Sự hình thành, phát triển trong sự thống nhất và mâu thuẫn của các lực lượng Đông Minh trong chiến t

Trang Dimple

New member
Xu
38
Sự hình thành, phát triển trong sự thống nhất và mâu thuẫn của các lực lượng Đông Minh trong chiến tranh ( 1939- 1944)
1. Sự hình thành lực lượng Đồng minh chống phát xít.

Sau khi Đức tấn công Liên Xô và chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, chiến tranh đã lan rộng ra toàn thế giới, lôi kéo tất cả các nước vào guồng máy của cuộc chiến tranh.

Việc chiến tranh lan rộng ra toàn thế giới thì đòi hỏi về một liên minh chống phát xít là yêu cầu bức thiết trong quan hệ quốc tế thời kỳ này.

Liên Xô bước vào cuộc chiến tranh về quốc không hề đơn độc mà có sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Vì những quyềm lợi dân tộc và quốc tế của họ, những dân tộc các nước khác ngày càng mở rộng cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đồng thời thúc đẩy nhân dân Mĩ, Anh đấu tranh đòi chính phủ các nước này phải thay đổi thái độ và liên minh với Liên Xô trong cuộc chiến tranh chống phát xít.

* Đứng trước yêu cầu đó thì thái độ của Mỹ, Anh như thế nào?

- Quan hệ Xô- Anh:

Từ lâu trước chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô đã kêu gọi những hoạt động tập thể chống lại phát xít. Trong quá trình cuộc chiến tranh, Anh hiểu rằng chỉ có liên minh với Liên Xô mới có thể chiến thắng chống đế quốc Đức- kẻ gieo rắc cái chết và sự hủy diệt cho các đảo của nước Anh.

Soc sin không hiểu biết về nhân dân Xô viết, sợ Liên Xô đầu hàng trước cuộc tấn công bất ngờ của phát xít Đức nhưng những tin tức về cuộc kháng chiến ở Matxcova khiến người ta yên tâm và một tình cảm mới xâm chiếm người Anh, khiến họ phải thốt lên rằng “ từ nay chúng ta không còn đơn độc nữa”. Ngày 22 tháng 6 trên đài phát thanh, Sóc sin tuyên bố ông ta vẫn là kẻ thù của chủ nghĩa Bonsevich nhưng liên minh với Liên Xô là vẫn đề sống còn với nước Anh”. Do đó ngày 21 tháng 7 năm 1941, hiệp ước Xô- Anh trong cuộc chiến tranh chống Đức được ký kết ại Matxcova. Hiệp ước quy định hai bên sẽ giúp đỡ, chi viện cho nhau trong cuộc chiến tranh chống Đức và cam kết không có hiệp ước riêng rẽ nếu không có sự đồng ý của bên kia.

Có thể nói Hiệp ước Xô- Anh là bước tiến mang tính chất chính thức đầu tiên trên con dường hình thành một liên minh rộng lớn chống phát xít trong chiến tranh thế giới thứ hai.

- Quan hệ Mỹ -Anh

Quay lại thời điểm khi chiến tranh thế giới mới bắt đầu, tổng thống Mỹ Rudoven tuyên bố qua radio rằng nước Mỹ sẽ trung lập. Mỹ thi hành chính sách trung lập nhằm phục vụ cho mục lợi ích cao nhất của nước Mỹ. Bởi lẽ Mỹ không tham gia chiến tranh một mặt nhìn cả hai kẻ thù của mình là chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản hoặc bị tiêu diệt hoặc bị suy yếu, mặt khác các nước tư bản cạnh tranh với Pháp mà tiêu biểu là Anh, Pháp cũng không tránh khỏi thiệt hại nặng nề, do đo Mỹ sẽ là nước có lợi nhất trong việc buôn bán vũ khí cho các bên tham chiến và biễn các nước tham chiến trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa cho Mỹ sau khi chiến tranh kết thúc.

Tuy nhiên cũng trong thời gian đó, mâu thuẫn Mĩ- Đức ngày càng trở nên gay gắt, không thể điều hòa được nữa, tương tự như mâu thuẫn với Mỹ- Nhật.Do đó trong chính sách trung lập thì tổng hống Rudoven cố gắng giúp đỡ Anh, Pháp trên nền tảng an ninh và quyền lợi Mỹ.

Sau thất bại của Pháp trước cuộc tân công của phát xít Đức tháng 6 năm 1940, sự khốn đốn của Anh trước những chiến dịch tân công dồn dập của Đức càng thúc đẩy hoạt động can thiệp của chính phủ Mỹ đối với Anh và Pháp. Không phải ngẫu nhiên mà Mỹ tích cực giúp đỡ Anh. Qua sự khốn đốn của Anh, Mỹ khối lượng vũ khí trị giá 37,6 triệu USD trong tháng 6 năm 1940. Mỹ muốn lợi dụng cơ hội này buộc Anh chấp nhận những điều khoản nặng nề của Mĩ như việc cung cấp các bí mật khoa học quân sự cho Mỹ cùng các nguyên liệu chiến lược, cho Mỹ thuê trong vòng 99 năm 8 căn cứ quân sự của Anh trên các vùng thuộc địa ở Tây Bán cầu. Ngược lại Anh chấp nhận đè nghị trên của Mỹ vì trong hoàn cảnh của Anh lúc nấy giờ, Anh đã suy yếu, việc Mỹ viện trợ tàu chiến có vai trò quan trọng đối với Anh trong cuộc đấu tranh chống các chiến dịch của Mỹ. Thảo thuận trên được thực hiện pháp lý bằng hiệp ước ngày 2/9/1940.

Ngày 27/3/1941 Anh, Mỹ đã đạt được thỏa thuận về “kê hoạch ABC-1” chống tất cả các cường quốc trong trục phát xít. Theo đó Anh và Mỹ cam kết tập trung sức mạnh trước hết vào chiến trường châu Âu nhằm đánh bại kẻ thù chính là Đức, còn ở Viễn Đông và Thái Bình Dương, chừng nào Đức chưa bị đánh bại thì phải giữ quan điểm phòng thủ.

Sau “kế hoạch ABC- 1”, liên minh Anh- Pháp có bước phát triển và củng cố hơn với sự ra đời của bản Hiến chương Đại Tây Dương tháng 8 năm 1941 trong đó nêu lên 8 nguyên tắc quan trọng trong quan hệ quốc tế mà những điều cơ bản là : các bên tham gia bản Hiến chương Đại Tây Dương cam kết từ bỏ mọi tham vọng về lãnh thổ, cũng như điều chỉnh lãnh thổ của các quốc gia khác mà không có sự đồng ý của các quốc gia ấy; tôn trọng quyền dân tộc tự quyết, theo đó mỗi dân tộc đều có quyền lựa chọn chế độ và chính phủ của mình; tất cả các quốc gia – dân tộc đều có quyền được hưởng các nguồn nguyên liệu của thế giới; tự do hóa các biển và địa dương; hợp tác cùng phát triển về kinh tế và xã hội. Hiến chương cũng khẳng định, sau khi tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, cần phải thiết lập một nền hòa bình, an ninh vững chắc, đảm bảo cho các dân tộc, cho mọi người được sống tự do và thoát khỏi nỗi sợ hãi bởi chiến tranh. Trong tương lai tất cả các quốc gia đều phải từ bỏ việc sử dụng bạo lực...

Cần phải khẳng định rằng những nguyên tắc của Hiến chương đưa ra mnag tính chất dân chủ, tiến bộ, chống phát xít rõ rệt, đáp ứng mong muốn của các lực lượng đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.

- Quan hệ giữa Mỹ - Xô:

Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ngay cả khi Pháp thất bại còn Anh rơi vào tình trạng cực kỳ nguy khốn thì không phải tất cả các chính khách của Anh và Mỹ đều từ bỏ lập trường chống Liên Xô, nhất là khi họ biết rằng Hit le cuois cùng cũng tấn công Liên Xô. Ngày 23 tháng 6 năm 1941, 1 ngày sau khi Đức tấn công Liên Xô Truman đã công khai phát biểu rằng : “Nếu chúng ta thấy Đức có ưu thế, thì chúng ta cần phải giúp đỡ Liên Xô, còn nếu Liên Xô có ưu thế, thì chúng ta cần phải giúp đỡ Đức; tức là phải làm sao cho họ đánh nhau càng nhiều càng tốt mặc dù rằng tôi không muốn Hit le có thắng lợi cuối cùng trong bất kỳ tình huống nào”.

Tuy nhiên có những bộ óc tỉnh táo hơn tiêu biểu là tổng thống Rudoven với tuyên bố Mỹ sẽ ủng hộ Liên Xô “ bất kỳ một cuộc chiến tranh tự vệ nào trước chủ nghĩa Hitle, bất kỳ một sự liên minh nào của các lực lượng chống chủ nghĩa Hitle nhằm lật đổ những thủ lĩnh của nước Đức thòi hiện đại, bất kể nguồn gốc của lực lượng ấy như thế nào đều phục vụ cho an ninh và khả năng phòng thủ của chúng ta”.

Việc ký kết hiệp ước Xô –Anh về hành động chung trong cuộc chiến tranh chống Đức, sự ra đời của bản Hiến chương, việc Liên Xô thma gia Hiên chương đẫtọ điều kiện cần thiết cho sự thành lập một mặt trận Đồng minh chống phát xít.

Ngày 1.1.1942 tại Oasinhton địa diện cho 26 nước, đứng đầu là Liên Xô, Mĩ, Anh đã ký vào bản tuyên bố Liên Hợp Quốc “ cam kết dốc toàn bộ sức mạnh quân sự và kinh tế của đất nước vào cuộc chiến trnah chống phát xít và tay sai của chúng”, Tuyên bố Liên hợp quốc đánh dấu sự ra đời của mặt trận Đồng minh chống phát xít trên phạm vi toàn thế giới.

2 Quan hệ giữa các nước Đồng minh và vấn đề mở mặt trận thứ hai

Sau tuyên bố Liên hợp Quốc ngày 1/1/1942, sự hợp tác trong lực lượng Đồng minh ngày càng được đẩy mạnh, theo đó các hiệp ước Xô – Anh ( 26/5/1942) và hiệp ước Xô –Mĩ ( 29/5/1942) đã một lần nữa củng cố mối quan hệ trong qua trình hợp tác Xô- Anh- Mỹ trong chiến tranh thế giới thứ hai.

Nhưng không phải vì vậy mà quan hệ giữa ba nước này không có những bất đồng, mâu thuẫn. Liên quan trước hết cà chủ yếu tới vấn đề này là vấn đề mở mặt trận thứ hai ở tây Âu.

Hiệp định ký kết năm 1942 giữa Liên Xô, Mĩ, Anh khiên Liên Xô và các lực lượng dân chủ tiến bộ tin tưởng vào việc mở một mặt trận thứ hai ở châu Âu nhằm đẩy nhanh sự sụp đổ cảu nước Đức. Đã có đầy đủ các điều kiện để thực hiện hiệp định trên: quân Đức đang tập trung lớn lực lượng tại mặt trận Xô- Đức,mỹ - Anh có trong tay những binh đoàn được trang bị tốt; phong trào kháng chiến lớn mạnh ở châu Âu có thể giúp đỡ có hiệu quả trong cuộc tiến công của quân Đồng minh vào Đức.

Thê nhưng mặt trận thứ hai vẫn không được mở vào năm 1942 và cả trong năm 1943. Tại sao như vậy? Các chính phủ mỹ và Anh có ý định giữ nguyên lực lượng của họ nhằm phục vụ cho đường lối đế quốc của họ, họ cũng muốn làm cho Liên Xô kiệt quệ sau chiến tranh.

Chỉ 8 ngày sau khí công bố bản thông cáo Anh- Mỹ- Liên Xô về việc mở mặt trận thứ hai, vào tháng 6 năm 1942, Socsin đã đề nghị với Mỹ hoãn việc thành lập mặt trận thứ hai. Ông ta không gặp khó khăn nào trong việc thuyết phục các nhà lãnh đạo Mỹ.

Tháng 8 năm 1942 đúng lúc trận Xtlingrat đang diễn ra ác liệt thì Sóc sin thông báo cho chính phủ Liên Xô rằng mặt trận thứ hai sẽ không được mở vào năm 1942, hứa sẽ mở mặt trận ngoại giao vào năm 1943.

Trong khi từ chối mở mặt trận thứ hai thì Mỹ và Ah thống nhất với nhau về kế hoạch hoạt động quân sự tại Bắc phi. Đây là hành động nahwmf phục vụ cho những toan tính của riêng mình. Nhưng hành động trên vấp phải sự phản đối gay gắt của dư luận quốc tế.

Đường lối của Liên Xô lại hoàn toàn khác. Đường lối đối ngoại của Liên Xô là nhằm củng cố khối liên minh chống phát xít, ủng hộ tất cả các dân tộc trong cuộ đấu tranh chống lại bọn hitle.

Đối với thái độ cố tình trì hoãn của Anh, Mỹ trong việc mở mặt trận thứ hai, ngày 24/6/1943 chính phủ Liên Xô cảnh báo cả Rudoven và Sowc sin rằng , việc Anh – Mĩ từ chối mở mặt trận thứ hai trong năm 1943 “vấn đề là không đơn giản chỉ là sự thất vọng cua Liên Xô, mà quan trọng hơn là việc duy trì niềm tin của chính quyền Xô viết đối với các nước Đồng minh của mình – lòng tin đó đã lâm vào thử thách nặng nề.

Đẻ giải quyết căng thẳng trong quan hệ giữa ba cường quốc Đồng minh về vấn đề này, từ ngày 19/10 tới ngày 3/11/1943 tại Matxcova đã diễn ra hội nghị Ngoại trưởng tam cường Xô- Mĩ – Anh( còn gọi là hội nghị thượng đỉnh Teheran) trong đó hội nghị tập trung hơn cả là giải quyết dứt khoát vấn đề mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu, theo đó các nước Anh, Mĩ hứa sẽ cam kết mở mặt trận thứ hai bằng việc đổ bộ lên nước Pháp vào năm 1944.

Hội nghị thượng đỉnh Teheran có ý nghĩa to lớn khồng chỉ ở những thảo thuận cụ thể đạt được trên các mặt quân sự, chính trị mà còn ở chỗ nó đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cấp độ hợp tác giữa ba lực lượng chủ chốt của lực lượng Đồng minh lúc bấy giờ. Không phải ngẫu nhiên mà thủ tướng Anh Soc sin khi đócho rằng đây là “ sự tập trung quyền lực lớn nhất từ trước tới nay chưa từng có. Các nhân vật có mặt tại đây nắm trong tay hạnh phúc, tương lai nhân loại”

Sau hội nghị tượng đỉnh Teheran, Anh, Mĩ thực sự chuẩn bị tích cực cho việc thành lập mặt trận thứ hai ở Tây Âu. Vào Ngày 6/6/1944, mặt trận thứ hai được mỏ bằng cuộc đổ bộ của Liên quâ Anh- Mỹ vào bãi biển Normandie của Pháp. Trong khi đó, trên chiến trường Xô- Đức, Hồng quân Liên Xô cũng mở những cuộc phản công chiến lược nhăm quyest sạch bọn xâm lược ra khỏi tổ quốc, đông thời tiến lên giúp đỡ các dân tộc Đông Âu đứng lên giải phóng khỏi ách phát xít.

NGUON: DIENDANKIENTHUC.NET*
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top