, vua Phylémène đã chết rồi trong thi ca khúc V giết bởi Ménélas. Có người cho rằng có hai Phylémène như hai Ajax, hai Eurybate . Đoạn tả cái chết Harpalion gần giống đoạn tả cái chết Phréréclos.

8060 Thi ca khúc XXIII. Homère cũng có kể một người giàu có Sicyonien hối lộ để không đi đánh Troie trong quân Achéens

8079 : Ioniens tức người ở Athène có nhiều người mặc áo dài theo kiểu Ionie.

8080 Các đoạn liệt kê tập họp những từ ngữ thông thường của Homère có tác dụng làm gián đoạn câu chuyện kể, nhiều nhà phê bình cho rằng đoạn này thêm vào nhằm ca ngợi lòng tự hào dân Athènes và vài bộ tộc khác. Những đoạn thêm vào này rất xưa được các nhà thơ thời kỳ Alexandrin(Thế kỷ III –II) trước công nguyên công nhận.

8220 cuộc chiến kéo dài 10 năm, quân các vùng thay phiên ra trận.

8184. Maupâris. Khi dùng chữ Mau trước tên là nhục mạ khinh khi.

8253. Hector muốn mình bất tử như con thần Zeus, nhưng ước muốn này không thể được vì Hector sẽ chết như mọi người trần.
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC XIV - THẦN VƯƠNG ZEUS BỊ VỢ THẦN NỮ HÉRA ĐÁNH LỪA (câu 8271 đến 8852)

TÓM LƯỢC: Vương Lão Nestor đang chăm sóc cho Machaon trong dinh trại, nghe tiếng ồn ào, ông đi ra để gặp vua Agamemnon, Ulysse, Diomède bị thương. Agamemnon lại đòi bỏ cuộc vây thành, Ulysse, Diomède phản đối. Thần Poséidon khích lệ lòng dũng cảm của Agamemnon và quân Hy Lạp. Héra điểm trang và mượn chiếc yếm của Aprodite làm cho Thần Vương Zeus say đắm nhan sắc thèm muốn làm tình và ngủ thiếp trong vòng tay mình, để Thần Poséidon có thì giờ phục hồi thế mạnh quân Hy Lạp. Hector bị thương và bị Ajax công tử Oilée đuổi riết.

Thi ca khúc XIV, là một chương đầy thú vị, hài kịch. Vua Agamemnon người lãnh đạo cuộc chiến, nhưng là người dễ nãn lòng, khi có khó khăn lại đòi lui quân, các tướng lĩnh Ulysse, Diomède phản đối, khuyên răn. Đang giữa cuộc chiến gay go, lệnh rút quân là một mệnh lệnh nguy hiểm. Nếu mọi người nghe lời Agamemnon, thì quân Hy Lạp sẽ đại bại, toàn thể phòng tuyến quân Hy Lạp sẽ tan tành sụp đổ như một lâu đài giấy.. Ba nghìn năm qua bài học rút quân trong Sử thi Iliade vẫn là một bài học quý báu. Chuyện ba nghìn năm không phải là xa xưa, mà đã xãy ra năm 1975 tại Việt Nam một cuộc rút quân khỏi Cao nguyên Ban Mê Thuộc, kéo theo một cuộc sụp đổ toàn diện. Người chỉ huy tài ba, và người chiến bại khác nhau ở giây phút này. Một mệnh lệnh rút quân, gây sự sụp đổ dây chuyền không thể quy trách nhiệm cho ai được. Cũng không thể đổ lỗi tại mình thiếu kiến thức không đọc Sử thi Iliade của thi hào Homère.

Cuộc chiến thành Troa, Thần Vương Zeus, Thần Vệ Nữ Aprodite, Thần Apollon giúp quân Troa. Nhưng vợ là Héra, Thần Poséidon, Athéné lại giúp quân Hy Lạp. Héra dùng " mỹ nhân kế ” để Zeus say mê làm tình ngủ quên, để Poséidon giúp quân Hy Lạp đánh thắng quân Troa. Héra lại mượn cái yếm thắm của Thần Vệ Nữ, để quyến rũ Zeus phải bịa chuyện nói dối đi thăm Océanos và Téthys giải hòa hai thần nuôi nấng từ lâu bất hòa mình không còn ngủ chung giường. Héra cùng Athénée từng tranh với Vệ Nữ Aphrodite quả táo bất hòa tặng cho người đẹp nhất. Vệ Nữ từng cho Pâris mượn chiếc thắt lưng để quyến rũ hoàng hậu Hélène, người đẹp nhất trần gian bỏ cung đình vua Ménélas, bỏ con gái đi theo. Đó là phần thưởng công Pâris đã phân xử Vệ Nữ là Thần đẹp nhất hơn cả Héra và Athénée ; cũng là nguyên nhân gây nên cuộc chiến thành Troa. Trong chương này lại, Aphrodite lại cho Héra mượn chiếc yếm để quyến rũ Thấn Vương Zeus, say mê làm tình, để cho Thần Poséidon có thì giờ giúp quân Hy Lạp khôi phục đánh bại quân Hector thành Troa. Héra làm tình với Zeus nhưng sợ các Thần trông thấy bàn tán dị nghị. Zeus phải dâng mây vàng che đỉnh núi Y Đa.

Héra còn sai khiến Thần Giấc Ngủ kéo mi mắt Thần Vương hứa tặng cho chiếc ghế ngai vàng có bệ đỡ chân, nhưng Thần Giấc Ngủ lại lấy cớ sợ Zeus hay nổi giận như lần Zeus bị mê ngủ, Héra khiến Héraclès lạc vào đảo Cox. Héra lại hứa làm mai mối một nàng Duyên Nữ, thần Giấc Ngủ chịu liền.

Sử thi Iliade, thi hào Homère, tả cuộc chém giết nơi thành Troa, đầu rơi máu đổ ghê rợn cõi trần, thắng, bại chỉ là chỉ là một cuộc chơi, mưu mẹo ganh đua nhau của các thần thánh Bất Tử cõi Olympe.

Đang ngồi nâng chén ly bôi, (8271)
Ninh Tô nghe vọng bên tai mới rằng :​
Ất Lê công tử bạn hiền, (Asclépios)
Mã Công bạn hỡi sự tình nghĩ sao ?
Bên thuyền chiến tiếng thét gào,
Bạn ngồi cứ uống rượu đào ấm thơm ;
Đợi Hạnh Mai tóc bính xinh,
Đun pha nước ấm rửa mình máu me,
Tôi đi vòng bốn phía về,
Nói cho biết rõ bạn nghe sự tình. (8280)
Nói rồi lấy chiếc khiên đồng,
Con trai Thái Chí để trong trại mình.(Thrasymède)
Hoàng tử luyện mã tài danh,
Khiên đồng lấp lánh, mang cùng ngọn thương.
Khiên vua, hoàng tử lấy dùng.
Ra ngoài trại đã thấy quân kinh hoàng,
Bao quân hàng ngũ tang hoang,
Quân Troa ngạo nghễ đã tràn đuổi theo.
Lũy thành sụp đỗ tiêu điều,
Như cùng biển thẳm hắt hiu sóng ngàn. (8290)
Gió tràn qua biển hú gầm,
Gió ngừng bất động chẳng cân bên nào.
Đợi Thần Vương thổi gió nào ?
Lão Vương tự hỏi, làm sao lúc này ?
Có nên nhập kỵ binh ngay ?
Hay đến An Trích chỉ huy chiến trường. ?
Đi tìm An Trích thì hơn?
Nghĩ rồi qua bãi chiến trường giáp binh.
Xác thân la liệt lăn nằm,
Gặp các vua tướng quân dòng Thần Vương. (8300)
Bước lên trên một chiến thuyền,
Các vua đã bị trúng thương chưa lành.
Đỗ Mạnh, Uy Lĩnh, An Vương.
Nằm xa chiến trận các thuyền kéo sau.
Đến bờ thuyền họ đi đầu,
Trại dinh che lái con tàu, tường cao.
Quân đông bãi rộng biết bao,
Chứa đoàn thuyền đóng chật vào như nêm.
Rải dài bãi cát vòng cung,
Giữa hai mõm đá một vùng biển xa. (8310)
Tại đây, nghe rõ vọng qua,
Cuộc giao tranh tiếng thét la kêu gào.
Chống thanh lao hội cùng nhau,
Nỗi lo âu đã thấm vào con tim.
Lão Vương nhìn thoáng nhụt lòng,
An Gia quyền lực hỏi ông chán chường:​
Ninh Tô, danh dự An Kinh,
Vì sao rời khỏi trận tiền đến đây,
Hải Tô thực hiện lời này:
Quyết không trở lại thành trì Ý Long. (8320)​
Nếu không đốt hết chiến thuyền,
Diệt chúng ta hết, từng lời hăm he,
Lời hắn bây giờ tôi e !
Than ôi bao chiến binh chê, mất lòng.
Chối từ như tướng An Sinh,
Án binh bất động một phương chiến thuyền.
Ninh Tô đáp lại trấn an :​
Chuyện qua, ta chẳng thể mong đổi gì !
Cả Thần Vương chẳng đổi thay,
Lũy tường sụp đổ, việc này cấp nguy. (8330)
Tưởng rằng tường chắc chắn dày,
Chỡ che vạ gió tai bay chiến thuyền.
Quân Troa tiến khó biết tin,
An Kinh yếu thế lui chân hướng nào ?
Tơi bời hổn loạn giết nhau,
Vọng vang đến tận trời cao thét gào.
Chúng ta xem xét ra sao,
Nghĩ suy ứng phó hơn nào giao trao tranh.
Các vị thương tích trong mình,
Tôi khuyên không phải xuất chinh làm gì. (8340)
An Gia Nguyên Soái sầu bi :​
Ninh Tô cuộc chiến lâm nguy bên thuyền,
Ích gì tường được dựng lên,
Hào sâu vất vả ngày đêm xới đào.
Tưởng rằng bền vững đâu nào !
Hẵn Thần Vương tự trời cao muốn rằng :
An Kinh bỏ xác trận tiền,
Xa quê Đạt Quốc chẳng còn tiếng danh.
Giờ đây tôi biết ngài thiên,
Bên quân Troa với các thần phúc ân. (8350)​
Tay ta thua, mỏi mòn lòng,
Thôi thì, thôi thế ta răn khuyên lời.
Nên theo tất cả mọi người,
Thuyền gần bờ nhất kéo xuôi biển ngàn,
Kéo ra hết làn sóng thiêng,
Nước sâu đậu lại binh thuyền ta neo,
Bóng đêm ngưng chiến hoản treo.
Quân Troa ngừng chiến, ta theo xuống thuyền,
Thừa cơ ta rút đi luôn,
Tránh cơn thảm bại, tai ương xá gì ! (8360)​
Còn hơn ta ở lại đây,
Đau thương nguy khốn, chết lây cả chùm.
Quắc nhìn Uy Lĩnh lời rằng :​
Lời nào thốt khỏi môi răng dị kỳ ?
Hổ thẹn không xứng chỉ huy,
Quân nào bạc nhược, chẳng ngày vinh quang.
Chứ chúng tôi Thần Vương ban,
Sức hùng dũng mãnh, trẻ trung đến già.
Chiến tranh tàn bạo tiêu ma,
Hy sinh quyết chí xông pha đến cùng. (8370)
Vậy ông muốn bỏ vây thành,
Chúng ta đã trải vô ngàn gian nguy,
An Trích, ông hãy im đi,
Chớ nên để một lời này lọt tai,
Là người trung chính trên đời,
Cầm cây vương trượng khắp nơi phục tùng,
Ông đang dìu dắt ba quân,
Không ai lại nói như ông bao giờ.
Tôi không thể tha thứ cho,
Trong khi vang tiếng reo hò phản công. (8380)​
Kéo thuyền ra biển thoát thân,
Ấy là thoả ý Troa quân mong tìm.
Đẩy ta biển vực chết chìm,
An Kinh nao núng bỏ liền giao tranh.
Nhìn hướng khác tránh đao binh,
Lời bàn ông giết tướng, quân lúc này.
An Gia Đại Vương phân bày :​
Uy Lĩnh người thấu lòng đây trách lời,
Lòng ta miễn cưỡng đấy thôi,
Khi An Kinh kéo thuyền, rồi rút quân. (8390)
Giờ đây ai kẻ tâu trình,
Trẻ hay già đáp sự tình hay hơn,
Thì ta sẽ ủng hộ liền.
Đỗ Mạnh danh tiếng Thanh Hùng bàn ngay :​
Kẻ tâu ở sát nơi đây,
Không cần tìm kiếm, nghe đây một lời.
Chớ vì tuổi trẻ của tôi,
Cha Ty Đê cao thượng vốn người hùng anh,
Đất Thép hun đúc khí thiêng, (Thèbes)
Bách Thế sinh được ba con anh hào.(Portheus) (8400)
Lê Đông, Ly Đông hiểm nghéo (Pleuron, Calydon),
An Lộc, Mai Lạc tài cao lẫy lừng, (Agrios, Mélas)
Thứ ba Âu Nhược là ông, (Oeneus)
Sinh cha tôi giỏi tài năng anh hùng,
Ông tôi ở lại quê hương,
Cha tôi phiêu bạt bốn phương giang hồ,
Mới về lập nghiệp Đạt Gô, (Argos)​
Ấy là ý muốn cơ đồ Thần Vương.
Người cưới An Cát cô nương (Adraste)
Nhà giàu sung túc, ruộng vườn phì nhiêu. (8410)​
Vườn cây, gia súc nuôi nhiều,
Tiếng danh lừng lẫy: anh hào trường thương.
Giống dòng rõ thực rành rành,
Tôi đây chẳng phải tiểu nhân ươn hèn.
Lời tôi nói chớ khinh thường,
Chúng ta ra trận dù thương tích nhiều,
Đứng xa vòng chém giết nhau,
Thúc quân anh dũng xông vào tiến công.
Lời ta kích động bản năng,
Thúc người lánh cuộc giao tranh trận tiền. (8420)
Lời chàng ai cũng tán đồng,
Vị Đại Nguyên Soái, Đại Vương hàng đầu,
Đấng Vinh Quang Rung Địa Cầu,(Poséidon)
Dõi theo cuộc chiến, nào đâu vô tình.
Ngài ra đến giữa đoàn quân,
Hiện ra dưới dạng lão ông tay cầm.
Cất cao lời với Đại Vương :​
An Trích, đây lúc An Sinh vui mừng,
Con tim u uất trong lòng,
An Kinh tàn hại, tướng quân chạy dài. (8430)​
Nếu hắn chẳng chút lương tri,
Thần linh trừng phạt chết đi cho rồi.
Còn người, Thần chẳng trái lời,
Quân Troa rồi sẽ chạy dài, tướng, quân.
Qua đồng cát bụi mù tung,
Về thành xa khỏi trại dinh chiến thuyền.
Nói rồi thét một tiếng vang,
Xông lên tựa chín mười ngàn người la,
Nghe như Thần Chiến xông pha,
Thần Rung Chuyển Đất có là kém đâu ? (8440)
Quân An Kinh cảm nhiệm mầu,
Thấy hưng phấn lực, gian lao chẳng nề.
Hạ Cơ nhìn khắp sơn khê, (Héra)
Ngai vàng thiên đỉnh, lắng nghe cõi trần,
Biết em trai cùng anh chồng,*
Đưa An Kinh đến chiến trường vinh quang,
Trái tim phấn khởi trong lòng,
Nghĩ phương kế đánh lừa Thần Vương chơi. (8450)
Nữ Thần Ngưu Mục vẽ vời *
Nghĩ mưu lên đỉnh núi trời Y Đa,
Phục trang diễm lệ kiêu sa,
Xem Thần Vương có mặn mà yêu thương.
Khi Thần mê mệt ấp ôm,
Thì nàng ru ngũ Thần Vương giấc nồng.
Nghĩ rồi cất bước về phòng,
Tay Thần Hoả Thái, con thần dựng xây,
Khuê phòng đóng kín then mây,
Không thần nào thể tày mày mở thông. (8460)
Nàng vào khép chặt cửa đồng,
Nước thơm tắm tẩy hương trần bợn nhơ.
Tấm thân kiêu gợi ngọc ngà,
Xoa dầu hương ngát trên da lụa mềm.
Tuyệt tài pha chế dầu hương,
Chỉ cần lắc nhẹ cung đường ngát thơm.
Đất trời ngào ngọt du dương,
Khi dầu hương tỏa tấm thân ngọc ngà.
Chải tóc mây, thắt bính hoa,
Tóc thiêng óng ả kiêu sa vĩnh hằng. (8470)
Khoát mình chiếc áo thánh linh,
Quán Trí Thần Nữ dệt nghìn muôn hoa.
Ngực cài thêm cánh kim thoa,
Dải hương la kết trăm tua bạc vàng.
Dịu dàng óng ánh sắc duyên,
Hoa tai lóng lánh kim cương tuyệt trần.
Phủ đầu một mảnh tơ khăn,
Chiếc khăn mới trắng ánh trăng trong ngần.
Đôi hài lóng lánh gót chân,
Điểm trang Thần Nữ thong dong khỏi phòng.. (8480)
Gọi Thần Vệ Nữ đến gần :​
Hỡi con yêu quý sẵn lòng giúp ta,
Hay từ chối, bất bình là,
An Kinh ta giúp, con Troa thân tình.
Ái Nữ Thần Dớt mới rằng :​
Hạ Cơ Thần Nữ chí tôn tỏ lời,
Ái Nữ Cồ Nốt cao vời,
Xin Ngài cứ nói, con thời xin vâng.
Nếu con có đủ khả năng,
Nếu con thực hiện được bằng khôn ngoan. (8490)
Hạ Cơ mưu trí mới rằng :​
Cho ta khát vọng dịu dàng yêu thương,
Ta muốn chinh phục mười phương,
Cõi người, thần đến cõi âm tận cùng.
Đại Dương nguồn cội thần linh, (Océanos)
Lâu đài Tể Thủy, mẹ thần thánh sinh. (Téthys)*
Nơi ta từng được nuôi chăm,
Từ Thần Đất Mẹ, cha thần Cồ Nô (Rhéa, Cronos)
Zeus đày ra khỏi trời cao,
Xuống Không Đài xứ xa vời vô sinh, (Tartare) (8500)
Ta hoà giải mối bất bình,
Từ lâu xa cách muôn trùng yêu thương.
Không còn chung sống chung giường,
Hờn căm xâm chiếm tâm hồn lạnh băng.
Nếu ta khuyên nhủ đổi lòng,
Đưa về giường với ái ân tuyệt vời.
Thì họ nhớ ta muôn đời,
Gọi ta kính mến với lời thương vui.
Thần Vệ Nữ vội đáp cười :
Nếu không có thể vì lời phải đâu ? (8510)​
Và con từ chối được nào ?
Trong vòng tay Dớt tối cao ngài nằm.
Nói rồi tháo giải yếm cầm,
Sắc màu quyến rũ, duyên thầm dấu trong.
Dịu dàng khát vọng hương lòng,
Làm say mê cả hiền nhân, phỉnh lừa.
Đặt vào trong tay Hạ Cơ:
Hãy mang lấy giải yếm hoa vào lòng,
Sắc màu sức mạnh khôn cầm,
Con tin ngài sẽ thành công ý đồ. (8520)
Hạ Cơ mang giải yếm vô,
Vệ Nữ từ giả dinh cơ nữ thần.
Hạ Cơ rời đỉnh Thiên Sơn,
Qua Bi Nguyên với Mã Thôn băng đồng. (Piérierie, Emathie)*
Đến non cao tuyết trùng trùng,
Kỵ binh Thạch Các chập chùng đỉnh non. (Thrace)
Chân thần chẳng chạm đất bằng,
Từ An Thố đến bãi cồn mênh mông. (Athos)
Lâm Môn thành phố thánh thần, (Lemnos)
Xứ Thọ Kha lại gặp Thần Som Mây. (Thoas, Sommeil) (8530)
Gọi tên, nàng vội cầm tay:​
Hỡi Thần Giấc Ngủ, làm say thần người.
Ngày xưa người đã vâng lời,
Ngày nay cũng thế, cứ thời nghe ta,
Công này ta mãi nhớ là,
Hãy vì ta kéo mi sa giấc nồng,
Đôi mắt ngời sáng Thần Vương,
Khi ta nằm sát bên chồng yêu thương.
Ta sẽ thưởng tặng ghế vàng,
Vô cùng xinh đẹp tay thần xảo tinh. (8540)​
Do Thần Hoả Thái thọt chân,
Khéo tay, cẩn thận đẹp xinh hết lòng.
Dưới thêm chiếc bệ đỡ chân.
Thật là thoải mái khi trong tiệc tùng.
Thần Giấc Ngủ đáp lời rằng :​
Hạ Cơ ái nữ của Thần Thời Gian.
Dễ dàng ru ngủ muôn thần,
Cả Đại Dương với cội nguồn thế gian.
Nhưng Dớt tôi chẳng dám gần,
Nếu Ngài không gọi đích thân tôi làm. (8550)
Bởi phen rồi theo lệnh nàng,
Khi Hùng Anh Kiệt, Ý Long trở về (Héraclès, Ilion)
Sau khi phá phố thành Troa,​
Tôi đà khiến Dớt nghiêng qua ngã mình,
Trí mê tôi phả hơi nhanh,
Vì nàng mưu chuyện đã thành tai ương.
Khiến biển khơi nỗi kinh hoàng,
Hùng Anh Kiệt lạc đảo Côn lạ kỳ (Côx),
Tách rời bè bạn lưu đày
Khi Dớt tỉnh dậy, ra uy nổi khùng.. (8560)​
Bạc đãi chư Thần trong cung,
Chính tôi là kẻ ngài mong kiếm tìm.
Ném tôi xuống biển đời tàn.
Nếu không có được Thần Đêm cứu minh.
Đêm đen thắng mọi ngươi, thần,
Tôi xin van lạy, động lòng cứu tôi.
Dớt dù giận dữ đã nguôi,
Bởi Ngài sợ phật ý lời Đêm Nhanh,
Giờ nàng bắt tôi thi hành,
Để làm công việc chẳng lành, vô phương ! (8570)​
Héra tôn kính nói rằng :​
Thần Giấc Ngủ hỡi quan tâm làm gì ?
Tưởng Thần Vương giúp Troa vì,
Bênh Hùng Anh Kiệt con trai của mình.*
Thôi thì ta sẽ mối manh,
Một nàng Duyên Nữ trẻ trung nhất nhà,*
Giúp Thần chồng vợ thuận hoà.
Som Mây hớn hở như hoa đáp lời :​
Vậy thì xin hãy thề bồi,
Với sông thiêng Xích hứa lời cùng tôi. (Styx) (8580)​
Một tay Đất Mẹ dưỡng nuôi,
Một tay Biển Bạc, thần nơi Không Đài.(Tartare)
Thần quanh Cồ Nốt chứng lời,
Chắc rằng nàng sẽ cho tôi duyên tình.
Bích Chi trẻ nhất đẹp xinh, (Pasithéa)
Mà tôi yêu trộm nhớ thầm bấy lâu.
Hạ Cơ Bạch Thủ chẳng từ.
Thề bồi tên các thần như y lời.
Các Khổng Thần cõi Không Đài (Titans, Tartare)
Thề xong từ giả cùng thời đi nhanh. (8590)
Quanh mình phủ màng sương xanh,
Tới Y Đa mẹ thú hoang suối ngàn.
Gềnh Lạc Tôn rời biển xanh, (Lecton)
Đất liền lay động dưới chân đỉnh rừng.
Mắt nhìn thoáng bóng Thần Vương,
Dừng chân trên đỉnh cây thông vút trời.
Y Đa cao ngất xa với,
Non thiêng chọc thẳng đến nơi khí lành.
Khuất sau lá rợp cành thông,
Như chim hót thiếng trong ngần lưu ly. (8600)
Núi cao thần gọi Thanh Chi (Chalcis)
Người trần tên gọi Họa Mi tuyệt vời.
Hạ Cơ thoan thoát phi người,
Leo Đạt Kha đỉnh ngất trời chon von (Gargare).
Dớt Hội Vân thấy bóng nàng,
Trí khôn tiêu tán, lòng tràn khát khao.
Như giường êm buổi ban đầu,
Dấu cha, dấu mẹ đắm sâu chuyện tình.
Trước nàng tha thiết yêu đương :
Hạ Cơ nàng hỡi từ đường nào qua ? (8610)​
Rời Thiên Sơn chẳng ngựa xe ?
Sẵn mưu sắp đặt Hạ Cơ trả lời :​
Tôi đi tận đất dưỡng nuôi
Đại Dương nguồn cội thần trời sinh ra,
Cùng mẹ Tể Thủy giao hòa,
Thủy cung họ đã nuôi ta nuông chiều.
Giảng hòa tranh chấp bấy lâu,
Từ lâu cắt đứt xa nhau cuộc tình.
Không ái ân, chẳng chung chăn,
Con tim tràn ngập giận căm dỗi hờn. (8620)
Ngựa tôi dưới suối dừng chân,
Sẽ mang tôi đến cõi không vô cùng.
Vì ông rời đỉnh Thiên Sơn,
Đến thưa ông trước, kẻo ông bực mình.
Trách rằng tôi chẳng thưa trình,
Trước khi về với cung đình Đại Dương.
Đấng Hội Vân lại nói rằng :​
Hạ Cơ cõi ấy, nàng còn đi sau,
Bây giờ ân ái cùng nhau,
Xa nàng ta lại khát khao ân tình. (8630)​
Khát khao Thần Nữ mỹ nhân,
Trái tim rung động trong lòng yêu thương.
Ý Nương cũng chẳng sánh bằng, (Ixion)
Sinh Phi Di Thảo, nói năng ngọt ngào. (Pirithoos)
Hay Đoan Nương gót sen đào (Danaé)
An Chi nương tử sinh nào Bích Lê,(Acrision, Persée)
Tiếng tăm lừng lẫy anh khuê,
Phượng Hoàng nương tử say mê thánh thần. (Phénix)
Sinh Minh Tuấn, Gia Đà Minh, (Minos, Rhadamante)
Anh Nương thành Thép sinh thành con trai(Alcmène) (8640)​
Hùng Anh Kiệt bậc anh tài,
Hay Trà My Nữ sinh người hân hoan (Sémélé)
Đi Ô Thần Tửu Vương,(Dionysos)
Đề Mai Nữ tóc nữ vương bính vàng.(Déméter)
Hay nàng Lã Nương vinh quang, (Laton)
Chưa bao giờ được như nàng hôm nay.
Lòng ta đắm đuối mê say,
Ngọt ngào êm dịu ngất ngây với tình.
Hạ Cơ mưu trí khôn ngoan :
Cồ Nốt Thần Tử ông còn nói chi ? (8650)​
Hứng tình chi lúc dị kỳ ?
Nằm ngay trên đỉnh non này Y Đa.
Các Thần Bất Tử vào ra,
Tò mò, tọc mạch, ba hoa họ hàng,
Tôi còn mặt mũi nào nhìn,
Về trong cung điện với lòng hổ ngươi.
Nếu ông ưng ý đẹp lời,
Vào phòng Hoả Thái vẽ vời vừa xong.
Cài then khóa kín cửa phòng,
Mặc tình ông muốn thoả lòng mây mưa. (8660)
Đấng Hội Vân đáp Hạ Cơ :​
Chẳng thần nào thấy chúng ta làm tình,
Ta sẽ phủ lớp mây vàng,
Mặt trời cũng khó thấy nhìn chúng ta.
Dù cho ánh sáng chan hòa,
Cũng không soi thấu chuyện ta với nàng.
Nói rồi bế vợ tay êm,
Từ trên đất mọc cỏ mềm non tơ.
Sen, mai ngậm đóa sương mơ,
Thủy tiên vàng một bến bờ dịu êm. (8670)
Nâng lên mặt đất nhẹ nhàng,
Hai Thần nằm xuống mây vàng long lanh.
Giọt sương thánh thót lìa cành,
Giấc nồng trên đỉnh non thần Y Đa;
Giấc say tình ái mặn mà,
Trong tay ôm ấp thiết tha nồng nàn.
Thần Giấc Ngủ vội bay nhanh,
Phía con thuyền báo Thần Rung Địa Cầu.
Những lời bay bổng gọi nhau:
Hải Long Vương hỡi giúp nhau phút này. (8680)​
Cho An Kinh vẻ vang thay,
Lúc Thần Vương ngủ mê say giấc tình.
Tôi đà phủ giấc mơ màng.
Tay Hạ Cơ đó, Ngài nằm ái ân.​
Nói rồi cất bước đằng vân,
Về cùng bộ tộc cõi thần quang vinh.
Hải Long Vương vận động quân,
Hàng đầu khích lệ chiến binh hùng hồn :​
An Kinh nào nỡ để đành,
Hải Tô chiến thắng đốt tan chiến thuyền. (8690)​
Hắn ta ngạo nghễ tuyên truyền,
Bởi An Sinh đóng quân yên giận hờn.
Chúng ta chẳng đoái tiếc chàng,
Chúng ta chống cự động viên nhau cùng,
Theo lời tôi hãy tiến nhanh,
Vác khiên lao lớn trên mình xông lên.
Mũ đồng lấp lánh, ngọn thương,
Theo ta hướng dẫn quyết đường tiến công.
Hải Tô điên dại trong lòng,
Sẽ không chống cự được trong lâu dài. (8700)
Người nào có thuẫn nhẹ vai,
Đổi người yếu kém khoát ngoài khiên che.
Lời Thần ai nấy đều nghe,
Các vua thương tích, hầu kề tinh binh.
Đỗ Mạnh, Uy Lĩnh, An Gia Vương,
Kiểm tra tùy sức khiên đồng đổi trao.
Giáp đồng lấp lánh anh hào,
Thần Rung Chuyển Đất tiến lao hàng đầu.
Tay cầm kiếm tia chớp mau,
Chẳng cần đụng đến cũng nhào ngã lăn. (8710)
Mũi dài kinh dị chớp băng,
Người trần sợ ánh kiếm thần linh thiêng.
Hải Tô sắp lại đội hình,
Kinh hoàng cuộc chiến với Thần Tóc Xanh.
Hài Tô thống lĩnh Troa quân,
Hải Long Vương giúp tung hoành Đạt Liên.
Biển dâng đến tận dinh thuyền,
Hai bên giáp chiến vang lừng tiếng hô.
Sóng trùng dương vỗ trắng bờ,
Cuồng phong dữ dội gió Bô Mê gào.(Borée) (8720)
Lửa hồng bừng cháy non cao,
Đốt rừng cũng chẳng sánh nào chiến tranh,
Tiếng gào, tiếng hét thất thanh,
Troa quân cùng với An Kinh xông vào,
Hải Tô phóng trước ngọn lao,
Nhắm váo An Bắc đang theo trước mình,
Lao trúng quai, gươm thuẫn đồng,
Chỡ che lồng ngực da mềm chẳng sao,
Hải Tô giận mất mũi lao,
Tránh xa cái chết lẫn vào đội quân, (8730)
An Bắc công tử Thế Môn,
Nhặt nhanh tảng đá dưới chân kê thuyền,
Ném Hải Tô qua mép khiên,
Trúng vào giữa ngực nơi gần cổ thân,
Hải Tô bị đá hất tung,
Quay như con vụ quay lưng lộn nhào.
Như sét Dớt đánh cây sồi,
Rễ tung cây đổ khét mùi diêm sinh,
Kẻ gần cũng mất tinh thần,
Sấm Thần Vương thật kinh hoàng xiết bao. (8740)
Hải Tô dũng khí dặt dào,
Ngã trong lớp bụi, khiên lao vang ầm.
An Kinh chạy lại phóng nhanh,
Nhưng không trúng được thân mình Hải Tô.
Quanh chàng che đỡ khiên to.
Đa Mạc, Anh Nê, Gê Nô sức thần. (Polydamas, Énée, Agénor)
Thạc Phê Đông vua Ly Liên (Sarpédon, Lyciens)
Lô Cốt tài trí, nhọc nhằn cứu nguy.
Đỡ lên xe ngựa đưa đi,
Hải Tô rên rĩ ngựa phi về thành. (8750)
Đến sông Săng khúc cạn quanh,
Dòng sông xinh đẹp cao xanh khởi nguồn,
Sóng cuồng bất tử Thần Vương,
Đặt Hải Tô vẩy nước lên mặt chàng.
Tỉnh ra ngước mắt nhìn lên,
Hai tay quỳ gối, nôn dòng máu đen.
Chao mình lảo đảo ngã lăn,
Mắt mờ che phủ bóng đêm sương dày.
Hòn đá ném trúng vào đây,
Vẫn còn tê dại tim này chưa nguôi. (8760)
Đạt Liên loại Hải Tô rồi,
Xung phong hừng chí đánh thời hăng say.
Nhắc nhau xông tiến đánh thay.
Ô Lê công tử nhanh tay lưỡi đồng. (Ajax Oilée)
Đâm Sắc Ni Ốc trúng thương, (Satnios)
Vốn con tiên nữ bên dòng Sắc Nơ.
Ngưu Lang chăm dắt đàn bò (Enops)
Yêu nàng tiên nữ bên bờ sông xanh.
An Bắc thương dài lừng danh,
Đâm trúng hông ngã, vây quanh chiến trường. (8770)
Bồ Ly Đa Mạc tung hoành,
Đâm Bồ Thế một lao đồng trúng vai. (Prothoénor)
Tay cào bụi đất, ngã rơi,
Tướng quân đắc thắng kiêu người khoe vang:​
Chẳng vô ích, ngọn lao đồng,
Ban Thước công tử anh hùng là tao,(Panthoos)
Tên An Kinh đã trúng vào,
Hồn nương ngọn giáo về chầu âm cung.
Lời ba hoa xót đau lòng,
Thế Môn công tử giận căm bạn mình.(Ajax Télamon) (8780)
Bồ Thế Nô ngã kề gần,
Nhanh tay Đa Mạc trong tầm quay đi,
An Bắc phóng ngọn lao ngay,
Đa Mạc nhảy kịp mắn may số phần.
An Thế công tử đời tàn,(Angénor)
An Thế Lô trúng lao đồng mệnh chung. (Archélochos)
Ngọn lao trúng đốt xương cùng,
Nối liền đầu cổ đường gân cắt dài.
Gục đầu, máu mũi, miệng tai,
Lăn trên đầu gối, đầu rời trước chân. (8790)
An Bắc lại hét lên cùng:​
Mạng đổi lấy mạng ngang bằng nhau chưa. ?
Bồ Ly Mạc nghĩ cho vừa,
Nói ra tên thật kẻ ta giết nào, ?
Thấy y cũng bậc anh hào,
Chẳng là tiều tốt, lớn cao giống nòi.
Em, con gì An Thế Nô,
Có tài luyện mã cơ đồ lừng danh.
An Bắc biết rõ chẳng lầm,
An Thế công tử , đau buồn Troa quân. (8800)
Vừa An Ca Mạc phóng thương,(Acamas)
Đâm Bồ Ma Chước người vùng Bồ Thiên (Promachos, Boétiens)
Kéo thây anh hắn kề gần,
Ca Mạc tự đắc khoe mình chiến công :​
Hỡi Đạt Liên giỏi cung tên,
Chúng ta không chỉ một mình khóc than,
Một ngày mi cũng đời tan,
Như Bồ Ma Chước trúng thương ngã đùng.
Trả thù cái chết cho anh,
Trả liền tức khắc không cần thời gian. (8810)​
Người, ai cũng có họ hàng,
Trả thù thân thích tay Thần Chiến Tranh.
Đạt Liên đau khổ sư tỉnh,
Phê Nê Lộc bước, say lòng xông lên,
An Ca Mạc nhảy tránh bên
Ngọn lao đâm trúng thương liền Long Nê (Ilionée).
Con Phổ Bắc giàu cừu dê,(Phorbas)
Giàu hơn cả xứ Troa quê sang giàu.
Hạc Mai ban thưởng thương yêu, (Hermès)
Đầy nhà của cải phú hào con cưng. (8820)
Mẫu thân chỉ một người con,
Bê Nê Lệ Ốc trúng thương dưới mày, (Pénéléos)
Mắt tung bắn phọt con ngươi.
Ngọn lao xuyên thẳng ngã ngồi , giang tay.
Rút gươm xông cắt đầu ngay,
Xách như hoa máu đỏ gay mồng gà.
Thét lên đắc thắng hướng Troa:​
Hãy về nói với mẹ cha hắn rằng,
Đang than khóc ở lầu cung,
Vợ Bồ Ma chẳng mừng chồng đoàn viên. (8830)
Ngày ta rời khỏi Troa thành,
An Kinh xuống thuyền về lại quê hương.
Quân Troa nghe nói sợ run,
Mong tìm lối thoát tránh vòng tai ương.
Hỡi Thi Thần đỉnh Thiên Sơn,
An Kinh ai chiếm giáp binh máu hồng,
Khi cuộc chiến thắng nghiêng phần,
Thần Rung Chuyển Đất lừng danh giúp giùm.
Đầu tiên An Bắc Thế La Môn,
Đâm trúng thương tích anh hùng Hy Tô. (Hyrtios) (8840)
Vua My Siên công tử Kiệt Tô, (Mysiens, Gyrtios)
Anh Thi Lộc giế, Phan, Mai chung cùng, (Antilochos, Phakès, Merméros)
Mê Long hạ Mô, Bô Long, (Mérion, Morys, Hippotion)
Tựu Xê loại Bê Tết, Bồ Thông chiến trường. (Teucer,Péripétès, Prothoon)
An Trích đâm Hy Bê trọng thương, (Atride,Hypérénor)
Tướng quân rách ruột, rách gan lao đồng.
Vết thương sâu thẳm thoát hồn,
Trên đôi mắt phủ bóng đêm sương mờ.
Phần nhiều tử vong quân Troa,
Do chàng An Bắc Ô Lê anh hùng. (Ajax Oilée) (8850)
Có đôi chân chạy thật nhanh,
Thần Vương ban đuổi Troa quân kinh hồn. (8852​

Kỳ tới:

Thi Ca khúc XV. Trở lại tấn công xa các chiến thuyền. (từ câu 8853 đến 9706 )

Paris . chuyển ngữ thơ lục bát năm 2007-2011. Khuê Văn xuất bản quyển I năm 2007 , quyển 2, 2009 quyển 3, 2011, nhuận sắc 24-6-2017 ấn bản phổ biến internet.

CHÚ THÍCH


8448. Poséidon là em trai Héra, cũng là anh trai Zeus. Có danh hiệu Thần Rung Chuyển Đất, Thần Tóc Xanh

8451 Héra có mắt con bò cái, nên có danh hiệu là Thần Ngưu Mục cũng như Athéné Mắt Cú Mèo. Gốc từ Ai Cập thờ Thần Bò Cái, Thần Cú Mèo, sang Hy Lạp chỉ còn đôi mắt.

8496: Homère đặt ra chuyện chống đối giữa Océanos và Téthys để giải thích các cuộc tranh cải giữa Héra và Zeus. Ngày xưa người ta cho rằng Océan là một con sông lớn bao quanh mặt đất. Héra là con thần Cronos và Rhéa. Thần Cronos nuốt các con vào bụng. Sinh ra Zeus, Rhéa đánh lừa cho Cronos nuốt cục đá và đem đi nơi khác nuôi nấng. Lớn lên Zeus cứu các chị, anh, Zeus cho Cronos uống liều thuốc tiên để nhả các anh chị mình ra và đánh đuổi Cronos vào cõi Tartare nơi các thần Titan . Héra được mẹ đưa đi đến một nơi xa giao cho thần Océanos và Tethys nuôi hộ. Mấy trăm năm sau, Zeus tìm đến nàng và cưới nhau thành vợ chồng từ đấy. Zeus cai trị cõi Thần, Người, ban cho Poséidon cai trị biển cả và Hadès cai trị cõi âm phủ. Héra là vị nữ thần của hôn nhân và gia đình, nàng bảo vệ hạnh phúc cho đôi lứa gắn bó nhau bằng lễ kết hôn.

8524 Piérie là phần Macédoine cạnh núi Olympe. Émathie phía Bắc Piérie.

8574. Héraclès quyết định trừng phạt vua Laomédon thành Troie, vì tội bội ước, quịt công trong việc giải thoát Hélioné khỏi hiến thân cho loài thủy quái. Héraclès đem 18 chiến thuyền đánh thành Troie. Thành Troie thất thủ các hoàng tử đều tử trận, trừ con trai út bị bắt làm tù binh. Hélioné bị bắt. Héraclès gả cho Télémon thưởng công anh hùng dẫn đầu trận đánh. Nàng Hélioné được đặc ân phóng thích một tù binh. Hélioné chọn em trai út mình là Polidarcès, nàng tháo chiếc khăn trùm đầu làm lễ vật. Polidarcès được tự do đổi tên là Priam nghĩa là chuộc lại. Héraclès trao lại thành Troie làm vua. Thuyền Héraclès trở về, bị Héra căm tức giáng cho những cơn sóng thần. Để Zeus không biết việc này Héra sai Thần Giấc Ngủ làm Zeus ngủ mê. Bão lớn thuyền Héraclès trôi dạt đến đảo Côx. Dân đảo tưởng cướp biển ném đá. Héraclès giết vua đảo Côx Héraclès giết vua và một số dân và phá sạch đảo. Zeus tỉnh dậy biết mưu Héra, bắt vợ cùm lại và trói treo lơ lững giữa trời. và truy tầm Thần Giấc Ngủ, chư thần sợ xanh mặt.

8576 .Ba nàng Duyên Nữ Grâces. Pasithée yêu Sommeil, Aglaé thành vợ Héphaistos, nàng thứ ba là Euphrosine.
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC XV - TRỞ LẠI TẤN CÔNG XA CÁC CHIẾN THUYỀN (câu 8853 đến 9706)

TÓM LƯỢC: Zeus tỉnh giấc sau khi hợp hoan với vợ, Thần nữ Héra. Biết mưu Héra nhưng vì tại mình mắc lừa nên không nổi giận và báo trước những chuyện sẽ xãy ra. Athénée xoa dịu nỗi đau Arès Thần Chiến xót đau trước cái chết của con là Ascalaphos. Theo lệnh Thần Vương, Apollon và Iris buộc Poséidon rút khỏi cuộc chiến. Apollon chữa lành vết thương cho Hector, và gieo hoang mang cho quân Hy Lạp. Doanh trại Hy Lạp lại bị tấn công. Patrocle rời Eurypyle sau khi chữa vết thương xong, đi xin Achille cho mình ra trận thay. Dù chống cự anh dũng, quân Hy Lạp vẫn bị Hector đốt một chiến thuyền. Ajax Télamon dũng cảm đánh lui được quân Troie.

Sau khi vượt khỏi lũy tường, (8853)
Nhiều quân Troa phận cùng đường : tù binh.
Hải Tô lui khỏi cổng thành,
Chiến xa dừng lại, tái xanh hoảng hồn.
Nơi Y Đa đỉnh non thần,
Thần Vương vừa tỉnh giấc nồng hợp hoan,
Bên Hạ Cơ với mây vàng,
Thần Vương nhảy dựng thấy tàn quân Troa. (8860)
Đuổi theo, quân tướng Đạt Gô (Argos)
Hải Long Vương rượt, vác giò chạy nhanh.
Hải Tô duổi cẳng trên đồng,,
Bao quanh đồng đội, máu nôn tuôn trào.
Tim thoi thóp thở khó vào,
Đánh chàng, chẳng phải tay cao thủ tồi.
Dớt nhìn thương hại: Chao ôi !
Nhìn Hạ Cơ, cúi mặt rồi long lanh:​
Hạ Cơ, bất trị, mưu nàng,
Và đây hậu quả tai ương vô cùng ! (8870)​
Loại Hải Tô khỏi chiến trường,
Quân Troa trốn chạy, mưu toan ấy là..
Chính nàng mưu kế cao xa,
Làm ta mắc bẩy, chẳng qua vì tình.
Vì nàng chuốc họa vào thân.
Lẽ nào ta đánh phất trần, nàng ơi !
Nhớ ngày lơ lững giữa trời,
Ta đeo đe nặng vào nơi chân nàng,
Đôi tay cột với xích vàng,
Giữa tầng khí quyển, mây ngàn ta treo. (8880)​
Chư Thần cảm kích biết bao,
Chẳng ai cứu giúp nàng nào được chăng !
Thần nào thương xót lại gần,
Thì ta nắm cổ, ta quăng xuống trần,
Từ nơi ngưỡng cửa Thiên đình,
Rớt lăn lóc xuống là nằm ngay đơ.
Lòng ta chẳng hết vật vờ,
Thương Hùng Anh Kiệt, bơ phờ đau thương. (Héraclès)
Nhờ bắc phong với bảo bùng,
Nàng đẩy vào Biển Vô Sinh hiểm nghèo. (8890)​
Đẩy đến đảo Cốt cheo leo,(Cox)
Ta đà cứu hắn qua bao nhọc nhằn.
Về Đạt Gô đất ngựa thuần,
Ta nay nhắc lại việc từng xảy ra,
Nàng dùng mưu mẹo lừa ta,
Tình yêu ân ái, nơi xa các thần.
Hạ Cơ cất tiếng lời rằng :​
Đất dày, trời rộng, nước sông Xích tràn ; (Styx)​
Lời thề ghê gớm linh thiêng,
Thề trên đầu, với trên giường hợp hoan,
Lời thề linh ứng có liền.
Tôi không hề khiến xui thần Hải Long,
Chuyển Rung Mặt Đất giúp công,
Đuổi quân Troa, đả thương chàng Hải Tô.
Thần làm thế giúp cơ đồ,
An Kinh kiệt sức, thua to bên thuyền.
Nghe lời cười Đấng Phụ Vương,
Cất lời tình tứ đáp nàng Hạ Cơ : (8910)​
Nếu nàng nhất trí cùng ta,
Hải Long Vương hẵn ắt là phải tuân,
Nếu nàng trung thực chân tình,
Thì về bộ tộc Thần Linh lệnh truyền:
Apollon nõ lẫy lừng,
Y Bích hãy đến An Kinh giáp đồng.
Bảo Hải Long ngừng giao tranh,
Hãy mau về với Thiên đình ngay cho.
An Long hồi sức Hải Tô,
Tay chân rã rợi, đang ho máu đào. (8920)​
Và làm cho An Kinh mau,
Quay lưng kiếp sợ hè nhau chạy dài.
Đến An Sinh cầu cứu thôi,
Phê Lê công tử giúp người giao tranh,
Ban Tuấn sẽ ra giao tranh,
Thắng rồi , chết dưới lao đồng Hải Tô.
Ở ngay trước cửa thành Troa,
Sau khi đã giết chết bao tướng nhà,
Có Thạc Phê Đông con ta (Sarpédon),
An Sinh nổi giận xót xa bạn hiền. (8930)​
An Sinh, thù bạn, xuất quân,
An Sinh anh dũng giết chàng Hải Tô,
Rồi sau đó đuổi quân Troa,
Rời xa thuyền chiến, cụm co dần dần.
An Kinh chiếm được Ý Long,
Quán Trí Tuệ sẽ giúp phần mưu sâu,
Nhưng ta chưa hết giận đâu,
Chẳng Thần nào được giúp vào An Kinh.
Đến khi khẩn nguyện An Sinh,
Mà ta đã hứa hoàn thành bấy lâu. (8940)​
Bảo đảm bằng cái gật đầu,
Ngày Thần Thê Túc khẩn cầu cho con.
Sờ đầu gối ta, cầu mong,
Nên ta trân trọng tấm lòng An Sinh.
Hạ Cơ Bạch Thủ Nữ Thần,
Vâng lời rời đỉnh non ngàn Y Đa,
Bay về Thiên Sơn cao xa,
Nhanh như tư tưởng người qua trong đầu,
Trải trăm phương, sáng vút mau,
Ước gì ta ở phương nao chốn này. (8950)
Óc đầu suy nghĩ như bay,
Bước chân Thần đã đến ngay Thiên Đình.
Giữa cung đình hội chư thần,
Đón chào ai nấy vội vàng nâng ly,
Nhận từ tay, cúp Thể Mi (Thémis)*
Má Hồng nhanh gót cầm tay rước mời.
Vội vàng cao giọng hỏi lời :​
Việc gì xúc cảm lòng thời chẳng yên ?
Hạ Cơ, có phải Thần Vương,
Chồng nàng gây chuyện kinh thiên với nàng. (8960)
Hạ Cơ Bạch Thủ lời rằng :​
Chớ nên nói thế Nữ Thần Thể Mi.
Kiêu căng, cứng cỏi ai bì,
Nhưng thôi, ta hãy vào ngay tiệc trần.
Thiên Đình tất cả công bằng,
Rồi đây ta nói nguyên văn phán truyền.
Những lời kinh động Thần Vương,
Làm cho vui vẻ, chẳng còn như nhau,
Người trần, kẻ tục đớn đau,
Thôi, giờ yến tiệc bàn đào hãy vui. (8970)
Hạ Cơ ngừng nói lặng ngồi,
Trong cung đình Dớt, cõi trời xuyến xao,
Hạ Cơ nhếch miệng mày cau,
Vẫn không trở lại lòng nào ước mong,
Bừng bừng phẩn nộ nói rằng :​
Thật là dại dột, Thần Vương nổi khùng,
Nói bằng lý lẽ cải tranh,
Quyền uy sức mạnh chẳng bằng ích chi.
Ngồi riêng một cõi trị vì,
Tốt hơn chịu đựng những gì họa tai. (8980)​
Dớt phân công việc cho ai,
Thì người đó cứ đến nơi thi hành,
Điều không vui, chắc chắn rằng :
Con Thần Chiến đã bỏ mình đau thương,
Ất Ca Phổ đứa con trần, (Ascalaphos)
An Thiết yêu quý chết trong trận tiền.
Vỗ đùi An Thiết rỉ rên(Arès) :​
Hỡi chư thần điện Thiên Sơn chớ đừng,
Nổi thù tôi báo thù con,
Bước chân tôi đến chiến thuyền An Kinh. (8990)​
Dù tôi thịt nát xương tan,
Số phần bởi sét Thần Vương tan tành.
Như người trần chết nằm lăn,
Ngay đơ, máu đỏ, bụi hồng tởm kinh.
Nói rồi truyền lệnh hai Thần,
Kinh Hoàng, Trốn Chạy cương vàng ngựa xe,
Khoát vai vũ khí sáng lòe,
Quán Trí run sợ, ngại e cơn khùng,
Thần Vương đối với chư Thần,
Khi bùng lên sẽ kinh hoàng xiết bao. (9000)
Rời ngai, nhảy trước hiên vào,
Giật đầu mũ đội, khiên lao mới cầm.
Nói cùng An Thiết hung thần :​
Quỷ yêu loạn trí, chớ hăng mạng liều !
Có tai mà chẳng nghe sao ?
Giữ gìn lý trí, biết điều chút nao !
Hạ Cơ Bạch Thủ ngôi cao,
Mới từ biệt Dớt, thấp cao tỏ bày,
Mi từng gieo thảm họa đầy,
Cõi trần trở lại trời mây Thiên Đình. (9010)​
Mặc dù bắt buộc trái lòng,
Mi gieo hơn cả các Thần tai ương,
Nay còn trái lệnh Thần Vương,
Dớt sẽ nóng giận bay lên Thiên Đình,
Nắm từng Thần kết tội tình,
Thì Thần có tội hay không chẳng chừa,
Mi nay giận cũng bằng thừa,
Đứa con anh dũng mới vừa chết đi,
Dù mạnh tay sức ai bì,
Chết sau, chết trước cũng thì thế a ! (9020)​
Kiếp người phải chết đấy mà,
Khó mà cứu thoát người ta giống nòi.
Dìu An Thiết đặt trên ngai,
Hạ Cơ gọi khỏi lâu đài An Long, (Apollon)
Và cả Y Bích truyền tin. (Iris)
Cất cao lời nói lệnh Thần Vương ban :​
Dớt đà quyết định khẩn trương,
Y Đa đến gấp, Thần Vương lệnh truyền.
Dớt sẽ ban lệnh thi hành.
Hạ Cơ ban lệnh rồi bèn vào vào ngai. (9030)
An Long, Y Bích tung bay,
Tới Y Đa, mẹ nguồn cây, thú rừng.
Cồ Nốt Thần tử mắt nhìn,
Gạt Ga đỉnh núi non thần bao la.
Mây thơm bay tựa vòng hoa,
Họ dừng chân trước Dớt, cha cõi Thần.
Đấng Hội Vân đã nguôi lòng,
Vì lời vợ đã thi hành chẳng sai.
Với Y Bích, Ngài cất lời :​
Đi nhanh Y Bích đến nơi tin này. (9040)
Vua Hải Long, nói đúng y,
Hãy ngưng tham chiến, tức thì về cung.
Về Thiên Đình hay Biển Linh,
Nếu không tuân lệnh, liệu chừng tay ta.
Nếu không đếm xỉa chi mà,
Thì lo hồn trí, ta qua trị trừng.
Dù hắn có mạnh phi thường,
Cũng thua ta mạnh vô cùng, sức hơn.
Ta là em út mẹ sinh,*
Các Thần đều sợ, chớ hòng bằng ta. (9050)
Vâng lời Y Bích vụt qua,
Chân như gió, xuống Y Đa về thành.
Nhìn từ những đám phù vân,
Tuyết bay, mưa đá, bắc phong gió lồng.
Từ không trung xuống dương trần,
Thần Cầu Vòng xuống thỏa lòng thoát nhanh.
Bên Thần Rung Đất tâu trình :
Đây là nghị quyết cho Thần Tóc Xanh,
Dớt Khiên Vàng truyền phán rằng :
Dứt ngay chiến sự giao tranh về đình. (9060)​
Về Thiên Đình hay Biển Linh,
Nếu không chấp lệnh, thi hành lệnh trên.
Thì Thần Vương sẽ đích thân,
Để mà đối mặt tranh hùng tay đôi.
Nhưng Ngài khuyên tránh đụng Ngài,
Quyết rằng sức mạnh Ngài thời vô song,
Dù sinh sau cả gia đình,
Chớ say chiến trận mà không sợ gì !
Chớ coi ngang hàng với Ngài,
Các Thần đều sợ họa tai bất kỳ. (9070)
Thần Rung Đất nổi sân si :​
Hắn em, dù có tài gì đến đâu ?
Lời kia quá mức ngạo kiêu,
Ngang bằng phẩm chất, sức nào bắt ta ?
Ba trai Cồ Nốt, Thổ A (Cronos, Rhéa),*
Dớt, Diêm Chúa và ta trị vì (Zeus, Hadès),
Chia ba vũ trụ quyền uy,
Ba ta quyết định trong ngày rút thăm.
Phần ta: biển cả trắng ngần,
Diêm Chúa : địa phủ sương ngàn âm u. (9080)​
Dớt trời tinh khí mây mù,
Thiên Sơn cao rộng đất bù cả ba.
Ta chẳng nghe Dớt chi mà,
Mỗi người trong cõi cao xa quyền hành.
Bàn tay sức mạnh chớ hòng,
Dọa ta như một tên hèn nhát chi.
Trước nên trách phạt gái trai,
Hắn sinh thì buộc nghe lời dạ vâng.
Y Bích Phong Túc lời nhanh :​
Hỡi Thần Trụ Đất, Tóc Xanh phải là : (9090)
Truyệt tình quyết liệt lời kia ?
Tôi mang về Dớt lời thưa tâu trình.
Ngài chẳng thay đổi sự tình,
Đổi thay tình, kẻ ấy lòng thanh cao.
Ngài biết bất cứ lúc nào,
Điên Giận thần nữ cũng theo anh mình.(Erinyes)​
Thần Rung Chuyển Đất mới rằng :​
Y Bích Thần nữ, lời nàng chính trung,
Hay làm sao kẻ đưa tin,
Biết cho số phận phải tin rõ ràng. (9100)​
Ta dù tim óc bực mình,
Cải rằng số phận ta ngang cùng Ngài.
Điều tranh có thắng với ai,
Cũng gây xào xáo, những lời sân si,
Hôm nay bực bội dẫu vì,
Thì thôi, ta cũng nhường đi theo Ngài.
Nhưng ta nói trước nàng hay,
Lời sắt đanh thốt thẳng ngay thật lòng,
Dù Quán Trí ban chiến công,
Hạ Cơ, Mai Hạc, hay Thần Hỏa Sơn, (9110)​
Có tha cho thành Ý Long,
Chối từ triệt hạ An Kinh phá thành,
Thì ta không hết nguôi hờn.
Nói xong từ giả binh đoàn An Kinh.
Lặn mình biển cả mênh mông,
Đạt Liên nuối tiếc trong lòng Hải Vương.
Khi ấy Dớt nói An Long :​
Phổ Bút con hãy đến nơi chiến trường (Phébus)
Đến Hải Tô, tướng mũ đồng,
Thần Rung Đất lặn vào vùng Biển Linh. (9120)
Tránh ta cơn giận bất bình,
Nếu không động địa, thiên sơn kinh hồn.
Các chư thần cõi địa không,
Quanh Thần Cồ Nốt cũng còn thấy nghe.
Biết điều mà nhịn ta hè !
Mồ hôi khỏi đổ, đầm đìa cuộc tranh.
Này con, đây thuẩn tua vàng,
Lắc lư thật mạnh, kinh hoàng An Kinh.
Hải Tô con chữa cho lành,
Khơi lên chí khí, dục chàng hăng say. (9130)​
Rượt An Kinh sợ chạy dài,
Huệ Lan Cầu, đến thuyền nơi bãi bờ (Hellespont),
Rồi ta sẽ nghĩ cách cho,
Sau khi kinh sợ bơ phờ hụt hơi.
An Long lẳng lặng nghe lời,
Rời Y Đa thoáng tung trời bay cao,
Như diều hâu bắt bồ câu,
Thoáng nhanh như bóng chim mau nhất trời.
Biam hoàng tử thấy nơi,
Hải Tô nằm liệt đã ngồi thở ra. (9140)
Trái tim trở lại chan hòa,
Chung quanh đồng đội biết là những ai,
Thở đều hết đổ mồ hôi,
Từ khi bè bạn khiên vai, vực hồn.
An Long đã đến gần bên :​
Hải Tô sao ở xa quân chiến trường.
Ngồi đây, hơi sức chẳng còn,
Phải chăng người bị chấn thương nơi nào ?
Hải Tô tướng Mũ Đồng Thau ,
Lời rằng : Ngài vị Thần nào đến đây ? (9150)​
Đánh thuyền chiến Ngài có hay ?
Ti đang giao đấu hăng say bên thuyền,
An Bắc bê đá bên đướng,
Ném tôi trúng ngực chấn thương khí hùng.
Tưởng rằng đã xuống âm cung.
Tưởng rằng đã trút linh hồn hôm nay.
An Long Viễn Kích lời ngay :​
Nâng cao dũng cảm từ nay trong lòng.
Thần Vương phái ta hộ thân,
Từ Y Đa giáng xuống trần giúp ngươi. (9160)​
Kiếm thần Phổ Bút sáng ngời,
Chính ta từng đã giúp người lâu nay.
Giúp thành Troa vững bền này.
Ngựa xe ta lại từ đây đánh thuyền.
Ta đi phía trước mở đường,
Buộc An Kinh phải quay lưng chạy dài.
Một lời hừng chí hăng say,
Làm bừng dậy kẻ chăn bầy, khiển quân.
Như ngựa đứng mãi lâu năm,
Cho bao lúa mạch máng ăn ngày ngày. (9170)
Vượt ra ngoài vất cương dây
Vó dần nện đất, muốn phi ra đồng.
Bởi quen tắm mát dòng sông.
Ngẩng cao đắc thắng, rung rinh lắc bờm.
Tin sức gối, chân phi nhanh,
Đến đồng quen thuộc bãi xanh ngày ngày.
Hải Tô cũng thế nhanh tay,
Dục người binh kỵ quất roi lên đường.
Như nai rừng, như sơn dương,
Bị đàn chó với nông dân đuổi gần. (9180)
Cứu nguy nhờ đám rừng ngàn,
Một đồi dốc ngược khó khăn leo trèo.
Thoát nguy chưa bị phóng lao,
Lao xao tiếng thợ săn gào đâu đây.
Bổng sư tử hiện lối đi,
Hoảng hồn tức khắc, lưng quay cắm đầu..
Đa Niên trong thế đuổi thù,
Đang đâm gươm, phóng ngọn lao kiên cường.
Hải Tô bỗng tiến xua quân,
Kinh hồn, dũng cảm trong lòng tiêu tan. (9190)
Thọ Kha công tử An Mông (Thoas con Andrémon),
Tinh Liên dũng sĩ hùng anh tuyệt vời,(Etoiliens)
Ném lao cận chiến toàn tài,
Hội trường biện luận, mấy ai tranh hùng.
Thọ Kha nói với ba quân :​
Chao ôi, trước mắt lạ lùng hay chăng ?
Hải Tô mới bị đả thương,
Giờ đây xuất hiện, vận đen hết rồi.
Bấy lâu mơ ước một lời,
Hải Tô bỏ mạng, tay người hùng anh. (9200)​
An Bắc công tử Thế Môn,
Thần linh nào đã cứu giùm Hải Tô.
Nếu mà như vậy đáng lo,
Đa Niên từng đã mỏi giò bao phen.
Nếu không có Dớt Sấm Vang,
Hắn không thể đứng đầu quân kiêu hùng.
Vậy thì nghe lệnh tôi rằng :
Hậu quân lui giữ dàn quân trước thuyền,
Tiền quân dũng cảm chận đường.
Ngọn lao đối mặt sẵn sàng xông lên. (9210)​
Tôi tin dù hắn nhiệt tình,
Cũng không dám tiến sâu vòng quân ta.
Mọi người nghe lệnh truyền ra,
Theo chân An Bắc, cùng là Tựu Xệ,(Teuxer)
Mê Long, Mê Giác, Anh Nê (Mérion, Mégès, Idoménée)
Sức như Thần Chiến bốn bề kiên gan.
Dàn quân đội ngũ sẵn sàng,
Hải Tô đối mặt, chận đường Troa quân.
Hậu quân lui giữ thuyền dinh,
Hải Tô tiến trước, Troa binh theo hàng. (9220)
An Long tiến trước trận tiền,
Đôi vai che khuất, bóng sương mây mù,
Tay cầm khiên quỷ dọa hù,
Chòm lông lỏm chỏm, viền ngù lạ thay.
Do Thần Hỏa Thái vẽ bày,
Dâng Thần Vương để ra uy kinh hoàng.
An Long khiên trước mở đường,
Đạt Liên chờ đợi, lệnh truyền cất cao,
Nỏ cung tới tấp, tên, lao,
Từ tay dũng mãnh tung vào thịt da. (9230)
Bao người sẽ gục máu nhòa,
Bỗng tên đang bắn chợt sa đất liền,
Thần An Long đỡ khiên lên,
Hai bên khiên ngã thanh niên từng đàn.
Đội binh kỵ mã Đạt Liên,
Thần An Long lắc tấm khiên thét gào,
Đạt Liên ngực bỗng xuyến xao,
Mê man chí khí anh hào tiêu tan.
Như đàn bò, như cừu đàn,
Đến giờ vắt sữa bóng đêm vắng người. (9240)
Bị hai mãnh thú đuổi dài,
Quay đầu trốn chạy xa nơi trận tiền,
Thần An Long giúp Troa quân,
Giao tranh phân tán, từng chùm cụm co,
Hải Tô giết Xích Chi Ô (Stichios)
Đạt Kê Sĩ, tướng Bồ Thiên giáp đồng. (Arkésilaos, Bòtiens)
Bạn Mê đại hiệp trung thành (Ménesthée).
Anh Nê giết An Đốc và cùng Mê Đông (Énée, Iados, Médon)
Mê Đông, Ô Lê tướng quân (Médon con Oilée)
Là em An Bắc con dòng thiếp thê. (9250)
Ở Phi La Kiệt xa quê (Phylakès)
Giết anh chính mẫu, chẳng về quê hương,
An Đốc tướng A Thê Niên (Athénien, Nhã Điễn Thành)
Phê Lô công tử vốn dòng Bu Lô (Sphélos,Boucolos).
Bồ Ly Kiệt giết Âu Chi Ô, (Polytès, Echios)
An Thế Nô giết Ni Ô hàng đầu. (Agénor, Clonios)
Bá Lê đánh Đới từ sau (Pâris, Deiochos),
Quay đầu toan tránh, ngọn lao xuyên mình.
Quân Troa lột giáp lao khiên,
An Kinh kẹt giữa hào tường dốc cao. (9260)
Kinh hoàng luồng lách lũy sau,
Hải Tô cất tiếng thét gào vang vang :​
Hãy mau xông thẳng chiến thuyền,
Bỏ qua thây địch, chớ dành giáp khiên,
Ai mà ta thấy xa thuyền,
Hãy lo án tử ngay trên chiến trường.
Người thân thiêu xác chớ hòng,
Xác thân chó xé trước thành chúng ta.
Dứt lời quất ngựa xông pha,
Quân Troa tề chỉnh ngựa, xa theo hàng. (9270)
Tiếng la kỳ diệu vang vang,
Thần An Long đẩy lấp bằng hào sâu.
Quân Troa tràn tới tiến mau,
Đường đi rộng một ngọn lao phóng tầm,
Sức Thần đánh bạt bức tường,
Dễ dàng như trẻ, cát vàng dựng chơi,
Thấp cao thành quách lâu đài,
Vung tay chân phá, thích trò chơi vui.
Sức Thần Phi Tiễn trò đời,
Bao công xây dựng sức người gian nan. (9280)
Đạt Liên, thần phá nát tan,
Vội vàng chạy trốn, dừng chân trước thuyền.
Giơ tay cầu đấng thiêng liêng,
Cùng nhau cầu nguyện rủ lòng xót thương.
Ninh Tô Chiến Xa Lão Vương,
Quân Sư binh tướng xướng lên lời cầu,
Đôi tay vươn lên trời cao :​
Dớt, Cha dân sống đất màu Đạt Gô,
Tế Ngài đùi béo dê bò,
Gật đầu hứa hẹn Ngài cho khải hoàn. (9290)​
Nhớ chăng Thần Chủ Thiên Sơn,
Ghi lòng chớ để tai ương kinh hoàng,
Quân Troa đánh bại Đạt Liên.​
Dứt lời tiếng sấm Thần Vương tức thời.
Nghe Ninh Tô cầu khẩn lời.
Quân Troa nghe sấm vang trời thêm hăng.
Xông vào đánh quân An Kinh,
Không còn nghĩ đến giao tranh trên đường.
Đổ lên như ngọn sóng tràn,
Vào con thuyèn giữa biển ngàn sóng lên. (9300)
Gió làm ngọn sóng dâng dâng,
Quân Troa hò hét vang vang vượt tường.
Thúc xe ngựa phía chiến thuyền,
Tay hai lao nhọn mở đường giao tranh.
An Kinh trên chiến thuyền đen,
Ngọn sào dài chỉa đánh quân tiến gần,
Mỏ neo chùm đánh phản công,
Đinh ba chỉa nhọn mũi đồng đả thương.
Ban Tuấn xa những con thuyền,
Không nghe giao chiến hai quân sáp gần. (9310)
Chữa Âu Dương trong trại dinh,
Kể bao chuyện phím để làm bớt đau,
Rưới lên thuốc vết thương sâu,
Làm cho bạn bớt đau, mau chóng lành.
Nhưng khi thấy bóng Troa quân,
Vượt tường xông tới Đa Niên chạy dài.
Đập đùi than nói: Chao ôi !
Âu Dương, tôi chẳng thể ngồi mãi đây,
Chiến trường lan rộng ác thay,
Này anh gọi kẻ hầu sai giúp mình. (9320)​
Tôi còn đi gặp An Sinh,
Thử khuyên chàng đánh giúp mình được chăng.
Biết đâu thần giúp ngấm ngầm,
Khuyên chàng lay chuyển lương tâm giúp giùm.
Lời từ người bạn thiết thân,
Dễ dàng can gián, khuyên răn được lòng.
Nói rồi vội vã đi nhanh.
An Kinh củng cố phản công vững vàng,
Quân Troa quân số ít hơn,
Nên không thể chọc thủng xuyên đội hình. (9330)
Thẳng vào khu vực thuyền dinh,
An Kinh cũng chẳng đẩy dần địch quân.
Như dây đo mực cột buồm,
Trong bàn tay thợ khéo tinh lành nghề.
Nhờ lời Thần Nữ A Tê Nê,
Quân bình lực lượng hai bề chiến tranh.
Mỗi quân bảo vệ thuyền mình,
An Bắc anh dũng đánh cùng Hải Tô,
Quanh thuyền vất vả đôi co,
Hải Tô chẳng tiến được vô đốt thuyền. (9340)
Ly Tô công tử xông lên (Calétor con Clytios),
Tay cầm ngọn đuốc vừa toan phóng vào,
An Bắc đâm một ngọn lao,
Trúng ngay giữa ngực ngã nhào đuốc lăn.
Thấy thân thuộc gục bụi trần,
Hải Tô thét cứu người thân giúp mình:​
Troa quân, Ly Siên, Đạt Đa Niên,
Kiên cường chớ bỏ cuộc tranh nơi này,
Cứu Ly Tô công tử ngay,
Chớ nên để địch cướp này giáp binh. (9350)
Nhắm An Bắc phóng lao đồng,
Nhưng lao không trúng lại nhằm người bên,
Mác Tô, công Tử Ly Phong,(Mastor con Lycophron)
Cận hầu An Bắc bao năm trung thành,
Từ Sĩ Thai xin trú thân, (Cythère)
Sau khi giết chết người vùng Si Thai.
Hải Tô ném trúng bên tai,
Ngã từ khoang lái lăn rơi xuống thuyền.
An Bắc giận nói cùng em :
Ta vừa mất một chiến binh trung thành. (9360)​
Từ Si Thai làm khách tân,
Ta luôn quý tựa người thân cung đình.
Hải Tô vừa giết kiêu căng,
Cung đâu ? quà của An Long tặng truyền.
Tựu Xê hiểu ý anh liền,
Nỏ cung cùng với ống tên ấp đầy.
Nhanh tay bắn ngọn tên bay,
Trúng nhầm quân địch đang vây đánh thuyền.
Trúng Ly Tốt đang cầm cương (Clitos con Pisénor)
Nhọc nhằn hướng ngựa phía đông quân doàn. (9370)
Vui lòng Hải Tô, Troa quân,
Bỗng dưng một ngọn tên xuyên cổ mình.
Nơi không có giáp hộ thân,
Ngã lăn xuống đất, ngựa lồng quay xe.
Lắc lư âm ỉ tư bề,
Bồ Ly Đa Mạc đến kề nắm cương,
Giao cho Ất Ty Bồ Thiên (Astynoos con Protiaon),
Dặn dò nắm giữ lại cùng tiền quân,
Tựu Xê lại tiếp mũi tên,
Nhắm Hải Tô bắn tướng quân mũ đồng. (9380)
Trúng Hải Tô hẵn chiến công,
Sẽ làm kết thúc giao tranh bên thuyền.
Nhưng nào qua mắt tinh khôn,
Thần Vương chăm sóc tận tình Hải Tô,
Vinh quang không để dành cho,
Tựu Xê chiếm được công to chiến trường.
Chiếc cung vừa mới giương lên,
Thần Vương đã phá cho liền đứt dây.
Tên đồng mất hướng lạc bay,
Chiếc cung rớt xuống từ tay của chàng. (9390)
Rùng mình chàng nói với anh :​
Thế là phương án bắn cung chẳng thành,
Bởi vì có một thần linh,
Phá tan từ gốc, giật cung tay cầm.
Chiếc cung dây, sáng mới tinh,
Sẵn sàng chịu đụng nhiều tên bắn liền.
An Bắc nói với cùng em:​
Em ơi hãy để cung tên trên thuyền,
Nếu bàn tay một vị thần,
Với Đa Niên đã sinh lòng ghét ghen. (9400)
Hãy cầm lao sắc nhọn lên,
Với khiên vai đánh Troa quân tiến gần,
Động viên quân giữ chiến thuyền,
Chẳng nên để hở quân Troa chiếm gì,
Giúp quân đẩy lùi địch đi.
Tựu Xê vội cất cung này vào trong.
Vác khiên bốn lớp da trơn,
Trên đầu đội chiếc mũ đồng rung rinh.
Ngù lông chớp đuôi ngựa xinh,
Cầm lao kiêu dũng bước gần kề anh. (9410)
Hải Tô thấy người bắn tên,
Chẳng còn hiệu lực gọi quân thét gào :​
Troa quân, Ly Siên hãy mau,
Trổ tài cận chiến cùng nhau đánh thuyền,
Nam nhi chí khí can trường,
Cung tên thiện xạ, dây trương đứt rồi.
Thần Vương giúp chúng ta thôi,
Ra tay giảm sức cho người Đạt Liên.
Giúp ta chiến thắng vinh quang,
Hãy mau xông trận tiến lên đốt thuyền. (9420)​
Nếu ai trúng ngọn lao tên,
Vinh quang số phận, chiến trường hy sinh.
Quyết tâm bảo vệ kinh thành,
Vợ con, nhà cửa yên lành còn nguyên.
Đạt Liên trốn chạy xuống thuyền,
Rút quân về đất cha ông chẳng con.
Đôi lời khích lệ chí hùng,
Tăng thêm dũng khí, liều thân chiến trướng.
An Bắc cũng khích lệ quân :​
Nhục thay quân đội Đạt Liên trận tiền, (9430)
Phải hy sinh tự cứu mình,
Cứu đoàn thuyền thoát khỏi vòng hiểm nguy.
Nếu Hải Tô chiếm thuyền đây,
Chúng ta đi bộ về, này được sao ?
Hải Tô khích lệ quân mau,
Thúc quân tính tiến đốt vào thuyền ta.
Hắn nào mời mọc múa ca,
Hắn đang thúc dục gào la chiến trường.
Chúng ta không chước nào hơn,
Chúng ta sức mạnh quyết cùng tử sinh. (9440)​
Còn hơn lây lất bên thuyền,
Tàn sát bởi kẻ sức còn kém hơn.
An Bắc kích thích quân binh.
Hải Tô lại diệt tướng hùng Phổ Quân. (Phocéens)
Chế Đô, Pê Ri tướng công. (Schédios con Périmédès)
An Bắc đâm Lao Mạc tướng hùng bộ binh (Laodamas)
Con An Thế Công hiền thần,(Anténor)
Bồ Ly đoạt giáp bạn hiền Phi Lê.(Philée)
Ô Tuấn vùng Si Liên, (Otos, Cyllène)
Tướng quân thủ lĩnh Kiếm Quân anh hùng. (Épéens) (9450)
Mê Giác thấy thế phóng thương,
Bồ Ly cúi xuống, bay ngang trên mình.
Thần An Long cứu số phần,
Ban Thước công tử ở hàng tiền quân. (Panthoos)
Nhưng trúng Khoa Mộc ngang mình, (Croismos)
Tử thương lăn xuống, ngã ầm bụi tung.
Mê Giác tiến lột vai khiên,
Nhưng Đô Lộc đã phóng thương đến chàng,
Lâm Bô dòng Lao Mê Đông (Lampos, Laomédon),
Giỏi nghề lao mác kiên cường đấu tranh. (9460)
Đâm Mê Giác trúng giữa khiên,
Nhưng nhờ bộ giáp dày đồng che thân,
Gọn gàng với những đường cong,
Quà vua Âu Tích, bạn vàng Phi Lê, (Euphétès, Philée)
Từ Âu Phia, sông Sen Lê, (Éphyre, Selleis)
Tặng cho bộ giáp, bạn bè thiết thân,
Để khi vào trận chiến chinh,
Phi Lê truyền lại cho con giáp đồng.
Giáp dày cứu được anh hùng,
Mê Giác nhanh chóng trả đòn đối phương. (9470)
Đánh mũ đuôi chớp bọc đồng,
Ngọn lao sắc cắt ngù lông gãy lìa.
Chóp tím lấp lánh lông tua,
Rớt rơi xuống đất, bụi mờ tung bay.
Mê Giác vững chải chân tay,
Nắm phần chắc thắng trong ngày vinh quang.
Mai Ninh Lạc đến giúp chàng,
Đâm Đô Lộc trúng sau lưng giáp đồng,
Xuyên qua giữa ngực ngã lăn,
Hai chàng xông tước khiên đồng vai lưng. (9480)
Hải Tô kêu gọi người thân,
Mắng Mê La Níp đã không giúp giùm. (Mélanippos)
Con trai Hi Kê Ta Ông, (Hikétaon)
Trên đồng Bặt Cốt quản chăn trại bò, (Percote)
Khi An Kinh vây kinh đô,
Hắn về cứu giúp cơ đồ vua Biam.
Nổi danh sức mạnh ngang tàng,
Vua Biam coi trọng như con trong nhà :​
Mê La Níp bỏ cuộc à ?
Không đau trước cảnh anh nhà họ thân. (9490)​
Đô Lộc bị lột giáp binh ?
Theo ta phải đánh sát gần Đạt Liên.
Phải giết sạch chúng trận tiền,
Chớ nên để chúng công thành Ý Long.
Gieo bao tang tóc toàn dân.
Nói rồi tiến bước nhanh chân đến gần.
Theo sau cận vệ như thần.
An Bắc Lớn cũng khích lòng Đạt Liên:​
Nam nhi chí khí anh hùng,
Nâng cao phẩm chất trước nghìn gian lao. (9500)​
Biết tự trọng cứu lấy nhau,
Chúng ta chẳng có đường nào quang vinh,
Khi bỏ trốn, chạy lùi binh,
Chẳng ai cứu giúp sự tình ai bi.
Tướng quân xúc động với lời,
Trước thuyền lao chỉa, sáng ngời giáp binh.
Thần Vương phù hộ Troa quân,
Mai Ninh Thanh Chiến khích lòng thanh niên:(Ménélas)*
Anh Thy Lộc sức anh hùng,(Antilochos)
Trẻ trung chân dẻo ai bằng hơn em, (9510)
Thử quân Troa một phát xem?
Anh Thy Lộc vội nhảy liền nhanh ra,
Nhìn quanh vung giáo sáng lòa,
Quân Troa hoảng sợ lùi qua tránh chàng.
Lao không vô hiệu hoàn toàn,
Trúng Mê La Níp ngang lồng ngực thân.(Mélanippos)
Ngã ầm vang mắt tối sầm,
An Thy Lộc vội nhanh chân lao vào,
Như chó săn lao vào hươu,
Vừa rời hang động, bị nhiều vết thương. (9529)
Tứ chi riệu bởi thợ săn,
An Thy Lộc đã xông dành lao khiên,
Hải Tô xông tới chặn đường:​
Mê La Níp Bốt đau thương thế này,
Hắn còn cướp vũ khí đây,
Trước Hải Tô khó chóng chày thoát thân.
An Thy Lộc dù chạy nhanh,
Nhưng chàng cũng sợ đối cùng Hải Tô.
Như con dã thú xông vô,
Giết chó săn, kẻ chăn bò trại nuôi. (9530)
Nên nhanh chân chạy rút lui,
Trước khi tụ tập đoàn người vây quanh,
Ninh Tô công tử quên mình,
Ngọn lao tới tấp, chàng tung chạy dài.
Quân Troa hò hét inh tai.
Bên đồng đội lại khoan thai, an toàn.
Như sư tử thích thịt tanh,
Quân Troa xông xáo xả lăn chiến thuyền.
Thỏa điều mong ước Thần Vương,
Dục lòng hăng hái, chiến trường xung phong. (9540)
Khiến Đạt Liên phải nén lòng,
Ngược điều khích lệ tinh thần địch quân.
Bởi vì Ngài muốn quang vinh,
Hải Tô ném được một lần đuốc thông.
Lửa thiêng cháy một thuyền cong,
Cho Thần Thê Túc thỏa lòng cầu xin. (Thétis)
Cũng điều Thần Dớt muốn nhìn,
Mắt Ngài muốn thấy lửa trên một thuyền.
Để rồi đến lượt Troa quân,
An Kinh rượt đuổi xa thuyền vinh quang. (9550)
Sôi lòng Thái tử vua Biam,
Như Thần An Thiết múa thương tung hoành.
Như non cao lửa bừng bừng,
Miệng sôi bọt, mắt long lanh chau mày.
Mũ đồng kinh hãi lung lay,
Dớt dâng tinh khí ngút đầy chí trai.
Cho chàng vinh dự riêng thôi,
Bởi vì số phận, nạn tai đã gần.
Hải Tô còn sống bao lăm.
Chết vì sức mạnh con dòng Pê Lê. (9569
Hộ trì bởi A Tê Nê,
Hải Tô muốn chọc khiên che tuyến đầu.
Nơi đây đông đảo quân thù,
Khó lòng chọc thủng, chàng dù hăng say.
Như thành chắc chắn lại dày,
Khác gì núi hiểm, non xây cao vời.
Bên bờ biển sóng tung trời,
Sóng xô, gió hú, vẫn thời kiên gan.
Đa Niên cũng thế, anh hùng,
Chống quân Troa chẳng nhọc nhằn sợ chi. (9570)
Hải Tô tung lửa như phi,
Xông lên như sóng xô đi chiến thuyền.
Sóng lên từ gió dậy tràn,
Con thuyền ngập lớp bọt tung trắng đầy.
Gió gào rít ngọn buồm dây,
Tâm hồn thủy thủ như cày sợ run.
Lướt qua cái chết sóng tràn,
Quân Đa Niên thoáng ngực lồng xót đau.
Như sư tử đến đồng sâu,
Mục đồng chưa biết đương đầu nguy nan. (9580)
Nghìn bò gậm cỏ trên đồng,
Chỉ lo bò có sừng cong quặp dài.
Đứng đầu đàn hay cuối bầy.
Nhưng sư tử lại xông ngay giữa đàn,
Vồ con mồi chết đau thương,
Cả đàn hoảng sợ hoang mang oai hùm.
An Kinh cũng thế hoảng hồn,
Hải Tô giết một My Niên gần kề (Mycénien)
Pê Ri công tử Cô Phê (Périphètès, Coprée)
Vua Âu Chi Thệ phái về giúp binh.(Eurysthée) (9590)
Sức Hùng Anh Kiệt anh hùng,
Cha bình thường có con ngàn lần hơn.
Đủ tài thao lượt sức nhanh,
Thông minh tài trí tiếng tăm nhất vùng.
Hải Tô cơ hội quang vinh,
Vận xui chàng lúc quay lưng vấp mình.
Mép tấm khiên mang che thân,
Ngã lăn che mắt mũ đồng thái dương.
Hải Tô nhìn thấy mắt tinh,
Xông lên đâm chết giữa thân ngực mình. (9600)
Giết chàng chết giữa đội hình,
Chẳng ai chống đỡ, hoảng kinh vô cùng.
An Kinh lùi tuyến đầu thuyền,
Bên lều quân lại dừng chân đối đầu.
Dàn, quân siết chặt bên nhau,
Nỗi lo xấu hổ, gọi nhau bên thuyền.
Ninh Tô Vương Lão trước tiên,
Gọi tên danh tánh phụ thân từng người.
Tay sờ đầu gối ỉ ôi:
Nam nhi chí khí chớ nguôi trong lòng. (9610)​
Trước người khác, giữ tinh thần,
Mỗi người: con, vợ, tiếng danh, tiền tài.
Mẹ cha sống hay thác rồi,
Sống còn vì họ ở nơi trận này.
Con ơi hãy phản công ngay,
Chẳng đường nào trốn, chẳng tày thoát thân.
Lời ông kích thích tinh thần,
Quán Trí Thần nữ xua sương diệu huyền.
Mắt nhìn ánh sáng bùng lên,
Sáng con thuyền, sáng chiến trường cân vai. (9620)
Hải Tô hò hét inh tai,
Kẻ đồng đội vẫn đứng ngoài cuộc tranh.
Kẻ gần thuyền mới xáo xông,
Riêng An Bắc vẫn quyết tâm giữ thuyền.
Không lùi bước đứng xa nhìn,
Trên khoan thuyền sải bước chân chẳng ngừng.
Câu liêm xung kích tay cầm,
Dài hăm hai sải, đầi chùm mũi neo,*
Như chàng kỵ sĩ tài cao,
Trong bầy ngựa quý chọn nào bốn con. (9630)
Kết thành bầy, phi băng đồng,
Qua thành phố rộng người đông qua đường,
Bao nhiêu phụ nữ, đàn ông,
Mắt nhìn thán phục, bước chân ngựa về.
Chàng như kỵ mã lành nghề,
Nhảy từ ngựa nọ, ngựa kia trên đường,
An Bắc nhảy trên các thuyền,
Tiếng chàng vang dậy hùng hồn trời xanh,
Thét Đa Niên giữ thuyền dinh,
Hải Tô cũng chẳng giáp binh đứng cùng. (9640)
Như chim ưng dữ hung hăng,
Lao đầu xuống đánh đàn chim ăn mồi.
Bên bờ sông dọc bải bồi,
Thiên nga, cò, hạc, ngỗng trời cổ cao.
Hải Tô xông tới thẳng lao,
Chiến thuyền tay lái sơn màu thanh thiên,
Diớt, bàn tay đẩy vô biên,
Dục lòng binh sĩ trận tiền tiến công.
Bên thuyền cuộc chiến bừng bừng,
Nhảy vào cận chiến nhiệt tình càng tăng. (9650)
Như chàng lính trẻ sức hăng,
Chẳng nề mỏi mệt, so gươm đối đầu,
Mỗi ngươi một ý trong đầu,
An Kinh chẳng thoát, thà liều hy sinh.
Troa quân ôm ấp trong lòng,
Đốt thuyền diệt hết tan tành An Kinh.
Hai quân giáp mặt đầu tranh,
Mỗi bên một ý quyết dành hơn nhau.
Hải Tô sờ chiếc lái tàu,
Con thuyền xanh vượt sóng đào biển khơi. (9660)
Đưa Bồ Sĩ Lạc đến nơi, (Protésilas)*
Quê hương vĩnh biệt, không lui gót về,
Quanh thuyền tàn sát hai bề,
Hai quân thù địch cận kề giết nhau,
Chẳng còn tên nhọn thanh lao,
Cận kề rìu, búa, gươm, đao hai đầu,*
Dao găm chuôi thắt dây mầu,
Tay đâm, thân đổ, máu đào đất đen.
Hải Tô nắm lấy lái thuyền,
Không buông, nắm giữ tượng hình hoa văn.* (9670)
Thét quân mang đuốc lửa nhanh,
Siết hàng ! tiếng thét chiến tranh vang lừng:​
Dớt cho ta phút huy hoàng,
Đền bù đáp lại bao lần khó khăn,
Con thuyền Đạt Liên xâm lăng.
Đến đây bất chấp thần linh hộ trì,
Cho ta gian khổ ai bi,
Xưa các nguyên lão cũng vì hòa thân,
Giữ tay ta đã cản ngăn,
Khi ta định đánh sau lưng đoàn thuyền. (9680)​
Thần Vương dội tiếng vang lừng,
Giờ đây Ngài lại đích thân dục lòng.
Quân Troa nghe nói càng hăng,
Xông lên thẳng đánh An Kinh kiên cường,
An Bắc không chống nổi tên,
Rời khoang tưởng chết, núp bên ghế dài.*
Ghế bảy chân núp đợi ai,
Nhảy vào châm lửa chàng thời đánh văng.
Cất tiếng kêu gọi An Kinh:
Bạn ơi, các bạn anh hùng Đa Niên. (9690)​
Tay chân Thần Chiến kiên cường,
Dục lòng ý chí vững bền đấu tranh.
Phía sau ai giúp gì chăng ?
Hay chờ thành lũy vững bền nào hơn ?
Chở che tai họa trận tiền,
Quanh ta chẳng có thành quanh lũy hào.
Chẳng dân ủng hộ giúp nhau,
Trước mắt quân địch khiên lao giáp đồng.
Xa quê, biển cả viễn chinh,
Cứu tinh ánh sáng chỉ còn tay ta. (9700)​
Chớ nên hèn yếu kêu ca.
Lời chàng kích động lan xa chiến thuyền.
Quân Troa tiến bước lại gần,
Mang theo ngọn đuốc, đẹp lòng Hải Tô,
An Bắc đâm ngã gục nhào,
Mười hai người trước ngọn lao cán dài.​

(Còn tiếp)

Kỳ tới:
Thi Ca khúc XVI. CA KHÚC PATROCLE.(câu 9707 đến 10728)

Sử thi Iliade Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh diễn ca thơ lục bát từ 2006-2011, so sánh tham khảo từ nhiều văn bản Pháp, Anh, Hy Lạp, Khuê Văn Xb tại Paris . Bản nhuận sắc phổ biến internet 2017.

CHÚ THÍCH

8955 : Thémis (Thể Mi) có danh hiệu Má Hồng, Hồng Diện. Là Nữ Thần chủ tọa các Hội Nghị. Theo Hésiode (Théogonie,901ss) là vợ thứ hai của Zeus. Trên các Toà Án Tây Phương thường có điêu khắc Thần Thémis cầm cán cân công lý.

9075. Cronos Thần Thời Gian lần lượt nuốt năm con vào bụng: Hestia, Déméter, Héra, Hadès, Poséidon. Sinh đến lượt Zeus, Rhéa đánh tráo cục đá cho Cronos nuốt và đem con út nhờ nuôi ở đảo Crète. Zeus llớn lên đánh thắng cha cứu các anh chị. Zeus là em nhưng cai trị tất cả, không như luật gia trưởng người trần.. Iris có danh chiệu Chân Gió, Phong Túc.

9508 Ménélas có danh hiệu Thanh Chiến. Tiếng kêu vang lừng chiến trường.

9628. câu liêm xung kích dài 22 sải là 22 khủy tay.

9661 Protésilas vua Thessalie vị tướng Hy Lạp đầu tiên nhảy lên bờ và bị tử trận.

9670 Hoa văn chạm hình thần tôn giáo cổ đại Athénée hay Apollon gắn trên lái thuyền.

9686. Ajax bước xuống ghế người lái thuyền, thấp hơn khoang để tránh tên lao.
 
Sửa lần cuối:
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC XVI - CA KHÚC PATROCLE (câu 9707 đến câu 10728)

TÓM LƯỢC: Achille đồng ý cho Patrocle mượn vũ khí, mang quân Myrmidons tham chiến. Một con thuyền Hy Lạp bị đốt cháy, Patrocle tiến đánh quân Troie chạy tán loạn, Patrocle giết tướng Sarpédon. Chiến đấu ác liệt quanh xác Sarpédon. Trái lời khuyên Achille, Patrocle đuổi theo quân Troie đến tận chân thành Ilion, đánh Hector, giết Kébron. Thần Apollon đánh Patrocle rơi vũ khí, Hector giết Patrocle và đuổi theo Automédon.

Quanh thuyền cứ thế đánh hoài, (9707)
Lúc này Ban Tuấn trước người tướng quân. (Patrocle)
Lệ nồng rơi, mặt tối sầm,
Như từ hốc núi đen ngòm, suối tuôn. (9710)
An Sinh xúc động lòng thương, (Achille)
Cất lời: Ban Tuấn nỉ non thế nào ?
Như em bé gái khóc lâu,
Đòi xin mẹ bế, chạy theo lệ đầy.
Nắm chặt áo, giữ chân đi,
Khóc thương nhìn mẹ, mẹ hoài bế lên.
Ban Tuấn ơi, như bé con,
Mà dòng nước mắt dịu hiền ai bi,
Hay lòng muốn nói điều chi,
Nguyệt Mi Đông, hay có điều gì về ta ? (Myrmidons) (9720)
Pê Lê, Mê Tuấn, tin nhà Phi Thi. (Pélée, Ménoétios, Phthie),
Hai Cha mà có mất đi,
Chúng ta đau đớn sầu bi vô cùng.
Hay đau xót quân An Kinh,
Bên thuyền, Vua trái công bằng tác tan.
Giải bày uẩn ức tâm can,
Để cho hai chúng ta cùng biết tin.
Nấc lời, Ban Tuấn mới rằng :
An Kinh sức mạnh ai bằng An Sinh. (9730)​
Giận hoài chi khiến đau thương,
Bao nhiêu dũng tướng bị thương trận tiền.
Tướng tài can đảm An Kinh,
Trúng thương nặng nhẹ, chẳng còn đấu tranh.
Đỗ Mạnh vạm vỡ cũng nằm,(Diomède)
Uy Lĩnh thương tích, lẫy lừng ngọn lao.(Ulysse)
An Gia Vương cũng đớn đau, (Agamemnon)
Âu Dương Bình bị thương vào vế chân.(Eurypyle)
Chung quanh lương tướng trung quân,
Tới thăm chăm sóc ân cần vết thương. (9740)​
An Sinh sao nỡ đành lòng,
Tôi cầu thần chẳng cứng lòng như anh!
Giận hờn anh giữ tâm can,
Chỉ là đức tính dã man vô cùng.
Làm sao cứu giúp nhân quần,
Khi anh không giúp An Kinh nạn nầy.
Đang tàn mạt, bất nhẫn thay,
Anh không xứng với giống nòi Pê Lê.
Với Thê Túc con Thủy Tề,
Biển lam, đá nghịch gần kề sinh anh. (9750)​
Nên anh cứng cỏi vô cùng,
Nếu lòng anh tránh số phần tiên tri,
Thần Vương đã đặt định gì,
Một lần mẹ đã thầm thì cùng anh.
Thì giao quân Nguyệt My Đông,
Tôi thay anh chiến đấu cùng địch quân.
Tôi như ánh sáng cuối cùng,
Cứu Đa Niên thoát khỏi vòng nguy nan.
Cho tôi mượn vũ khí anh,
Quân Troa sẽ bỏ giao tranh chạy dài. (9760)​
An Kinh đuối sức mệt nhoài,
Thở ra khoan khoái, phục hồi sức quân,
Bấy lâu địch thét chiến tranh,
Chiến trường mệt sức, quân mình sức sung.
Chúng ta sẽ đuổi về thành,
Xa thuyền, xa các trại dinh chúng mình.
Lời chàng tha thiết van xin,
Chẳng suy nghĩ, nói với lòng thẳng ngay,
Khẩn cầu vận mệnh xui thay,
Cho mình cái chết, nào hay tử thần. (9770)
Thở dài Phi Túc An Sinh :​
Than ôi ! Ban Tuấn, giống dòng Thần Vương,
Lòng ta chẳng sợ số phần,
Mẹ hiền chẳng lộ, sấm truyền tiên tri,
Lòng ta xâu xé sầu bi,
Kẻ vì quyền thế tước đi lấy phần,
Thưởng công gian khổ phá thành,
Chiếm giai nhân, phá tiếng danh chẳng nề.
An Gia quyền thế mọi bề,
Xem ta kẻ lạ, chẳng hề có công. (9780)​
Nhưng thôi, việc ấy đã xong,
Khó lòng giữ mãi, bực mình mãi thôi,
Lời ta hứa giận đến hồi,
Chiến thuyền uy hiếp, quân thời lâm nguy.
Này Ban Tuấn, khoát lên vai,
Giáp binh ta, dẫn quân thời giao tranh,
Nếu quân Troa hãm công thuyền,
Chỉ vì không thấy mũ đồng của ta,
Giật mình, chúng sẽ chạy xa,
Hải kinh run sợ, rơi sa hố hào. (9790)​
Nếu An Gia biết lỗi nào,
Giờ đây thương tích ngoài rào giao tranh.
Phu quân Hạ Cơ có dành, (Zeus)*
Vinh quang thì cũng chớ đừng đuổi theo.
Chớ say sưa trong hiểm nghèo,
Bề chi, ta sẽ mất nhiều thanh danh,
Chớ nên tiến đến gần thành,
Vì Thiên Sơn có vị thần hiện ra,
Thần An Long thương quân Troa,
Giúp cho chống đỡ từ xa kinh kỳ. (9800)​
Anh là đuốc sáng cứu nguy,
Để cho kẻ khác đuổi truy quân thù,
Quay lui chớ đánh vào sâu,
Thần Vương cha hỡi, khẩn cầu hiển linh.
Cùng Quán Trí Tuệ, An Long,
Họa tai giáng xuống Troa quân chạy dài.
Chẳng ai tránh được họa tai,
Cả Đạt Liên nữa, trừ hai chúng mình.
Chúng ta chiếm được khăn trinh*
Thiêng liêng thần thánh kinh thành Ý Long. (9810)
Trong khi đối đáp dài dòng,
An Bắc đang đấu mỏi mòn gian nan.
Những đường lao ý Thần Vương,
Lao quân Troa đánh bốn bên mũ đồng.
Quanh thái dương cú vang ầm,
Trúng mũ, quanh má, đỏ bừng mồ hôi.
Mỏi mê, nhờ tấm khiên vai,
Chắc dày che tấm thân người hùng anh.
An Bắc chẳng chuyển thay lòng,
Dù cho lao nhọn quanh mình như mưa. (9820)
Thở hơi hổn hển nặng nề,
Mồ hôi như nước đầm đìa chảy tuôn.
Khắp người đau đớn dần lan,
Chẳng còn hơi sức cho chàng thở ra.

Hát lên Thần Nữ Thi Ca,
Từ Thiên Sơn kể giùm ta sự tình,
Đuốc nào đốt cháy chiến thuyền,
Hải Tô vung chiếc lưỡi gươm đánh vào,
Trúng ngay chiếc cán cây lao,
Gỗ tần bì cũng đứt nhào cán cây. (9830)
An Bắc vung mảnh trong tay,
Mũ đồng rơi xuống thuyền dài kêu vang.
An Bắc lo sợ bàng hoàng,
Bao đường chiến đấu cắt ngang bởi thần,
Dớt Sấm Cao chỉ muốn dành,
Con đường chiến thắng cho quân Troa này.
An Bắc lùi bước chạy đi,
Quân Troa đã ném đuốc bay lửa hồng,
Lửa tràn lan phủ lái thuyền,
Bốc cao, xa thấy tầm nhìn An Sinh. (9840)
Vỗ đùi chàng nói bạn rằng:​
Ban Tuấn đứng dậy, lên mình ngựa ngay,
Ta đà thấy lửa thuyền đây,
Chớ nên để nó cháy lây các thuyền.​
Sẽ không về được quê hương,
Này đây vũ khí, khoát lên chiến bào,
Ta kêu tập hợp quân mau.
Vội vàng Ban Tuấn khoát vào trong thân,
Vũ khí chói lọi ánh đồng,
Khắp người giáp phủ đến phần khủy chân, (9850)
Giáp bạc hùng dũng oai phong,
Âu Ất truyền lại cháu con anh hùng, (Eaque)
Trang trí lộng lẫy đẹp xinh,
Sáng ngời như ánh sao băng trong trời,,
Gươm đồng nạm bạc đeo vai,
Tấm khiên chắc nịch với quai rộng vành,
Trên đầu oai dũng đặt lên,
Mũ đồng xinh tết một chòm lông đuôi.
Ngù lông lay động nghiêm oai,
Hai thành lao nhọn vừa hai tay chàng. (9860)
Là do Âu Ất trui rèn,
Bởi vì sức nặng mũi tròn thanh tao,
Chẳng dũng sĩ nào cầm vào,
Chỉ An Sinh mới múa lao vẫy vùng.
Cán tần bì núi Bê Long, (Pélion)
Sĩ Long Nhân Mã dày công mang về. (Chiron)
Tặng riêng cho vua Pê Lê,
Thanh lao danh tiếng, hẹn thề liệt oanh.
Chiến trường diệt những trai hùng,
Ô Mê Đông đã thắng yên ngựa vào (Automédon) (9870)
Người Ban Tuấn quý biết bao,
Sức tài phá giặc, công lao chiến trường.
Chàng đã cột xong yên cương,
Xích Thố, Bàn Thố ngựa thần tài năng. (Santhos, Balios)
Nhanh như gió cuốn dậm ngàn,
Mẹ là Hạc Mã, cha làn Tây Khuê,(Harpye, Zéphyre)
Sinh ra bên cánh đồng quê,
Ngựa mẹ gậm cỏ gần kề Đại Dương,*
Dắt Pê Đa Sốt ngựa hồng,(Pédasos)
An Sinh bắt lúc hạ thành Âu Thông (Éétion). (9880)
Ngựa hay theo gót ngựa thần,
An Sinh dục lính lên đường vũ trang.
Như bầy sói thích thịt tanh,
Bản năng dũng cảm khó lòng nói ra,
Sau khi cắn một nai già,
Tha lên núi thẳm hùa vồ xé ăn,
Má mồm ướt đẫm máu hồng,
Cả bầy rủ đến suối nguồn nghịt đen,
Liếm trên nước thẩm lưỡi mềm,
Ụa đầy những giọt máu hồng sát nhân. (9890)
Tim không một chút sợ run,
Bụng căng tròn ứ, thoả lòng no nê.
Quân Nguyệt My Đông hả hê,
Quanh bên Phi Túc kéo về xuất quân.
An Sinh thúc dục hùng hồn,
Ngựa người, khiên giáp lên đường tiến công.
Năm mươi thuyền chiến An Sinh,
Mỗi thuyền năm chục thanh niên bơi chèo,
Năm tướng điều khiển lược thao,
An Sinh thống lĩnh quyền cao bao trùm. (9900)
Nhất: Mê Nê Thước giáp đồng,(Ménesthios)
Con Xích Bạt Thước sông nguồn trời xa,(Sperchios)
Gái Pê Lê, Bồ Đô Ra.(Polydora)
Mơ Xích Bạt Thước sóng xa cõi thần,
Mối tình giao cảm thần linh,
Nhưng người đời gọi con dòng Bô Rê (Bores)
Pê Ri công tử cưới về, (Périère)
Món quà sính lễ hôn thê dồi dào,
Thứ hai dũng tướng Âu Đô, (Eudore)
Con nàng trinh nữ cầm thơ sắc tài. (9910)
Bồ Ly Mai múa tuyệt vời. (Polymède)
Phi Lạc nương tử duyên trời đong đưa, (Phylas)
Vị thần Hạc Mai say sưa,
Nghe nàng trong đội đồng ca nữ thần,
Đạt Thế Mỹ, Mũi Tên Vàng, (Artémis)
Yêu nàng vụng trộm, chiếu chăn gác lầu.
Vị Thần cho nàng cái bầu,
Sinh con tuyệt diệu, chạy mau hùng cường.
Ý Thy thần nữ hộ sinh, (Ilithyie)
Hài nhi đã thấy một vòng hào quang. (9920)
Âu Chi Lạc dắt về nhà, (Échélès)
Tặng cho của cải vật quà nghìn trăm.
Phi Lạc chăm sóc cháu thương,
Nuông chiều cưng quý như con sinh thành.
Thứ ba dũng tướng Phi Nam, (Pisandre)
Mai Mã công tử nổi danh thương đồng, (Maïmalos)
Tướng tài quân Nguyệt My Đông,
Chỉ thua Ban Tuấn tài năng chiến trường.
Thứ tư Bàn Phượng lão thần, (Phénix)
Thứ năm do Án Sĩ Đông anh hùng. (Alcimédon) (9930)
Công tử Lã Khê toàn năng. (Laercès)
Khi đoàn quân Nguyệt My Đông vào hàng.
Trước năm tướng lĩnh quân đoàn,
An Sinh sắp xếp rõ ràng phân minh.
Cất lời cương quyết kiên cường:​
Nguyệt My Đông hỡi, quần hùng có quên ?
Nếu quân Troa đến chiến thuyền,
Lời răn đe suốt thời gian ta hờn.
Có người lên án An Sinh,
Chao ôi khốn khổ, phải rằng mẹ anh. (9940)​
Nuôi bằng mật đắng thù hằn ?
Mà anh bất nhẫn giam chân quân mình ?
Trái lòng mơ ước bên thuyền,
Cũng không về với quê hương đợi chờ.
Thuyền ta ngang dọc hải hồ,
Chỉ vì hờn giận thấm vô trong lòng.
Ấy lời bàn tán ước mong,
Có người nguyền rủa gào lên nói hoài,
Bây giờ trước mắt mọi người,
Diễn ra sự việc như lời hằng mong. (9950)​
Ai người dũng cảm hùng anh,
Hãy xông lên đánh đuổi toàn quân Troa.
Lời chàng khích lệ xông pha,
Đoàn quân hăm hở tiến ra chiến trường.
Người người siết chặt như nêm,
Như người tránh gió sát tường cuồng phong,
Nguyệt My Đông thế giáp binh,
Mũ kề mũ, khiên giáp khiên bạn bầu.
Ngù lông lấp lánh sát nhau,
Người người chẳng thể cúi đầu kề bên. (9960)
Dẫn đầu Ban Tuấn , Ô Đông
Con tim nung nấu, một lòng quyết tâm.
Quân vừa rới khỏi trại dinh,
An Sinh vào láng mở hòm hoa văn,
Quà mẹ Ngân Túc nữ thần *
Cho người mang đến trên thuyền của con.
Y trang, chăn ấm, áo choàng.
Trong hòm một chiếc cúp vàng đẹp xinh.
Cúp riêng chỉ một mình dùng,
Dâng Thần Vương cốc rượu hồng lễ nghi. (9970)
Dùng diêm sinh tẩy trần ai,
Rồi chàng rửa sạch cọ kỳ nước trong.
Rót vào cúp rưọu đỏ hồng.
Giữa sân rảy rượu mắt nhìn trời xanh.
Thần Vương Sấm Sét đã trông ,
Thấy chàng cầu nguyện cõi trần phù sinh.​
Ông Hoàng Dớt, Thần Đô Đoan (Dodone)*
Phê Lạc Bích ở muôn trùng cách xa.(Pélasgique)
Đô Đông đông giá lạnh lùa,
Quanh người Sen, kẻ dịch ra lời Thần.* (9980)​
Nằm sương, đất chẳng rửa chân,
Ngài từng chứng giám lòng thành của tôi.
Vinh danh Ngài, từng khẩn lời,
Cho An Kinh bị tơi bời đảo điên.
Giờ đây cầu khẩn linh thiêng,
Bản thân tôi ở trại thuyền đóng quân,
Nhưng tôi cử bạn thân mình,
Cùng bao quân Nguyệt My Đông trận tiền.
Hãy cho chiến thắng quang vinh,
Mắt Nhìn Xa hãy cho lòng thêm hăng. (9990)​
Để Hải Tô biết được rằng,
Quân binh tôi tiếng lẫy lừng giao tranh.
Chẳng cần tôi phải đích thân,
Chiến Thần theo gót xuất chinh đuổi thù.
Xin Ngài phù hộ khẩn cầu,
Đẩy xa thuyền những tiếng gào giao tranh.
Bạn bè về lại bình an,
Vẹn toàn vô sự, nguyên lành giáp khiên.
Nghe lời cầu khẩn Thần Vương,
Chỉ cho phân nửa khấn nguyền, nửa không. (10000)
Đuổi quân địch chạy xa thuyền,
Nhưng cho Ban Tuấn sống còn thì không !
An Sinh cầu khẩn vừa xong,
Vào lều trong cất cúp vàng vào rương.
Rồi ra trước cửa dinh thuyền,
Chờ tin trận tuyến, hai bên tranh hùng.
Nguyệt My, Ban Tuấn điều quân,
Lao vào hãnh tiến trận binh giáp đồng. (10010)
Như ong vò vẻ bên đường,
Bị đàn trẻ phá, bản năng sinh tồn,
Bay theo lũ trẻ đốt châm,
Rượt hoài nơi tổ bên đường bao quanh.
Dại thay cho bọn trẻ ranh,
Chúng làm khổ nhọc tràn lan bao người.
Người qua đường chỉ rong chơi,
Vô tình gần đến cũng thời nguy nan.
Đàn ong cũng tấn công liền,
Chỉ vì bảo vệ tổ vàng ong non. (10020)
Nguyệt My Đông tựa bầy ong,
Dàn quân thế trận tiến công cạnh thuyền.
Tiếng hò vang nổi vang rền,​
Nguyệt My Đông quân An Sinh,
Nam nhi rõ mặt kiên cường vinh quang.
Pê Lê công tử giỏi giang,
An Kinh tướng lĩnh ai hơn anh hùng.
Đội binh cận chiến lẫy lừng,
An Gia Vương ỷ quyền hành cấp trên, (10030)​
Nhận ra mù quáng của mình,
Đã không tôn trọng anh hùng An Sinh.
Người ưu tú nhất An Kinh.
Nghe lời Ban Tuấn xông lên anh hùng.
Nhất tề tiến công Troa quân,
Khắp nơi mừng rỡ, An Kinh reo hò.
Mê Tuấn công tử tiến vô,
Mang hai vũ khí sáng lòa hoảng kinh.
Troa quân do dự sự tình,
Nghĩ rằng Phi Túc An Sinh đánh mình. (10040)
Bỏ hờn riêng đã làm lành,
Toan bề chạy tránh tử thần vực sâu.
Ban Tuấn phóng trước ngọn lao,
Vào quân Troa đến chen nhau lái thuyền.
Trúng Phi Mai Lạc tướng quân, (Pyraichmès)
Bồ Niên quân kỵ mũ đồng trúng vai.
A My, A Sốt sông dài, (Amydon, Axios)
Lóc lăn xuống đất, ngã nhoài rỉ rên.
Quân Bồ Niên trốn kinh hoàng, (Péonien)
Bỏ thuyền chạy thoát, chẳng còn tướng quân. (10050)
Đuổi xa chúng khỏi đoàn thuyền,
Ra tay dập tắt lửa hồng bừng lên.
Lái thuyền cháy sém nửa chừng,
Quân Troa chạy trốn, lui binh ồn ào.
An Kinh từ khắp thuyền theo,
Lại tràn ra sức, chẳng nào giảm suy.
Từ trên thiên đỉnh vén mây,
Thần Vương soi chớp đồi cây núi ngàn.
Bầu trời xẻ dọc, xé ngang,
Những vầng tinh khí thiều quang rực trời. (10060)
Nhấp nhô chớp sáng núi đồi,
Đa Niên tránh khỏi lửa thui đốt thuyền.
Thở phào nhẹ nhỏm trận tiền,
Vui mừng quân bạn đến liền cứu ta.
Quân Troa chẳng hẳn rút ra,
Bỏ thuyền vì áp lực đà khó khăn.
Lại cùng giao chiến tùy thân,
Mỗi người chọi một xoay vần đánh nhau.
Ban Tuấn dũng cảm đâm lao,
An Tây Ly Cúc phía sau trúng đùi.(Areïlycos) (10070)
Chàng ấn sâu mũi đồng dài,
Xương đùi gãy, hắn ngã người ngay đơ.
Mê Giác đâm ngực Thọ Cơ, (Mégès, Thoas)
Chổ khiên kẻ hở, rụng rời tứ chi.
Py Lê công tử đến ngay,(Pylée)
Âm Phi Lộc đã lao tay đánh chàng.(Amphiclos)
Mê Giác đón trước vội vàng,
Mũi lao đâm trúng bắp chân thịt dầy,
Mũi đồng xé nát gân ngay,
Bóng đen trước mắt phủ đầy đớn đau. (10080)
Còn An Thy Lộc đâm lao, (Antilichos)
Trúng An Ti Nhược xuyên vào ngang thân. (Atymnios)
Lăn quay thủng ngực trước thân,
Mã Thiết anh hắn nhảy xông trả thù, (Maris)
Đứng lên căm giận điên đầu,
Thái Chí nhanh bước vội mau phóng liền. (Thrasymède)
Lao đâm vai xé vết thương,
Cánh tay rời rả, xé gân xương lòi.
Mã Thiết bóng tối sầm trời,
Hai anh em đã về nơi Dạ Đài. (10090)
Ninh Tô công tử tài trai,
Hai anh em giết hai người anh em,
Vốn là khách Thạc Phê Đông (Sarpédon)
Hai An Mi Sở tài tình phóng lao, (Amisodaros)
Của nhà phung phí phú hào,
Nuôi Si Me khốn khổ bao nhiêu người.*
An Bắc Ô Lê tuyệt vời,
Nhảy lên bắt sống tướng tài Lê Bung. (Cléobule)
Nhưng trong hổn chiến khó lòng,
Rút gươm chém cổ, dứt lòng hăng say. (10100)
Mắt trừng cường bạo đỏ gay,
Kiếm bừng máu nóng, phụt bay số phần.
Pê Nê Lộc gặp Lý Căn, (Pénéléos, Lycon)
Cả hai cùng hụt hai lần phóng lao.
Nên dùng lưỡi kiếm đánh nhau,
Lý Căn nhắm mũ chém vào túm lông.
Gặp chổ cứng gãy gươm đồng,
Bị Pê Nê Lộc đâm vòng dưới tai,
Lưỡi gươm ngậm cả chiều dài,,
Lớp da vẫn dính đầu thời còn treo. (10110)
Tứ chi rã rượi ngã nhào,
Ngọn lao oan nghiệt, đớn đau lìa đời.
Mê Long đôi chân dẽo dai,
Đuổi An Ca Mạc đâm vai lao đồng.
Lên xe, nhào xuống ngã ầm,
Hồn bay mờ mịt, mắt trầm bóng sương.
Anh Đô ác liệt ngọn thương, (Idoménée)
Đâm Âu Chi Mẫn xuyên ngang óc đầu. (Erymante)
Vỡ xương trắng, răng máu trào,
Máu lên mổm mũi phun cao ròng ròng. (10120)
Mây đen chết chóc bao trùm,
Đa Niên cứ thế trị trừng Troa quân.
Như sói vào đám cừu non,
Lạc loài tản mác, người chăn dại khờ.
Sói ta lập tức liền vồ,
Những con vật đứng bơ vơ lạc đàn.
Đa Niên nhảy xổ phá tan,
Quân Troa chỉ nước hoang mang chạy dài.
Quên lòng dũng cảm hăng say,
Riêng An Bắc Lớn ra tay đợi chờ. (10130)
Vung lao nhắm đến Hải Tô,
Hải Tô kinh nghiệm có thừa chiến chinh.
Khiên da che phủ thân mình,
Luôn luôn nghe tiếng lao đồng tên bay,
Chàng thừa hiểu biết trận này,
Phần thắng đang chuyển sang tay địch thù,
Vững vàng chàng cũng mặc dù,
Cứu nguy đồng đội khẩn cầu nguy nan.
Nhưng như từ đỉnh Thiên Sơn,
Một vầng mây thẩm phủ dần trời xanh. (10140)
Dớt đà muốn toả cơn giông,
Quân Troa kinh hãi xa dần thuyền đen.
Vượt qua hào tan đội hình,
Hải Tô phi ngựa nhanh cùng khiên lao,
Bỏ quân cản bởi chiến hào,
Bao xa chiến đẹp rơi vào chông gai.
Ban Tuấn thúc quân đuổi dài,
Quân Troa ơi ới, khắp nơi hãi hùng.
Trên cao cuồn cuộn cuồng phong,
Vó tung ngựa chạy phóng chân về thành. (10150)
Xa chiến thuyền, xa trại dinh,
Ban Tuấn hể thấy đám đông đuổi càng.
Trên xe lăn lóc ngã nghiêng,
Lắc lư xe ngựa thùng niềng kêu vang.
Ban Tuấn dục ngựa phóng ngang,
Ngựa Pê Lê được trao truyền thần linh.
Băng băng xe ngựa phi nhanh,
Đuổi Hải Tô khiến lòng chàng hăng say.
Chàng càng khích lệ ngựa phi,
Chàng càng muốn đánh hắn ngay một đòn. (10160)
Hải Tô phi ngựa xa nhanh,
Đất trời bỗng xuống tối sầm bão giông.
Ngày thu xối xả mưa tràn,
Dớt đà nổi giận sôi gan khách trần.
Người đời nơi chốn hội chung,
Án treo què quặt công minh chẳng còn,
Chẳng còn sợ hãi thần linh,
Dớt cho thịnh nộ dòng sông nước tràn.
Khắp đồng nước lũ cuộn băng,
Núi cao biển thẳm, sóng vang trùng trùng. (10170)
Cuốn đi bao sức công trình,
Quân Troa như thế lui quân chạy dài.
Ban Tuấn cho quân trở lui,
Ép về truy kích địch thời kẹt sau.
Giữa con sông, giữa lũy hào,
Chạy trong kinh hoảng phía sau con thuyền.
Thẳng tay chém giết triền miên,
Trút bao thù hận đảo điên bao người.
Bồ Nô trúng lao sáng ngời, (Pronoos)
Ngay trên lồng ngực dưới nơi khiên đồng. (10180)
Ngã nhào rời rã tay chân,
Thế Tô trong chiếc xe lăn thu mình, (Thestor)
Tâm hồn rối loạn mông lung,
Bàn tay rơi tuột dây cương lúc nào,
Ban Tuấn đâm một ngọn lao,
Xuyên ngang hàm phải, treo vào cây thương,
Như người từ mõm đá ghềnh,
Câu lên con cá, biển thiêng dạt dào.
Há mổm đầu dáo tung cao,
Lăn ình xuống đất, hồn vào thiên thu. (10190)
Âu Ry Lao lại xông vào, (Erylaos)
Ban Tuấn ném tảng đá cao trúng đầu.
Vỡ đôi chiếc mũ đồng thau,
Ngã lăn mặt đất đớn đau lìa trần.
Âu Mạc, Âm Phô, Thế Lâm, (Erymas, Amphoteros, Tlépolème)
Ban Thiết, Chi Ốc và cùng Phi Chi. (Epalthès, Echios, Pyris)
Ý Phê, Âu Vinh cũng đi, (Iphée, Evippos)
Bổ Ly Mê cũng lăn quay lìa trần. (Polymélos)
Thạc Phê Đông thấy đau lòng,
Bao nhiêu đồng đội ngã nằm dưới tay. (10200)
Ban Tuấn, Bèn tìến la rầy :​
Nhuốc nhơ thay, chớ trốn này Ly Siên.
Chớ chạy đi, chớ nhát hèn,
Ta đương đầu biết hắn liền là ai ?
Gây quân Troa những họa tai,
Tan xương, nát thịt bao trai anh hùng.
Nói rồi mang lấy lao khiên,
Xuống xe ngựa đấu song phương tranh tài.
Ban Tuấn cũng nhảy ra ngoài,
Như chim ưng móng vuốt dài mỏ cong. (10210)
Đỉnh cao cấu xé kêu vang,
Hai ngươi cũng thế xông lên thét gào.
Cảnh tình làm động lòng đau,
Cồ Nốt Thần tử óc đầu tinh ranh,
Nói Hạ Cơ chị, vợ mình :​
Khổ cho ta biết Thạc Đông phận tàn,
Người ta quý mến yêu thương,
Số phận sẽ chết chiến trường hôm nay.
Về tay Ban Tuấn an bày,
Thâm tâm ta vẫn còn đầy phân vân. (10220​
Hoặc là kéo khỏi giao tranh,
Về Ly Si xứ tươi xanh đất mầu,
Hay dưới bàn tay phóng lao,
Mê Tuấn công tử mệnh trao số phần.
Hạ Cơ Ngưu Mục đáp rằng :​
Đáng sợ , ông mới nói năng câu nào !
Người trần số mệnh đuổi theo,
Ông toan cứu khỏi mệnh treo Tử Thần.
Việc ông, ông cứ việc làm,
Nhưng tôi tất cả Thần không tán thành. (10230)​
Tuy nhiên, nói trước với ông,
Cũng nên tạc dạ ghi lòng hôm nay,
Nếu ông cho hắn sống đây,
Trở về yên ổn ra đi về nhà.
Các Thần bắt chước thế a !
Cứu con mình thoát can qua chiến trường.
Chung quanh thành rộng vua Biam,
Đang tham chiến bởi đông con các Thần.
Do ông kích động đấu tranh,
Giờ đây trong cuộc tranh giành hổn mang. (10240)​
Do ông muốn, chớ rỉ rên,
Cánh tay Ban Tuấn dứt ngang số phần.
Thạc Phê Đông khi lìa trần,
Cho Thần Giấc Ngủ, Tử Thần mang đi,
Hồn lìa về xứ Ly Si,
Anh em, cha mẹ lễ nghi mộ phần.
Dựng bia mộ cho thân nhân,
Ấy là vinh dự lìa trần người thương.
Nghe lời vợ nói cằn nhằn,
Đấng Phụ Vương chẳng còn trăn trở gì. (10250)
Tưới cơn mưa máu hồng bay,
Tiễn đưa con chết về tay anh hào.
Ban Tuấn xứ Trốt phi phiêu (Troade),
Xa miền tổ quốc thân yêu chiến trường.
Hai chàng sáp lại rất gần,
Ban Tuấn đâm trúng vệ binh trung thành,
Thái Di Miên của Thạc Đông, (Thrasymède)
Ngọn lao trúng bụng tay buông ngã nhào,
Thạc Đông tức giận đâm lao,
Trúng ngựa Đa Sốt máu đào ngã lăn, (Pédasos) (10260)
Con ngựa rống mạnh lìa trần,
Hai con khác rẽ, ách càng gãy đôi.
Đây xoán ngựa ngã cả đôi,
Ô Mê Đông tưởng tàn đời ngọn thương. (Automédon)
Vung gươm cắt đứt sợi cương,
Hai con ngựa đứng thẳng chồm kéo dây.
Hai chàng trở lại ra tay,
Thạc Phê Đông phóng lần này ngọn thương.
Hụt Ban Tuấn lướt vai trên,
Ban Tuấn phóng trúng tim, lăn tựa sồi. (10270)
Bạch dương, thông vút núi đồi,
Như tiều phu chặt búa mài sắc tinh.
Đốn cây cao, đẽo sườn thuyền,
Trước chân xe ngựa rỉ rên lăn nằm.
Tay cào đất bụi máu hồng?
Như sư tử cắn cổ mình mang đi.
Chúa sơn lâm, móng vuốt dày,
Con bò hùng mạnh nhất bầy khểnh chân,
Dươi tay Ban Tuấn anh hùng,
Vua Ly Siên lúc lâm chung nhắn lời: (10280)​
Lô Cốt yêu dấu bạn ơi !
Anh hùng giữa những con người giờ đây,
Lao đồng dũng cảm hăng say,
Khéo khôn giữa chiến tranh đầy cuồng điên.
Hãy đi khắp chốn động viên,
Tướng Ly Siên chiến đấu lìền quanh tôi,
Bản thân anh chớ để rơi,
Xác thân địch tước đi thời giáp khiên,
Là điều nhục nhã triền miên,
Cả cho anh nữa, tủi hờn tháng năm. (10290)​
Khi tôi ngã giữa vòng thuyền,
Bền gan chiến đấu, khích lòng toàn quân.
Dặn dò lời nói cuối cùng,
Tử Thần phủ mắt, mũi tàn hắt hơi.
Ban Tuấn rút mũi lao dài,
Dẫm chân ngực kéo ra lòi ruột gan.
Thạc Phê Đông trút linh hồn,
Nguyệt My Đông cướp ngựa hùng Phê Đông,
Thở to mong chạy thoát thân,
Vua băng, bỏ chiếc xe không kéo dài. (10300)
Lô Cốt lòng dạ bồi hồi,
Hận lòng chẳng cứu được người bạn thân,
Đua tay nắm chặt vết thương,
Tựu Xê bắn trúng còn vương đau nhiều,
Lúc chàng xông lũy dốc cao,
Cứu cho đồng đội biết bao khốn cùng.
Cầu An Long, chàng khấn rằng:​
Nghe tôi, Vua ngự ở gần nơi nao !
Đồng Troa, Ly Si phì nhiêu,
Phương nào bất cứ nơi đâu nghe lời. (10310)​
Tâm tình đau xót trần ai,
Giày vò đau đớn như tôi lúc này.
Vết thương tôi nơi cánh tay,
Da không khô, ứa máu hoài sưng đau.
Tôi không cầm vững ngọn lao,
Giữ thi hài bạn cuộc giao chiến này.
Thạc Đông con Dớt giỏi tài,
Thần không cứu được con Ngài hy sinh.
Vua ơi hãy giúp con lành,
Ru cơn đau ngủ, sức sung phục hồi. (10320)​
Cùng Ly Siên đồng đội tôi,
Tôi còn khích lệ mọi người giao tranh.
Bên thi hài bạn giữ canh.
Nghe lời chàng khấn, An Long theo lời.
Cho đớn đau dịu trong người,
Vết thương tên bắn, tức thời dứt ngay.
Trong lòng chợt thấy hăang say,
Lô Cốt biết thế lòng vui vẻ mừng.
Khích lệ các tướng Ly Siên,
Đến quanh xác Thạc Phê Đông giữ gìn. (10330)
Rồi đi các tướng Troa quân,
Đến Bồ Đa Mạc và cùng Thế Nô. (Polydamas, Angenor)
Đến Anh Nê và Hải Tô.
Gần bên chàng mới cất to nỗ lòng:​
Hải Tô anh đã quên chăng ?
Bạn đồng minh đã vì anh xa nhà.
Xa quê đốt cháy đời hoa,
Và anh từ chối không qua giúp giùm,
Chết rồi vua Thạc Phê Đông,
Vua Ly Siên với khiên đồng chỡ che. (10340)​
Công lý, sức lực đôi bề,
Dưới tay Ban Tuấn, não nề ngọn lao,
Thần Chinh Chiến, thần Đồng Thau,
Các anh hãy đến, thương đau căm hờn.​
Sợ Đa Niên trả thù hèn,
Bên con thuyền bị lao thương đâm mình.
Tước đi khí giới giáp binh,
Tử thi xúc phạm, tội tình phân thây.
Lời chàng nói xúc động thay,
Quân Troa đau đớn ngất ngây cả người. (10350)
Thạc Phê Đông từ xa xôi,
Đoàn quân cột trụ đánh nơi chiến trường.
Hải Tô thương Thạc Phê Đông,
Họ lao thẳng tới nhiệt tình đấu tranh.
Phía An Kinh lòng sức hăng,
Ban Tuấn dũng cảm tim gan can trường.
Cùng hai An Bắc kiên cường :​
Hỡi hai An Bắc, hết lòng phản công.
Hăng say dũng sĩ anh hùng,
Chết rồi tướng nhảy lên thành An Kinh. (10360)​
Thạc Phê Đông tướng đầu tiên,
Nếu ta cướp được trận tiền xác thân,
Làm nhục y thêm một lần,
Cướp khiên lao quý, lột trần giáp binh.
Ai còn đến đó tranh giành,
Thì ta đâm ngọn lao thân bại tàn.
Nghe lời nói lòng sôi hăng,
Hai bên củng cố đội hình giao tranh,
Troa quân cùng với Ly Siên,
Nguyệt My Đông với An Kinh trận dàn. (10370)
Quanh thi hài Thạc Phê Đông,
Tiếng gào thét vọng, lao đồng, khiên vang.
Dớt bao phủ một màn đêm,
Xác con rối rắm càng thêm nhọc nhằn,
Trước tiên Troa đánh An Kinh,
Đả thương dũng sĩ Nguyệt Đông anh hùng,
Ê Phi Lê sức như thần,(Epigée)
An Gia Lê công tử, con vua vùng Bu Đông, (Agaclès, Boudeion)
Sau khi giết một hoàng tôn,
Cầu Pê Lê, Thê Túc nữ thần thứ tha. (10380)
Lúc An Sinh xuất quân ra,
Lập công chuộc tội, chàng đà xin đi.
Chàng vứa đụng tới tử thi,
Hải Tô ném đá trúng ngay mũ đồng.
Óc đầu sau mũ vỡ tung,
Ngã mình trên xác, bạn nhìn xé tim.
Ban Tuấn trông bạn đau thương,
Xông tràn qua những đám quân hàng đầu,
Lao như chim cắt đuổi mau,
Những đàn sáo sậu bay cao tung trời. (10390)
Ngựa chàng như thế lao đi,
Trong tim phẩn nộ bừng sôi trả thù,
Ném Thế Nê trúng cổ đầu, (Sthénélaos)
Một hòn đá lớn đứt ngầu cổ gân,
Hải Tô lùi lại tiền quân,
Tầm xa một ngọn thương tung hết mình,
Như ngày tranh hội điền kinh,
Hay là giữa trận thư hùng đấu tranh,
Trước kẻ thù lòng nát tan,
Quân Troa lùi bước, cách hàng An Kinh. (10400)
Lô Cốt tướng quân Ly Siên,
Mang khiên quay lại đánh cùng Đa Niên,
Giết Ba Thy Lạc ung dung,(Bathyclès)
Con Can Công quý yêu vùng Huệ La, (Chalcon, Hellade)
Phong lưu phú quý một nhà,
Nguyệt My Đông có tiếng là giàu sang,
Lô Cô quay lại đâm thương,
Vào ngay giữa ngực khi chàng đuổi theo,
An Kinh xúc động đớn đau,
Chết người tôn quý thanh cao chiến trường. (10410)
Quân Troa dừng lại vui mừng,
Tướng quân chen chúc quanh cùng Lô Cô.
An Kinh chẳng nhụt ý đồ,
Xung phong thẳng hướng quân chờ giao tranh,
Mê Long diệt tướng Troa quân,
Lao Gô Nô vốn còn dòng Nê Tô,(Laogonos, Onétor)
Đền Dớt, Y Đa tế thờ,
Như thần linh được kính nhờ lòng dân,
Mê Long đâm dưới tai hàm,
Tứ chi bủn rủn, sức tàn hồn bay. (10420
Bóng đêm che phủ mặt mày,
Anh Nê tiến đến phóng ngay lao đồng,
Mê Long né tránh cúi mình,
Ngọn lao cắm đất, rung rinh cán cầm,
Anh Nê căm giận thét gầm :​
Mê Long mi có tài hèn múa may,
Nếu không vĩnh viễn ngừng quay,
Lao ta đâm trúng thân mày tấc gang.
Mê Long lừng lẫy ngọn thương :
Anh Nê mi sức phi thường đến đâu, (10430)​
Chẳng làm ai nhụt chí nào,
Xông lên trước mặt hằng bao anh hùng,
Giáp đồng che phủ thân mình,
Mi người trần thế chết cùng như ai,
Nếu may mắn ta đâm mi,
Thì dù sức mạnh tay dài cũng tiêu,
Cho ta vinh dự làm điều,
Đưa hồn mi sớm về chầu Diêm Vương.
Mê Tuấn công tử tiếng rằng :
Mê Long chớ nói dài dòng làm chi. (10440)​
Quân Troa chẳng bỏ xác đi,
Chỉ vì chửi bới, ích chi bạn này,
Thắng bại ở hai cánh tay,
Tiến lên từng tấc đất đầy chiến công,
Sức mạnh kết thúc chiến tranh,
Chớ nào giá trị , viễn vông tiếng lời.
Vậy thì ta đánh đi thôi.
Nói rồi tiến bước trước người Mê Long,
Người trần sức sánh như thần,
Như tiều phu chặt vang ầm lũng non. (10450)
Từ xa nghe tiếng vang rền,
Đất dài đường rộng, tiếng đồng, tiếng da,
Da bò chạm tiếng lao khua,
Dưới làn gươm giáo, chân đưa bụi mù,
Ai còn tinh mắt mặc dù,
Cũng không thấy được nơi đâu xác chàng,
Thạc Phê Đông sánh với thần,
Phủ trùm cát bụi từ thân đến đầu,
Quanh chàng chen chúc như ruồi,
Bên chuồng trại, bám sữa tươi trong thùng. (10460)
Sữa tràn đầy vại mùa xuân,
Quanh thi hài cuộc tranh giành đuổi xô.
Thần Vương chẳng ngoảnh mắt vô,
Cúi đầu nhìn xuống, mơ hồ nghĩ suy.
Không ngừng nghỉ một phút giây :​
Cái chết Ban Tuấn ? chết ngay, hỏi lòng ?
Cạnh thi hài Thạc Phê Đông ?
Hải Tô dùng giáo giết luôn, lột trần ?
Tước vũ khí sẽ khó khăn ?
Chiến binh đông đảo, khó lòng làm thay ? (10470)
Nghĩ suy giải quyết thế này :​
Để Ban Tuấn đuổi, chạy dài Troa quân,
Đuổi Hải Tô Mũ Trụ Đồng,
Tận kinh thành giết chiến binh thêm nhiều,
Cho Hải Tô nản lòng mau,
Lê xe khuyên tướng cùng nhau về thành.
Biết điều định đoạt Thần Vương,
Chiếc Cân Thiêng đã bại vong định phần.*
Ly Siên khỏe cũng rút quân,
Bỏ Vua tim thủng, chất chồng tử thi. (10480)
Chung quanh đầy dẫy thi hài,
Thần Tử Cồ Nốt kéo dài cuộc tranh.
An Kinh mang xác Thạc Đông,
Tước luôn binh giáp, mũ đồng sáng choang,
Trao cho đồng đội về thuyền,
Đấng Hội Vân mới nói cùng An Long:​
Giờ đây Phổ Bút hỡi con, (Phébus)
Hãy lau thi thể Thạc Đông máu hồng,
Nhổ lao mang tắm bên sông,
Xoa thần dược, khoát áo quần thần tiên. (10490)
Cho phu kiệu với cán khiêng,
Song sinh: Giấc Ngủ, Tử Thần tiễn đi.*
Đưa về đến đất Ly Chi,
Anh em cha mẹ lo ngày lễ tang,
Đựng mồ, bia đá nghĩa trang,
Cho tròn danh dự sống trong cõi đời.
Thần An Long chẳng cải lời,
Xuống Y Đa đến tận nơi chiến trường.
Mang thi hài Thạc Phê Đông,
Nhổ tên, lao, tắm dòng sông trong lành. (10500)
Tẩm dầu hương, áo thần tiên,
Giao cho phu kiệu đến miền Ly Chi.
Song sinh nhị vị tiễn đi,
Tử Thần, Giấc Ngủ lễ nghi mộ phần,
Ban Tuấn thúc ngựa nhanh chân,
Cùng Ô Đông đuổi theo quân địch thù, (Automédon)
Theo đường lầm lạc đi sâu,
Quên lời căn dặn ban đầu An Sinh,
Điên rồ, nếu biết nghe chàng,
May ra thoát số hung tàn mệnh đen. (10510)
Ý Thần Vương mạnh luôn luôn,
Hơn điều suy nghĩ thiệt hơn người trần.
Tướng anh dũng đuổi địch quân,
Dễ chi bỏ dỡ đi phần vinh quang.
Thần Vương kích thích chiến tranh,
Gieo bao ý chí kiên cường hăng say.
Là ai những kẻ giờ đây,
Ban Tuấn chiến thắng, ra tay anh hùng.
Tước vũ khí, lột giáp binh,
Những lần cuối trước Tử Thần gọi tên. (10520
An Đạt chiến thắng đầu tiên, (Adreste)
Âu Tố, Phê, Chế con dòng Mê Ga, (Autonoos, Perimos, Echeclos, Megas)
Phi Tô, Mê Níp Phổ và, (Epistor, Mélanippos)
La Sô, Lộc, Tích chàng đà đánh tan. (Elasos, Moulioc, Pylartès)
Các tướng khác chạy bò càng,
Nếu mà cứ thế Troa thành cổng cao,
Về tay Ban Tuấn hạ nào,
An Kinh chiến thắng đã vào phút giây.
Ngọn lao xông xáo tung bay.
Nếu Thần không cứu thành xây vững bền. (10530)
Giúp Troa quân, muốn giết chàng,
Ba lần công hãm góc ngang tường thành,
Ba lần Ban Tuấn xông lên,
Thần An Long đầy thuẩn vàng lùi chân,
Lần tư như quỷ xông lên,
Vị Thần dữ dội hét bên tai chàng :​
Ban Tuấn dòng giống Thần Vương,
Hãy lùi ! số phận Troa Kinh kiêu hùng.
Dưới lao người chẳng tan tành,
Hay An Sinh vượt trội hơn sức tài. (10540)
Ban Tuấn nghe nói vội lùi,
Tránh cơn giận dữ thần trời An Long,
Hải Tô ở công Khuê thành,
Ghìm cương ngựa chiến phân vân chiến trường.
Phản công vào đánh địch quân,
Hay là tập hợp, thủ thành, rút lui ?
Chàng đang suy nghĩ bỗng thời.
Thần An Long hiện dạng người chiến binh.
Là An Sĩ Ất cậu chàng, (Asios)
Em trai Huê Cúc, con dòng Duy Ma. (Hecubes, Dymas) (10550)
Ở Phy Chi, sông Hằng Sa, (Phrygie, Sangarios)
Hóa thân, Thần tướng thiết tha cất lời :​
Sao đang giao chiến lại lui ?
Không nên làm thế hỡi người tài trai,
Với con ta chẳng bằng tài,
Nếu ta tài giỏi hơn thời ra tay,
Hãi hùng thay cuộc lui này,
Hãy xông lên thúc ngựa dày móng chân,
Đánh Ban Tuấn, con trị trừng,
An Long thần sẽ dành phần vinh quang. (10560)
Nói xong thần lại quay lưng,
Nhọc nhằn gắn với kiếp thân con người,
Kê Long kỵ mã khéo tài,
Đưa Hải Tô thẳng đến nơi chiến trường,
An Long lẫn lộn trong quân,
Khiến cho quân sĩ Đạt Liên dao lòng,
Cho quân Troa, giúp vinh quang,
Hải Tô bỏ mặc quân binh chẳng màng,
Nhắm vào Ban Tuấn giáp công.
Ban Tuấn nhảy xuống xe, vung lao dài. (10570)
Tay phải dấu đá sắc ngời,
Ném đi toàn sức trúng người Kê Long,
Kỵ mã con hoang vua Biam,
Đang cầm cương ngựa trúng lông mày liền.
Đầu không chịu nổi gảy xương,
Mắt rơi đất bụi dưới chân ngã nhào.
Như người thợ lặn tung áo,
Từ thùng xe xuống thương đau lìa đời.
Kỵ sĩ Ban Tuấn mĩa mai :
A đây, mới thật là người nhảy nhanh, (10580)​
Đầu xuống trước nhảy nhẹ nhàng,
Nếu là biển cả, vô vàn người no.
Lặn luôn bắt hết trai sò,
Đến khi biển động mới mò mò lên.
Nhưng giờ đây giữa cánh đồng,
Từ xe hắn nhảy xuống đâm đầu mình,
Quân Troa lắm kẻ nhảy nhanh.
Dứt lời chàng tiến đến gần Kê Long.
Như con sư tử hiên ngang,
Pha chuồng, chẳng sơ đau thương hăng càn. (10590)
Ban Tuấn nhảy đến say cuồng,
Hải Tô cũng thế nhảy vòng khỏi xe,
Như hai sư tử gầm ghè,
Quanh Kê Long, đỉnh núi kề xác nai.
Kiêu hãnh, cuồng nhiệt cả hai,
Vờn nhau, thủ thế, anh tài chiến tranh;
Ban Tuấn, Hải Tô lừng danh,
Muốn đâm nhau mũi lao đồng thủng da,
Hải Tô nắm xác đầu tha,
Ban Tuấn chân nắm xoay qua thân mình, (10600)
Chung quanh, Troa Quân, Đa Niên,
Đương đầu quyết liệt giao tranh chẳng ngừng,
Như gió Đông, Nam tranh giành, (Euros,Notos)
Gió qua thung lũng lay ngàn rừng sâu,
Dễ, tần bì, sơn thủ du,*
Cành dài va chạm, vi vu lạ kỳ,
Cành kêu răng rắc đôi khi,
Hai bên cũng thế sợ gì chém đâm.
Chẳng còn nghĩ đến rút quân,
Quanh Kê Long cắm ngọn thương khá nhiều. (10610)
Cánh cung bắn tới tên reo,
Và nhiều hòn đá hiểm nghèo nát khiên,
Quanh Kê Long bũi mù tung,
Xác nằm lặng lẽ giữa chừng không gian.
Người tài khiển ngựa nằm lăn,
Mặt trời đứng bóng chiến trường tên lao.
Người người ngã xuống thương đau,
Khi trời lặn xuống kéo nhau trở về,
Mục đồng lùa lũ bò dê,
An Kinh thắng thế kéo lê khỏi tầm, (10620
Xác chàng dũng sĩ Kê Long,
Tước khiên lao với giáp đồng hai vai,
Ban Tuấn gieo thảm sầu đời,
Ba lần chàng giết chín người quân Troa,
Như Thần Chiến thét gào la,
Lần tư chàng lại xông pha quỷ hờn,
Lần này Ban Tuấn đời tàn,
Đối mặt Phổ Bút trận càng hải kinh.
Thần hiện ra giữa đám đông,
Ban Tuấn say máu vô tình không hay. (10630)
Phủ quanh một lớp sương dày,
Đến đằng sau đánh vào ngay ngực trần,
Trên vai gấu rộng anh hùng,
Mắt trừng đảo ngược, mũ đồng buông rơi.
Dưới chân vó ngựa tơi bời,
Chòm lông trắng bụi, lấm bôi máu hồng.
Trước kia chẳng bụi lấm lông,
Vì che vầng trán anh hùng An Sinh.
Ban Tuấn giây phút cuối cùng,
Hải Tô được Dớt cướp ban đội đầu. (10640)
Tay Ban Tuấn lao dài to,
Mũi đồng gãy nát, khiên đeo dây rời,
Khiên to rơi xuống chân người,
Giáp đồng ai cởi, rụng rơi kinh hồn.
Tứ chi rời rã bàng hoàng,
Phía sau một mũi lao đồng trúng lưng.
Âu Phước người Đạt Đa Niên.(Euphorbe, Dardanien)
Ban Thước công tử tài năng chiến trường. (Panthoos)
Đâm thương, khiển ngựa chạy nhanh,
Hai mươi đối thủ bại vong đã từng. (10650)
Dưới chân chiến mã oai hùng,
Tham gia cuộc chiến đến cùng xa cương.
Ngọn lao đâm trúng anh hùng,
Ban Tuấn thương nhẹ nên không ngã nhào,
Hắn đà rút lấy cây lao,
Trở lui nhanh gót lẫn vào đám đông,
Nỗi niềm sợ hải anh hùng,
Mặc dù Ban Tuấn chỉ còn tay không.
Ban Tuấn đã bị Thần linh,
Mất lao khiên vội rút chân vào hàng. (10660)
Những mong tránh số mệnh tàn,
Hải Tô tinh mắt thấy chàng lui chân,
Băng mình qua đội tiền quân,
Đâm Ban Tuấn trúng dưới sườn, mũi xuyên,
Ban Tuấn ngã quỵ xuống liền,
Nỗi đau tràn ngập tâm hồn An Kinh.
Như heo rừng chẳng nhọc nhằn,
Ngã lăn trước chúa sơn lâm bạo tàn,
Cả hai trên đỉnh non ngàn,
Bên giòng suối cạn tranh giành nước trong. (10670)
Heo rừng thở dốc nhọc nhằn,
Sức mạnh sư tử cuối cùng xé tan,
Hải Tô, thái tử vua Biam,
Cướp đi sự sống ngang tàng thương đau.
Đã từng hạ thủ biết bao.
Hải Tô cất tiếng tự hào vẻ vang :​
Hỡi Ban Tuấn từng ngang tàng,
Manh tâm hũy diệt kinh thành của ta,
Hòng toan cướp mỹ nhân Troa,
Bắt về thuyền cướp mang qua xứ người. (10680)​
Gã điên trước ngựa ta ơi !
Ngựa phi nước đại, ta thời xông lên,
Lao đồng ta xuất sắc hơn,
Giữ dân Troa khỏi tủi hờn binh đao,
Còn mi, xé xác diều hâu,
An Sinh có giỏi, chẳng hầu giúp mi,
Đứng ngoài vòng nhắc nhở gì ?
Nghìn lần nhắc trước phút giây lên đường.
Không nghe lời về được chăng ?
Ngựa hồng lê kéo xác thân về thuyền. (10690)​
Hải Tô sát hại trận tiền,
Ngực trần rách nát máu tuôn chiến bào.
Hắn từng nói với mi sao ?
Điên rồ xua đuổi, mi nào nghe chi ?
Ban Tuấn thoi thóp trả lời :​
Giờ Hải Tô hỡi, mi thời thắng tao,
Thần An Long lột khiên lao,
Cho mi chiến thắng được bao dễ dàng.
Chứ như mi hai chục thằng,
Tức thì chết dưới lao đồng của ta. (10700)​
Phận ta tàn hại chẳng qua,
Con Lã Tôn đã ghét mà giết thôi. (Laton)*
Âu Phước sẽ chết đến hồi,
Và mi sẽ chết là người thứ ba,
Vì mi tước vũ khí ta,
Còn lời này nữa nhớ mà khắc ghi,
Sống không lâu nữa chính mi,
Mi giết ta có người thay trả thù,
An Sinh trừng phạt thiên thu,
Tài năng Âu Xích tránh đâu được nào. (10710)
Nói rồi lịm chết thương đau,
Hồn bay khỏi xác, hồn vào âm cung.
Khóc thương số phận đau buồn,
Để lòng dũng cảm, tuổi xuân trên đời.
Mặc dù Ban Tuấn chết rồi,
Hải Tô lừng lẫy đáp lời mấy câu:​
Ban Tuấn nói mệnh hiểm sâu,*
Làm sao ai biết, biết đâu mà rằng,
An Sinh, con Thê Túc thần,
Tóc vàng, sẽ chẳng chết cùng trước ta (10720)
Chết vì lao nhọn tên sa.
Nói rồi chàng rút lao ra khỏi mình,
Đá tung thân xác khỏi tầm,
Cầm lao nhọn nhắm Ô Đông xông liền,
Tướng Ô , sức sánh như thần,
Thúc ngựa bất tử nhanh chân vội vàng,
Ngựa thần Âu Xích vẻ vang,
Vua Pê Lê các vị thần tặng trao. (10728)​

(Còn tiếp kỳ tới)

Thi Ca Khúc 17. Chiến công Ménélas ( câu 10729 đến 11586)

Sử thi Iliade thơ thi hào Homère, Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh, Tiến sĩ KHGD VĐH Paris V Sorbonne dịch thơ và chú thích năm 2006-2011, Khuê Văn xb tại Paris. nhuận sắc 2017 bản phổ biến trên internet.

CHÚ THÍCH:

9793. Chồng Héra tức là Zeus.

9809 Paul Mazon dịch là voile saint : khăn trinh, ví như trinh tiết phụ nữ, biểu tượng an nình của kinh thành, nếu bị chiếm, tấm khăn trinh sẽ không còn nữa. Eugènr Lasserre dịch là diadème sacré : mũ triều thiên, do trang sức đàn bà, nguyệt trâm.

9878. Đại Dương, thời Homère quan niệm Đại Dương là con sông rất lớn bao chung quanh mặt đất vuông.

9965. Thétis còn có danh hiệu Ngân Túc, Chân Bạc.

9977 Dodone : Sấm truyền của Zeus ở cây sồi Dodone vùng Thessalie, còn gọi là vùng Pélasgique xưa nhất, và nổi tiếng nhất. Tôi (dịch giả) có đến thăm cây sồi này năm 2016, người ta cho rằng khi gió thổi nghe được tiếng nói từ cây sồi.

9980 Selles : thông dịch của Thần Zeus. Achille là người duy nhất cầu Zeus có nói đến người thông dịch. Hợp quân Achéens nói mười thứ tiếng khác nhau.

10096 Chimère : quái vật đầu sư tử.

10478. Thần Zeus dùng Cân Thiêng mỗi khi quyết định cho những cái chết khó khăn.

10492. Thần Giấc Ngủ và Tử Thần là hai thần sinh đôi.

10605: Dẽ, tần bì, sơn thủ du: tên các loại cây..

10702. Thần Apollon con Zeus và Laton.

10710: Âu Xích : Eacide: do chữ Eaque người sáng lập ra triều đại là cha Pélée, con Zeus.

10717 Patrocle, Hector, Achille chết đều được tiên tri.

 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC XVII - CHIẾN CÔNG MÉNÉLAS (câu 10729 đến 11586)

TÓM LƯỢC: Ménélas cùng Ajax bảo vệ thi thể Patrocle chống lại Hector. Hector lui bước, sau đó trở lại với những chiến binh ưu tú nhất thành Troie và giao tranh một trận quyết liệt. Nỗi đau đôi ngựa Achille, Automédon cuối cùng dẫn chúng trở lại cuộc chiến đấu, Hector và Énée cố sức chiếm đoạt nhưng không được. Cuộc chiến đấu tiếp diễn quanh xác Patrocle, quân Hy Lạp núng thế, Ménélas sai Antilochos về báo tin cho Achille biết. Ménélas, Mérion, có hai Ajax bảo vệ dành được xác Patrocle mang đi.

Mai Ninh Lạc thấy xa đau. (Ménélas) (10729)
An Trê tôn tử anh hào chiến chinh. (Atrée)
Ban Tuấn giết bởi Troa quân,(Patrocle)
Tiến lên tiền đạo, mũ đồng sáng choang.
Quanh thây, như bê sơ sinh,
Mẹ đi, quanh quẩn rĩ rền khóc than.
Bò mẹ chưa từng sinh con,
Mai Ninh Lạc tóc hung buồn quẩn quanh.
Ngọn lao và chiếc khiên cân,
Ai mà xúc phạm, sẵn sàng đánh văng.
Âu Phước chẳng bỏ chiến công. (Euphorbe)
Đã đâm Ban Tuấn tay cầm cán lao. (10740)
Kề bên thách thức, tự cao:
Hỡi Ménélas anh hào quân vương,
Hãy đi khỏi xác máu hồng,
Chẳng ai nào khác đã đâm lao này.
Trúng Ban Tuấn trước, ta đây,
Để danh ta chiến công nay vẹn toàn.
Với quân Troa chớ nhọc phiền,
Lao ta chẳng nể, đòn thương ngọt ngào.
Giận bừng Mai Lạc thét gào :
Dớt ơi ! kiêu ngạo làm sao lắm lời, (10750)
Báo kia cũng chẳng hơn hơi,
Cả sư tử, cả lợn lòi cũng không !
Tim to, ngực lớn rỗng không,
Bằng con Ban Thước, gỗ tần ngọn thương.(Panthoos)
Váo vênh sức mạnh, sức hùng.
Như Hy Phê Nộ đã từng huênh hoang.(Hypérénor)
Dù tài luyện mã có hơn,
Cũng không hưởng được tuổi xuân trong đời.
Chỉ vì đối mặt ta thôi,
Buông lời hổn xược, nên thời ta cho, (10760)
Chẳng về với vợ bao giờ,
Mẹ cha già hết đợi chờ đón con.
Chắc mi cũng thế chẳng hơn,
Cho nên mới dám mở mồm tự kiêu.
Ta khuyên mi hãy chạy mau,
Lui chân chạy trốn lẫn vào đám đông.
Chớ chống ta, họa vào thân,
Việc này một đứa trẻ ranh cũng rành.
Âu Phước đáp chẳng sờn lòng :
Giờ đây Mai Lạc hãy đền mạng thay. (10770)
Anh ta mi giết trước đây,
Mà còn vênh váo hôm nay khoe tài.
Vợ anh ta góa bụa rồi,
Trong loan phòng mới một đời khóc than.
Mẹ cha thương tiếc vô vàn,
Rồi đây sẽ dứt đoạn trường hôm nay.
Ta mang vũ khí, đầu mi,
Tặng cha Ban Thước, Phương Ty vợ hiền.(Panthoos, Phrontis)
Ta và mi trận cuối cùng,
Xem ai dũng cảm hay còn nhát gan. (10780)
Nói lời phóng trúng chiếc khiên,
Khiên cân vững chắc, mũi đồng quẹo cong.
Mai Ninh Lạc khấn Thần Vương,
Và đâm ngay trúng đối phương yết hầu.
Mũi lao xuyên cổ ra sau,
Âu Phước té ngã khiên kêu vang ầm.
Tóc dài buông lỏng máu tung.
Như nàng Duyên nữ thắt kim bạc vàng.(Grâces)
Như ô liu lá bạc xanh,
Người chăm sóc giữa cánh đồng đơn côi. (10790)
Sum sê tươi tốt, trái sai,
Bỗng đâu một trận gió bay giông tràn.
Gốc đà bật rễ ngã nghiêng,
Ban Thước công tử lao buông lìa đời.
Mai Ninh Lạc lột khiên vai,
Như con sư tử sống nơi non ngàn.
Giữa đàn bò gậm cỏ xanh,
Xông vào bắt một bò xinh nhất đàn.
Bẻ cổ máu ruột xé tan,
Ăn tươi nuốt sống, người chăn kêu gào. (10800)
Từ xa chẳng dám xông vào,
Tái xanh mặt mũi, chẳng sao đương đầu.
Quân Troa cũng thế dám đâu,
Cùng Mai Ninh Lạc anh hào giao tranh.
An Trích giết chết dễ dàng,
Tước ngay vũ khí lẫy lừng địch quân.
Nếu An Long chẳng ghét ganh,
Chống chàng, khích động anh hùng Hải Tô.
Hóa thân Mân Thế nói vô : (Mentès)
Chớ nên bắt ngựa đuổi lo ích gì. (10810)
Âu Xích ngựa khó lắm thay,(Eacide)
Trừ An Sinh mới khiến sai ngựa thần.
Vì mẹ là một thần linh,
Người trần chẳng chạy kịp chân ngựa nào,
Trong lúc Mai Lạc ngạo kiêu,
Quanh xác Ban Tuấn mục tiêu dễ dàng.
Âu Phước bị hắn đâm thương,
Một người ưu tú Troa quân chết rồi.
Hải Tô nghe nói bồi hồi,
Nỗi đau đớn phủ ngập trời đau thương. (10820)
Chàng nhìn đây đó tiền quân,
Thấy người chiến thắng tước dần giáp khiên.
Nằm trên mặt đất máu tuôn,
Xác Âu Phước đó vết thương máu tràn.
Băng mình qua trước binh đoàn,
Mũ đồng lấp lánh đau thương thét gầm.
Thét lên những tiếng sắt đanh,
Như Thần Hoả Thái lửa thiêng tuôn tràn,
An Trê tôn tử nghe vang :
Khổ thân nếu bỏ giáp khiên đẹp này. (10830)
Và thân Ban Tuấn nằm đây,
Còn gì danh dự mặt mày Đa Niên.
Nếu chống Hải Tô đơn phương,
Quân Troa vây hảm, một đương với nghìn.
Bốn bề quân địch vây quanh,
Sức ta không thể đảm đương việc này.
Đối phương Thần giúp một tay,
Một mình lùi bước, chẳng ai trách nào.
Nếu tìm An Bắc nơi nao,
Cả hai trở lại xông vào trợ thân, (10840)
Chống thần linh cũng có đường,
Kéo về thân xác cho chàng An Sinh.
Là điều hay lúc khốn cùng.
Chàng còn suy tính trong lòng xót xa,
Hướng chàng xông tới quân Troa,
Dẫn đầu dũng tướng Hải Tô đã gần,
Mai Ninh Lạc bước lùi dần,
Bỏ thi hài lại quay lưng chiến trường.
Như sư tử rậm râu bờm,
Cho người gào thét khua vang trại chuồng. (10850)
Tim se miễn cưỡng bước chân,
Bỏ thây Ban Tuấn mà lòng xót đau.
Về gần đồng đội thân yêu,
Dừng chân tìm kiếm anh hào Thế Môn.
An Bắc phía tả chiến trường,
Động viên đồng đội xông lên đối đầu,
Vì Thần Hải Long đã gieo,
Nỗi lòng sợ hãi, bao điều hoang mang.
Đến bên vội vả bảo chàng :
Bạn ơi ! An Bắc nhanh sang phía này, (10860)
Tướng quân Ban Tuấn chết rồi,
Mang An Sinh gấp thi hài bạn thân.
Xác thân vũ khí lột trần,
Hải Tô tướng địch mũ đồng cướp đi.
An Bắc xúc động xót thay,
Cùng Mai Ninh Lạc băng ngay trận tiền,
Hải Tô đang tước giáp khiên,
Kéo thi hài định vung gươm chặt đầu.
Vất thây cho chó tranh nhau.
An Bắc tiến bước thuẩn như trường thành. (10870)
Hải Tô lui lại đám đông,
Đưa trao chiến phẩm quân mang về thành.
Vật quà mừng lập chiến công,
An Bắc tiến tới che tầm tử thi,
Như con sư tử dắt đi,
Bầy con nhỏ bé những khi khốn cùng,
Thợ săn gặp phải trong rừng,
Sức hùm bùng nổ, nhíu lông chau mày.
Bên chàng Mai Lạc ra tay,
Quặn lên trong ruột lòng đầy xót thương. (10880)
Lô Cốt thủ lĩnh Ly Siên,
Nhìn Hải Tô phán, lời buồn chua cay :
Hải Tô oai vệ bề ngoài,
Khi giao tranh lại chạy dài, hèn sao !
Vinh quang là thế đó nào ?
Giờ đây thử hỏi lòng nào cứu nguy,
Phố phường, thành quách biên thùy,
Một mình anh với trong tay lính thành,
Sinh trưởng trong thành Ý Long,
Bởi không còn một Ly Siên giúp giùm. (10890)
Ân nghĩa gì đánh Đa Niên,
Ngày đêm chiến đấu địch quân không rời.
Trốn như tiểu tốt dỡ hơi,
Khốn thay bạn quý là người khách tân,
Bỏ lơ xác Thạc Phê Đông, (Sarpédon)
Cho quân Hy Lạp hoành hành mồi ngon,
Tước đi vũ khí quang vinh,
Sinh thời đóng góp cho anh, cho thành.
Bao nhiêu công trận lẫy lừng,
Giờ anh mặc chó dành phần nhai xương ? (10900)
Ly Siên nếu mất lòng tin,
Bỏ về quê quán Troa thành sẽ rơi.
Hãy nghĩ xa với lâu dài,
Vì thành Troa với giống nòi đầu tranh.
Hãy đưa Ban Tuấn vào thành
Ý Long rộng lớn kinh thành vua Biam
Tức thì phía quân Đạt Liên,
Đổi trao xác Thạc Phê Đông và cùng,
Giáp khiên vũ khí anh hùng,
Đổi trao thi thể về thành Ý Long. (10910)
Bởi quyền lực người hùng anh,
Bạn thân bị giết ngang hàng bạn ta.
Trước tướng An Bắc xông pha,
Anh không nhìn thẳng dám mà đấu tranh,
An Bắc có hơn sức anh ?
Hải Tô cúi mặt, Mũ Đồng phân bua :
Lô Cốt lời quá cay chua,
Bạn hiền ơi ! nghĩ anh thừa tâm tư,
Hiểu hơn người khác an cư,
Ly Siên màu mở, chẳng như bao người. (10920)
Giờ đây anh oán trách tôi,
Tránh cùng An Băc tướng người giao tranh,
Tôi không lo sợ so gươm,
Cũng không sợ nhịp chân dồn ngựa phi,
Mà cơ trời Dớt có khi,
Khiên Vàng cho thắng, cho nguy chạy dài.
Cả người dũng khi hùm oai,
Vinh quang cũng mất, chẳng Ngài giúp công.
Đến cùng tôi hỡi bạn hiền,
Bạn nhìn ra cách tôi làm xem sao ? (10930)
Phải tôi hèn nhát gan nào ?
Bởi vì một gã anh hào Đa Niên,
Bên xác Ban Tuấn xông lên,
Tôi bị cản trở bước chân lại gần.
Nói rồi cất tiếng vang lừng :
Troa quân, Ly Siên, Đạt Đa Niên xáp gần,
Nam nhi xung trận tiến công,
Tinh thần dũng cảm liệt oanh hùng cường !
Mang tôi khiên giáp An Sinh,
Giết tướng Ban Tuấn, chiến công anh hùng.
Nói rồi rời bãi chiến trường,
Đuổi theo quân sĩ đang mang về thành
Chiến công binh giáp An Sinh,
Chàng thay binh giáp khiên thần tặng trao.
Vua Pê Lê truyền chiến bào,
Cho An Sinh, lúc dưỡng hưu về già.
Giáp khiên sắc xảo sáng lòa,
Cha truyền con nối của nhà lừng danh.
Khi Thần Vương đấng Hội Vân,
Nhìn xa chiến địa thấy chàng khoát lên. (10950)
Giáp khiên Pê Lê chí tôn,
Lắc đầu Ngài nhủ thiệt hơn trong lòng :
Khốn thay cái chết đã gần,
Mà không thấy được ở trong lòng nào !
Khoát lên vũ khí siêu cao,
Của người ưu tú kẻ nào chẳng run,
Giết bạn An Sinh anh hùng,
Từ đầu vai, lột mũ lông giáp đồng,
Là điều trật tự cõi Thiên,
Khi đem vũ khí giáp khiên khoát vào. (10960)
Thì thôi một chút chẳng sao,
Ta cho ngươi một thế ưu hơn người,
Bù chẳng về lại nhà ngươi,
Trao nàng An Độ rạng ngời chiến công (Andromaque)
Giáp binh An Sinh lừng danh,
Báo thù cho vợ hận thành Âu Thông. (Éétion)*
Nhíu lông mày rậm ri lông,
Cồ Nốt Thần tử nghĩ xong gật đầu,
Giáp đồng vừa vặn Hải Tô,
Oai thần Chinh Chiến nhập vô khí hùng. (10970)
Mình đầy sát khí hung hăng,
Tay chân dũng cảm kiên cường sức trai,
Đến bên cùng các anh hào,
Tay cầm vũ khí ánh sao rạng ngời,
Hải Tô đứng trước mọi người,
Thanh cao nào khác con ngài Pê Lê.
Đến bên kích động vỗ về,
Lô Cốt, Mân Thế, cận kề Mê Đông,(Glaucos, Mesthlès, Médon)
Thạch Sĩ, Ất Tâm tinh thần, (Thersilochos, Astéropée)
Đinh Xuân, Hỷ Bố và cùng Phù Nghi.(Diseènor, Hippothoos, Phorcys). (10980)
Khổ Minh, Ân Mộc tiên tri (Cromios, Ennomos)
Động viên cùng nói lời ngay chân tình :
Lắng nghe các bạn đồng minh,
Cùng bao bộ tộc láng giềng thiết thân,
Đến đây chẳng kể số đông,
Mà lòng tự nguyện cứu nhân giúp đời,
Các thành đô đến với tôi,
Góp công giúp sức cứu người nguy nan.
Trẻ thơ phụ nữ Troa dân,
Thoát tay hiếu chiến An Kinh vây thành. (10990)
Giờ đây trong cuộc phản công,
Giải treo xứng đáng, lương ăn tặng phần.
Cướp xác Ban Tuấn lập công,
Làm cho An Bắc lùi chân chiến trường.
Tôi còn chia nửa giáp binh,
Nửa phần chiếm phẩm ngang bằng với tôi.
Vinh quang bình đẳng hai người.
Một lời vừa dứt, lao dài tủa lên,
Thẳng xông vào quân Đa Niên,
Điên rồ sắt khí ! trong lòng ước mong. (11000)
Tranh với công tử Thế Môn,
Bao người sẽ bị tử vong chiến trường.
An Bắc bảo bạn gọi thêm :
Mai Ninh Lạc hỡi, bạn hiền gấp mau,
Tôi e chẳng đủ sức nào,
Hai ta chẳng đủ giúp nhau lúc này,
Cơn giông bão dữ đến đây,
Hải Tô tiến bước với bầy tinh binh,
Giữ xác Ban Tuấn khó khăn,
Chúng như chó dữ diều ăn tranh phần. (11010)
Mai Ninh Lạc tiếng gọi xa :
Vực sâu chết chóc kề gần,
Hãy mau gọi gấp bạn cùng giúp ta.
Đạt Liên dũng tướng mau ra cứu giùm,
Vinh quanh danh dự lập công,
Rượu thề chiêu đãi ta từng có nhau,
Hợp binh cùng rửa nhục nào,
Thần Vương chứng kiến đã trao danh này.
Nước sôi lửa bỏng là đây,
Hãy mau nhanh đến nơi này cứu nguy. (11020)
Cứu xác Ban Tuấn dành thây,
Chớ nên để bạn cho bầy chó Troa,
Xem như một món đồ chơi.
Lời chàng vang vọng tức thời đến ngay,
Ô Lê An Bắc nhanh tay,
Anh Đô Mai với tướng tài Mê Long,
Sức như thần chiến hung thần,
Các tướng quân khác cũng cùng đến nơi.
An Kinh thức tỉnh kịp thời,
Quân Troa đã tiến nửa vời đất tranh. (11030)
Hải Tô dẫn đầu đoàn quân,
Như con sông tự trời xanh cuộn tràn.
Sóng to triều xuống thét gầm,
Chung quanh bờ dốc ầm ầm sóng vang.
Quân Troa náo động bước chân,
An Kinh che kín khiên đồng lớn to.
Che xác Ban Tuấn nằm co,
Đồng tâm giao chiến, giữ cho thây chàng.
Chung quanh lóng lánh mũ đồng,
Thần Vương bổng phủ bóng sương lam dày. (11040)
Giúp An Kinh để mang thây,
Ngài nào ghét bỏ, chàng đây đã từng,
Giúp cho Âu Ất cung đình,
Cháu con Ngài chốn dương trần yêu thương.
Đáng chê thay nếu xác thân,
Địch quân ô nhục, chó ăn xé dành.
Thần Vương nào để cho đành,
Nên phù hộ bạn tranh giành tử thi.
An Kinh chuẩn bị khiên thây,
Thoạt đầu hoảng hốt bỏ ngay chạy dài. (11050)
Tên lao không trúng một ai,
Họ bèn trở lại cùng người hùng anh,
An Bắc lỗi lạc chiến công,
Anh hùng chẳng kém chi chàng An Sinh.
Hàng đầu xông thẳng băng băng,
Kiên cường như giống lợn rừng non cao.
Dễ dàng xua đuổi biết bao,
Chó đàn và thợ săn vào lũng xanh.
Chàng trai tuyệt diệu Thế Môn,
Đánh bay tan tác quân Troa đang dành. (11060)
Thi hài, định kéo vô thành,
Hy Bô Thước đã thắt vòng quanh gân,(Hippothoos)
Lê Thố công tử kéo chân (Léthos),
Băng vòng hổn chiến lập công chiến trường.
Cho Hải Tô, Troa thoả lòng,
Bổng dưng tai họa bất thần đến y.
Chẳng ai cứu giúp được gì,
An Bắc xông tới, đâm ngay mũ đồng.
Xuyên má, lao nặng rách tan,
Óc văng tủy trắng, máu hồng đổ tung. (11070)
Hy Bô Thước ngã lăn đùng,
Tuột chân úp mặt lên thân thi hài.
Xa La Ri Sa xanh tươi. ( Larissa)
Uổng công cha mẹ nuôi đời, dưỡng sinh.*
Tuổi đời ngán ngủi thanh xuân,
Dưới tay An Bắc, lao đồng hùng anh.
Hải Tô thấy thế phóng nhanh,
Vào thân An Bắc lao đồng sáng trưng.
Thế Môn công tử lách mình,
Ngọn lao lướt khỏi tai chàng lại rơi. (11080)
Đâm Chế Đô trúng xương vai, (Schédios)
Xuyên da trên mũi, lại bay ra ngoài.
Buông rơi vũ khí ngã nhoài,
Anh Phi công tử, anh tài Phổ Xuyên. (Iphitos, Phocéens)
Xứ Ba Nô trị vững bền, (Panopée)
An Bắc lại đứng dậy liền đâm nhanh,
Vào Phù Nghi trúng thân mình, (Phorcys)
Thủng xuyên áo giáp, tung tràn ruột gan.
Phê Ngọc công tử hung hăng, (Pénops)
Quanh thay Hy Thước định cầm chiếc dây, (11090)
Ngã lăn bụi đất tức thì,
Đôi chân co quắp, đôi chân cấu cào.
Hải Tô lừng lẫy lùi vào,
Đạt Liên gào thét kéo theo thi hài.
Hy Bô Thước và Phù Nghi,
Lột trần vũ khí diệu kỳ trên vai.
An Kinh sẽ thắng trận này,
Quân Troa lùi bước về ngay kinh thành.
Quân Troa thiếu sức kiêu hùng,
An Kinh sẽ hẵn dành phần vinh quang. (11100)
Ngược điều tiên liệu Thần Vương,
Do lòng dũng cảm sức còn trội hơn.
Nhưng nào hay Thần An Long,
Đích thân kích động anh hùng Anh Nê (Énée)
Hóa thân Bê Phác mới về, (Périphas)
Vệ quân thân tín cận kề của cha,
Khôn ngoan lời lẽ thiết tha :
Anh Nê sao cứu nước nhà Ý Long,
Dẫu cho trái ý một thần,
Ý người có thể thắng thiên mặc dầu. (11110
Nhờ niềm tin vững bền lâu,
Và lòng dũng cảm, lực cầu chẳng đông.
Thần Vương cho thắng quang vinh,
Cớ chi lẫn tránh, chẳng cùng xông pha.
Anh Nê linh cảm gần xa,
Lời người đối mặt chính là An Long,
Anh Nê thét với Troa quân :
Thật là xấu hổ vô cùng quân ta,
Bởi thiếu ý chí xông pha,
An Kinh đánh ép ta xa chiến trường. (11120)
Lui về thành lũy Ý Long,
Một Thần đã hiện tỏ lòng bên tôi,
Nói rằng Dớt đấng an bài,
Chủ mưu chinh chiến lâu dài hộ ta,
Hãy cùng tiến tới xông pha,
Chớ nên để chung kéo ra chiến thuyền,
Xác thân Ban Tuấn mặc nhiên.
Nói rồi nhảy đến Đa Niên đối đầu,
Troa quân lại tiếp theo sau,
Anh Nê đâm ngọn lao vào Lai Tô. (11130)
An Chi công tử thanh cao, (Arisbas)
Với Ly Cô Mạc cùng nhau thân tình, (Lycomède)
Xúc động Ly Mạc đứng bên,
Phóng lao đâm trúng Áp Ông gan lòng, (Apisaon)
Lao qua đầu gối ngã lăn,
Hy Ba công tử từ vùng Phổ Nghi, (Hippasos, Péonie)
Xứ phì nhiêu đất tốt tươi,,
Sau Ất Tê chẳng kém tài lược thao, (Astéropée)
Ất Tê thiện chiến anh hào,
Trong lòng xúc động nhảy vào Đa Niên. (11140)
Nhưng không thể tiến được hơn,
Hàng khiên che kín lao vung chỉa dài.
Chung quanh Ban Tuấn thi hài.
An Bắc đã đến từng người động viên:
Quanh tử thi chiến đấu gần,
Đừng ai giao chiến xa tầm anh em.
Lệnh truyền kỳ diệu Thế Môn (Télamon)
Bên nhau mặt đất, máu hồng láng lai.
Quân Troa ngã gục liên hồi,
Hy sinh cũng có một vài Đa Niên. (11150)
Nhưng so quân địch ít hơn,
Chiến tranh nào chẳng đổ tuôn máu hồng.
Giao tranh kề cận bên mình,
Cuộc tàn sát lại lan tràn lửa thiêng.
Chẳng ai còn biết trời trăng,
Bởi vì một đám mây dâng sương dày.
Quanh quân ưu tú phủ vây,
Ngoài vòng ánh sáng, mặt trời tỏa lan.
Chẳng bóng mây nơi sườn non,
Giao tranh còn được đôi lần nghỉ ngơi. (11160)
Khác trung tâm trận tơi bời,
Lao đồng gươm nhọn ngút trời khói sương.
Có hai dũng sĩ kiên cường,
Ninh Tô công tử, hai chàng chẳng hay.
Ban Tuấn đã chết lúc này,
Tưởng rằng chàng vẫn đâu dây hàng đầu.
Hai chàng theo lệnh Ninh Tô,
Đánh quân thù cách xa bờ biển đen.
Cuộc giao tranh đến lúc tàn,
Mồ hôi mệt nhọc đổ tuôn không ngừng. (11170)
Trên tay mi mắt ròng ròng,
Quanh thây người bạn trung thành An Sinh.
Như người mang tấm da căng,
Bàn tay kéo mạnh cho thành phẳng phiu,
Bốn bên cố sức lôi vào,
Quyết mang thân xác chàng theo phía mình.
Quân Troa muốn mang về thành,
An Kinh gìn giữ muốn mang về thuyền.
Chiến trường một cuộc hổn mang,
Thần Nữ Quán Trí thấy lòng sục sôi. (11180)
Đớt cho đau khổ kéo dài,
Chỉ vì Ban Tuấn, ngựa người đảo điên.
An Kinh đợi tận dinh thuyền,
Chẳng hay biết chuyện kinh thành Ý Long.
Chẳng nghĩ cái chết bạn thân,
Tưởng rằng bạn sẽ an lành bình yên.
Sau khi đuổi đến cổng thành,
Chẳng bao giờ nghĩ bạn thân một mình,
Công thành hay với An Sinh,
Thực lòng chàng đã một lần lắng nghe : (11190)
Một lần mẹ tiết lộ về,
Những điều định mệnh não nề Thần Vương.
Bâng quơ mẹ nói với chàng,
Một tai họa lớn đau thương nhất đời,
Khi chàng còn sống cõi người,
Bạn ưu tú nhất chết nơi chiến trường.
An Kinh vẫn bám lấy luôn,
Thi hài Ban Tuấn, lao cầm trên tay,
Chém đâm khủng kiếp trận này,
Một câu thường nhắc nhau đây dục lòng: (11200)
An Kinh binh sĩ giáp đồng,
Chúng mình chẳng thể về thuyền vinh quang,
Thà là nức toạt đất đen,
Vùi chôn tất cả đớn hèn chúng ta,
Còn hơn để bọn quân Troa,
Mang xác Ban Tuấn, ba hoa về thành.
Phía quân Troa nhắc nhau rằng :
Dù cho số phận ta đành hy sinh,
Dành Ban Tuấn chớ sờn lòng,
Chẳng ai bỏ trận lui quân nơi này. (11210
Mấy lời nhắc nhở sau đây,
Làm trai dũng khí nam nhi anh hào.
Tiếng đồng tiếng sắt chạm nhau,
Qua tầng không lạnh vút cao trời đồng.
Những con tuấn mã An Sinh.
Nơi sa trường khóc hay tin tướng mình,
Ngã trên bụi đất xác thân,
Hải Tô tàn bạo sát nhân hùng cường.
Cho dù Ô Tô Mê Đông,
Đã dùng roi quất dục nhanh trận tiền. (11220
Hay dùng lời ngọt yêu thương,
Đôi khi mắng mỏ, rủa nguyền xót đau.
Tuấn mã không muốn về nào,
Huệ Cầu đất rộng hay vào thuyền dinh.(Hellespont)
Hay vào giữa chốn ba quân,
Hai con đứng tựa bia trồng nghĩa trang.
Bên mồ kẻ chết lặng câm,
Chiếc xe vàng đẹp trống buồn phía sau.
Mắt hồng lả chả lệ đào,
Cái bờm tuột khỏi vòng bao dơ bùn. (11230)
Cồ Nốt Thần Tử xót thương,
Gục đầu cảm động tỏ tường thở ra :
Ta tặng Pê Lê nhà vua,
Hai ngựa bất tử chẳng già chết đi,
Để nay giữa chốn trần ai,
Đớn đau bạc phận với người, khổ thân !
Trên lưng xinh xắn xe vàng,
Hải Tô chẳng thể đụng càng ngựa hay.
Vũ khí An Sinh trong tay,
Khoe khoang cũng đủ lắm thay với tài. (11240)
Thôi thì ta giúp bây chơi,
Nhiệt tình hăng hái, gối say, tim hùng.
Bay cứu Ô Tô Mê Đông,
Mang hắn về chốn trại dinh chiến thuyền.
Quân Troa cho ta quang vinh,
Tiến công đến tận thuyền đen chiều tàn,
Đến khi đêm tối linh thiêng.
Nói rồi nhiệt huyết phi thường Ngài gieo.
Gân cốt tướng mã anh hào,
Phủi đi bụi đất trên bao yên bờm. (11250)
Cho phi lồng chiếc xe nhanh,
Trên xe với tướng Mê Đông anh hùng.
Về nơi hai phía chiến trường,
Dù cho xót phận đau thương tướng mình.
Xông lên hai ngựa nhanh chân,
Như diều hâu giữa một đàn thiên nga.
Nhẹ nhàng xua chạy quân Troa,
Nhẹ nhàng chẳng đánh ai sa trên đường,
Bởi xe chỉ một mình chàng,
Không vừa điều khiển đâm thương một mình. (11260)
Đồng đội An Ki Mê Đông,(Alkimédon)
La Kết công tử ở thành Hải Ni. (Laerkès, Haimonide)
Dừng chân bên ngựa thầm thì :
Bạn ơi, Thần đã gieo chi vào lòng,
Tướt đi trí tuệ tuyệt trần,
Hoàn toàn vô ích xe không đánh thù,
Ban Tuấn về cõi thiên thu,
Hải Tô tướt lấy khiên lao giáp đồng.
Mang khoe vũ khí An Sinh.
Đôn Các công tử thong dong đáp lời: (Diorès) (11270)
An Ki Mê Đông anh ơi !
Khiến sai thần mã ai thời hơn anh,
Ban Tuấn sức mạnh như thần,
Mà nay số mệnh cướp phần tử sinh.
Này đây cầm lấy roi cương,
Anh điều khiển ngựa tôi còn giao tranh.
Nói rồi giao ngựa Ki Đông,
Ô Mê Đông nhảy bước liền xuống ngay.
Hải Tô nhìn thấy đổi thay,
Bên Anh Nê khẽ bảo: Này hội cơ. (11280)
Này Anh Nê tướng quân Troa,
Tôi vừa thấy ngựa thần qua, mà nài,
Là tay điều khiển bất tài,
Cùng nhau góp sức cả hai bắt nào,
Hai ta cùng tiến xông mau,
Chẳng ai có thể đánh vào hai ta.
An Chi công tử bước ra,
Đôi vai che tấm khiên da bọc đồng,
Cô Minh, An Tốt sức thần,(Chromios, Arétos)
Cả hai hy vọng trong lòng quang vinh. (11290)
Dắt về tuấn mã kiêu hùng,
Điên rồ ! vì họ sẽ không về thành,
Cùng Ô Mê Đông giao tranh,
Máu hồng sẽ đổ láng lênh đất màu,
Ô Mê Đông hướng khẩn cầu,
Dớt ban hồn lắng, sức mầu nhiệm tăng.
Bên An Ki Đông nhắc rằng :
Chớ để tuấn mã anh hùng xa xôi,
Để chúng thở vào lưng tôi,
Hải Tô hẳn muốn giết tươi chúng mình. (11300)
Để ngồi trên ngựa An Sinh,
Muốn rằng đánh bại An Kinh trận tiền.
Hay bị chặn bởi tiền quân.
Gọi hai An Bắc, anh hùng Mai Ninh La:
Hỡi các tướng lĩnh chúng ta,
Giao thây dũng sĩ tài ba giữ gìn.
Hãy sang đây cứu nguy cùng,
Giúp tôi kẻ sống trong vòng gian nguy.
Thoát ngày oan nghiệt nơi đây,
Hải Tô và các tướng tài Troa quân. (11310
Đang dồn sức mạnh đấu tranh,
Việc gì cũng bởi số phần Thần Vương.
Tôi sẽ phóng lao hết mình,
Việc gì cũng bởi Thần linh hộ trì.
Nói rồi phóng thẳng lao đi,
Trúng vào An Tốt khiên dày đai da. (Arétos)
Cắm vào dưới bụng lăn ra,
Như con bò mộng dưới đà búa tung.
Chàng trai tráng bị đứt gân,
Chồm lên phía trước, ngã lăn tức thì. (11320)
An Tốt rời rã tứ chi,
Ngọn lao sắc xoáy ruột, tay ngã chồm.
Hải Tô nhắm Ô Mê Đông,
Phóng ngay một mũi lao đồng sáng choang,
Ô Mê Đông cúi tránh thương,
Ngọn lao cắm đất rung rinh sức thần.
Hai bên toan tiến so gươm,
Hai chàng An Bắc vượt hàng đến bên.
Hải Tô, Anh Nê ngại ngần,
Bước lui kinh sợ trong lòng nát tan. (11330)
Bỏ mặc An Tốt rỉ rên,
Ô Mê Đông tựa như thần Chiến Chinh,
Lột trần vũ khí cười rằng :
Đau thương Ban Tuấn đôi phần giảm suy,
Dù người ta giết kém tài.
Nói rồi cất vũ khí nơi xe mình.
Máu còn lai láng tay chân,
Như con sư tử vồ xong bò rừng.
Lần hai cuộc chiến kinh hoàng,
Bên thây Ban Tuấn lại còn cam go. (11340)
Thiên cung khơi mối bất hòa,
Hiện cầu vòng tía dài to bảy màu.
Dớt cho thiên hạ trông vào,
Điềm linh thiêng cuộc binh đao cõi trần.
Hay cơn bão tuyết cản ngăn,
Công trình lao lực thế gian cõi người.
Hư hại súc vật chăn nuôi.
Quán Trí Tuệ khoác mây trời đỏ xanh
Thần Vương phái tự Thiên Cung,
Ý Ngài đổi giúp quần hùng An Kinh. (11350)
Lẫn vào giữa chốn ba quân,
Từng người khích lệ động viên chiến trường.
Bên Mai Ninh Lạc hùng cường,
Hóa thân Bàn Phượng khích lòng tướng quân: (Phénix)
Mai Ninh Lạc nhục sĩ danh,
Nếu bạn thân thiết trung thành An Sinh,
Dưới thành Troa chó lôi xương,
Nào mau đánh mạnh, hăng lên quân mình.
Mai Ninh Thanh Chiến đáp rằng :
Hỡi cha Bàn Phượng, sinh thành tuổi cao, (11360)
Ước gì Thần Nữ ban nào,
Tránh tôi mũi dáo đường lao tơi bời.
Tôi muốn gìn giữ thi hài,
Ban Tuấn tử trận làm tôi đau lòng.
Hải Tô dũng khí lửa hồng,
Đang tàn sát với thương đồng Thần Vương.
Nghe lời Thần Nữ vui thêm,
Quán Trí Mắt Cú được chàng tin yêu.
Trước các Thần chàng khẩn cầu
Quán Trí tỏa sức trên đầu, gối, vai. (11370)
Gieo lòng đức tính gan lỳ,
Như con ruồi bị đuổi đi vẫn còn,
Vẫn bám lấy làn da thơm,
Chỉ vì thích hút máu hồng người ta.
Nữ Thần gieo tựa thế là,
Mai Ninh Lạc lại thiết tha tấm lòng,
Bên tử thi đâm ngọn thương,
Trúng người tân khách của chàng Hải Tô.
Bồ Đắc công tử Âu Tơ,(Podès, Éétion)
Giàu sang, dũng cảm được vừa lòng yêu. (11380)
Hải Tô quý trọng rất nhiều.
Đang toan bỏ chạy bỗng lao xuyên mình.
Bồ Đắc ngã ngữa xuống, ầm !
Mai Ninh Lạc kéo xác nhanh phía mình.
Bên phía Troa, Thần An Long,
Dạng hình Phê Ngọc khuyên cùng Hải Tô, (Phénops)
An Sốt công tử Bi Đô, (Asios, Abydos)
Hải Tô mến kẻ giang hồ khách tân.
Thần Viễn Kích khích lệ lòng*:
Hải Tô, quân địch An Kinh sợ gì. (11390)
Trước Mai Lạc run như cầy,
Xưa nay hắn chỉ một tay tầm thường,
Thế mà hắn chỉ một mình,
Cướp thi hài được giữa tầm Troa quân,
Giết người đồng đội trung thành,
Bồ Đắc xuất sắc con dòng hùng anh.
Hải Tô đau xót trong lòng,
Nghe lời như đám mây buồn tối tăm,
Mũ đồng băng giữa hàng quân,
Cồ Nốt Thần tử khiên vàng cầm lên, (11400)
Y Đa che kín mây ngàn,
Chuyển vang sấm sét, chớp vần đỉnh non,
Cho Troa quân thắng vinh quang,
An Kinh sợ hãi nhanh chân chạy dài.
Pê Nê Lộc trúng đầu vai,(Pénéléos)
Bồ Ly Đa Mạc gần nơi phóng chàng.(Polydamas)
Đầu tiên bỏ chạy tan hàng,
Lai Tố theo đó trúng gần cổ tay. (Leitos)
Hải Tô phóng trúng, chạy đi,
An Lộc công tử, mắt quay một vòng. (Alectryon) (11410
Chẳng còn ý chí tiến công,
Không còn hy vọng đấu tranh chạy nhào.
Hải Tô phóng gót lao theo,
Anh Đô đâm giữa chiến bào mũi lao.(Idoméné)
Phía trước ngực vú Hải Tô,
Nhưng ngọn lao gảy chuôi đầu gỗ trơn.
Quân Troa thoáng thấy kinh hoàng.
Hải Tô nhắm công tử Đồ Long trả thù. (Deucalion)
Đứng trên xe hụt mũi lao,
Trúng Côn Ra Nốt phía sau ngã mình.(Coiranos) (11420)
Là kỵ mã của Mê Long(Mérion)
Rời vùng Lý Tốt kinh thành đẹp xinh. (Lystos)
Đến bằng chân lại bằng thuyền,
Nếu chàng chẳng khẩn trương mang ngựa gần,
Quân Troa hẵn được tặng phần,
Hạ Anh Dô Mai một chiến công lẫy lừng.
Ngựa xe cứu được nguy nan,
Tránh cho vua khỏi ngày tàn oan kiên.
Nhưng Côn Ra Nốt hy sinh,
Hải Tô đâm trúng hàm răng gảy rới. (11430)
Dưới tai lưỡi cắt làm hai,
Trên xe ngã xuống cương rơi đất mềm,
Mê Long cúi xuống nhặt lên:
Anh Đô mai hãy thúc nhanh ngựa mình,
Quay nhanh về tới bến thuyền,
Quân ta tình thế khó đường vẻ vang.
Nói rồi lên ngựa nhanh chân,
Thúc roi về hướng chiến thuyền An Kinh.
Trong lòng lo sợ ngập tràn,
An Bắc cũng thấy chuyển sang tình hình. (11440)
Dớt cho thắng lợi Troa quân,
Cùng Mai Ninh Lạc sự tình hơn thua :
Than ôi ! trí của trẻ thơ,
Cũng hay Cha Dớt hộ phù Troa quân.
Lao họ đều trúng đích tầm,
Lao ta đều hụt tài năng dẫu thừa,
Phải tìm phương cách không thua,
Bảo toàn đồng đội và đưa thây về,
Hải Tô dũng khí tràn trề,
Không ngăn được hắn tôi e hắn còn. (11450)
Đuổi ta đến tận thuyền đen,
Vậy thì tìm bạn nhanh liền báo tin,
Pê Lê công tử, An Sinh,
Tôi cho rằng cậu vẫn không hay rằng,
Đau thương cái chết bạn hiền,
Nơi ta bị một màn sương phủ dày,
Cả người lẫn ngựa phủ vây,
Hỡi Cha Dớt hãy tỏa bay sương mù.
Cho An Kinh nhìn thấy nhau,
Trời trong ánh sáng cho dù tử vong, (11460)
Ý Ngài muốn cũng vui lòng.
Thần Vương nghe nói rưng rưng lệ buồn.
Vội xua tan lớp mù sương,
Đẩy lùi hơi ẩm, trời lên nắng hồng.
An Bắc nói với bạn cùng :
Mai Ninh Lạc hỡi, hãy tìm giùm cho,
An Thy công tử Ninh Tô, (Antilochos con Nestor)
Báo An Sinh biết liệu lo chiến trường.
Bạn thân đã chết trận tiền.
Thanh Chiến nghe nói vội liền đi ngay, (11470)
Như con sư tử ra đi,
Lòng đầy bực tức tiếc vì uổng công,
Bao nhiêu công khó nhọc nhằn,
Chống nhau với sói, người chăn giữ bò,
Suốt đêm chẳng phút để vồ,
Lao vào thèm thịt, mưu mô chẳng thành.
Bởi vì bao mũi lao vung,
Vuốt nanh hung bạo cũng đành rút lui.
Bình minh hé mở chân trời,
Ra đi lòng cũng bồi hồi chẳng yên. (11480)
Mai Ninh Lạc rời chiến trường,
Rời xa Ban Tuấn lòng thương bạn hiền,
Sợ rằng quân sĩ An Kinh,
Chùng chân kiếp đảm kinh hoàng buông so.
Xác bạn cho kẻ thù vồ,
Cho nên chàng mới dặn dò bạn thân :
An Bắc tướng quân anh hùng,
Cùng Mê Long nhớ tấm lòng bao dung,
Của Ban Tuấn lúc an lành,
Với ai chàng cũng hảo tâm tuyệt với. (11490)
Giờ đây số mệnh tả tơi.
Rồi Mai Ninh Lạc sáng ngời nhìn quanh ,
Như diều hâu mắt tinh anh,
Từ cao nhìn thỏ nép mình bụi cây,
Rồi lao mình xuống như bay,
Cướp đi sự sống thỏ này trốn đâu ?
Mai Ninh Lạc nhìn thấy mau,
Phía trái đông đảo cuộc giao tranh hùng.
Đang xông khích lệ ba quân,
Mai Ninh Lạc đã vội vàng đến ngay. (11500)
An Thy Lộc hãy đến đây,
Chắc em chưa biết chưa hay tin buồn,
Một Thần giáng họa Đa Niên,
Làm cho chiến thắng Troa quân chiến trường,
Ban Tuấn đã phải hy sinh,
Người ưu tú nhất An Kinh đau buồn,
Em hãy mau đến An Sinh,
Bên thuyền nhanh chóng báo hung tin này.
Để An Sinh đến đây ngay,
Giúp mang Ban Tuấn tử thi an toàn. (11510
Tử thi bị tước sạch trơn,
Giáp khiên bởi tướng mũ đồng Hải Tô.
Lặng người công tử Ninh Tô.
Lòng đau vời vợi, mắt khô lệ trào,
Giọng thanh thoáng bỗng nghẹn ngào,
Lệnh Mai Ninh Lạc biết bao tâm tình.
Vột trao Lao Độ đồng hành, (Laodocos)
Lao khiên giáp để nhẹ mình chạy nhanh,
Nhảy lên quay ngựa dày chân,
Rời xa trận báo An Sinh tin buồn. (11520)
Cử tướng Thái Chí thay anh,
Chỉ huy dũng sĩ Phi Liên trận tiền.
Chàng về nơi xác bạn hiền,
Cạnh hai An Bắc : Đã truyền báo tin,
An Thy Lộc phóng ngựa nhanh,
Báo cho Phi Túc, tin buồn bạn thân,
Nhưng tôi không dám chắc rằng,
An Sinh sẽ đến dẫu lòng sục sôi,
Bởi vì vũ khí mất rồi,
Hải Tô đang mặc khó thời đánh Troa. (11530)
Chi bằng ta hãy tự ta,
Tìm xem một cách kéo ra thi hài,
Tránh nguy hiểm và họa tai,
Quân Troa hổn chiến bên ngoài tai ương.
Đáp lời công tử Thế Môn :
Lời anh nói vậy phải nhanh thi hành,
Anh và Mê Long trườn mình,
Dưới thi hài để nâng lên xa tầm,
Hai tôi bảo vệ các anh,
Đưa ra khỏi điểm giao tranh khốn cùng. (11540)
Cản Hải Tô và Troa quân,
Hai tôi cùng gọi một tên một lòng.
Kề vai sát cánh tương đồng,
Chống Thần An Rết chiến trường từ lâu.
Hai chàng theo ý vội mau,
Nâng thi hài bước cùng nhau hào hùng,
Quân Troa la ó sau lưng,
Thấy thi hài được An Kinh mang về.
Như đàn chó chạy lăm le,
Xé heo rừng đã nặng nề vết thương. (11550)
Quân Troa cũng thế không ngừng,
Đuổi theo gươm dáo bỗng dừng chân ngay,
Hai An Bắc đứng cản bầy,
Mặt xanh chàm đổ chẳng tay nào vào.
An Kinh dũng khí gian lao,
Lần lần mang tử thi vào trại dinh,
Mỗi bước chân tựa lửa hồng,
Cháy trên phố xá bừng bừng cuộn cao.
Gió tung ngọn lửa thét gào,
Tiếng hò, tiếng hét khiên lao vang ầm. (11560)
Chiến trường man rợ càng tăng,
Trên từng mỗi bước trên đường quân đi,
Như lừa phô sức hăng say,
Từ non cao chuyển khúc cây gỗ về,
Đóng thuyền qua dốc sơn khê,
Mỏi mòn mệt nhọc dãi dề mồ hôi.
Vội vàng chân bước chân lui,
Hai chàng mang gấp thi hài bạn thân,
Hai chàng An Bắc theo chân,
Cản đường như ngọn núi tầm chắn ngang. (11570)
Đồng xa cản ngọn nước tràn,
Chặn dòng sông nước cuốn quanh đổi dòng.
Nhưng dù dòng nước chảy băng,
Cũng không phá vỡ núi ngăn bao giờ,
Phía sau liên tiếp quân Troa,
Bị hai An Bắc theo chờ cản ngăn.
Hai tướng theo đuổi hung hăng,
Hải Tô lừng lẫy, anh hùng Anh Nê,
Như đàn sáo sậu bay về,
Tiếng la inh ỏi bốn bề vang vang. (11580)
Diều hâu vừa cướp chim con,
Các chàng trai trẻ An Kinh kinh hoàng,
Hải Tô, Anh Nê theo chân,
Kêu la quên ý tấn công trong đầu,
Rơi vang vũ khí hào sâu,
Chiến trường chẳng chậm bước nào lui quân. (11586
(Còn tiếp)
Kỳ tới (bài 19)

THI CA KHÚC XV III. CHẾ TẠO VŨ KHÍ CHO ACHILLE (câu 11587 đến 12352)

Trích Sử thi Iliade thi hào Homère. Khuê Văn Paris xuất bản 1011. Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh. Tiến sĩ KHGD Viện Đại Học Paris V Sorbonne, diễn ca thơ lục bát 2005-2011. bản nhuận sắc 2017 phổ biến Internet.

CHÚ THÍCH:

10768: Một đứa trẻ con cũng rành, ngạn ngữ nói lên điều lẽ dĩ nhiên.

10941-10970 Lúc đầu Hector muốn trao quân, đem vũ khí Achille về cho vợ, Andromaque chiến công trả thù cho gia đình vợ, cha Éétion và bảy anh em bị Achille giết, nhưng sau đó lại đuổi theo lấy mặc vào.

10959. Trái điều trật tự cõi thiên. Sự việc xảy ra ngoài khuôn phép. Hector là người trần, không được dùng vũ khí của thần thánh. Achille dùng được vì là con nữ thần Thétis.

11040 Thần Vương phủ bóng sương lam dày để quân Achéens dễ dàng mang xác đi.

10966. An Sinh đánh thành Éétion giết vua cha và bảy anh em Andromaque (An Độ Mai, An Độ)

11074. Câu "Uổng công cha mẹ nuôi đời dưỡng sinh " thường thấy trong các đoạn có người chết.

11342 Cầu vòng xuất hiện báo hiệu là điềm dữ.

11342. Éetion trùng tên cha Andromaque.

11389. Thần Apolon còn có tên là Viễn Kích ;

11458 Ajax không thách thức với Thần Vương Zeus, Chàng chỉ xin Zeus như một người Hy Lạp chính cống, yêu ánh sáng thiết tha. Nếu Zeus bắt chết thì được nhìn mặt trời trước khi chết.
 
Sử thi Illiade - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát
THI CA KHÚC XVIII - CHẾ TẠO VŨ KHÍ CHO ACHILLE

TÓM LƯỢC

Achille đau đớn, nữ thần Thétis từ Thủy Cung hiện đến an ủi con, và hứa sẽ giúp cho vũ khí mới. Thétis về Olympe xin Thần Héphaistos chế tạo vũ khí mới cho con. Achille đau thương xuất hiện trên thành, chàng cất tiếng hét làm quân Troie hoảng sợ bỏ chạy, 12 dũng sĩ Troa quân bị Hy Lạp giết chết. Đêm hôm ấy quân Troa họp Hội Đồng tướng lĩnh. Quân Hy Lạp than khóc bên xác Patrocle, Héphaistos giúp nữ thần Thétis hoàn thành vũ khí, Thétis mang xuống trần cho con. Mô tả chiếc khiên mới của Achille.Thật là thú vị trong thi ca khúc này cách đây ba ngàn năm, Homère đã nói đến những Rô Bô trong xưỡng của Héphaistos, và khiên thần đúc cho Achille là những tranh hoạt họa cảnh tả đời sống, sinh hoạt, xử kiện, chiến tranh Hy Lạp thời cổ đại.

Chiến trường lan tựa lửa bừng, (11587)
An Thy Lộc đã đến cùng An Sinh. (Antilochos, Achille)
Trước thuyền chiến tựa sừng cong,
An Sinh thầm nhủ trong lòng nghĩ suy : (11590)​
Khổ tôi ! sao bị xua đi,
Băng đồng về lính tóc dài An Kinh.
Miễn sao đừng xãy sự tình,
Những điều tiên đoán chẳng lành mẹ ta.
Khi ta còn sống hẵn là,
Người Nguyệt ưu tú lìa xa dương trần ; (Myrmidons)
Người con Mê Tuấn anh hùng, (Ménétios)
Hay là chàng đã hy sinh chiến trường ?
Mà ta đã dặn kỷ rằng,
Sau khi dập tắt lửa hồng đuổi quân, (11600)​
Thì quay về bến thuyền dinh,
Chớ nên chiến đấu với cùng Hải Tô.
Trong khi suy nghĩ quanh co,
Người con trai của Ninh Tô đến gần.
Bên chàng lệ nóng chảy dòng,
Báo tin chàng nỗi tang thương đau buồn:​
An Sinh trí tuệ phi thường,
Than ôi có một tin buồn báo anh.
Đau thương thay việc chẳng lành,
Ban Tuấn đã chết còn nằm ngoài kia. (11610)
Vũ khí tướt đoạt xa lìa,
Thi hài tranh chấp phân chia chiến trường.
Tướng Hải Tô sáng mũ đồng,
Trong tay vũ khí của anh sáng ngời.
Đau như mây phủ tối trời,
An Sinh nắm vốc tro nơi bếp tàn,
Tung lên đầu mặt ố hoen,
Bám lên cả áo cam hoàng long lanh.
Bức tai, bức tóc gào than,
Lăn mình trên đất, tang thương bụi đầy. (11620)
Các nô tỳ đến bủa vây,
Các nàng, chiến phẩm trong tay hai chàng.
Cùng đau thảm thiết khóc than,
Giơ tay đấm ngực, tóc buông tơi bời.
An Thy Lộc cũng bồi hồi,
Cầm tay bạn gượng những lời ủi an.
An Sinh rên rỉ thở than,
Lo Hải Tô lại dùng gươm chặt đầu.
Mẹ chàng nơi chốn biển sâu,
Bên cha già, chợt nhiệm mầu lắng nghe. (11630)
Thét lên tiếng hét não nề,
Các Long Nữ đến gần kề vây quanh,
Lan Khê, Trữ La hầu gần, (Glauké, Thalia)
Kỳ Mai Đôn Các và cùng Nễ Mai, (Kymodokè,Nésaiè)
Phi Anh, Hân Lộc, Thọ Ai, (Spio, Haliè, Thoè)
Kỷ Môn Thư với An Tài, Đan Cơ. (Kymthoè, Actaiè, Doto)
Lâm Nương, Áí Hoa, Bồ Thơ, (Limnoria, Iaira, Proto)
Mê Ly Tiên, An Phi Nơ và (Mélité, Amphinomè)
Phượng Các, Cam Ly Nương Hoa, (Panopè, Callianeria)
Ninh Mặc, Giang Lạc, Mai Hòa, Đỗ My, (Némertès, Galatée, Maira, Doris) (11640)
An Sương, Khải Lan, Anh Thy, (Apseudès, Caillianassa, Orithy)
Ly Minh, An Tuyết, Mặc Thùy bính hoa. (Clyménè, Ianeira, Amathy)
An Khuê với Ý Lan Sa(Agravé, Ianassa)
Các nàng Long Nữ giang hà, biển sâu.
Thủy cung lóng lánh gót đào,
Đôi tay đấm ngực xót đau sự tình.
Thê Túc than khóc ăn năn :​
Các em Long nữ, Thủy thần dấu yêu !
Các em có biết vì sao ,
Hồn ta tràn ngập đớn đau tâm tình ? (11650)
Người mẹ bất hạnh đáng thương,
Đứa con kiệt xuất vô song anh hùng.
Lớn lên thẳng tựa cây xanh,
Trong vườn cây trái lên nhanh sườn đồi,
Ra đi những chiến thuyền dài,
Ý Long đánh trận với người Troa Yên.
Đứa con sẽ chẳng về cùng,
Chẳng còn thấy mặt trong cung điện nhà.
Bây giờ còn đó con ta,
Dưới trời mà đã chan hòa bi thương. (11660)​
Thì ta sẽ đến bên con,
Để mà an ủi nỗi buồn sớm hôm.
Bây giờ ta đến thăm con,
Để xem nỗi khổ ưu phiền xảy ra,
Dù giao tranh nó đứng xa.
Nói rồi rời động thủy ba lên trần.
Long nương theo gót khóc than.
Quanh mình sóng vỗ, gió ngàn hắt hiu.
Tới miền Troa Án phì nhiêu, (Troade)
Lên bờ Long nữ trước sau một đoàn. (11670)
Thuyền Nguyệt Mi phơi bãi vàng,
Nằm im giữa tiếng than buồn An Sinh,
Mẹ hiền yêu mến lại gần,
Tiếng kêu xé ruột não lòng thở than.
Thê Túc ôm lấy đầu con :​
Hỡi con yêu dấu sao còn khóc than !
Đau thương nào đến tâm hồn,
Nói đi, đừng dấu ưu buồn của con,
Mọi điều thực hiện Thần Vương,
Như con tay chắp trời xanh nguyện cầu. (11680)​
Quân An Kinh chịu khổ đau,
Thiếu tay con giúp, lao đao về thuyền.
Nặng nề Phi Túc thở than:​
Mẹ ơi đúng thật, Thần Vương thuận lời,
Nhưng vui sao được mẹ ơi,
Bạn con yêu quý nhất đời hy sinh.
Ban Tuấn đã mất chiến trường,
Hải Tô giết chết, lột trần giáp binh
Vũ khí kỳ diệu xảo tinh,
Của Pê Lê, các thần linh tặng quà. (11690)​
Ngày đưa mẹ đến giường hoa,
Một người trần thế, xót xa mẹ hiền,
Tốt biết bao, nơi thủy cung,
Mẹ sống mãi với Long nương, Thủy thần.
Pê Lê cưới, khách dương trần,
Thì giờ mẹ chẳng muộn phiền vô biên.
Trong hồn mất một đứa con,
Mẹ không còn đón, mừng thương quê nhà.
Sống còn, con chẳng thiết tha,
Giữa trần gian ở lại mà làm chi. (11700)​
Nhục này phải trả đến khi,
Hải Tô con giết, chính tay trả thù.
Đáp lời, mắt lệ thiên thu:​
Hỡi con, con hỡi lòng nào âu lo,
Vì sau cái chêt Hải Tô,
Tai ương, định mệnh sẽ chờ đón con.
Đáp lời Phi Túc uất hờn :​
Cho con được chết ngay liền mẹ ơi !
Vì con không bảo vệ đời,
Bạn thân con được, sống thời mà chi ? (11710)
Xa quê, bạn đã chết đi,
Con không có mặt, bạn thì tai ương.
Mong gì trở lại quê hương,
Chẳng Ban Tuấn, chẳng lửa hương với đời.
Hải Tô giết chết bao người,
Bên thuyền vô ích, con ngồi dững dưng.
Nặng nề cho đất trần gian,
Trong khi dũng sĩ An Kinh giáp đồng,
Lao vào chinh chiến đấu tranh,
Còn con vô ích, chẳng thành giống ai ! (11720)​
Quân trung chẳng giống tướng tài,
Ước gì xích mích tan nơi người, thần.
Tan cơn giận khiến mất khôn,
Sân si như giọt mật ong ngọt ngào,
Nhỏ trong ngực từng giọt trào,
Rồi bùng như khói, bốc cao lửa hờn.
Như con giận dữ ngập tràn,
Giận An Gia Đại Vương toàn chiến binh.
Nói làm chi việc đã xong,
Nỗi đau riêng khiến cho lòng phôi pha. (11730)
Giờ đây con sẽ đi ra,
Hải Tô giết bạn, phải qua báo thù,
Dù cho mệnh có khốc sầu,
Sẵn sàng đón nhận cho dầu Thần Vương,
Hay Thần Bất Tử hại con,
Hùng Anh Kiệt đó thoát chăng mệnh phần, (Héraclès)​
Dù con yêu của Thần Vương,
Hạ Cơ giận dữ, đau thương dập vùi.
Cho dù số kiếp thế thôi,
Dù phơi thây, nhắm mắt đời trần gian. (11740)​
Giờ đây sứ mệnh anh hùng,
Làm cho góa phụ Troa quân khóc chồng,
Má hồng đẩm lệ thở than,
Hai tay lau nước mắt tràn đau thương.
Từ lâu con ra chiến trường,
Dù lòng mẹ có yêu thương dịu dàng,
Cũng không thuyết phục nỗi con,
Giữ xa trận mạc bảo toàn tấm thân.
Ngân Túc Thần Nữ lời rằng :
Con ơi chẳng phải xấu lòng chi đâu ! (11750)​
Khi cứu An Kinh khổ đau,
Thoát cơn kiệt sức, vực sâu bạo tàn.
Nhưng mà vũ khí của con,
Quân Troa đã đoạt giáp khiên lao đồng.
Hải Tô mũ trụ ánh vàng,
Đã mang khiên giáp, lòng càng kiêu căng.
Chẳng hay cái chết đã gần,
Dù sao con chớ lao vòng chiến chinh,
Trước khi trời sáng rạng đông,
Mẹ về mang vũ khí đồng đẹp xinh. (11760)​
Do Thần Hỏa Thái đúc rèn.​
Nói rồi Thần nữ quay truyền Long nương:​
Các em trở lại Đại Dương,
Trình cha ta chốn thủy cung sự tình,
Còn ta lên cõi Thiên Đình,
Tiìm Thần Hoả Thái, Thần Rèn tiếng danh.​
Xem Thần có sẵn lòng thành,
Giúp cho vũ khí giáp kiên lẫy lừng.
Nghe lời Long nữ lao nhanh,
Theo làn sóng biển về cung Thủy Tề. (11770)
Thê Túc bay hướng sơn khê,
Thiên Sơn ngàn dậm, mong về cho con.
Lúc này nơi quân An Kinh,
Tiếng gào, tiếng thét của chàng Hải Tô.
Nhanh chân chạy trốn âu lo,
Về bên thuyền chiến biển bờ sóng xanh.
Chẳng còn phút rút lao tên,
Trên thây Ban Tuấn bạn hiền An Sinh.
Quân Troa càng đuổi theo gần,
Hải Tô như ngọn lửa hồng bừng lên. (11780)
Hải Tô ba lần nắm chân,
Tiếng gào tiếng gọi quân Troa đến gần,
Ba lần An Bắc hai chàng,
Đẩy lui xa khỏi xác thân bạn hiền.
Hải Tô lòng vẫn kiên cường,
Nhảy chồm lên giữa đám đông thét gào.
Quyết không lùi lại ra sau,
Như con sư tử chuồng cao đói lòng,
Đuổi săn bởi các mục đồng,
Hai chàng An Bắc mũ đồng theo canh. (11790)
Chẳng hèn sợ hãi xa dần,
Hải Tô, Thái tử vua Biam kiên cường,
Hải Tô sẽ thắng vinh quang,
Nếu An Sinh chẳng đến cùng tiếp tay,
Y Bích báo tin chàng hay (Iris)
Hạ Cơ đã phái nàng bay tức thì,
Dớt, các Thần chẳng biết chi,
Thiên Sơn, Phong Túc bay đi đến chàng.
Bên An Sinh tiếng nhẹ nhàng :​
Đứng lên, người cả thế gian kinh hoàng. (11800)
Bảo vệ tử thi bạn hiền,
Troa quân cố cướp về thành Troa Kinh.
Hải Tô muốn kéo phía mình,
Cắt đầu Ban Tuấn cắm lên cọc thành.
Sau khi chặt đứt khỏi mình,
Đứng lên, thôi chớ có nằm thở than.
Để tim mối nhục căm hờn,
Khi xác Ban Tuấn chó thành Troa ăn.
Biết bao nhơ nhuốc với lòng,
Nếu mà thân xác bạn hiền mất đi. (11810)
An Sinh đứng dậy tức thì :​
Hỡi Thần Y Bích, thần chi phái nàng
Truyền tin ta được biết rằng..
Nữ Thần Phong Túc nhẹ nhàng báo tin :​
Chính Hạ Cơ gửi sứ thần,
Không ai hay biết, Thần Vương chẳng hề .
Buồn rầu Phi Túc tỉ tê :​
Làm sao có thể tiến về đấu tranh,
Khi tôi mất hết giáp binh,
Mẹ tôi cấm cản xuất quân giáp người. (11820)​
Trước bình minh mẹ hẹn lời,
Mang tôi vũ khí thần nơi Thiên Đình.
Không ai, dũng sĩ An Kinh,
Có được vũ khí ta dùng thuận chăng !
Ngoài khiên An Bắc Thế Môn,
Nhưng mà An Bắc còn trong chiến trướng,
Còn đang ác chiến quanh mình,
Nơi tiền quân cuộc giao tranh không ngừng.
Y Bích lời đáp nhẹ nhàng :
Nữ Thần biết vũ khí chàng mất đi, (11830)​
Tường cao hãy đến bất kỳ,
Hét vang địch sợ tức thì trốn nhanh.
Cho các dũng sĩ An Kinh,
Mỏi mòn được thở, sức quân phục hồi.
Nói rồi Phong Túc bay thôi,
An Sinh tức khắc vươn người đứng lên.
Quán Trí trao chiếc khiên vàng,
Một vầng ánh sáng, đầu chàng hào quang,
Mình chàng tỏa ngọn lửa hồng,
Như làn lửa tự phố thành khói lên. (11840)
Đảo xa giặc hãm vây quanh,
Ban ngày chiến trận mặc tình đẩy đưa,
Số phần Thần Chiến hơn thua,
Nhưng khi chiều xuống trời vừa vào đêm.
Đốt to lửa sáng nhiều thêm,
Lửa cao bộ tộc láng giềng biết tin.
Mang thuyền chiến đấu cứu mình,
Xua quân chống lại Chiến Thần giải vây.
Đầu An Sinh khí vút mây,
Như lời thần dặn chân phi đến tường. (11850)
Chẳng xen vào bãi chiến trường,
Cất lên tiếng hét lạnh tầng không gian.
Quán Trí thêm vọng tiếng vang,
Quân Troa náo động hoang mang vô cùng.
Như quân giặc lúc hãm thành,
Chợt nghe vọng tiếng kèn đồng vút cao.
Tiếng vọng Âu Xích bên hào,( Éacide)
Vút lên lanh lãnh buốt vào óc tai.
Quân Troa hổn loạn chạy dài,
Ngựa quay ngược kéo xe người tung sau. (11860)
Linh tính tai họa thương đau,
Kỵ binh mất vía thấy cao lửa hồng,
Trên đầu dũng tướng An Sinh
Nữ Thần Mắt Cú lửa tung sáng ngời.
Ba lần chàng hét lạnh trời,
Quân Troa ba bận tơi bời đẩy nhau.
Mười hai dũng tướng hàng đầu
Bị lao đâm ngực đớn đau ngã nhào.
An Kinh mừng rỡ vội mau,
Kéo thấy Ban Tuấn dưới lao phủ mình. (11870)
Đặt mình trên chiếc cán thương,
Vây quanh đồng đội lên đường xót đau.
An Sinh lệ nóng nghẹn ngào,
Mắt nhìn người bạn thân yêu nằm dài.
Lao đâm rách nát cả người,
Bạn thân chàng cử ra nơi chiến trường,
Giáp khiên, xe ngựa yên cương,
Đã không về nữa, đau thương đợi chờ.
Vầng dương mòn mỏi bao giờ,
Hạ Cơ cưỡng bách bất ngờ lặn nhanh. (11880)
Bên ngoài biển rộng tối tăm.
An Kinh chấm dứt cuộc tranh chiến trường.
Quân Troa hổn loạn kinh hoàng,
Lui quân đến tận giữa đồng dừng chân.
Họp bàn, thảo luận, nghỉ ăn,
Cả hàng quân tướng đứng lên chẳng ngồi.
Bàng hoàng sôi nổi chưa nguôi,
An Sinh vắng bóng lâu rồi bỗng dưng,
Hiện trong cuộc chiến đau lòng,
Bồ Ly Đa Mạc luận bàn trước tiên. (11890)
Người duy nhất hiểu sự tình,
Nhìn sau, nhìn trước tình hình hôm nay.
Cùng Hải Tô sinh một ngày,
Mỗi người vinh hiển riêng tây anh hùng.
Kẻ thì sức mạnh lao thương,
Người thì ăn nói tỏ tường lời hay.
Bồ Ly Đa Mạc tỏ bày:​
Các bạn ơi hãy nghĩ suy cảnh tình.
Riêng tôi khuyên trở về thành,
Chớ ngồi mà đợi bình minh giữa đồng. (11900)
Ở đây xa với lũy thành,​
Bao lâu người ấy giận cùng quân vương,
Chúng mình dễ đánh An Kinh,
Tôi vui mừng ngủ cạnh thuyền đấu tranh,
Hy vọng cướp lấy thuyền nhanh,
Lúc khi chia rẽ, liệt phân quân thù.
Nhưng bây giờ tôi lo âu,
Phi Túc giận dữ, đánh mau cực kỳ,
Lòng say dũng cảm ai bì,
Hắn ta sẽ đánh xá gì đồng hoang. (11910)​
Nơi hai quân sức ngửa ngang,
Hắn ta sẽ đánh tràn lan lũy thành.
Quanh ta con vợ gia đình,
Hãy tin tôi, hãy thủ thành trước tiên,
Bây giờ đêm tối siêu nhiên,
An Sinh bị cản bóng đêm nên ngừng.
Ngày mai giao chiến giữa đồng,
Mắn nay cho kẻ thoát thân sống còn,
Trở về thành lũy Ý Long,
Bao người bỏ xác diều ăn, sói dành. (11920)
Tai tôi chẳng muốn sự tình,
Nếu không phải chịu đau lòng xãy ra,
Chi bằng trấn thủ thành ta,
Dày, trơn vững chắc, cổng ra an toàn.
Ngày mai khi lúc bình minh,
Quân ta tên nỏ trên thành chờ trông.
An Sinh có đến mặc lòng,
Bỏ thuyền giao chiến bên thành lũy ta.
Những con tuấn mã xông pha,
Chạy quanh thành quách rồi ra về thuyền. (11930)​
Còn dốc hết sức công thành,
Chớ hòng vô được thành bằng giao tranh.
Chẳng bao giờ hạ Troa Kinh,
Uổng thân loài chó thanh giành thịt ôi.
Hải Tô nhìn xuống trả lời :​
Bồ Ly Đa Mạc tôi thời chẳng ưa,
Lời khuyên trở lại thành vua,
Giam mình đóng cửa, chán chưa sự tình !
Trước kia ai cũng nói rằng:
Thành Troa tráng lệ, vàng đồng giàu sang. (11940)​
Giờ đây của cải tang hoang,
Đã tuôn ra hết cho vùng Phi Di, (Phrygie)
Và vùng trú phú Mê Ni,(Méonie)
Đổi trao lương thực, còn chi vàng đồng.
Vì Thần Vương chẳng giúp lòng,
Nay Thần Vương lại giúp công hộ trì,
Quân ta thắng sắp đuổi đi,
An Kinh ra khỏi biên thùy, biển khơi.
Chớ điên rồ nói những lời,
Dân Troa đã khổ, chẳng ai tán đồng. (11950)​
Ta không chấp nhận lời bàn,
Nào đây tất cả hãy làm theo tôi :
Theo hàng ăn uống nghỉ ngơi,
Chia phân đơn vị thức thời gát canh.
Nếu ai có lắm lương ăn,
Hãy giao nộp lại dùng chung thân tình.
Thà dành chia xẻ bạn mình,
Còn hơn là để An Kinh cướp dùng.
Ngày mai hồng nắng bình minh,
Quân trang vũ khí sẵn sàng giao tranh. (11960)​
Bên thuyền hào khí chiến chinh,
Bên thuyền nếu thật An Sinh nguôi hờn,
Chúng ta quyết chí một lòng,
Chiến trường khốn khổ giao tranh chẳng rời.
Ta sẽ đối mặt y thôi,
Dù cho bại thắng, sự đời thương đau,
Ân Gia Lộc giúp như nhau.( Enyalios Thần Chiến)
Khi gieo tang tóc trên đầu đối phương.
Quân Troa điên dại hoan nghênh,
Quán Trí che dấu, chẳng còn sợ nguy. (11970)
Hải Tô lầm lạc chẳng hay,
Lời Bồ Ly Mạc thẳng ngay chẳng màng,
Rồi theo đơn vị uống ăn,
Trong khi quân sĩ An Kinh buồn rầu,
Khóc Ban Tuấn suốt đêm thâu,
An Sinh bên bạn khởi đầu khóc than,
Tay sát thủ đặt ngực trần,
Than như sư tử râu bờm rừng xanh,
Bị người săn bắt mất con,
Buồn rầu theo gót đi quanh khắp vùng. (11980)
Qua thung lũng tìm dấu chân,
Căm hờn sôi ngút, hận lòng xót thương.
An Sinh nói với ba quân :​
Than ôi vô ích, lời từng nói ra,
Trước Mai Tuấn Lộc cha già, (Ménoetios)
Hẹn ngày chiến thắng, người đà yên tâm,
Sẽ mang về xứ Ô Phong (Oponte)
Con người dũng cảm chiến công lẫy lừng,
Hạ thành Troa nhận chiến phần,
Than Ôi Dớt chẳng cho lòng người mong. (11990)​
Hai ta số phận ghi chung,
Máu ta cùng chảy trên vùng đất Troa,
Và ta nữa, chẳng trở về,
Cha ta Đại Hiệp Pê Lê anh hùng ;
Mẹ la Thê Túc chờ mong,
Cung đình người đã ngóng trông đợi ngày,
Đất này chôn giữ ta đây,
Ban Tuấn thương hỡi ! ta đây quyết lòng.
Sau anh ta sẽ về cùng,
Lễ tang ma bạn, oán hờn vội đâu. (12000)
Trước khi trả được mối thù,
Mang về vũ khí, xách đầu Hải Tô.
Hy sinh bên giàn lửa to,
Mười hai dũng sĩ thành Troa tế thần.
Thọc huyết mới hả nỗi hờn,
Anh nằm bên cạnh thuyền cong mát lòng.
Chung quanh phụ nữ lưng ong,
Troa Yên cùng Đạt Da Niên lệ tràn,
Tiếng trong thanh khóc ngày đêm,
Những người nô lệ ta mang bao lần. (12010)​
Gian khổ khi hạ các thành,
Đôi ta sức mạnh ngọn thương đồng dài.​
Than rồi bảo với mọi người,
Đặt bên lò lửa vạc nồi ba chân,
Nấu nước nóng ấm lau mình,
Cho thây Ban Tuấn, xác thân máu bùn.
Vệ quân đặt chiếc nồi đun,
Nước đầy, chất củi lửa hồng nung sôi.
Rót pha vào vạc sáng ngời,
Rửa lau sạch sẽ, khắp người dầu hương. (12020)
Một lớp cao đắp vết thương,
Chín năm gìn giữ nay mang ra dùng.
Đặt lên giường khăn kim hoàng,
Từ đầu chân một áo choàng trắng tinh.
Suốt đêm than khóc An Sinh,
Nguyệt Mi Đông khóc lời buồn thiết tha.
Thần Vương vội nói Hạ Cơ :​
Hạ Cơ Thần nữ, nàng đà thành công,
Kích động vực dậy An Sinh,
An Kinh dài tóc hẵn nàng sinh ra. (12030)
Đáp lời Ngưu Mục Hạ Cơ :​
Cồ Nốt Thần tử, gớm ta, nói gì ?
Người trần ân oán trả vay,
Tan xương nát thịt phải này ý ta ?
Sao tôi Thần nữ cao xa,
Giống dòng cao quý, vợ vua Thiên Đình,
Giận quân Troa nỗi bất bình,
Mà không giáng được tan tành khổ đau.
Hai Thần còn cải vả nhau,
Thê Túc Thần nữ đã vào Thiên Sơn. (12040)
Lâu đài Hoả Thái vàng đồng,
Huy hoàng bất tử so cùng các cung.
Thần Rèn kiến trúc cho mình,
Thấy Thần Hoả Thái ướt đầm mồ hôi,
Đi quanh ống bể thổi hơi,
Đang còn chế tạo hai mươi vạc đồng.
Sát tường xinh đẹp căn phòng,
Gắn ba chân vạc bánh vàng xe con,
Tự lăn đi đến các thần,
Tự lăn về thật vô cùng xảo tinh. (12050)
Chỉ còn quai chạm sắp thành,
Chỉ còn sửa soạn ráp ràng mà thôi.
Trong khi bận bịu việc thời,
Nữ Thần Ngân Túc đến nơi xưỡng mình.
Sa Bích vấn mái tóc xinh, (Charis)
Vợ Thần Chân Thọt, Thiên Đình lừng danh,
Thấy nàng tay nắm vui mừng,
Gọi tên thân mật thì thầm hỏi han :​
Thê Túc Phất Phới Khăn Choàng,*
Việc gì nàng phải thân hành đến đây ? (12060)
Nàng, tôi quý nhất cõi này,
Đã lâu rồi có mấy khi đến nhà ?
Vào đây yến tiệc vật quà,
Lễ tân tiếp đón đậm đà tình thân.
Nữ Thần tôn quý khách thần.
Dắt tay Thê Túc mời lên ngai ngồi.
Gác chân, đinh bạc tuyệt vời,
Gọi chồng, tay khéo, thợ trời lừng danh:​
Nữ Thần Thê Túc việc cần,
Chuyện làm để đó hởi chàng ra thôi. (12070)​
Thần Rèn cất tiếng trả lời:​
Quả tình Thần nữ nể vì xưa nay,
Mấy khi nàng mới tới đây,
Cứu tôi sau trận rơi dài đớn đau,
Mẹ tôi, chính mẹ sự nào
Nữ Thần Khuyển Mục gây bao sự tình.*
Dấu tôi thân phận thọt chân,
Khiến tôi tê tái, nỗi lòng đớn đau.
Âu Chi Thê Túc thương yêu,(Eurynome Thétis)
Bế tôi bên vú ngọt ngào tình thương. (12080)​
Âu Chi ái nữ Đại Dương,(Océan)
Tấm lòng tử tế luôn luôn vơi mình.
Chín năm bên các nữ thần,
Tôi đà chế các nữ trang tuyệt vời,
Bao vương miện nét trang đài,
Tràng châu, chuổi ngọc từ nơi Thủy Đình.
Quanh nàng thăm thẳm Đại Dương,​
Bọt bay trắng biển vô biên thì thầm.
Chẳng ai hay biết riêng tình,
Thần linh hạ giới ngoài thần cứu tôi. (12090)​
Thê Túc, Âu Chi nương thôi,
Hôm nay Thê Túc đến nơi cung này,
Trả ơn Thần Nữ Tóc Mây,
Lòng nhân cao cả ra tay nghĩa từ.
Em mang vật báu thiên thu,
Tiếp tân Thần nữ đền bù tri ân.
Tôi tắt bể dọn đồ đoàn.
Nói rồi cao thấp, Thần Rèn đi ra.
Tay thần bấm nút hiện qua,
Chiếc đe to quái, chân xa chuyển mình. (12100)
Ông bể to rời bếp hồng.
Đồ nghề rương bạc gọn gàng dọn ngay.
Xốp bọt biển lau mặt mày,
Chân tay, cổ lớn, ngực đầy lông đen.
Áo choàng, thần trượng tay cầm,
Thấp cao lê bước đưa chân khỏi phòng.
Các đầy tớ gái bằng vàng,
Đến bên giúp đỡ ông hoàng Thiên Cung.
Y như người thật thanh xuân.
Cũng linh hồn giữa bàng quang trên mình. (12110)
Có sức mạnh, có âm thanh,
Có Thần tập luyện, dạy thành đã quen,
Họ nâng mình đấng quân vương,
Bước chân vất vã đã dần đến nơi,
Đỡ lên ngai, cạnh khách ngồi.
Ngai vàng lấp lánh, khách mời thần tiên,
Nắm tay Thê Túc gọi nàng:​
Hỡi Thần Thê Túc, Nữ Thần Phi Sa.*
Việc gì nàng đến thăm nhà,
Biết bao trân trọng lòng ta kính vời, (12120)​
Lâu rồi chẳng gặp nhau thôi,
Điều gì nàng muốn, tôi thời làm ngay,
Ít ra trong khả năng này,
Vật quà khôn khéo riêng tay giúp nàng.
Thê Túc nước mắt ngập tràn :​
Hỡi Thần Hoả Thái cõi thần Thiên Cung,
Riêng tôi cay đắng đau buồn,
Mà Thần Vương đã dành phần cho tôi,
Thần duy nhất nơi biển trời,
Ép duyên tôi với một người trần gian. (12130)​
Âu Xích Pê Lê gối chăn,
Mà lòng miễn cưỡng trần tâm u buồn,
Con người già cỗi cõi trần,
Đang nằm bại liệt trong cung cuối đời,
Còn bao âu lo cho tôi,
Dớt cho sinh trưởng một người con trai,
Giỏi hơn hết các anh tài,
Mọc như cây vút cao trời thanh xuân.
Tôi chăm cây vườn đồi xanh,
Gửi đi chiến trận thuyền cong vẫy vùng. (12140)
Ý Long đánh với Troa quân,
Sẽ không còn đón ngày con trở về,
Trong cung đình của Pê Lê.
Giờ đây trong lúc xa quê chiến trường,
Dưới trần gian thấy ánh dương,
Mà lòng đầy nỗi đau thương cuộc đời.
Biết làm sao giúp con tôi,
Danh dự xúc phạm, hồn rồi héo hon,
Một giai nhân con yêu thương,
Món quà tặng phẩm chiến trường quang vinh. (12150)​
An Gia quyền thế tranh giành,
Con tôi giận muốn An Kinh tơi bời.
Thần Vương đã giúp cho tôi,
Quân Troa dồn đánh tận nơi chiến thuyền.
An Kinh cầu khẩn An Sinh,
Tướng quân, bô lão tận tình thiết tha,
Hứa rằng sẽ tặng bao quà,
Nó đà từ chối, chẳng sa họa vào.
Cho bạn Ban Tuấn tâm giao,
Cho mượn vũ khí dự vào chiến chinh. (12160)​
Dẫn quân đông đảo của mình,
Đuổi địch quân đến cổng thành Khuê môn (Scée)
Kinh thành sẽ phá chẳng còn,
Nếu An Long chẳng gây nên họa này,
Giết chết Ban Tuấn họa tai !
Cho Hải Tô thắng sáng ngời quang vinh.
Thế nên tôi đến nghĩa tình,
Cúi đầu bên gối, giúp giùm hôm nay,
Ngài rèn cho chiếc khiên tay,
Mũ đồng và áo giáp dày đến chân. (12170)
Bởi vì vũ khí tùy thân,
Bạn con mất sạch bỏ thân chiến trường.
Bạn bị giết nơi trận tiền,
Con tôi thương khóc bạn hiền thiết tha.
Vị Thần Chân Thọt thở ra :​
Can trường lên, chớ lo xa đau buồn,
Ước mong tôi tránh con nàng,
Số phần cái chết đáng nguyền tới đây.
Chàng sẽ có vũ khí này,
Tuyệt với khí giới mà người nào trông. (12180)​
Cũng kinh hồn thấy lạ lùng,
Khắp trần gian chẳng ai nhìn giáp khiên.
Nói rồi Thần đến xưỡng đình,
Kề bên ống bể, lệnh thần truyền vô.
Hai mươi bể gió vào lò,
Luồng hơi mạnh nhẹ tay cơ khí thần,
Tay Thần Hỏa Thái làm nhanh,
Đồng rắng, thép bạc, ánh vàng thiên kim.
Đặt lên đe lớn rộng viền,
Rồi đưa búa tạ tay kìm vang vang. (12190)
Ban đầu Thần đúc tấm khiên,
Lớn to chắc chắn, dọc ngang, chạm vành.
Ba đường tròn sáng long lanh,
Một dây xích bạc sáng trưng đeo vào.
Mặt khiên năm tấm ghép nhau,
Tay thần Hỏa Thái chạm nhiều hoa văn.
Nghệ thuật thông thái vô cùng,
Giữa trời đất biển trăng rằm nguy nga.
Muôn vì tinh tú như hoa,
Thất Tinh, Ngưu Đẩu, Sao Xa, Lục Điền. (12200)
Định tinh riếng đứng một mình,
Đại Hùng riêng chẳng tắm dòng Đại Dương.
Hai vòng thành đẹp nhân quần,
Một vòng đám cưới tiệc tùng liên hoan.
Rể dâu phòng thắp đuốc hồng,
Cả thành phố đến vang lừng đó đây,
Thanh niên khiêu vũ cuồng quay,
Sáo đàn vang vẳng mê say các nàng,
Đám đông tụ tập quảng trường,
Một cuộc cải cọ bất thường say mê. (12210)
Hai người tranh chấp nhau về,
Có, không, một món tiền thuê giết người.
Một người : trả hết xong xuôi,
Và tuyên bố vậy, có lời chứng nhân.
Người khác lại khẳng địh rằng :
Mình chưa hề nhận, cũng nhân chứng này.
Dân gào, binh đó, chê đây,
Các chàng cảnh vệ ra tay giữ gìn,
Các lão chức sắc họp bàn,
Cầm cây ngôn trượng, trên bàn đá thiêng.* (12220)
Trao cây ngôn trượng lệnh truyền,
Một truyền, lệnh sứ oang oang cất lời.
Rồi trao ngôn trượng từng người,
Tỏ bày ý kiến cho lời xử phân,
Giữa bàn thiêng hai lạng vàng,
Thưởng người phân định hoàn toàn thực trung.
Vòng hai là bãi chiến trường,
Quanh thành hai đội giáo gươm sáng ngời.
Quân vây thương thuyết chọn thời,
Phá thành hoặc phải chia đôi của tiền. (12230)
Quân trong thành chẳng nhượng liền,
Họ còn mai phục đánh quân bất ngờ.
Trong thành con, vợ, già nua,
Thanh niên bảo vệ hơn thua với thù.
Quán Trí, An Thiết dẫn đầu,
Sáng ngời vũ khí to cao đẹp người.
Dễ dàng nhận thấy ra thôi,
Bởi vì dưới họ quân người nhỏ hơn.
Ở nơi phục kích ven sông,
Một đàn súc vật uống ăn trại đồi. (12240)
Dấu mình vũ khí sáng ngời,
Đặt xa đàn thú hai người gát canh,
Đàn cừu, bò mộng sừng cong,
Bổng đâu, từng lũ từng đàn đến nơi.
Hai chàng mục tử đang ngồi,
Say sưa trầm bỗng chơi vơi tiếng kèn,
Chẳng hay mắc phải bẩy dăng,
Một đoàn quân bỗng xông lên nhất tề.
Cắt chia lùa lũ bò về,
Giết hai mục tử u mê vô tình. (12250)
Đàn bò kêu rống chung quanh,
Đoàn quân xung kích, hội đồng trung quân,
Xe lên vó ngựa câu lồng,
Đến ngay giáp trận, bờ sông chiến trường,
Hai bên với giao gươm đồng,
Đâm nhau chiến địa hổn mang thét gào,
Thần Bất Hòa, Thần Ồn Ào,
Thần linh chết chóc kéo vào tử vong.
Người còn thương tích lôi chân,
Ái thần đẫm máu người trần thương đau. (12260)
Các thần chen chúc bên nhau,
Giao tranh, co kéo lao đao thi hài.
Thần Hỏa Thái chạm khiên vai,
Một vùng đất mới lúa khoai xới cày,
Thợ cày vỡ đất đó đây,
Kẻ lui về nghỉ rót đầy rượu thơm,
Ngọt như mật, chủ thưởng phần,
Uống rồi nhanh chóng về bên luống cày,
Mong xong thửa ruộng hôm nay,
Đất màu đen xẩm, khắc tay nét vàng. (12270)
Thật là kỳ diệu công trình,
Thần Hỏa Thái khắc đất phong công hầu,
Cầm liềm thợ gặt nối nhau,
Lúa từng đống dọc luống sâu chất đầy,
Người bó lúa đứng cột dây,
Phía sau mấy trẻ, nhặt tay còn cầm.
Vị Vua giữa họ lặng câm,
Tay cầm vương trượng vui trong luống cày.*
Thị vệ dưới gốc cây sồi,
Cạnh bên sửa soạn mọi người bữa trưa. (12280)
Tế bò, cắt thịt, lột da,
Mấy bà làm bánh bột pha trắng ngần,
Thần Hỏa chạm vườn nho xinh,
Nắng vàng chín mộng đen chùm nho thơm.
Đong đưa treo thẳng giữa giàn,
Dựng hàng trụ bạc, hào xanh thẩm màu.
Dọc vườn lưới kẻm ngăn rào,
Một đường mòn nhỏ dẫn vào, người mang,
Thanh niên nam nữ rộn ràng,
Giỏ đan trái ngọt, dịu dàng mật ong. (12290)
Có em ôm chiếc hồ cầm,
Dạo đầu một khúc cung đàn du dương.
Hát bài Ly Nốt bi thương.*
Giọng em yếu ớt êm đềm tiếng ca,
Thanh niên nhún nhẩy như hoa,
Nhịp chân trên đất, giao thoa nhịp nhàng,
Chạm bò sừng thẳng một đàn,
Bò vàng, bạc bỏ trại phân vào đồng.
Bờ sông lao sậy cong mình,
Bốn chàng mục tử, chín con chó vàng, (12300)
Hai con sư tử kinh hoàng,
Vồ con bò mộng rống càng lôi đi.
Chó bầy đuổi với chàng trai,
Hai con sư tử đã nhai xé mề,
Ruột gan ăn sạch máu me,
Mục đồng thúc chó, nhưng hề dám đâu.
Đứng xa mà sủa kêu gào,
Chỉ là vô ích, lòng nào xót xa,
Thần chạm một cánh đồi hoa,
Bên thung lũng đẹp nên thơ lượn dòng. (12310)
Một đàn cừu nhỏ trắng tinh,
Trại chuồng lán lợp, nối liền công viên,
Thần chạm ca đoàn thanh niên,
Kinh thành Nốt Sốt huy hoàng ngày xưa.*
Như Đề Dan chạm bệ hoa,*
Cho A Ri An đẹp ngọc ngà tóc xinh.
Tuổi xuân đáng giá ngàn vàng,*
Nắm tay nhảy múa chung quanh nhân tình.
Gái áo vải bông mịn màng,
Trai mặc áo chẻn, gọn gàng may thêu. (12320)
Long lanh đầu óng ánh dầu,
Các cô nàng đội vòng cầu hoa xinh.
Thanh niên lủng lẳng bên mình,
Một vòng dây bạc, dao vàng đeo bên.
Vòng quay lượn bước êm êm,
Bước chân phơi phới êm đềm như trôi.
Như anh thợ gốm giỏi ngồi,
Nắm bàn quay thử xem thời tốt không?
Hai đoàn giáp mặt ngược dòng,
Đám đông xúm lại hân hoan đón mừng. (12330)
Giữa dòng, du tử thánh thần,
Nấn dây đàn hát cung cầm mê say.
Hai chàng đánh nhịp trống tay.
Quanh khiên lại khắc sông dài Đại Dương.
Sức vô biên vòng cuối cùng,
Tấm khiên hoàn hảo tuyệt trần luyện tôi.
Lại rèn áo giáp sáng ngời,
Long lanh như ngọn lửa tươi sáng hồng.
Rồi đúc thêm mũ trụ đồng,
Mũ dày ôm sát thái dương vững vàng. (12340)
Chóp đỉnh gắn một chòm lông,
Chuôi vàng tuyệt diệu long lanh trang đài.
Rèn chân giáp trụ một đôi,
Thiếc mềm óng ánh sát người vừa chân.
Sau khi vũ khí đã xong,
Thần Rèn danh tiếng to tròn cánh tay.
Rước Thần Thê Túc trao ngay,
Giả từ Thần nữ tung bay mây ngàn.
Nhanh như chim cắt bay nhanh,
Từ trên đỉnh tuyết Thiên Sơn xuống trần. (12350)
Tay mang vũ khí long lanh,
Từ Thần Hỏa Thái tay thần làm nên.​

(Còn tiếp)

Kỳ tới: THI CA KHÚC XIX. ACHILLE NGUÔI GIẬN (câu 12353 đến 12872)

Sử Thi Iliade Thi hào Homère. quyển 3. Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh chuyển ngữ thơ lục bát. Nxb Khuê Văn. Paris 2011. bản nhuận sắc phổ biến internet 2017.

CHÚ THÍCH:

11967. Enyalios Ân Gia Lộc một tên khác của Arès Thần Chiến.

12059 Thétis danh hiệu Ngân Túc (Chân Bạc), Phất Phới Khăn Choàng. Nữ Thần Phi Sa (câu 12118.)

1276: Héra danh hiệu Ngưu Mục, Mắt Bò Cái nhưng Héphaistos giận mẹ gọi là Mắt Chó, Khuyển Mục.

12220. Hy Lạp thời cổ đại để tránh việc mọi người cùng nói không ai nghe ai, người được nói được chủ tọa trao cây ngôn trượng.

12278 Vương trượng là cây gậy sơn khắc tượng trưng uy quyền nhà vua.

12293 Linos: khúc hát thôn dã về cái chết của con Apollon và Uranie một trong chín nàng Muse.

12314 Cnossos: thủ phủ đảo Crète.

12315 Dédale kiến trúc sư Mê cung Cnossos.

12317. Nghìn vàng nguyên tác: giá trị bằng nhiều bò đực. Nguyên tác nhiều câu bị mất tôi dựa vào thần thoại thiết lập lại. Dédale xây mê cung Labyrinthe để nhốt Ngưu nhân Minotaure. Arian công chúa con vua Crète yêu Thésée cho chàng sơị dây len để dẫn đường vào mê cung. Thésée giết Minautaure giải phóng 14 thanh niên thiếu nữ được tự do họ múa hát chung quanh Ariane và Thésée, Dédal có khắc bệ đá đoàn ca múa này.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top