So sánh nhân vật trữ tình và nhân vật kịch

Ngọc Suka

Cộng tác viên
So sánh nhân vật trữ tình và nhân vật kịch
hinh-nen-quyen-sach-12.jpg

1. Khái niệm nhân vật:

- Theo từ điển văn học: nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong TPVH, là tiêu điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng và đến lượt mình nó lại được các yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc họa. Nhân vật do đó là nơi tập trung giá trị tư tưởng nghệ thuật của TPVH.

-> Đây là định nghĩa tương đối toàn diện về nhân vật. Nhìn nhận nhân vật từ khía cạnh vai trò, chức năng của nhân vật với tác phẩm và từ mối quan hệ của nó tới các yếu tố hình thức tác phẩm.

- Theo tác giả Lại Nguyên Ân trong "150 thuật ngữ văn học": Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trọng tâm để xem xét sáng tác của nhà văn, một khuynh hướng trường phái hay dòng phong cách. Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống con người.

-> Đây là khái niệm mà nhân vật được xem xét trong mối tương quan với cá tính sáng tạo, phong cách nhà văn và trường phái văn học. Nhân vật văn học là một trong những yếu tố tạo nên phong cách nhà văn và màu sắc riêng của một trường phái văn học.

2. So sánh nhân vật trữ tình và nhân vật kịch:

2.1. Giống nhau:

- Nhân vật trữ tình và nhân vật kịch đều là nhân vật do nghệ sĩ sáng tạo ra và đều được thể hiện bằng nghệ thuật ngôn từ.

- Nhìn từ góc độ vai trò, chức năng của nhân vật với tác phẩm và mối quan hệ của nó đối với các yếu tố hình thức của tác phẩm thì nhân vật trữ tình và nhân vật kịch đều là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm, là tiêu điểm để bộc lộ chủ đề tư tưởng và nó được các yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc họa. Nhân vật đều là nơi tập trung giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm.

2.2. Khác nhau: Dựa vào đặc điểm của mỗi loại nhân vật ta thấy:

* Điểm thứ nhất:

- Cảm xúc của nhân vật trữ tình là cảm xúc của một cá nhân và trước hết là hoàn cảnh cá nhân nhưng nó lại mang tính khái quát (đại diện cho tâm trạng của nhiều người). Ở đặc điểm này chúng ta thấy, nhân vật trữ tình thể hiện cảm xúc là cảm xúc của cá nhân trước một hoàn cảnh cụ thể của cá nhân nào đó. Nhưng quang trọng hơn là cảm xúc ấy nó khái quát được cảm xúc của đa số.

Ví dụ: "Muốn làm thằng cuội" của Tản Đà trước tiên là cảm xúc của nhân vật trữ tình (buồn, cô đơn, sầu, chán, muốn trốn tránh thực tại) trước hoàn cảnh riêng của mình (nỗi buồn của cá nhân trước thế sự cuộc đời). Trước hoàn cảnh cá nhân và cảm xúc của cá nhân nhưng ở đây có sự đồng cảm của rất nhiều người (cả một thế hệ thành niên lúc đó) nên nó được coi như cảm xúc cộng đồng, cảm xúc khái quát, cảm xúc đại diện.

- Ngược lại trong kịch, nhân vật thường rất nổi bật về tính cách và thường chia thành nhiều tuyến rõ rệt. Một nhân vật kịch thường ít đặc tính thẩm mĩ nhưng là những đặc tính nổi bật. Một vở kịch muốn hay, muốn thể hiện rõ tính xung đột thì nhân vật kịch phải có tính cách nổi bật (hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc anh hùng hoặc đê hèn...) và trong một vở kịch thường chia nhân vật ra thành các tuyến. Mâu thuẫn, xung đột kịch cũng chính là mâu thuẫn, xung đột của các tuyến nhân vật này.

* Điểm thứ hai:

- Nhân vật trong tác phẩm trữ tình là loại nhân vật mang nhiều cảm xúc. Vào thời điểm xuất hiện trong tác phẩm thì nó mang tâm sự giãi bày. Do thể loại trữ tình là thể loại bộc lộ cảm xúc, mỗi một tác phẩm đều thể hiện một hoặc nhiều tâm sự giãi bày nào đó. Do đó nhân vật của thể loại này chính là chủ thể trũ tình thể hiện cảm xúc đó.

Ví dụ: bài "Sang thu" - Hữu Thỉnh, nhân vật trữ tình thể hiện cảm xúc bất ngờ, bâng khuâng khi mùa thu bắt đầu đến, khi cảm nhận về thời gian của cuộc đời. Khi xuất hiện trong bài thơ, nhân vật trũ tình thể hiện tâm trạng ngạc nhiên bất ngờ, chiêm nghiệm trước giao mùa và trước sự vận động của thời gian so với cái hữu hạn của cuộc đời.

- Nhân vật kịch lại là nhân vật hành động, qua hành động nhân vật bộc lộ tính cách của mình. Do đặc điểm của thể loại kịch là chuỗi các xung đột, xung đột được phát triển qua các giai đoạn cho nên nhân vật kịch phải hành động, hành động không ngừng để diễn tả những xung đột ấy. Tính cách của nhân vật được hiểu dần qua trang phục, ngôn ngữ, cử chỉ và đặc biệt là chuỗi các hành động theo diễn biến của vở kịch. Nhân vật kịch không thể chỉ đứng để kể về tính cách và diễn biến kịch mà tất cả đều thông qua hành động.

Ví dụ: trong "Trưởng giả học làm sang", nhân vật trưởng giả qua chuỗi các hành động của mình để dần lộ ra là một con người ngu ngốc, dốt nát, học đòi, đáng chê trách.

* Điểm thứ ba:

- Nhân vật trữ tình không hành động, mọi tác động của môi trường sống chỉ dẫn đến cảm xúc buồn hoặc vui mà không dẫn đến hành động cụ thể nào.

Ví dụ: bài thơ "Thương vợ" - Trần Tế Xương, nhân vật trữ tình chỉ thể hiện cảm xúc buồn thương, biết ơn người vợ tần tảo, nắng sương, bèo bọt vất vả của mình chứ tuyệt đối không có hành động nào. Diễn biến của bài thơ là diễn biến của mạch cảm xúc, hình ảnh người vợ tần tảo ngoài đời tác động đến nhân vật trữ tình để rồi bật lên cảm xúc buồn thương, biết ơn, trân trọng... và đó chưa phải là những hành động cụ thể của nhân vật.

- Nhưng trong kịch, nhân vật thường xuất hiện trong dòng xoáy của cuộc sống vào lúc cuộc sống sôi động nhất. Nhân vật xuất hiện để giải quyết xung đột. Bởi những mâu thuẫn, xung đột trong kịch chính là những lát cắt của hiện thực đời sống, các tác giả lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống để xây dựng nên cuộc sống trong kịch. Do đặc điểm thể loại mà kịch chỉ tập trung vào những xung đột gay gắt, những mâu thuẫn đỉnh điểm - đó là cao trào, là dòng xoáy của cuộc đời, từ đó nhân vật xuất hiện. Nhân vật kịch với những chuối hành động đã thể hiện được xung đột đó, mâu thuẫn đó, dòng xoáy cuộc đời đó. Hoàn toàn không có loại kịch nào mà không có mâu thuẫn, xung đột. Do vậy, lúc mâu thuẫn xuất hiện, lúc cuộc đời xung đột thì nhân vật kịch mới xuất hiện.

Ví dụ: "Trưởng giả học làm sang" - nhân vật ông Giuốc-đanh chỉ xuất hiện khi xung đột, mâu thuẫn giữa giàu và nghèo, vinh quang với thấp hèn, tốt và xấu, trí tuệ và sự ngu dốt... xuất hiện. Bởi vì Molie sáng tạo ra hệ thống nhân vật của mình để thể hiện cuộc sống vốn bát nháo, lẫn lộn và đầy mâu thuẫn đáng chê trách của nó.

* Điểm thứ tư:

- Nhân vật trữ tình chỉ xuất hiện khi sự việc đã xảy ra, lúc mà cuộc sống bao quanh nó không còn sôi động với tất cả sự gay cấn của nó. Đặc điểm của thể loại trữ tình là biểu cảm, thể hiện cảm xúc chủ quan của một chủ thể với một hoặc nhiều sự vật, sự kiện trong thế giới khách thể. Nghĩa là bộc lộ cảm xúc về một cái gì đó đã xảy ra rồi, đã diễn ra và không còn là lúc cao trào, sôi động nhất nữa.

Ví dụ: Hồ Chí Minh đã viết khi người đang bị giam cầm bởi chính quyền Tưởng Giới Thạch:

"Hoa hồng nở, hoa hồng lại rụng

Hoa tàn hoa nở cũng vô tình

Hương hoa bay thấu vào trong ngục

Kể với tù nhân nỗi bất bình"

Ở đây, người đọc dễ dàng nhân ra một sự kiện (hoa hồng nở và rụng) và sự biểu cảm của người tù về sự kiện đó: yêu quý hoa, thương tiếc giá trị của bông hoa trong sự vô tình của không gian xung quanh, và khẳng định giá trị của tâm hồn. Như vậy, dựa vào sự kiện đã xảy ra để bộc lộ cảm xúc của nhân vật trữ tình.

- Trong kịch thì lại khác, nhân vật kịch có sự biến đổi dễ dàng, nhanh chóng cùng với sự giải quyết xung đột. Đặc trưng của kịch là nhân kịch thể hiện xung đột và giải quyết xung đột theo 5 bước phát triển của nó. Nghĩa là nó đứng trong cuộc, liên tục phải thay đổi mình để phù hợp với xung đột, mâu thuẫn kịch và đi giải quyết xung đột, mâu thuẫn ấy. Nếu chỉ đứng ngoài và đợi khi sự việc xảy ra không còn cao trào nữa như đối với thơ thì không ai xem kịch nữa. Nhân vật kịch được trộn đều hòa tan và là thành phần để tạo nên xung đột, giải quyết xung đột... nên không thể đứng ngoài sự việc, không thể nhất quán từ đầu đến cuối về trang phục, ngôn ngữ và hành động.

Ví dụ: đoạn trích "Ông giuốc-đanh mặc lễ phục", nhân vật phó may và nhân vật thợ phụ đã có sự thay đổi rất lớn để góp phần tạo tiếng cười và tạo xung đột cho vở hài kịch. Phó may và thợ phụ từ kẻ may quần áo, đến kẻ lừa đảo, nịnh bọ, thủ đoạn... sự thay đổi để góp phần làm rõ hơn tính cách "trưởng giả" học đòi của giuốc-đanh.

* Điểm thứ năm:

- Nhân vật trữ tình ít nhiều gắn bó với cuộc đời thực của tác giả nhưng không có nghĩa là đồng nhất với tác giả. Qua nhân vật trữ tình, chúng ta có thể thấy bóng dáng tác giả. Đó là một Tản Đà buồn chán cuộc sống thời cuộc, muốn trốn tránh thực tại với suy nghĩa "ngông" của mình trong "Muốn làm thằng cuội". Đó là tâm trạng hồ hởi vui sướng của anh thanh nên Tố Hữu khi được giác ngộ cách mạng, khi được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, là tác phẩm văn chương với đặc thù hư cấu nên chúng ta không nên đồng nhất giữa nhân vật trữ tình với tác giả.

- Ngược lại, nhân vật trong kịch chỉ tồn tại trong bối cảnh xã hội của vở kịch ấy mà qua xã hội trong vở kịch để phản ánh cuộc sống xã hội thật ngoài đời. Như vật, nhân vật kịch chỉ tồn tại trong kịch mà thôi. Trong kịch, nhân vật có cấu trúc nhiều nhân vật, nhiều loại, nhiều tính cách.

- Trong thơ chỉ có một nhân vật trữ tình xuyên suốt tác phẩm nhưng trong kịch vốn thể hiện mâu thuẫn, xung đột thì không thể có một nhân vật được mà là nhiều nhân vật, nhiều tầng bậc khác nhau.

Ví dụ: chỉ một đoạn trích vở kịch "Trưởng giả học làm sang", "ông giuốc-đanh mặc lễ phục" chúng ta đã thấy có 3 nhân vật chính ông giuốc-đanh, phó may, thợ phụ.

=> Tóm lại, so sánh giữa đặc điểm nhân vật trữ tình và nhân vật kịch, chúng ta thấy có những điểm chung, thống nhất vì đều là nhân vật trong tác phẩm văn chương. Những chúng cũng có những điểm khác biệt căn bản do đặc trưng thể loại quy định. Hiểu được sự khác nhau bản chất như vậy góp phần giúp chúng ta hiểu được đặc trưng thể loại và dễ dàng hơn trong việc chiếm lĩnh tác phẩm văn học.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top