• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Quan niệm của người utopia về tôn giáo (*)

PHÚC KEYNES

New member
Xu
0
QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI UTOPIA VỀ TÔN GIÁO (*)

Thomas More (1478-1535)


Cuối cùng, để tôi kể cho các bạn nghe về những ý tưởng và quan niệm tôn giáo của người Utopia. Có nhiều tôn giáo khác nhau trên đảo quốc ấy, và ngay cả ở từng thành phố ở đó. Có đạo thờ mặt trời, có đạo thờ mặt trăng, và thờ những hành tinh khác nữa. Có những người coi một nhân vật vĩ đại hoặc chí thiện trong quá khứ không những như một vị thánh, mà còn như một vị chí thánh tối cao nữa. Tuy nhiên đại đa số dân chúng có quan niệm hợp lý hơn nhiều rằng chỉ có một đấng quyền năng thiêng liêng duy nhất, không thể nhận biết, vĩnh hằng, vô định, không thể giải thích và hoàn toàn vượt ra ngoài tấm trí lực của con người, phát tán trong khắp vũ trụ của chúng ta, không phải như một thứ vật chất, mà như một hoạt lực. Họ gọi đấng huyền năng ấy là “Đức cha”. Họ tin rằng ngài đã làm ra mọi chuyện và mọi thứ, mọi sự khởi đầu và kết thúc, mọi sự sinh trưởng và đổi thay. Và họ không công nhận bất kì một ngôi thánh thần nào khác.

Quả thật là ở thời điểm này, tất cả mọi giáo phái đều đồng ý rằng có một Đấng tối cao đã tạo nên và điều hành toàn bộ vũ trụ, và họ đều dùng một từ trong ngôn ngữ Utopia để gọi Ngài, đó là từ Mythra [1]. Điều mà họ còn bất đồng là vấn đề Mythras là ai. Người nói thế này, người nói thế kia, nhưng ai cũng nhận rằng bản thể tối thương của Ngài chính là thiên nhiên, cái sức mạnh ghê gớm mà ai cũng phải công nhận là duyên cớ duy nhất của muôn sự muôn vật trên đời này. Tuy nhiên, người ta đang có khuynh hướng tứ bỏ dần các tín ngưỡng thô thiển đa thần để quy tụ về cái có vẻ là chính đạo và hợp lý nhất. Chắc hẳn là những thứ tín ngưỡng kia đã phải mai một từ lâu rồi nếu không có những đầu óc dị đoan vốn không dám cải đạo vì sợ bị thần thánh của họ trừng phạt, cứ như thể là các thần thánh ấy sẽ nổi đóa vì bị bỏ rơi vậy.

Nhưng khi chúng tôi kể cho mọi người nghe về Đấng Christ, những lời dạy của ngài, con người Ngài, phép lạ của Ngài, và cả những cống hiến không kém phần kỳ lạ của các bậc tử vì đạo vì đã tình nguyện xả thân để đem đức tin Cơ đốc đến cho biết bao nhiêu dân tộc, thì hóa ra cải đạo cho họ là một công việc không dễ tưởng tượng được. Có thể họ đã có một ý nguyện thần thánh nào đó mà chính họ cũng không biết, mà cũng có thể vì Cơ đốc giáo hình như rất giống với tôn giáo chủ đạo của họ - mặc dù bản thân tôi vẫn muốn nghĩ rằng họ đã bị tác động tất mạnh bởi những giáo huấn của đấng Christ cho các đệ tử của mình về một lối sống theo cộng sản chủ nghĩa mà cho đến ngày nay vẫn được các cộng đồng Cơ đốc chân chính thực hành. Nhưng giải thích cách gì đi chăng nữa thì thực tế là đã có rất nhiều người Utopia gia nhập tín ngưỡng của chúng ta, và đều được thụ lễ mang tên thánh cả rồi.

Chẳng may là chẳng ai trong số bốn chúng tôi ở đó là mục sư cả - vâng, chỉ có bốn chúng tôi, vì hai người khác đã qua đời. Cho nên mặc dù họ đã được thụ mọi nghi thức của Giáo hội Cơ đốc, các tân đạo hữu của chúng tôi vẫn chưa nhận được các bí pháp và phước lành mà chỉ có các mục sư mới có quyền ban phát cho họ. Nhưng họ đều hiểu về những phước lành ấy và mong mỏi chúng hơn mọi thứ trên đời. Thực sự là ngay từ lúc này đây, họ đang bận rộn bàn thảo xem liệu có phải phép hay không nếu họ tự phong cho một người của mình làm mục sư mà không cần có một giám mục Cơ đốc đến cử hành nghi lễ đó cho họ. Và có vẻ là họ đã sắp chọn được một ứng cử viên cho chức vị ấy rồi, mặc dù lúc đó tôi ra đi thì vẫn chưa chính thức.

Đương nhiên là cũng có nhiều người Utopia không chịu cấp nhận Cơ đốc giáo, nhưng họ cũng không chịu ngăn cản ai và cũng không tấn công ai định gia nhập tín ngưỡng của chúng ta. Nhưng có một thành viên trong giáo đoàn của chúng ta. Nhưng có một thành viên trong giáo đoàn của chúng tôi cũng gặp rắc rối ngay lúc tôi còn ở đó. Ngay sau khi thụ lễ đặt tên thánh, mặc dù chúng tôi đã nhắc nhở, ông này vẫn lập tức công khai rao giảng về đức tin Cơ đốc. Đáng nhẽ phải kín đáo, thì ông ta lại ồn ào lớn tiếng, và hăng hái đến mức thấy chỉ lớn tiếng về những ưu việt trong tín ngưỡng của chúng ta là chưa đủ, ông ta bắt đầu mặt sát lên án các tín ngưỡng khác. Ông ta gào đến vỡ giọng rằng mọi tín ngưỡng khác đều là mê tín và dị đoan hết, và tất cả những ai tin theo chúng đều là bọn quỷ vô đạo sẽ bị lửa địa ngục thiêu đốt mãi mãi. Cứ thế một thời gian, ông ta liền bị bắt và buộc tội, không phải tội báng bổ thần thánh mà là tội làm rối trật tự công cộng. Ông ta bị kết án phải lưu vong – vì một trong những nguyên lý lâu đời nhất trong hiến pháp của họ là khoan dung tín ngưỡng [2].

Nguyên lý này có từ thời lập quốc. Trước đó, các tín ngưỡng khác nhau và đang đánh lẫn nhau nhất định không chịu hợp tác chỉ vì tranh cãi không ngừng về tôn giáo của nhau. Khi Utopos biết được chuyện đó, ông hiểu ngay rằng đấy chính là nguyên nhân giúp ông chinh phục được tất cả bọn họ. và lập tức sau khi giành được chiến thắng, ông ra một đạo luật theo đó ai cũng được tự do thực hành tín ngưỡng mà mình thích và có quyền thuyết phục theo người khác theo đạo của mình, với điều kiện phải làm việc đó một cách im lặng và lễ phép, với những lập luận hợp lý. Nhưng nếu không thuyết phục được người ta thì cũng không được phép mạt sát các tôn giáo khác, hoặc dùng bạo lực, hoặc xâm phạm cá nhân. Hình phạt bình thường của việc quá khích trong các tranh cãi về tín ngưỡng là bị đày đi lưu vong hoặc giáng xuống làm nô lệ.

Utopos đặt ra luật lệ ấy không chỉ nhằm duy trì hòa bình, vẫn thường bị những xung đột tư tưởng và quyền lợi phá hoại, và còn vì ông tin rằng làm vậy là có lợi ích nhất cho tôn giáo. Ông không định nói rằng tín ngưỡng nào là đúng. Có vẻ như ông tin rằng Thượng đế đã tạo ra những con người khác nhau, bởi vì Ngài muốn được thờ phượng qua nhiều nẻo khác nhau vậy. Và rõ ràng là ông hoàn toàn tin rằng đe dọa ép buộc ai phải tin theo một tín ngưỡng nào đó là sự ngu xuẩn và ngạo mạn phải bị trừng trị. Có vẻ như ông thấy rất rõ là cho dù chỉ có một tín ngưỡng đích thực còn mọi thứ khác chỉ là vô nghĩa, chân lý ấy cũng sẽ chỉ tự nó hiển lộ nếu người ta biết tranh cãi về nó một cách ôn hòa và hợp lý. Nhưng nếu người ta cưỡng chế nó bằng vũ lực thì ngay cả thứ tín ngưỡng tốt đẹp nhất và tâm linh nhất cũng phải đầu hàng những hình thức dị đoan ngu xuẩn, hệt như ngô bị cỏ cây lấn át – vì người xấu xa nhất bao giờ cũng là người ngoan cố nhất.

Cho nên ông để ngỏ vấn đề lựa chọn tín ngưỡng cho mỗi cá nhân tự quyết định theo ý của riêng mình. Nhưng bên cạnh đó, ông nghiêm cấm dân chúng không được tin vào bất kì cái gì xa lạ với nhân phẩm, ví dụ như cho rằng linh hồn sẽ mất đi cùng thể xác, hoặc vũ trụ là bộ máy vô mục đích không có ai điều khiển. Chính vì vậy mà người Utopia ai cũng tin rằng sẽ có thưởng có phạt sau khi chết; và nếu có ai không tin như vậy thì người đó đã bị vứt bỏ quyền làm người và hạ linh hồn bất tử của chính mình xuống ngang hàng với nhục thể của loài cầm thú. Những người ấy bị coi là không xứng đáng làm một công dân Utopia. Họ nói một người như vậy đã thực lòng không coi lối sống Utopia là cái gì khác ngoài việc có thể bị buộc tội, và cũng không có hy vọng gì ở một kiếp khác sau khi chết, thì con người sẽ chỉ còn biết tìm cách tránh né và phá vỡ luật pháp của đất nước để mưu lợi cho riêng mình mà thôi. Cho nên hễ ai có tư tưởng ấy sẽ không bao giờ được xã hội trọng thị, không được đề cử trong bất kì một chức vụ gì, không được làm việc trong các công sở nhà nước. Những người như vậy thực sự không bị xã hội khinh rẻ.

Nhưng họ không bị trừng phạt dưới một hình thức nào cả, vì không ai phải chịu tội vì những tin tưởng của mình. Họ cũng không bị khủng bố đến nỗi phải che giấu quan điểm riêng, vì người Utopia cũng không chấp nhận thái độ giả dối vốn được coi là tương đương với hành động lừa đảo. Nếu những người này lớn tiếng biện hộ cho xác tín của mình trước công chúng, việc đó sẽ bị coi là bất hợp pháp. Nhưng trong những cuộc đàm luận riêng tư với các mục sư hoặc những người đứng đắn khác, họ hoàn toàn được phép, và còn được khuyến khích làm như vậy, vì mọi người đều tin rằng những tư tưởng lệch lạc kia sẽ có cơ hội được chân lý khuất phục nhờ những buổi đàm luận như vậy.

Quả thực, còn có một số người Utopia – mà có nhiều là đằng khác – thì lại theo những thuyết cực đoan trái ngược hoàn toàn với tư tưởng duy vật vừa nhắc ở trên. Tất nhiên là không có luật lệ gì ngăn cấm họ, bởi họ cũng có chút ít lý lẽ hẳn hoi và đều là những người tử tế. Những người này tin rằng cầm thú cũng có linh hồn bất tử, mặc dù là hạ cấp hơn chúng ta, và cũng được tạo ra để có hạnh phúc ở cấp thấp hơn. Còn với con người thì họ tin rằng sau khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc vô biên, cho nên không bao giờ khóc than vì tử biệt sinh ly, mà chỉ khóc thương vì bệnh tật ốm đau mà thôi. Họ còn coi thái độ dùng dằng bám víu cuộc sống một cách bệnh hoạn là dấu hiệu rất gở, vì chỉ có những linh hồn tội lỗi biết mình sẽ bị trừng phạt ở thế giới bên kia mới sợ hãi cái chết như vậy. Ngoài ra, họ còn nghĩ rằng Thượng đế sẽ chẳng hài lòng chút nào khi gọi ai mà người ấy không vui mừng chạy về với Ngài ngay, lại còn phải lôi kéo dẫn độ như thế. Cho nên một cái chết kiểu ấy sẽ làm họ rùng mình, và tang lễ sẽ lặng lẽ buồn thảm. Mọi người sẽ chỉ nói: “Xin Thượng đế rủ lòng thương xót linh hồn này và tha thứ cho sự yếu lòng của nó”. Rồi vùi lắp thi hài ấy.

Nhưng khi một người chết với tâm trạng lạc quan vui vẻ thì sẽ không ai than khóc. Họ vui mừng ca hát trong tang lễ, và thân ái dâng tụng linh hồn của người ấy lên Thượng đế. Cuối cùng, vì tôn lính hơn là vì thương tiếc, họ hỏa táng thi hài, rồi đánh dấu nơi ấy bằng một cột trụ có khắc văn bia. Sau đó họ về nhà và trò chuyện về tính cách và sự nghiệp của người quá cố, và không có gì trong cuộc đời của người ấy khiến họ bàn tán và sung sướng nhiều hơn là tâm trạng hạnh phúc lúc giã biệt cuộc sống của ông ta. Họ tin rằng gợi nhớ lại những phẩm chất tốt đẹp của người chết như thế là cách tốt nhất để khích lệ người sống noi theo, và cũng là để làm vui lòng người chết, vốn được tin là luôn luôn có mặt trong những câu chuyện như vậy, mặc dầu người trần mắt thịt không thể nào nhìn thấy. Nói cho cùng, hạnh phúc hoàn hảo bao hàm cả khả năng vi hành tuyệt đối tự do, và người còn sống ai cũng muốn tin rằng thân bằng gia quyến đã quá cố vẫn cứ về được với mình mỗi khi mong nhớ. Người Utopia cũng cho rằng lòng nhân hậu cũng như những đức tính tốt khác của một người chí thiện sẽ còn mênh mông hơn sau khi chết; và họ tin là người chết vẫn ở cùng với người sống và thấy hết mọi lời ăn tiếng nói, việc làm của người sống. Quả thực, họ coi người đã chết như những vị thần bảo hộ độ trì cho họ, và vì vậy mà vững tin hơn ở những việc phải làm mỗi khi gặp khó khăn trắc trở. Và ý thức về sự có mặt của tổ tiên và cũng giúp họ tránh được những hành vi xấu ngay khi chỉ có mình với mình.

Họ không để tâm gì đến điềm báo, bói toán hoặc những thói dị đoan mà dân chúng và các nước khác rất sùng tín. Họ coi đấy chỉ là những trò đùa. Nhưng họ rất tôn sùng các phép lạ không thể giải thích được bằng thiên nhiên, vì họ coi đó là bằng chứng của sự hiện diện và quyền năng của thượng đế. Họ nói những phép lạ như thế vẫn thường có ở Utopia. Và quả thực là những lúc gay go khủng hoảng, con dân cả nước đều cầu xin phép lẹ, và niềm tin của họ lớn đến độ đôi khi những lời nguyện ấy của họ đã được đáp ứng màu nhiệm.

Hầu hết người Utopia cảm thấy họ có thể làm hài lòng Thượng đế bằng cách nghiên cứu thấu đáo giới tự nhiên và ngợi ca Đấng Sáng tạo. Nhưng cũng có nhiều người lại mải mê theo đuổi tôn giáo chứ không phải tri thức. Họ không quan tâm tới khoa học – đơn giản là họ không có thời gian cho một việc như thế, vì họ tin rằng con đường duy nhất để có hạnh phúc sau khi chết là dành trọn cả cuộc đời để làm việc thiện mà thôi. Có người chăm sóc kẻ tàn tật. Có người đi làm đường, nạo vét sông ngòi, sửa chữa cầu cống, đào đất, xúc cát, đập đá, chặt cây, cưa gỗ, chuyên chở gỗ hoặc ngô vào thành phố. Tóm lại họ sống như nô bộc, và làm việc chăm chỉ hơn cả nô lệ, phục vụ cả cộng đồng lẫn tư nhân. Họ vui vẻ nhận làm tất cả những việc khó khăn, bẩn thỉu và nặng nhọc mà một người bình thường sẽ rất ngại phải làm, hoặc vì phải nhọc thân, hoặc chỉ vì không thích, hoặc sợ sẽ không bao giờ làm nổi. Cứ như thế, họ tạo điều kiện cho người khác được nhàn rỗi bằng cách tự mình làm việc không ngừng – và không bao giờ kể công đòi thưởng. Họ không bao giờ bới lông tìm vết nói xấu các lối sống của người khác, mà cũng không tự phụ khoe khoang về lối sống của mình. Cho nên họ càng sống như nô lệ bao nhiêu thì mọi người lại càng quý trọng họ bấy nhiêu.

Những người này nhóm thành hai giáo phái, và một trong số đó tin theo lối sống độc thân. Thành viên của giáo phái này hoàn toàn không tình dục, không ăn thịt hoặc bất kì một động vật nào. Họ chối bỏ mọi khoái lạc của cuộc đời này mà họ coi đều là tội lỗi, và chỉ mong mỏi ở đời sau. Họ cố vun đắp cho kiếp sau bằng cách đổ mồ hôi ở kiếp này, và không ngủ để tỉnh thức - chỉ có niềm hy vọng rằng kiếp sau có thể đến vào bất kì lúc nào mới có thể giữ cho họ hăng hái vui vẻ như vậy. Còn giáo phái kia, mặc dù cũng cần lao không kém, vẫn cho phép hôn nhân, với lý lẽ rằng niềm vui gia đình không có gì đáng ghét bỏ, và sinh con đẻ cái còn là nghĩa vụ của mỗi người đối với thiên nhiên cũng như tổ quốc. Họ không phải đối khoái lạc chừng nào chúng còn chưa can thiệp vào việc làm. Và theo nguyên lý ấy họ ăn rất nhiều thịt, vì họ nghĩ thức ăn này sẽ khiến họ làm việc được khỏe hơn. Họ thường được coi là có lý hơn so với giáo phái kia, mặc dù giáo phái kia được coi là nhiệt thành hơn. Tất nhiên, nếu những người theo giáo phái độc thân định biện hộ cho mình bằng những lý lẽ theo lôgíc, họ sẽ bị thiên hạ chê cười ngay. Nhưng vì họ công nhận rằng động cơ của họ hoàn toàn tín ngưỡng chứ không phải duy lý, nên mọi người đều rất kính trọng họ - vì người Utopia luôn thận trọng tránh những phán xét thô bạo trong vấn đề tín ngưỡng. Những người thuộc giáo phái này được gọi bằng tiếng địa phương là Buthrescae, có nghĩa là cực đoan trong tín ngưỡng.

Tất cả tu sỹ của họ đều cực kì cực ngoan đại, có nghĩa là họ rất ít tu sỹ. Mỗi thành phố có độ mười ba tu sỹ, hoặc tính cách khác là mỗi nhà thờ chỉa có một tu sỹ. Trong thời chiến thì bảy tu sỹ này sẽ theo quân đội ra mặt trận, thay thế bằng bảy tu sỹ tạm thời kia thì về nhà thờ của Đức Giám mục – cũng là một trong mười ba tu sỹ của thành phố ấy – và sẽ dần dần lần lượt được đưa về những nhà thờ mà vị tu sỹ ở đó vừa qua đời.

Tu sỹ là do toàn thể cộng đồng bầu ra bằng cách bỏ phiếu kín, hệ như bầu các chức sắc trong chính quyền, cốt để tránh hình thành những nhóm thế lực, và người trúng cử sẽ được các đồng nghiệp làm lễ đăng nhiệm. Tu sỹ có trách nhiệm cử hành các buổi lễ, tổ chức tôn giáo và giám sát đạo đức. Sẽ là chuyện rất xấu hổ nếu có ai vì bậy bạ mà bị giáo hội đưa ra tòa, hoặc bị tu sỹ khiển trách. Tất nhiên là trấn áp và trừng phạt tội ác là việc của ông Thị trưởng và các quan chức khác trong chính quyền. Các tu sỹ chỉ khuyên nhủ và cảnh báo mà thôi – mặc dù họ cũng có thể rút phép thông công của những người không chịu cảnh tỉnh, và đó là một hình phạt mà mọi người đều rất sợ. Bạn phải biết là một người bị rút phép thông công thì không những sẽ bị ô nhục và ngay ngáy hãi hùng trước sự giáng phạt của Thượng đế, mà ngay cả an toàn thân thể của người ây cũng bị đe dọa, vì nếu không nhanh chóng chứng minh được với các tu sỹ rằng mình đã hối cải, anh ta sẽ bị Hồi đồng Thành phố bắt giam và trừng trị vì vô đạo.

Các tu sỹ cũng có trách nhiệm giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên, nhấn mạnh rất nhiều đến cả đạo đức và kiến thức. Họ làm hết sức mình để đảm bảo rằng ngay từ thuở còn uốn nắn được, trẻ em đã được tiếp xúc với những tư tưởng đúng đắn về mọi chuyện – những tư tưởng đã được xây dựng cho đáo nhất để duy trì cấu trúc xã hội của họ. Nếu được thấm nhuần từ thời thơ ấu, những tư tưởng ấy sẽ phát huy trong suốt quãng đời trường thành và đóng góp đắc lực vào công cuộc bảo vệ chế độ, vốn chỉ thực sự lâm nguy khi đạo đức suy đồi từ mầm mống của những tư tưởng bậy bạ mà thôi.

Namtu sỹ được phép lấy vợ - vì chẳng có lý do gì để cấm một người đàn bà trở thành tu sỹ mặc dù họ ít khi được lựa chọn để làm việc này, và chỉ những góa phụ lớn tuổi mới đủ tiêu chuẩn làm tu sỹ. Thực tế là những bà vợ của các tu sỹ họp thành một tầng lớp ưu tú trong xã hội Utopia. Không có nhân vật tai mắt nào được tôn trọng hơn là tu sỹ. Đến mức nếu một tu sỹ phạm tội, ông ta vẫn không bị truy tố. Họ để mặt ông ta cho Thượng đế và lương tâm của chính mình, bởi lẽ, cho dù ông ta có làm chuyện gì đi nữa, họ vẫn thấy là sai nếu để cho người phàm mạo phạm một cá nhân đã dâng hiến mình như một con sinh đặc biệt cho Thượng đế. Họ thấy làm như thế chẳng khó khăn gì, vì các tu sỹ chỉ là một thiếu số rất nhỏ và tất cả đều đã được chọn lựa kỹ càng. Dù sao, rất khó có khả năng một người đã được chọn lựa từ một danh sách những cá nhân xuất sắc và hoàn toàn chỉ theo tiêu chí đạo đức lại có thể bỗng dưng trở thành người độc ác và đồi bại. Và thậm chí nếu ta phải chấp nhận khả năng ấy – bản tính con người là khó lường – thì một nhúm người chẳng có quyền chấp cháp gì ấy cũng khó có thể thành mối hiểm họa của cộng đồng. Họ giữ không cho số lượng tu sỹ tăng lên, để khỏi hạ thấp uy tín hiện nay của giáo sỹ, bằng cách vinh danh họ - nhất là khi nói rằng rất khó tìm được nhiều người thích hợp với một công việc đòi hỏi cao đến thế về mặt đức hạnh.

Giới tu sỹ Utopia có uy tín rất cao ở trong nước cũng như ngoài nước. Bằng chứng, tôi nghĩ cũng là lý do của chuyện này có thể thấy được từ những thực tề diễn ra trong chiến trận. Khi trận đánh đang tiếp diễn, các tu sỹ quỳ gối cách đó không xa với đầy đủ lễ phục, và giơ hai tay lên trời. Họ cầu nguyện cho hòa bình, cho một thắng lợi không phải đổ máu ở cả hai bên. Ngay khi quân lính của họ bắt đầu thắng thế, các tu sỹ chạy vội tới trận tiền và ngăn cản mọi bạo lực không cần thiết. Khi họ đã xuất hiện ở đó, một người lính đối phương có thể cứu mạng mình chỉ bằng cách kêu cứu họ, và nếu anh ta có thể chạm tay vào tà áo lễ của họ, thì cả tài sản của anh ta cũng sẽ được an toàn. Điều này khiến cho các tu sỹ được trọng vọng ghê gớm ở tất cả các nước, và cho họ một uy quyền chân chính lớn đến họ thường bảo vệ được tính mạng của cả lính mình lẫn của đối phương. Đôi khi, vào những thời điểm tuyệt vọng khi các lực lượng Utopia đang thoát lui toàn bộ và kẻ thù đang truy đuổi sau lưng để chém giết và cướp bóc, sự can thiệp của các giáo sỹ đã từng ngăn chặn những vụ tàn sát, ngăn không cho các chiến binh lăn xả vào nhau, và đem lại cho một kết cục hòa bình với những điều kiện bình đẳng. Con người của một tu sỹ Utopia được toàn thế giới coi là thiêng liêng và bất khả xâm phạm, ngay cả ở những dân tộc dã man và hoang dã nhất.

Họ có những lễ hội tôn giáo vào những ngày đầu tiên và cuối cùng của mỗi tháng và mỗi năm – và lịch của họ thì năm tính theo mặt trời và tháng tính theo tuần trăng. Trong ngôn ngữ của họ, những ngày đầu tiên ấy gọi là Khuyển Nhật, còn những ngày cuối cùng thì gọi là Hoàn Nhật N – hoặc còn gọi là Lễ Đầu và Lễ Cuối.

Nhà thờ của họ trong rất ấn tượng, không những vì chúng được xây dựng rất đẹp mà còn vì tầm vóc của chúng nữa. Bạn thấy đấy, vì có ít nhà thờ như vậy nên chúng phải có khả năng chứa được rất nhiều người. Tuy nhiên, tất cả chúng đều khá tối, và họ bảo tôi rằng đó là chính sách của họ chứ không phải lỗi kiến trúc. Các tu sỹ nghĩ rằng quá nhiều ánh sáng sẽ đễ làm cho người ta bị phân tán tư tưởng, còn trong cảnh tranh tối tranh sáng thì dễ tập trung hơn, và những cảm xúc tín ngưỡng sẽ mạnh mẽ hơn. Đương nhiên là những cảm xúc này của mỗi người mỗi khác, nhưng mặc dù theo những nẻo đường khác nhau, tất cả chúng đều sẽ quy tụ về một mối là thờ phụng Đấng Thánh Linh. Vì lý do đó, những gì ta nhìn thấy và nghe được trong nhà thờ của họ đều có thể đúng với tất cả mọi tôn giáo. Nghi lễ gì là đặc thù của những giáo phái riêng lẻ thì người ta cử hành ở nàh riêng, và các buổi lễ chung tại nhà thờ được lên lịch sao cho chúng không có ảnh hưởng gì đến các nghi lễ riêng đó.

Cũng trên nguyên lý ấy, nhà thờ của họ không có một hình ảnh gì của Thượng đế để mọi người được tự do tưởng đến Ngài theo cách mường tượng riêng của mình, theo với tín ngưỡng mà họ cho là thích hợp nhất với họ. Người ta cũng không xưng tụng Thượng đế bằng những danh tiếng đặc biệt, mà chỉ đơn giản gọi Ngài mà Mythras, một danh từ chung chỉ Đấng Tối thượng, cho dù Ngài là ai. Tương tự vậy, tất cả kinh sách ở nhà thờ đều được soạn để người của giáo phái và tín ngưỡng nào cũng có thể đọc và cầu nguyện cùng nhau mà không cảm thấy lạc lõng hoặc mâu thuẫn với những xác tín riêng của mình.

Họ nhịn ăn cả ngày trong các kỳ Lễ Cuối, và đến nhà thờ trong buổi hôm đó để cảm tạ Thượng đế đã cho họ được bình an cho đến tận cuối năm hoặc cuối tháng đó. Ngày hôm sau, tất nhiên lại là kì Lễ Đầu, họ gặp nhau tại nhà thờ vào buổi sáng để cầu nguyện cho một năm hoặc một tháng vừa bắt đầu ấy được thịnh vượng và hạnh phúc. Nhưng trước khi đến nhà thờ trong kỳ Lễ Cuối, các bà vợ đều quỳ gối trước chồng mình ở nhà, và con trai quỳ trước cha mẹ, để thú nhận mọi lỗi lầm sai phạm của mình và xin được tha thứ. Việc này giúp loại trừ tất cả những sân hận nhỏ nhặt vẫn thường bao phủ không khí gia đình và khiến cho mọi người đều có thể dự buổi lễ thiêng liêng tại nhà thờ với một tâm linh hoàn toàn trong sáng. Người ta coi việc đến dự lễ mà lòng còn đầy sân hận là một hành động báng bổ. Vì vậy, những ai còn cảm thấy oán giận người khác đều không dám đến nhà thờ cho đến khi họ đã làm lành với nhau vì sợ nếu không sẽ có thể bị tháng thần trừng phạt.

Khi bước vào nhà thờ, đàn ông sẽ sang bên phải và đàn bà sẽ sang bên trái. Người ta xếp cho các thành viên nam trong gia đình ngồi trước mặt gia phụ, còn nữ thì trước mặt gia mẫu. Như vậy, cử chỉ của mọi người đều được canh chừng bởi những người có trách nhiệm duy trì kỷ cương gia đình. Họ cũng cẩn thận xếp cho người trẻ nào cũng ngồi cạnh một người lớn tuổi hơn – vì nếu để cho trẻ ngồi riêng một chỗ, thể nào chúng cũng nghịch ngầm với nhau và cái lòng kính sợ Thượng đế, vốn là gốc của mọi hành vi chí thiện, sẽ không thể nào hun đúc nên trong bản tâm của chúng.

Họ không bao giờ dâng hiến con sinh, vì họ không thể tưởng tượng một Thượng đế lòng lành nào lại có thể vui thích với việc chết chóc và đổ máu. Họ nói Thượng đế ban sự sống cho muôn loài là vì Ngài muốn chúng được sống. Nhưng họ có thắp nhang và nhiều thứ hương liệu thơm tho khác, và đặc biệt là rất nhiều nến. Đương nhiên là họ biết rằng những thứ đó chẳng có ích gì cho Đấng Chí Thánh, nhưng cũng thấy chúng hoàn toàn là một hình thức dâng cúng vô hại, và cùng với các yếu tố khác của nghi lễ, đèn nến vì hương nhang có vẻ cũng có tác dụng đưa tư tưởng và tình cảm ngưỡng vọng Thượng đế của người ta lên cao hơn.

Toàn bộ giáo dân đều mặt áo trắng, còn giáo sỹ thì mặc áo lễ nhiều màu, may cắt rất đẹp, nhưng bằng toàn những nguyên liệu bình thường – thay vì các loại vải dệt bằng sợi vàng hoặc đính đầy các loại châu ngọc quý hiếm, chúng chỉ được trang điểm bằng lông chim các loại. Ấy vậy mà giá trị nghệ thuật của chúng còn vượt xa những thứ vật liệu đắc tiền nhất thế giới. Những loại lông chim ấy được xếp thành các hình biểu trưng cho những chân lý thiêng liêng, và các giáo sỹ đều giải thích cặn kẽ ý nghĩa của chúng để mọi người đều đến và không quên những ưu ái mà Thượng đế đã dành cho mình, những nghĩa vụ của mình đối với Thượng đế và với nhau.

Khi các giáo sỹ xuất hiện từ hậu điện trong bộ áo lễ như thế, toàn bộ cử tọa đều tôn kính cúi đầu chạm đất và không gian nhà thờ trở thành một cõi im lặng sâu thẳm làm rúng động lòng người đến nỗi ai cũng cảm thấy như có một hiện diện thần thánh thật sự vào lúc ấy. Một vài phút sau, giáo sỹ ra hiệu cho cử tọa đứng dậy. Rồi họ hát những bài thánh ca dâng lên Thượng đế theo nhạc đệm của nhiều nhạc cụ rất khác với các nhạc cụ của chúng ta. Hầu hết những nhạc cụ ấy đều có âm thanh ngọt ngào hơn, mặc dù có nhiều cái thì còn chưa thể so sánh được với những nhạc cụ Châu Âu. Nhưng âm nhạc của họ hơn hẳn chúng ta mọi phương diện. Trong cả thanh nhạc lẫn nhạc không lời, họ đều diễn đạt được những cảm xúc tự nhiên một cách tuyệt diệu. Âm thanh được tạo ra thuần nhị với cảm giác cho đến mức cho dù chủ đề của bản nhạc là nguyện cầu hay vui ca, là khích động hay tĩnh lặng, đau buồn hay giận dữ, dòng giai điệu của nó vẫn diễn đạt chính xác niềm cảm xúc ấy. Cho nên nhạc của họ đi sâu vào lòng người nghe và gây xúc động mãnh liệt.

Buổi lễ kết thúc với một bộ các bài kinh nguyện mà các giáo sỹ cùng đọc với toàn bộ cửa tọa. Lời nguyện được viết sao cho người nào cũng thấy những câu chữ ấy đúng với tín ngưỡng của riêng mình. Đại loại như sau:

“Kính lạy Đức Chí Tôn là người đã tạo ra con, cai quản con, và cho con mọi thứ tốt lành. Con xin cảm tạ Người vì những ân huệ Người đã ban cho con được sống trong một xã hội hạnh phúc nhất, được tin theo tín ngưỡng mà còn hy vọng là đích thật nhất. Nếu con sai, và nếu quả còn có những tín ngưỡng hoặc chế độ xã hội nào tốt đẹp hơn và xứng đáng hơn với Người, con cầu xin Người hãy thương xót con và cho con được biết, bởi con luôn sẳn sàng theo Người về bất kể cả phương nào. Nhưng nếu chế độ này của chúng con là điều tốt đẹp nhất, và tín ngưỡng của con đây là chánh tín nhất, xin hãy cho con được trung thành với cả hai, và đem cả nhân loại về với cùng một lối sống này, cùng một tín ngưỡng này – trừ phi sự đa dạng tín ngưỡng hiện nay cũng chính là một phần mục đích khôn lường của Người. Xin hãy cho con một cái chết nhẹ nhàng khi Người gọi con về với Người. Con không dám xin được về sớm hay muộn. Nhưng nếu đó là ý Người, con xin thà được theo về với Người ngay khi được gọi, cho dù có đau đớn đến đâu, còn hơn để những vui thú của cuộc đời trần thế này giữ chân con lâu quá mà phải ở xa Người”

---------

CHÚ THÍCH

(*) Tựa đề do triethoc.edu.vn đặt.

[1] Những mô tả về người Venalia tiếp theo đó cho thấy có lẽ More lấy người Thụy sỹ để làm mẫu cho dân tộc này. Người Thụy Sỹ nổi tiếng là những người lính đánh thuê có mặt trong hầu hết các đội quân châu Âu lúc bấy giờ. Trong thời gian từ 1456 đến 1715, có đến hơn một triệu lính đánh thuê Thụy Sỹ phục vụ trong quân đội.

[2] Mythras, hoặc Mithras, là tên thần ánh sáng của người Ba Tư (Persian). Tín ngưỡng Mithras có một vài tương đồng với đạo Cơ Đốc (các nghi lễ của nó có đặt tên thánh, nghi thức uống một thứ nước có trộn bột mì giống như nước thánh và bánh thánh) và rất phổ biến trong giới quân nhân La Mã. Những đền thờ Mithras đã được tìm thấy ở Northumberland, ở York, và mới đây là ở ngay London.

Nguồn: Thomas More. UTOPIA - địa đàng trần gian. Trịnh Lữ dịch và giới thiệu. Nxb. Hội nhà văn , 2006, tr. 172-191.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top