Quốc dân đại hội Tân Trào (8-1945)
Dân tộc Việt Nam đã sớm hình thành trong lịch sử và có một nền văn hiến lâu đời. Nhân dân Việt Nam vốn có truyền thống anh hùng bất khuất, đoàn kết thuỷ chung, có tình nghĩa đồng bào sâu nặng... Đó là một nét tiêu biểu trong bản sắc dân tộc của người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lịch sử đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân tộc ta. Chúng ta có quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung v.v... Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng..." Dựa vào dân, bồi dưỡng sức dân, động viên toàn dân, phát huy sức mạnh truyền thống và bản sắc dân tộc của người Việt nam là kế sâu, gốc bền của sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Vì thế, mỗi khi vận nước bị đe doạ, ngoại bang nhòm ngó và xâm lăng, cả nước đồng tâm, toàn dân tụ hợp, mở hội "Diên Hồng", nêu cao quyết tâm, bàn mưu tính kế, già trẻ gái trai xông lên giết giặc, cứu nước, cứu nhà. Đó là bí quyết thắng lợi, tạo nên những chiến công hiển hách trong lịch sử: Bạch Đằng, Chi Lăng, Xương Giang, Đống Đa... Giá trị tinh thần truyền thống ấy đã được giữ gìn và phát triển từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Đến giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta. Ngay từ khi Pháp nổ súng xâm lược, nhân dân ta đã liên tục đứng lên kháng Pháp, kẻ trước ngã, người sau kế tiếp. Song, tất cả phong trào yêu nước chống Pháp lúc bấy giờ đã lần lượt thất bại. Việt Nam đã trở thành một thuộc địa của Pháp. Dân ta bị áp bức và bóc lột nặng nề, bị mất hết quyền lợi về kinh tế và chính trị, mất hết độc lập và tự do. Phá ách, chặt xiềng nô lệ cho đồng bào, giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do là yêu cầu bức thiết nhất của toàn dân ta. Vào những năm 20 của Thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống văn hiến của dân tộc, tiếp thu tri thức cách mạng phong phú của nhân loại trong thời đại mới, vạch đường cách mạng giải phóng dân tộc để đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập cho dân tộc và tự do dân chủ cho nhân dân. Tháng 7-1920, khi đọc bản sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã phấn khởi, tin tưởng, coi đó là "cái cẩm nang cần thiết cho chúng ta", là con đường giải phóng đất nước. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của cả dân chúng, của toàn thể quốc dân đồng bào. Phải khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, tình nghĩa đồng bào, khối đoàn kết dân tộc, sĩ, nông, công, thương lấy công - nông làm gốc nhằm tạo nên sức mạnh dân tộc để chiến đấu và chiến thắng đế quốc thực dân.
Tháng 2-1930, Hồ Chí Minh đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và soạn thảo Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng. Đó là bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xác định chủ trương chiến lược làm cách mạng tư sản dân quyền để đi tới xã hội cộng sản. Đảng phải vận động thu phục cho được đông đảo quần chúng công dân, nông dân, ra sức lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông, tập hợp hoặc trung lập phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam nhằm thực hiện các nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến, trước mắt là chống đế quốc và tay sai, giành độc lập, tự do cho toàn thể nhân dân Việt Nam Độc lập và tự do là tư tưởng chủ yếu trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Dưới ngọn cờ cách mạng của Đảng, một cao trào cách mạng đã bùng lên mạnh mẽ trong toàn quốc năm 1930 - 1931, mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh. Tiếp đến là cao trào dân chủ rộng lớn và sôi nổi khắp cả ba miền Bắc, Trung, Nam trong những năm 1936 - 1939. Đây là các cuộc tổng diễn tập cho cuộc cách mạng Tháng tám năm 1945.
Tháng 9-1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Đế quốc Pháp tham chiến. Phát xít Nhật xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp đầu hàng và dâng Đông Dương cho Nhật. Nhật - Pháp cấu kết với nhau ra sức bóc lột, đàn áp nhân dân các dân tộc Đông Dương. Quyền lợi của tất cả các giai cấp đều bị Nhật - Pháp cướp giật, vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Vì vậy, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 d­ới sự chủ trì của Nguyễn Văn Cừ và đặc biệt là Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 5-1941 do Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo, đã nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác lại nhiệm vụ cách mạng ruộng đất; thống nhất lực lượng cách mạng dân tộc của ba nước trên bán đảo Đông Dương; không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, tiểu tư sản, tư sản bản xứ, trung, tiểu địa chủ, ai có lòng yêu nước thương nòi đều tham gia vào một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đánh Pháp, đuổi Nhật, giành quyền độc lập, tự do cho các dân tộc ở Đông Dương theo quan điểm thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Đối với Việt Nam, sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật sẽ lập nên một nước Việt Nam mới theo chế độ dân chủ cộng hoà.
Cách mạng Đông Dương hiện tại chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp là giải phóng dân tộc, vì nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật thì chẳng những vận mệnh của dân tộc phải chịu kiếp ngựa trâu muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không sao giải quyết được. Do đó, tính chất của cách mạng Đông Dương lúc này là "cách mạng dân tộc giải phóng". Vì quyền lợi sinh tồn của dân tộc, phải khơi dậy mạnh mẽ chí khí cách mạng, tinh thần yêu nước bất khuất, đoàn kết, thống nhất các lực lượng yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Tháng 6-1941, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào toàn quốc. Người viết: "Trong lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sâu, lửa nóng... Việc cứu quốc là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng...." Ngày 25-10-1941, Việt Nam độc lập đồng minh đã chính thức tuyên bố ra đời.
Tuyên ngôn của Việt Minh nêu rõ: "Từ khi lập quốc, xét lịch sử nước ta, chưa bao giờ dân tộc ta nhục nhằn, đau khổ như lúc này... Nguy cơ diệt vong đã bày ra trước mắt. Hiện thời, chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là đoàn kết thống nhất, đánh đuổi Nhật - Pháp, trừ khử Việt gian. Mở con đường sống ấy cho đồng bào, Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời chào các bạn". Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm bao gồm các chính sách về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm thực hiện hai điều cốt yếu mà quốc dân đồng bào đang mong ­ớc là: "1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; 2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do !". Đặt quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, Việt Minh sẵn sàng bắt tay đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia miễn là thành thực muốn đánh đuổi Nhật - Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc lập. Sau khi đánh đuổi được bọn đế quốc phát xít "sẽ lập lên một Chính phủ cách mạng của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, theo tinh thần tân dân chủ, lấy cờ đỏ giữa có ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ chung của nước. Chính phủ của nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà, do quốc dân đại hội cử lên...".Thực hiện chủ trương cứu nước, Việt Minh đã tích cực chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Phong trào cách mạng phát triển ngày càng mạnh mẽ và đều khắp ở cả nông thôn và đô thị. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Huế và các đô thị khác, cơ sở Việt Minh đã được tổ chức ở trong nhiều nhà máy, tr­ờng học, đường phố... Phong trào thanh niên, học sinh, trí thức được khởi dậy mạnh mẽ. Đảng dân chủ Việt Nam ra đời (6-1944). Hội Văn hoá cứu quốc được thành lập. Mặt trận Việt Minh có thêm các thành viên mới. Các căn cứ địa và lực lượng vũ trang cách mạng được hình thành. Trên thế giới, cuộc chiến tranh chống phát xít đã đi vào giai đoạn kết thúc thắng lợi. Quân đội Xô Viết đang phản công phát xít Đức trên nhiều mặt trận. ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương, cục diện chiến tranh cũng đang chuyển biến có lợi cho các lực lượng chống phát xít, cho phong trào giải phóng dân tộc... Trong bối cảnh thời cuộc khẩn trương đó, tháng 10-1944, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho quốc dân đồng bào, thông báo chủ trương triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập một cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta để tạo nên sức mạnh dân tộc bên trong và tranh thủ ngoại viện của quốc tế nhằm chớp thời cơ thuận lợi thực hiện cho được mục tiêu độc lập, tự do. Cơ cấu tổ chức đó "phải do một cuộc toàn dân đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang. Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh ! Tôi mong rằng các đảng phái và các đoàn thể đều ra sức chuẩn bị cùng nhau thảo luận để khai cuộc Toàn quốc đại biểu đại hội trong năm nay. Như vậy thì ngoại viện nhất định cầu được, cứu quốc nhất định thành công".
Tháng 3-1945, Nhật đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương, tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc. Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng và đã ra bản chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" vạch ra những nhiệm vụ và chủ trương, biện pháp cách mạng mới để chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước phù hợp với tình hình lúc này. Một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa đã phát triển trong toàn quốc. Phong trào chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều địa phương, nhất là ở thượng du và trung du Bắc Kỳ. Hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Giang... được giải phóng. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ chức Uỷ ban dân tộc giải phóng.
Chỉ thị nêu rõ: "Trong tình thế chính quyền đế quốc có chỗ tan rã, có chỗ không được ổn định như ở nước ta ngày nay, Uỷ ban dân tộc giải phóng là hình thức tiền chính phủ, trong đó nhân dân học tập để tiến lên giữ chính quyền cách mạng". Uỷ ban dân tộc giải phóng được thành lập ở các cấp từ cơ sở đến Trung ương. Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức là Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam. Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang. Ngày 4-6-1945, Hội nghị cán bộ Việt Minh đã quyết nghị thành lập khu giải phóng. Khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Uỷ ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng gồm 5 người. Uỷ ban có nhiệm vụ lãnh đạo toàn Khu về các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội. Chính sách chung của Uỷ ban lâm thời dựa vào ba điểm chính sau: 1 - Tổng động viên nhân dân trong khu để kháng Nhật. 2 - Căn cứ vào điều kiện cụ thể và nhu cầu của cuộc kháng chiến mà thực hiện chương trình Việt Minh, kiến lập nền dân chủ cộng hoà và ban bố các quyền phổ thông đầu phiếu, tự do dân chủ, dân tộc tự quyết, nam nữ bình quyền. 3 - Cải thiện sinh hoạt cho nhân dân: bỏ sưu, bỏ thuế thân, vận động sinh sản, v.v... Tân Trào được chọn là Thủ đô lâm thời của Khu giải phóng. Hơn một triệu đồng bào trong Khu giải phóng bắt đầu được hưởng thành quả cách mạng. Khu giải phóng là căn cứ địa chính của cách mạng cả nước, là hình ảnh thu nhỏ của Nước Việt Nam mới. Tại Tân Trào, Hồ Chí Minh chỉ thị phải gấp rút họp đại hội đại biểu quốc dân. Lúc bấy giờ, cao trào Kháng Nhật cứu nước đang cuồn cuộn dâng lên từ Nam chí Bắc. Toàn quốc đang mong đợi một Chính phủ lâm thời cách mạng của nước Việt Nam độc lập. Võ Nguyên Giáp cho biết: "Theo chỉ thị của Hồ Chủ Tịch, cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội phải khai hội chậm nhất là vào trung tuần tháng bảy. Hồ Chủ Tịch đã từng cân nhắc giá trị của thời đại, của mỗi ngày, mỗi giờ trong lúc đại chuyển biến. Cho nên, khi thấy công việc chậm trễ, thì Chủ tịch đã từng dùng đủ mọi cách để động viên tinh thần các cán bộ phụ trách và thúc giục công cuộc khai hội. Nào thơ viết tay để chỉ rõ công việc khẩn cấp như thế nào, nào giao thông đặc biệt tung ra các hướng để thúc giục đại biểu. Chủ tịch thấy rõ, lúc bấy giờ, chậm một tý, tức là bỏ lỡ nhiều cơ hội thuận lợi. Song, vì liên lạc khó khăn, đường sá trắc trở, mặc dầu anh em, đại biểu đã hết sức đi chóng, mà mãi đến mười, mười bốn tháng tám, các đại biểu mới lục tục kéo đến Tân Trào... Những đoàn đại biểu đi sau tính ra đến mười sáu, mười bảy hoặc mười tám, mới tề tựu đông đủ...".
Tháng 8-1945, Quân đội Liên xô tấn công như vũ bão, đánh bại đội quân Quan Đông tinh nhuệ và hùng mạnh của Nhật tại Mãn Châu. Quân Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống đất Nhật. Chính phủ Nhật Bản đầu hàng. Quân Nhật ở Đông Dương bị tê liệt. Chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang tan rã. Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền trước khi quân Đông minh vào Đông Dương và ngây đêm hôm đó Uỷ ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng đã hạ mệnh lệnh khởi nghĩa. Uỷ ban khởi nghĩa cũng đã ra Quân lệnh số 1. Quân lệnh viết: "Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh ! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!... chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta". Sáng 15-8-1945, được tin đích xác vua Nhật đã ra lệnh đầu hàng cho quân đội Nhật, Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh thấy không thể chờ đợi cho thật đông đủ tất cả các đại biểu nữa nên đã quyết định khai mạc Đại hội đại biểu quốc dân vào chiều ngày 16-8-1945 và tiến hành rất nhanh chóng để các đại biểu có thể mang lệnh khởi nghĩa về các địa phương. Hơn 60 đại biểu đại diện cho các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo, có cả đại biểu từ Nam bộ, miền Nam Trung Bộ và Việt Kiều ở Thái Lan, ở Lào về dự đại hội. Đại hội họp tại đình Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đình lợp lá cọ, có ba gian, gian giữa có bàn thờ, vẫn để nguyên không đụng chạm đến. Gian bên phải triển lãm sách báo cách mạng, gian bên trái là gian họp của Đại hội. Hồ Chí minh vừa bị cơn sốt nặng, sức còn yếu nhưng Người đã đến dự đại hội. Đây là lần đầu tiên sau khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh ra mắt anh chị em đại biểu khắp ba kỳ, cả đại biểu Việt Kiều ở Thái Lan và Lào. "Được gặp vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, được nghe vị lãnh tụ ấy vạch rõ phương châm thành công, với một giọng nói hiền từ mà kiên quyết, các đại biểu ai nấy đều có cảm tưởng đã được thoả mãn trong ước vọng bình sinh của mình, lòng tin tưởng vào tương lai càng cao". Trường Chinh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, đọc bản báo cáo trước Đại hội nêu ra hai vấn đề lớn: Tổng khởi nghĩa và bầu Uỷ ban dân tộc giải phóng. Đảng cộng sản Đông Dương chủ trương lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy tước vũ khí của Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, giành lấy chính quyền từ tay Nhật, lật đổ bọn bù nhìn tay sai của Nhật, đứng địa vị cầm quyền mà tiếp đón quân Đồng Minh vào giải ngũ quân Nhật trên đất Đông Dương .
Đại Hội đã nghe Hoàng Quốc Việt báo cáo về phong trào công nhân, Trần Đức Thịnh về nông dân, Nguyễn Đình Thi về văn hoá, Hoàng Đạo Thuý về hướng đạo, v.v... Đại hội đã nhất trí tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương và hiệu triệu nhân dân toàn quốc, các đoàn thể cách mạng phải kịp thời đứng lên phấn đấu, thi hành 10 điểm sau: "1- Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trên nền tảng hoàn toàn độc lập. 2- Võ trang nhân dân. Phát triển Quân giải phóng Việt Nam. 3- Tịch thu tài sản của giặc nước và của Việt gian, tuỳ từng trường hợp sung công làm của quốc gia hay chia cho dân nghèo. 4- Bỏ các thứ thuế do Pháp, Nhật đặt ra; đặt một thứ thuế công bằng và nhẹ. 5- Ban bố những quyền của dân, cho dân: nhân quyền; tài quyền (quyền sở hữu); dân quyền; quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền. 6 - Chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn dân. 7 - Ban bố Luật lao động: ngày làm 8 giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo hiểm. 8 - Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở mang Quốc gia ngân hàng. 9 - Xây dựng nền quốc dân giáo dục, chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp, kiến thiết nền văn hoá mới. 10 - Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng mình và các nước nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình và sức ủng hộ của họ" .
Đại hội đã quyết định lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, Trần Huy Liệu, Phó Chủ tịch và các Uỷ viên là Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Dương Đức Hiền, Chu Văn Tấn, Nguyễn Văn Xuân, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Lê Văn Hiến, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Đang, Thường trực của Uỷ ban là Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền. Đại hội bế mạc ngày 17-8-1945. Trong buổi bế mạc Uỷ ban dân tộc giải phóng hướng lên lá cờ đỏ sao vàng, trang nghiêm tuyên thệ: chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Uỷ ban dân tộc giải phóng để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước . Đại hội bế mạc trong không khí tổng khởi nghĩa sôi sục, Lệnh khởi nghĩa đã truyền đi từ hôm 13-8-1945. Các đại biểu phải khẩn trương trở về địa phương lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền theo ba nguyên tắc: tập trung, thống nhất, kịp thời. Thì giờ rất cấp bách. Phải hành động cho kịp thời cơ: "Không phải Nhật bại là nước ta tự nhiên được độc lập: Nhiều sự gay go trở ngại sẽ gây ra. Chúng ta phải khôn khéo và kiên quyết. Khôn khéo để tránh những sự không lợi cho ta. Kiên quyết để giành cho được nền hoàn toàn độc lập... Một dân tộc quyết tâm và nhất trí đòi quyền độc lập thì nhất định được độc lập. Chúng ta sẽ thắng lợi" . Hồ Chí Minh, Chủ tịch Uỷ ban dân tộc giải phóng đã gửi thư kêu gọi đồng bào toàn quốc trước giờ phút đấu tranh quyết liệt và khẩn trương: Tổng khởi nghĩa. Bức thư có đoạn viết: "Hỡi đồng bào yêu quý! .... Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam cũng như Chính phủ lâm thời của ta lúc này. Hãy đoàn kết chung quanh nó, làm cho chính sách và mệnh lệnh của nó được thi hành khắp nước. ... giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! D­ới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!".
Quốc dân Đại hội diễn ra khẩn trương và thắng lợi trong đêm trước cuộc Cách mạng Tháng Tám là hình ảnh tiêu biểu của khối đoàn kết dân tộc đồng tâm nhất trí đứng lên đem sức ta mà giải phóng cho ta ở một thời điểm thuận lợi ngàn năm có một. Thắng lợi đó là một biểu hiện sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và thực thi từng bước tư tưởng dân quyền ngay trong tiến trình đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc bằng hình thức tổ chức Quốc dân Đại hội để thông qua quyết sách chuyển xoay vận nước bằng Tổng khởi nghĩa, xoá khởi nghĩa, xoá bỏ chế độ cũ, thi hành 10 chính sách của Việt Minh, đặt cơ sở mang tính pháp lý cách mạng đầu tiên cho một chế độ mới của dân, do dân và vì dân sắp ra đời. Thực hiện nghị quyết tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Quốc dân Đại hội và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước, triệu người như một nhất tề nổi dậy với ý chí dù có hy sinh đến đâu, dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được chính quyền trong toàn quốc. Cuộc Tổng khởi nghĩa đã nhanh chóng giành được thắng lợi, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8). Chính quyền trong cả nước đã thuộc về nhân dân. Vua Bảo Đại xin thoái vị để "được làm dân tự do của một nước độc lập" .
Với thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp, Nhật; đã lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế, lập lên nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà trên nền tảng hoàn toàn độc lập. Ngày 25-8-1945, Chủ tịch Uỷ ban dân tộc giải phóng Hồ Chí Minh về Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Uỷ ban dân tộc giải phóng do Quốc dân Đại hội ở Tân Trào cử ra được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhiều Uỷ viên Việt Minh trong Chính phủ đã tự nguyện rút ra khỏi Chính phủ để mời thêm nhiều nhân sĩ ngoài Việt Minh tham gia. "Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân".
Ngày 27-8-1945, Chính phủ đã ra lời tuyên cáo nói rõ: "Nhiệm vụ của Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam hết sức nặng nề. Làm sao cho Chính phủ lâm thời tiêu biểu được mặt trận dân tộc thống nhất một cách rộng rãi và đầy đủ. Bởi vậy... Uỷ ban dân tộc giải phóng đã quyết định tự cải tổ mời thêm một số nhân sĩ tham gia Chính phủ đặng cũng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề mà quốc dân giao phó. Chính phủ lâm thời...thật là một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ cộng hoà chính thức" . Chính phủ lâm thời gồm có: 1. Chủ Tịch kiêm Ngoại giao Hồ Chí Minh 2. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp 3. Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền Trần Huy Liệu 4. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Chu Văn Tấn 5. Bộ trưởng Bộ Thanh niên Dương Đức Hiền 6. Bộ trưởng Bộ Kinh tế quốc gia Nguyễn Mạnh Hà 7. Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội Nguyễn Văn Tố 8. Bộ trưởng Bộ tư pháp Vũ Trọng Khánh 9. Bộ trưởng Bộ Giao thông công chính Đào Trọng Kim 10. Bộ trưởng Bộ Lao động Lê Văn Hiến 11. Bộ Trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch 12. Bộ trưởng Bộ Tài chính Phạm Văn Đồng 13. Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hoè 14. Bộ trưởng không giữ bộ nào Cù Huy Cận 15. Bộ trưởng không giữ bộ nào Nguyễn Văn Xuân Ngày 30-8-1945, tại Huế, Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận thay mặt Chính phủ lâm thời đã tuyên bố chấp nhận sự thoái vị của Bảo Đại và nhận ấn, kiếm của nhà vua giao nộp cho Chính phủ trước sự chính kiến của hàng vạn đồng bào Thừa Thiên - Huế. Ngày 2-9-1945, tại vườn hoa Ba Đình, trước cuộc mít tinh của hàng chục vạn đồng bào Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ra đời.
Bản tuyên ngôn khẳng định: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Độc lập tự do - tư tưởng cách mạng chủ yếu của Hồ Chí Minh được phác thảo trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng (2-1930), là mục tiêu đấu tranh trực tiếp của mặt trận Việt Minh (1941) và của Đại hội đại biểu quốc dân Tân Trào (8-1945) đã thành hiện thực bằng sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Một kỷ nguyên mới trong lịch sử tiến hoá của dân tộc Việt Nam đã được mở ra - Kỷ nguyên Độc lập Tự do.
Dân tộc Việt Nam đã sớm hình thành trong lịch sử và có một nền văn hiến lâu đời. Nhân dân Việt Nam vốn có truyền thống anh hùng bất khuất, đoàn kết thuỷ chung, có tình nghĩa đồng bào sâu nặng... Đó là một nét tiêu biểu trong bản sắc dân tộc của người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lịch sử đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân tộc ta. Chúng ta có quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung v.v... Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng..." Dựa vào dân, bồi dưỡng sức dân, động viên toàn dân, phát huy sức mạnh truyền thống và bản sắc dân tộc của người Việt nam là kế sâu, gốc bền của sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Vì thế, mỗi khi vận nước bị đe doạ, ngoại bang nhòm ngó và xâm lăng, cả nước đồng tâm, toàn dân tụ hợp, mở hội "Diên Hồng", nêu cao quyết tâm, bàn mưu tính kế, già trẻ gái trai xông lên giết giặc, cứu nước, cứu nhà. Đó là bí quyết thắng lợi, tạo nên những chiến công hiển hách trong lịch sử: Bạch Đằng, Chi Lăng, Xương Giang, Đống Đa... Giá trị tinh thần truyền thống ấy đã được giữ gìn và phát triển từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Đến giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta. Ngay từ khi Pháp nổ súng xâm lược, nhân dân ta đã liên tục đứng lên kháng Pháp, kẻ trước ngã, người sau kế tiếp. Song, tất cả phong trào yêu nước chống Pháp lúc bấy giờ đã lần lượt thất bại. Việt Nam đã trở thành một thuộc địa của Pháp. Dân ta bị áp bức và bóc lột nặng nề, bị mất hết quyền lợi về kinh tế và chính trị, mất hết độc lập và tự do. Phá ách, chặt xiềng nô lệ cho đồng bào, giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do là yêu cầu bức thiết nhất của toàn dân ta. Vào những năm 20 của Thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống văn hiến của dân tộc, tiếp thu tri thức cách mạng phong phú của nhân loại trong thời đại mới, vạch đường cách mạng giải phóng dân tộc để đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập cho dân tộc và tự do dân chủ cho nhân dân. Tháng 7-1920, khi đọc bản sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã phấn khởi, tin tưởng, coi đó là "cái cẩm nang cần thiết cho chúng ta", là con đường giải phóng đất nước. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của cả dân chúng, của toàn thể quốc dân đồng bào. Phải khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, tình nghĩa đồng bào, khối đoàn kết dân tộc, sĩ, nông, công, thương lấy công - nông làm gốc nhằm tạo nên sức mạnh dân tộc để chiến đấu và chiến thắng đế quốc thực dân.
Tháng 2-1930, Hồ Chí Minh đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và soạn thảo Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng. Đó là bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xác định chủ trương chiến lược làm cách mạng tư sản dân quyền để đi tới xã hội cộng sản. Đảng phải vận động thu phục cho được đông đảo quần chúng công dân, nông dân, ra sức lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông, tập hợp hoặc trung lập phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam nhằm thực hiện các nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến, trước mắt là chống đế quốc và tay sai, giành độc lập, tự do cho toàn thể nhân dân Việt Nam Độc lập và tự do là tư tưởng chủ yếu trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Dưới ngọn cờ cách mạng của Đảng, một cao trào cách mạng đã bùng lên mạnh mẽ trong toàn quốc năm 1930 - 1931, mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh. Tiếp đến là cao trào dân chủ rộng lớn và sôi nổi khắp cả ba miền Bắc, Trung, Nam trong những năm 1936 - 1939. Đây là các cuộc tổng diễn tập cho cuộc cách mạng Tháng tám năm 1945.
Tháng 9-1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Đế quốc Pháp tham chiến. Phát xít Nhật xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp đầu hàng và dâng Đông Dương cho Nhật. Nhật - Pháp cấu kết với nhau ra sức bóc lột, đàn áp nhân dân các dân tộc Đông Dương. Quyền lợi của tất cả các giai cấp đều bị Nhật - Pháp cướp giật, vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Vì vậy, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 d­ới sự chủ trì của Nguyễn Văn Cừ và đặc biệt là Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 5-1941 do Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo, đã nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác lại nhiệm vụ cách mạng ruộng đất; thống nhất lực lượng cách mạng dân tộc của ba nước trên bán đảo Đông Dương; không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, tiểu tư sản, tư sản bản xứ, trung, tiểu địa chủ, ai có lòng yêu nước thương nòi đều tham gia vào một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đánh Pháp, đuổi Nhật, giành quyền độc lập, tự do cho các dân tộc ở Đông Dương theo quan điểm thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Đối với Việt Nam, sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật sẽ lập nên một nước Việt Nam mới theo chế độ dân chủ cộng hoà.
Cách mạng Đông Dương hiện tại chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp là giải phóng dân tộc, vì nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật thì chẳng những vận mệnh của dân tộc phải chịu kiếp ngựa trâu muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không sao giải quyết được. Do đó, tính chất của cách mạng Đông Dương lúc này là "cách mạng dân tộc giải phóng". Vì quyền lợi sinh tồn của dân tộc, phải khơi dậy mạnh mẽ chí khí cách mạng, tinh thần yêu nước bất khuất, đoàn kết, thống nhất các lực lượng yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Tháng 6-1941, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào toàn quốc. Người viết: "Trong lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sâu, lửa nóng... Việc cứu quốc là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng...." Ngày 25-10-1941, Việt Nam độc lập đồng minh đã chính thức tuyên bố ra đời.
Tuyên ngôn của Việt Minh nêu rõ: "Từ khi lập quốc, xét lịch sử nước ta, chưa bao giờ dân tộc ta nhục nhằn, đau khổ như lúc này... Nguy cơ diệt vong đã bày ra trước mắt. Hiện thời, chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là đoàn kết thống nhất, đánh đuổi Nhật - Pháp, trừ khử Việt gian. Mở con đường sống ấy cho đồng bào, Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời chào các bạn". Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm bao gồm các chính sách về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm thực hiện hai điều cốt yếu mà quốc dân đồng bào đang mong ­ớc là: "1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; 2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do !". Đặt quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, Việt Minh sẵn sàng bắt tay đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia miễn là thành thực muốn đánh đuổi Nhật - Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc lập. Sau khi đánh đuổi được bọn đế quốc phát xít "sẽ lập lên một Chính phủ cách mạng của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, theo tinh thần tân dân chủ, lấy cờ đỏ giữa có ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ chung của nước. Chính phủ của nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà, do quốc dân đại hội cử lên...".Thực hiện chủ trương cứu nước, Việt Minh đã tích cực chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Phong trào cách mạng phát triển ngày càng mạnh mẽ và đều khắp ở cả nông thôn và đô thị. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Huế và các đô thị khác, cơ sở Việt Minh đã được tổ chức ở trong nhiều nhà máy, tr­ờng học, đường phố... Phong trào thanh niên, học sinh, trí thức được khởi dậy mạnh mẽ. Đảng dân chủ Việt Nam ra đời (6-1944). Hội Văn hoá cứu quốc được thành lập. Mặt trận Việt Minh có thêm các thành viên mới. Các căn cứ địa và lực lượng vũ trang cách mạng được hình thành. Trên thế giới, cuộc chiến tranh chống phát xít đã đi vào giai đoạn kết thúc thắng lợi. Quân đội Xô Viết đang phản công phát xít Đức trên nhiều mặt trận. ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương, cục diện chiến tranh cũng đang chuyển biến có lợi cho các lực lượng chống phát xít, cho phong trào giải phóng dân tộc... Trong bối cảnh thời cuộc khẩn trương đó, tháng 10-1944, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho quốc dân đồng bào, thông báo chủ trương triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập một cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta để tạo nên sức mạnh dân tộc bên trong và tranh thủ ngoại viện của quốc tế nhằm chớp thời cơ thuận lợi thực hiện cho được mục tiêu độc lập, tự do. Cơ cấu tổ chức đó "phải do một cuộc toàn dân đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang. Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh ! Tôi mong rằng các đảng phái và các đoàn thể đều ra sức chuẩn bị cùng nhau thảo luận để khai cuộc Toàn quốc đại biểu đại hội trong năm nay. Như vậy thì ngoại viện nhất định cầu được, cứu quốc nhất định thành công".
Tháng 3-1945, Nhật đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương, tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc. Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng và đã ra bản chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" vạch ra những nhiệm vụ và chủ trương, biện pháp cách mạng mới để chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước phù hợp với tình hình lúc này. Một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa đã phát triển trong toàn quốc. Phong trào chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều địa phương, nhất là ở thượng du và trung du Bắc Kỳ. Hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Giang... được giải phóng. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ chức Uỷ ban dân tộc giải phóng.
Chỉ thị nêu rõ: "Trong tình thế chính quyền đế quốc có chỗ tan rã, có chỗ không được ổn định như ở nước ta ngày nay, Uỷ ban dân tộc giải phóng là hình thức tiền chính phủ, trong đó nhân dân học tập để tiến lên giữ chính quyền cách mạng". Uỷ ban dân tộc giải phóng được thành lập ở các cấp từ cơ sở đến Trung ương. Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức là Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam. Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang. Ngày 4-6-1945, Hội nghị cán bộ Việt Minh đã quyết nghị thành lập khu giải phóng. Khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Uỷ ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng gồm 5 người. Uỷ ban có nhiệm vụ lãnh đạo toàn Khu về các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội. Chính sách chung của Uỷ ban lâm thời dựa vào ba điểm chính sau: 1 - Tổng động viên nhân dân trong khu để kháng Nhật. 2 - Căn cứ vào điều kiện cụ thể và nhu cầu của cuộc kháng chiến mà thực hiện chương trình Việt Minh, kiến lập nền dân chủ cộng hoà và ban bố các quyền phổ thông đầu phiếu, tự do dân chủ, dân tộc tự quyết, nam nữ bình quyền. 3 - Cải thiện sinh hoạt cho nhân dân: bỏ sưu, bỏ thuế thân, vận động sinh sản, v.v... Tân Trào được chọn là Thủ đô lâm thời của Khu giải phóng. Hơn một triệu đồng bào trong Khu giải phóng bắt đầu được hưởng thành quả cách mạng. Khu giải phóng là căn cứ địa chính của cách mạng cả nước, là hình ảnh thu nhỏ của Nước Việt Nam mới. Tại Tân Trào, Hồ Chí Minh chỉ thị phải gấp rút họp đại hội đại biểu quốc dân. Lúc bấy giờ, cao trào Kháng Nhật cứu nước đang cuồn cuộn dâng lên từ Nam chí Bắc. Toàn quốc đang mong đợi một Chính phủ lâm thời cách mạng của nước Việt Nam độc lập. Võ Nguyên Giáp cho biết: "Theo chỉ thị của Hồ Chủ Tịch, cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội phải khai hội chậm nhất là vào trung tuần tháng bảy. Hồ Chủ Tịch đã từng cân nhắc giá trị của thời đại, của mỗi ngày, mỗi giờ trong lúc đại chuyển biến. Cho nên, khi thấy công việc chậm trễ, thì Chủ tịch đã từng dùng đủ mọi cách để động viên tinh thần các cán bộ phụ trách và thúc giục công cuộc khai hội. Nào thơ viết tay để chỉ rõ công việc khẩn cấp như thế nào, nào giao thông đặc biệt tung ra các hướng để thúc giục đại biểu. Chủ tịch thấy rõ, lúc bấy giờ, chậm một tý, tức là bỏ lỡ nhiều cơ hội thuận lợi. Song, vì liên lạc khó khăn, đường sá trắc trở, mặc dầu anh em, đại biểu đã hết sức đi chóng, mà mãi đến mười, mười bốn tháng tám, các đại biểu mới lục tục kéo đến Tân Trào... Những đoàn đại biểu đi sau tính ra đến mười sáu, mười bảy hoặc mười tám, mới tề tựu đông đủ...".
Tháng 8-1945, Quân đội Liên xô tấn công như vũ bão, đánh bại đội quân Quan Đông tinh nhuệ và hùng mạnh của Nhật tại Mãn Châu. Quân Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống đất Nhật. Chính phủ Nhật Bản đầu hàng. Quân Nhật ở Đông Dương bị tê liệt. Chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang tan rã. Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền trước khi quân Đông minh vào Đông Dương và ngây đêm hôm đó Uỷ ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng đã hạ mệnh lệnh khởi nghĩa. Uỷ ban khởi nghĩa cũng đã ra Quân lệnh số 1. Quân lệnh viết: "Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh ! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!... chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta". Sáng 15-8-1945, được tin đích xác vua Nhật đã ra lệnh đầu hàng cho quân đội Nhật, Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh thấy không thể chờ đợi cho thật đông đủ tất cả các đại biểu nữa nên đã quyết định khai mạc Đại hội đại biểu quốc dân vào chiều ngày 16-8-1945 và tiến hành rất nhanh chóng để các đại biểu có thể mang lệnh khởi nghĩa về các địa phương. Hơn 60 đại biểu đại diện cho các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo, có cả đại biểu từ Nam bộ, miền Nam Trung Bộ và Việt Kiều ở Thái Lan, ở Lào về dự đại hội. Đại hội họp tại đình Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đình lợp lá cọ, có ba gian, gian giữa có bàn thờ, vẫn để nguyên không đụng chạm đến. Gian bên phải triển lãm sách báo cách mạng, gian bên trái là gian họp của Đại hội. Hồ Chí minh vừa bị cơn sốt nặng, sức còn yếu nhưng Người đã đến dự đại hội. Đây là lần đầu tiên sau khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh ra mắt anh chị em đại biểu khắp ba kỳ, cả đại biểu Việt Kiều ở Thái Lan và Lào. "Được gặp vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, được nghe vị lãnh tụ ấy vạch rõ phương châm thành công, với một giọng nói hiền từ mà kiên quyết, các đại biểu ai nấy đều có cảm tưởng đã được thoả mãn trong ước vọng bình sinh của mình, lòng tin tưởng vào tương lai càng cao". Trường Chinh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, đọc bản báo cáo trước Đại hội nêu ra hai vấn đề lớn: Tổng khởi nghĩa và bầu Uỷ ban dân tộc giải phóng. Đảng cộng sản Đông Dương chủ trương lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy tước vũ khí của Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, giành lấy chính quyền từ tay Nhật, lật đổ bọn bù nhìn tay sai của Nhật, đứng địa vị cầm quyền mà tiếp đón quân Đồng Minh vào giải ngũ quân Nhật trên đất Đông Dương .
Đại Hội đã nghe Hoàng Quốc Việt báo cáo về phong trào công nhân, Trần Đức Thịnh về nông dân, Nguyễn Đình Thi về văn hoá, Hoàng Đạo Thuý về hướng đạo, v.v... Đại hội đã nhất trí tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương và hiệu triệu nhân dân toàn quốc, các đoàn thể cách mạng phải kịp thời đứng lên phấn đấu, thi hành 10 điểm sau: "1- Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trên nền tảng hoàn toàn độc lập. 2- Võ trang nhân dân. Phát triển Quân giải phóng Việt Nam. 3- Tịch thu tài sản của giặc nước và của Việt gian, tuỳ từng trường hợp sung công làm của quốc gia hay chia cho dân nghèo. 4- Bỏ các thứ thuế do Pháp, Nhật đặt ra; đặt một thứ thuế công bằng và nhẹ. 5- Ban bố những quyền của dân, cho dân: nhân quyền; tài quyền (quyền sở hữu); dân quyền; quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền. 6 - Chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn dân. 7 - Ban bố Luật lao động: ngày làm 8 giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo hiểm. 8 - Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở mang Quốc gia ngân hàng. 9 - Xây dựng nền quốc dân giáo dục, chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp, kiến thiết nền văn hoá mới. 10 - Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng mình và các nước nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình và sức ủng hộ của họ" .
Đại hội đã quyết định lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, Trần Huy Liệu, Phó Chủ tịch và các Uỷ viên là Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Dương Đức Hiền, Chu Văn Tấn, Nguyễn Văn Xuân, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Lê Văn Hiến, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Đang, Thường trực của Uỷ ban là Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền. Đại hội bế mạc ngày 17-8-1945. Trong buổi bế mạc Uỷ ban dân tộc giải phóng hướng lên lá cờ đỏ sao vàng, trang nghiêm tuyên thệ: chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Uỷ ban dân tộc giải phóng để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước . Đại hội bế mạc trong không khí tổng khởi nghĩa sôi sục, Lệnh khởi nghĩa đã truyền đi từ hôm 13-8-1945. Các đại biểu phải khẩn trương trở về địa phương lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền theo ba nguyên tắc: tập trung, thống nhất, kịp thời. Thì giờ rất cấp bách. Phải hành động cho kịp thời cơ: "Không phải Nhật bại là nước ta tự nhiên được độc lập: Nhiều sự gay go trở ngại sẽ gây ra. Chúng ta phải khôn khéo và kiên quyết. Khôn khéo để tránh những sự không lợi cho ta. Kiên quyết để giành cho được nền hoàn toàn độc lập... Một dân tộc quyết tâm và nhất trí đòi quyền độc lập thì nhất định được độc lập. Chúng ta sẽ thắng lợi" . Hồ Chí Minh, Chủ tịch Uỷ ban dân tộc giải phóng đã gửi thư kêu gọi đồng bào toàn quốc trước giờ phút đấu tranh quyết liệt và khẩn trương: Tổng khởi nghĩa. Bức thư có đoạn viết: "Hỡi đồng bào yêu quý! .... Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam cũng như Chính phủ lâm thời của ta lúc này. Hãy đoàn kết chung quanh nó, làm cho chính sách và mệnh lệnh của nó được thi hành khắp nước. ... giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! D­ới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!".
Quốc dân Đại hội diễn ra khẩn trương và thắng lợi trong đêm trước cuộc Cách mạng Tháng Tám là hình ảnh tiêu biểu của khối đoàn kết dân tộc đồng tâm nhất trí đứng lên đem sức ta mà giải phóng cho ta ở một thời điểm thuận lợi ngàn năm có một. Thắng lợi đó là một biểu hiện sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và thực thi từng bước tư tưởng dân quyền ngay trong tiến trình đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc bằng hình thức tổ chức Quốc dân Đại hội để thông qua quyết sách chuyển xoay vận nước bằng Tổng khởi nghĩa, xoá khởi nghĩa, xoá bỏ chế độ cũ, thi hành 10 chính sách của Việt Minh, đặt cơ sở mang tính pháp lý cách mạng đầu tiên cho một chế độ mới của dân, do dân và vì dân sắp ra đời. Thực hiện nghị quyết tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Quốc dân Đại hội và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước, triệu người như một nhất tề nổi dậy với ý chí dù có hy sinh đến đâu, dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được chính quyền trong toàn quốc. Cuộc Tổng khởi nghĩa đã nhanh chóng giành được thắng lợi, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8). Chính quyền trong cả nước đã thuộc về nhân dân. Vua Bảo Đại xin thoái vị để "được làm dân tự do của một nước độc lập" .
Với thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp, Nhật; đã lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế, lập lên nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà trên nền tảng hoàn toàn độc lập. Ngày 25-8-1945, Chủ tịch Uỷ ban dân tộc giải phóng Hồ Chí Minh về Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Uỷ ban dân tộc giải phóng do Quốc dân Đại hội ở Tân Trào cử ra được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhiều Uỷ viên Việt Minh trong Chính phủ đã tự nguyện rút ra khỏi Chính phủ để mời thêm nhiều nhân sĩ ngoài Việt Minh tham gia. "Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân".
Ngày 27-8-1945, Chính phủ đã ra lời tuyên cáo nói rõ: "Nhiệm vụ của Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam hết sức nặng nề. Làm sao cho Chính phủ lâm thời tiêu biểu được mặt trận dân tộc thống nhất một cách rộng rãi và đầy đủ. Bởi vậy... Uỷ ban dân tộc giải phóng đã quyết định tự cải tổ mời thêm một số nhân sĩ tham gia Chính phủ đặng cũng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề mà quốc dân giao phó. Chính phủ lâm thời...thật là một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ cộng hoà chính thức" . Chính phủ lâm thời gồm có: 1. Chủ Tịch kiêm Ngoại giao Hồ Chí Minh 2. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp 3. Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền Trần Huy Liệu 4. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Chu Văn Tấn 5. Bộ trưởng Bộ Thanh niên Dương Đức Hiền 6. Bộ trưởng Bộ Kinh tế quốc gia Nguyễn Mạnh Hà 7. Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội Nguyễn Văn Tố 8. Bộ trưởng Bộ tư pháp Vũ Trọng Khánh 9. Bộ trưởng Bộ Giao thông công chính Đào Trọng Kim 10. Bộ trưởng Bộ Lao động Lê Văn Hiến 11. Bộ Trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch 12. Bộ trưởng Bộ Tài chính Phạm Văn Đồng 13. Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hoè 14. Bộ trưởng không giữ bộ nào Cù Huy Cận 15. Bộ trưởng không giữ bộ nào Nguyễn Văn Xuân Ngày 30-8-1945, tại Huế, Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận thay mặt Chính phủ lâm thời đã tuyên bố chấp nhận sự thoái vị của Bảo Đại và nhận ấn, kiếm của nhà vua giao nộp cho Chính phủ trước sự chính kiến của hàng vạn đồng bào Thừa Thiên - Huế. Ngày 2-9-1945, tại vườn hoa Ba Đình, trước cuộc mít tinh của hàng chục vạn đồng bào Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ra đời.
Bản tuyên ngôn khẳng định: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Độc lập tự do - tư tưởng cách mạng chủ yếu của Hồ Chí Minh được phác thảo trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng (2-1930), là mục tiêu đấu tranh trực tiếp của mặt trận Việt Minh (1941) và của Đại hội đại biểu quốc dân Tân Trào (8-1945) đã thành hiện thực bằng sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Một kỷ nguyên mới trong lịch sử tiến hoá của dân tộc Việt Nam đã được mở ra - Kỷ nguyên Độc lập Tự do.
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: