Chia Sẻ Quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước có điểm gì mới về tư tưởng và hình thức biểu hiện qua đoạn trích "Đất nước"

Bút Nghiên

ButNghien.com
Một cái nhìn mới mẻ về đất nước qua cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: Đất nước là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân là người làm ra đất nước.-

Đất nước Nguyễn  Khoa  Điềm.JPG

Đất nước chính là nguồn cảm hứng vô tận của thi ca, của tâm hồn người nghệ sĩ.Từ xa xưa, ta bắt gặp hình ảnh đất nước trong
những cánh cò trắng trên cánh đồng làng vào những chiều quê yên ả. Rồi ta bắt gặp đất nước “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”, trong thơ Chế Lan Viên, một đất nước “rũ bùn đứng dậy sáng loà”, đất nước của những mùa thu xưa và nay trong thơ Nguyễn Đinh Thi. Và khi đọc Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm ta lại gặp hình ảnh “đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại” ở toàn bộ chương Đất nước của bản trường ca này.
Hình ảnh “đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại” được tác giả thể hiện bằng hình thức thơ trữ tình, chính luận. Đậm đà cảm xúc mà cũng giàu chất triết lý sâu xa, vừa đem đến cho người đọc những cảm nhận mới mẻ về đất nước vừa giúp mỗi người yêu hơn , thương hơn đất nước mình.
Theo
Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không là của riêng ai mà là của toàn nhân dân. Hàng triệu người vô danh từ thế hệ này sang thế hệ khác đã đổ mồ hôi và xương máu để bảo vệ và xây dựng đất nước.
Có biết bao người con gái, con trai,
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết.
Giản dị và bình tâm,


Không ai nhớ mặt đặt tên,
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Trong suốt bốn nghìn năm dựng nước, nhân dần ta đã chiến đấu, lao động tạo nên bộ mặt lãnh thổ, nền văn hoá dân tộc, những mối quan hệ gia đình, làng xóm, tổ tiên, quan hệ với thiên nhiên, lịch sử…
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi,
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Đất Nước không phải là những gì xa xôi trừu tượng mà thật cụ thể, gắn bó thân thiết với tình cảm và sinh hoạt hằng ngày của chúng ta:
Đất là nơi anh đến trường,
Nước là nơi em tắm,
Đất Nước là nơi ta hò hẹn,
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Và hiện hữu ngay trong bản thân mỗi người chúng ta:
Trong anh và em hôm nay.
Đều có một phần Đất Nước,
Khi hai đứa cầm tay,
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm.
Quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm có điểm khác với quan niệm phong kiến ngày xưa – đất nước là của nhà vua.

Nam quốc Sơn hà nam đế cư.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư


(Lí Thường Kiệt)
Quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm cũng có điểm khác với quan niệm của nhà yêu nước ở đầu thế kỉ XX – đất nước là của những bậc anh hùng làm nên lịch sử:
Nợ thuở trước đánh Tàu mấy lớp,
Cõi trời Nam cơ nghiệp mở mang .
Sông Đằng lớp sóng Trần Vương,
Núi Lam rẽ khói mở đường nhà Lê.
Quang Trung để từ khi độc lập,
Khí anh hăng đầy lấp giang Sơn.
(Phan Bội Châu)
Về hình thức biểu hiện đất nước, bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng có mới mẻ, sáng tạo. Thơ ca cổ điển thường dùng tiếng cuộc kêu tượng trưng cho lòng nhớ thương nước nhà:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
(Bà Huyện Thanh Quan)
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
(Nguyễn Khuyến)
Chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây vào những năm 20 của thế kỉ này, Tản Đà đã dùng hình ảnh bức dư đồ để tượng trưng cho đất nước:
Nọ bức dư đồ thư đứng cui,
Sông sông, núi núi khéo bia cười
Khi Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu viết Ngọn quốc kì ca ngợi đất nước:
Việt Nam! Việt Nam! Cờ đồ sao vàng!
Những ngực nén hít thở “Ngày độc lập”!
Riêng Nguyễn Khoa Điềm sử dụng những hình ảnh trong ca dao, tục ngữ truyền thuyết muôn màu, muôn vẻ, trải dài trong không gian, xuyên suốt cả thời gian, lắng đọng trong tâm tưỏng ta qua những liên tưởng kì thú để tượng trưng cho đất nước. Trước hết, đất nước đã có từ lâu đời, qua Sự tích trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn,
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Qua những mĩ tục thể hiện lối sông giàu tình nặng nghĩa:
Tóc mẹ thì bới sau đầu,


Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

Qua đời sống lao động thật vất vả để lo cái ở, để lo cái ăn:

Cái kèo, cái cột thành tên,

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay. giã, giần, sàng.

Đất nước được coi là phần hay nhất của trường ca Mặt đường khát vọng . Nó tạo nên những tinh cảm tha thiết sâu lắng, những ngân rung trong lòng người đọc. Bài thơ còn tạo nên một tượng đài về Tổ quốc Việt Nam bằng thơ, tượng đài ấy vĩnh hằng qua thời gian, năm tháng và trong lòng mỗi người dân Việt Nam yêu đất nước mình.

Sưu Tầm
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Đất nước là một chủ đề được quan tâm hàng đầu đối với văn học của những đất nước chiến tranh, vì thế là một chủ đề xuyên suốt lịch sử văn học nước ta. Mỗi thời đại có mộ cách hiểu, cách quan niệm riêng về đất nước. Thời trung đại người ta thường quan niệm đất nước gắn liền với công lao của các triều đại, do các triều đại kế tiếp nhau gây dựng lên. Còn ở thời hiện đại, khi người ta nhìn thấy rõ sức mạnh to lớn của nhân dân, người ta mới thấy rằng đất nước là của nhân dân. Điều này tất nhiên càng được các nhà văn Việt Nam ý thức sâu sắc hơn ai hết khi dân tộc ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại chống Mỹ cứu nước. Tư tưởng xuyên suốt chương thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chính là tư tưởng ấy:

“Để đất nước này là đất nước nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao, thần thoại”.

Tư tưởng này đã được Nguyễn Khoa Điểm thể hiện một cách nhuần nhuyễn trong cả chương thơ rất dài, trước hết bằng một chất liệu hết sức phù hợp: chất Ịiệu văn hoá dân gian.

Quả là viết về tư tưởng đất nước của nhân dân thì không có chất liệu nào có thể có ưu thế bằng văn hoá dân gian. Chính vì thế mà Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác một cách phong phú vốn văn hoá dân gian giàu có của ta để viết nên bài thơ này. Có thể nói cả bài thơ đã được sáng tạo, tái tạo từ những gì quen thuộc nhất trong nền văn hoá dân gian lâu đời của người Việt Nam. Có thể thấy hàng loạt những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca, hàng loạt những truyện cổ, hàng loạt những phong tục, tập quán, hàng loạt những địa danh rải trên khắp sông núi đã được huy động vào trong bài thơ này. Có những câu thơ, đoạn thơ tác giả trích nguyên văn từ những câu ca dao. Nhưng phần quan trọng hơn là những chất liệu ấy đã được nhào nặn bằng một cảm xúc mới với một ánh sáng mới, khiến cho những câu thơ vừa rất hiện đại vừa thấm đẫm chất dân gian truyền thống. Chúng ta không khó khăn gì khi chỉ ra những truyện cổ, những câu thành ngữ, tục ngữ đã hoá thân thành các câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Đọc câu:

“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

hay câu – “Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” .
Chúng ta có thể thấy ngay trong đó diện mạo của các câu thành ngữ “một nắng hai sương”, câu ca dao “Em ơi chua ngọt đã từng – Gừng cay muối mặn ta đừng quên nhau”, và bài ca dao nổi tiếng:
“Khăn thương nhó ai – khăn rơi xuống dát
Khăn thương nhớ ai – khăn vắt trên vai’.
Thậm chí có những câu thơ rất giản dị nhưng dường như đã được nhào nặn, tái tạo từ nhiều nguồn chất liệu khác nhau.
Ví như: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn. Nó gợi lên trong chúng ta một tập tục đã ăn sâu vào truyền thống của người Việt: tục ân trầu, nó gợi lên những thành ngữ quen thuộc:
”Miếng trầu là đầu câu chuyện”
“Cơi trầu nên dâu nhà người”

Đồng thời nó cũng gợi lên trong chúng ta một sự tích vào loại cổ nhất của người Việt: “Sự tích trầu cau”. Ngoài ra nó cũng đánh thức dậy hình ảnh những miếng trầu đã trở thành các biểu tượng của tình yêu, lòng thuỷ chung: miếng trầu của cô Tấm, miếng trầu của Xuân Hương. Nhờ am hiểu khá sâu sắc và phong phú vốn văn hoá dân gian cho nên ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm tỏ ra rất linh hoạt. Người ta thấy rõ những hình ảnh, hình tượng trong bài “Đất nước” này được khơi dậy, được vun trồng bằng văn hoá dân gian và bản thân chúng cũng bắt rễ rất sâu vào nguồn văn hoá dân gian ấy. Văn hoá dân gian đã nuôi dưỡng cho một hồn thơ, khơi dòng cho một cảm hứng và nuôi dưỡng cho đến từng câu thơ trong bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm.

Được viết trong thời chống Mỹ, bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm dường như là một sự nhận thức lại về một vấn đề đã trở nên quen thuộc: vấn đề đất nước. Đất nước được hình thành như thế nào? Đất nước của ai, đất nước được hiện lên trong đời sống hàng ngày ra sao? Nguyễn Khoa Điềm đã nghiền ngẫm để trả lời những câu hỏi ấy. vì thế nhà thơ đã khám phá, phát hiện vé đất nước. Mà tựu chung là khám phá trên ba bình diện: bề rộng không gian, chiều dài lịch sử, bé dày văn hoá ở bình diện nào cũng có những phát hiện thật lí thú, sắc sảo và hết sức bất ngờ. Có lẽ đối với bất cứ Tổ quốc nào thì hai thành phần khởi đầu, hai “nguyên tố”, hai tế bào khởi đầu cho mọi sự sinh thành đều cũng là Đất và Nước. Hai nguyên tố này kết hợp với nhau, giao hoà với nhau để rồi từ đó mà sinh thành nên cái cơ thể của đất đai, nước non, xứ sở. Nguyễn Khoa Điềm đã bắt đầu khám phá bề rộng không gian từ hai nguyên tố ấy:

“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đát nưóc là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đoạn thơ trên đây đã được viết bằng tư duy vừa giàu chất trữ tình thơ ca, vừa mang tính huyền thoại, vừa thấm đượm một phong vị triết học. Không phải ngẫu nhiên mà Đất tương ứng với Anh, Nước tương ứng với Em. Một yếu tố thuộc Âm, một yếu tố thuộc Dương. Khi nói riêng về từng người thì Đất nước cũng tách riêng thành hai chữ. Nhưng đến khi Anh với Em hò hẹn, Anh với Em hợp lại để thành Ta thì Đất và Nước cũng liền lại với nhau thành Đất Nước. Như vậy Đất và Nước hoà hợp cùng với tình yêu và trong tình yêu của con người. Từ đó bắt đầu sự sinh sôi. Và khi Em nhớ Anh thì cả Đất Nước dường như cũng sống trong nỗi nhớ thầm. Cho nên câu thơ “Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” là một câu thơ đẹp trong đó tình yêu đôi lứa đã hoà hợp làm một với tình yêu của đất nước.
Cứ thế, đất nước lớn lên trong tình yêu. Cả trong phạm vi đôi lứa, cả trong phạm vi của cộng đồng. Tư duy của Nguyễn Khoa Điểm cứ mở rộng mãi để bao quát sự sinh thành, trưởng thành, mở mang của cả đất nước:
“Đất là nơi con chim phượng hoàng bay vê hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông mong nước biền khơi”
“Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ờ
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”.
Song song với quá trình sinh thành đất và nước để tạo ra thành địa bàn cư trú của người Việt suốt mấy nghìn năm qua, là sự sinh sôi của các địa danh. Mỗi một địa danh không phải là một dòng tên vô nghĩa. Đằng sau mỗi tên đất, tên rừng, tên núi, tên sông là mỗi cuộc đời, mỗi cuộc đời là một kì tích, một huyền thoại. Một mảnh đất chưa có tên là một miền đất hoang chưa có lịch sử, chưa có sự sống của con người. Vì thế khi địa danh lan đi đến đâu thì đất đai được mở rộng đến đó. Nó là dấu ấn về sự sinh tồn của dân tộc này. Cho nên lần theo những địa danh Nguyễn Khoa Điểm đã dựng lại được cả diện mạo non sông đất nước, mỗi địa danh đều làm rung động sâu tâm linh của con người: Núi bút non nghiên, hòn Trống Mái, Vọng Phu, vịnh Hạ Long, sông Cửu Long, ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm… Mỗi địa danh là một cuộc đời, mối cuộc đời hoá thân thành sông núi. Điều đó cũng có nghĩa là chính nhân dân đã gây dựng, mở mang, gìn giữ nên đất nước này.
Một đất nước mới chỉ có lãnh thổ không thôi thì chưa đủ. Nó còn phải có lịch sử, lịch sử của một dân tộc chính là sự sống của dân tộc ấy trong chiều dài thời gian. Điểm vé lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm không nhắc tên những triều đại nổi tiếng, những anh hùng hữu danh. Trái lại nhà thơ thấy bốn nghìn năm lịch sử là một cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi của bốn nghìn thế hệ. Họ cầm trong tay ngọn đuốc sự sống của Việt Nam. Mỗi thế hệ chạy một quãng đường và trao lại cho thế hệ kế tiếp:
“Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ dã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước”.
Cứ như thế sự sống của đất nước được duy trì, được gìn giữ và phát triển bởi vô số những con người vô danh. Và lịch sử cũng không chỉ được hiểu như là những cuộc chống ngoại xâm kế tiếp. Mà lịch sử là toàn bộ sự sống của người Việt. Chính những người vô danh đã gìn giữ sự sống này qua những việc rất cụ thể:
‘Họ truyền lửa qua mồi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
…vùng lên đánh bại”.
Cứ như thế đã suốt bốn nghìn năm, lịch sử này thuộc về những người vô danh, thuộc về nhân dân.
Nói về một đất nước mà mới chỉ dừng lại ở lãnh thổ và lịch sử không thồi thì rõ ràng chưa đủ. Sự sống của một cộng đồng trong thời gian, cẩn phải được kết tinh thành lối sống riêng, cốt cách riêng, tâm hổn riêng, khuôn mặt riêng… không lẫn với những dân tộc khác. Có nghĩa là nó phải kết tinh thành bản sắc văn hoá. Thiếu điều này, người ta chưa thể hình dung được đầy đủ về một đất nước thực thụ.

Chính vì thế, Nguyễn Khoa Điểm đã nghiền ngẫm và tiếp tục khám phá đất nước ở bình diện thứ ba: bề dày văn hoá.

Cũng thống nhất với các bình diện trên, ở đây khi điểm về văn hoá, Nguyễn Khoa Điểm khống nhấc đến những công trình nổi tiếng thuộc nén văn hoá bác học như những công trình kiến trúc: chùa Một Cột, chùa Bụt Tháp, không kể đến những công trình điêu khắc: tượng các vị la hán chùa Tây Phương ,các tác phẩm văn học như: Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm… Đó cũng là những công trình tiêu biểu cho nền văn hoá Việt Nam. Tuy nhiên, đó là thứ văn hoá dễ thấy, nó cũng giống như những người anh hùng hữu danh, ai cũng ngưỡng mộ. Nguyễn Khoa Điềm quan tâm đến một thứ văn hoá khác, đó là những sản phẩm văn hoá nhỏ nhoi bình thường đến tầm thường, đã quen thuộc đến quen nhàm trong đời sống hàng ngày, khiến cho chúng ta dửng dưng, lãng quên. Đất nước đã được phát hiện từ một câu chuyện cổ tích, một câu ca dao vất vưởng trôi nổi ở chốn thôn quê, được phát hiện từ cái kèo, cái cột nôm na, được phát hiện từ vị gừng cay muối mặn mộc mạc, được phát hiện từ cách làm ra hạt gạo, dãi dầu một nắng hai sương, được phát hiện từ cách bới tóc sau đầu của người Việt… khiến cho chính người đọc cũng phải bất ngờ,- vỡ lẽ ra rằng: không phải tìm kiếm đất nước ở đâu xa mà đất nước ở quanh ta, ở trong ta, ở ngay những gì đơn sơ thân thuộc nhất. Nhưng có lẽ bất ngờ nhất vẫn là sự phát hiện này: “Đất nước bắt đầu vói miếng trầu bảy giờ bà ăn”. Câu thơ dường như là một nghịch lý, phi lý. Đất nước là một khái niệm lớn lao thiêng liêng, hệ trọng, tại sao lại có thể nằm trong một miếng trầu nhỏ nhoi, tầm thường, không có gì quan trọng? Đi tìm sự khởi thuỷ của một đất nước, nghĩa là phải ngược thời gian trở về với ngọn nguồn xa xưa, sao lại bất đầu với miếng trầu của “bây giờ”? Câu thơ xem ra thật là phi logic. Nhưng ngẫm nghĩ, ta sẽ thấy cái phi lôgic kia chỉ là hình thức của câu thơ. Tác giả đã mượn hình thức phi lí để chứa đựng ,một điều hợp lí Đó là một đất nước dù lớn đến đâu cũng bắt đầu từ những cái nhỏ nhoi. Vô số những cái nhỏ nhoi mới làm nên sự lớn lao. Nói một cách khác, không có cái nhỏ nhoi như miếng trầu thì cũng không có sự lớn lao như đất nước. Thì ra mỗi miếng trầu kia đều gánh trong nó một phần đất nước, mỗi miếng trầu bà ăn hôm nay đều đã có bốn nghìn năm tuổi. Cho nên cái hiện diện của hôm nay, của bây giờ, đằng sau nó có cả một lịch sử lâu dài. Vì thế quá khứ luôn có mặt với hiện tại, lịch sử vẫn đang hiện diện với hôm nay. Những câu thơ như thế thực sự lặ một phát hiện bất ngờ khiến cho người đọc phải ngỡ ngàng. Nổ không chỉ là sản phẩm của một tư duy sắc sảo. Mà trước hết nó là sản phẩm của một tình yêu, một tấm lòng. Nếu không có một sự trân trọng với tất cả những gì mà tổ tiên đã chắt chiu, chi chút, gìn giữ suốt mấy nghìn năm, thì Nguyễn Khoa Điềm không thể có được những câu thơ cứ thể làm rung động tâm linh người Việt đến như thế.

Toàn bộ đoạn thơ này được viết bằng hình thức một cuộc tâm tình của một đôi traị- gái. Họ ‘hẹn hò với nhau, họ tâm sự, tự tình. Những khi riêng tư nhất, cần phải nói những chuyện sâu kín nhất, họ lại nói về đất nước. Đất nước đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của cả dân tộc, của từng con người, của mỗi đôi lứa. Qua đó Nguyễn Khoa Điềm đã biến một vấn đề chính trị thành một câu chuyện tâm tình, một dòng tâm sự. Có lẽ nhờ thế mà tính truyền cảm của bài thơ trở nên mạnh mẽ hơn, sâu hơn. Nguyễn Khoa Điềm cũng phát huy một tư duy thơ độc đáo, đó làmột lối tư duy nghiêng về suy ngẫm, thâm trầm, sâu lắng. Mối một lời thơ kết tinh bao suy tư. Cho nên lời thơ nào, câu thơ nào cũng nặng ý tưởng. Khiến cho người đọc thơ phải cùng suy ngẫm với tác giả mới có thể thấu hiểu được những ý tưởng giản dị mà hàm súc, chất chứa đằng sau mỗi lời thơ đó. Và là nhờ suy tư thâm trầm sắc sảo mà Nguyễn Khoa Điểm mới có thể phát hiện ra được rằng: đất nước là ở quanh ta, thậm chí đất nước ở ngay trong ta:

” Trong anh và em hôm nay
Đầu có một phần đát nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất nước trong chúng ta hài hoà nồng thấm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”.



dat-nuoc-anh-va-em-jpg.3185



Và cũng chính nhờ đó mà Nguyễn Khoa Điềm mới tiếp cận chân lí: đất nước này là đất nước của nhân dân.

Đất nước là một đề tài muôn thuở. Chừng nào mỗi con người vẫn là con đẻ của một dân tộc, của một mảnh đất, chừng ấy người ta vẫn còn viết về cái mảnh đất thiêng liêng được gọi là Tổ quốc của mình. Mỗi thời có một cảm nhận riêng, nhưng tất cả đều phải xuất phát từ một tấm lòng chung, đó là sự thiết tha, sự thuỷ chung với giang sơn Tổ quốc. Nếu thiếu điều này thì dù sự am hiểu văn hoá phong phú đến đâu, tư duy dù sắc sảo đến đâu cũng không giúp cho thi sĩ viết nên những tiếng thơ có khả năng rung động hàng triệu trái tim người.

(Theo GS Nguyễn Đăng Mạnh )
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top