QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC THEO TRIẾT HỌC MAC - LENIN.
1. Vật chất
a. Phạm trù vật chất
Vật chất, (tiếng Latinh là materia) với nghĩa là chất, vật chất. Đây là phạm trù triết học đã có lịch sử hơn 2500 năm và kể từ khi xuất hiện, đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm xoay quanh phạm trù này. Cũng giống như các phạm trù khác, sự phát triển của phạm trù vật chất gắn liền với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Trong chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, có những quan niệm thô sơ, coi sự thống nhất trong tính nhiều hình, muôn vẻ và vô tận của các vật trong tự nhiên là điều hiển nhiên và tìm thấy sự thống nhất đó trong một vật hữu hình nhất định. Ở phương Đông, trường phái triết học Lôkayata cho rằng, bốn nguyên tố đất, nước, lửa và không khí tồn tại vĩnh viễn, không tự sinh ra và cũng không mất đi (bản nguyên). Thuyết Âm Dương cho rằng khởi thuỷ của mọi vật là Thái cực, từ đó sinh ra mọi vật (tự nhiên và xã hội), phân tán thì muôn phần khác nhau, thống nhất thì muôn phần là một. Thuyết Ngũ hành coi năm yếu tố kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ là những yếu tố khởi nguyên tạo nên mọi vật.
Ở Hy Lạp cổ đại, các nhà triết học duy vật như Talét (624-546 tr.c.n) cho rằng vật chất là nước; Anaximen (585-524 tr.c.n) coi là không khí; Hêraclít (540- 480 tr.c.n) coi là lửa; Anaximanđơrơ (610-540 tr.c.n) coi là Apâyrôn. Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại trong học thuyết về vật chất là thuyết nguyên tử của Lơxíp (500-440 tr.c.n) và học trò của ông là Đêmôcrít (460-370 tr.c.n). Các ông cho rằng nguyên tử là những hạt vật chất nhỏ nhất không thể phân chia được; là cái tạo ra mọi vật. Thuyết nguyên tử này (thường được gọi là thuyết nguyên tử cổ đại, tồn tại trong các hệ thống triết học duy vật mãi cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX) là một bước phát triển mới của chủ nghĩa duy vật trên con đường hình thành phạm trù vật chất với tính cách là một phạm trù triết học.
Trong chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỷ XVII-XVIII, do cơ học phát triển mạnh và chiếm ưu thế nên các quan niệm về thế giới (về vật chất) cũng mang tính cơ học. Niutơn (1642-1727) cho rằng khối lượng của các vật thể là bất biến, không phụ thuộc vào vận động nên đã đồng nhất khối lượng với vật chất, coi vận động của vật chất chỉ là vận động cơ học; còn nguồn gốc vận động của vật chất là do “cái hích đầu tiên” của Thượng đế.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các phát minh của vật lý học đã bác bỏ quan niệm đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất hoặc với thuộc tính của vật chất của các nhà triết học duy vật cổ đại và cận đại. Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X là sóng điện từ có bước sóng rất ngắn. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng sau khi bức xạ ra hạt Anpha, nguyên tố Urani chuyển thành nguyên tố khác. Năm 1897, Tôm xơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được rằng điện tử là một trong những thành phần tạo nên nguyên tử. Năm 1901, Kaufman đã phát hiện khối lượng của điện tử biến động và kết quả các thực nghiệm khoa học cho thấy khối lượng của các điện tử tăng lên khi vận tốc của điện tử tăng. Lợi dụng tình hình đó, chủ nghĩa duy tâm đã giải thích sai lệch những phát minh lớn của ngành vật lý; thậm chí các nhà khoa học “giỏi về khoa học nhưng kém cỏi về triết học” mang quan điểm duy vật siêu hình trượt vào quan điểm duy tâm. Họ cho rằng “vật chất (được họ đồng nhất với nguyên tử) tiêu tan mất”; chủ nghĩa duy vật đã mất chỗ dựa v.v. Điều này đòi hỏi khắc phục “cuộc khủng hoảng” phương pháp luận của vật lý; tạo đà cho phát triển tiếp theo của nhận thức duy vật biện chứng về vật chất, về những tính chất cơ bản của nó.
Phê phán tính siêu hình của chủ nghĩa duy vật, chống lại chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về vật chất và để làm rõ quan điểm của triết học của chủ nghĩa Mác về vật chất, trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909), V.I.Lênin, cho rằng không phải “vật chất tiêu tan” mà giới hạn hiểu biết của con người về vật chất bị “tiêu tan”; những phát minh vật lý trên đã chứng tỏ sự hiểu biết của con người về vật chất còn bị hạn chế. Đồng thời, ông nêu định nghĩa “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”[1].
Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Nội dung thứ nhất.
Vật chất là gì?
1) Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng vừa có tính cụ thể.
a) Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất- đó là đặc tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đây cũng là tiêu chí duy nhất để phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.
b) Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất bằng các giác quan của con người; chỉ có thể nhận thức được vật chất thông qua việc nghiên cứu các sự vật, hiện tượng vật chất cụ thể.
2) Vật chất là “thực tại khách quan” có đặc tính cơ bản là tồn tại không phụ thuộc vào các giác quan của con người. 3) Vật chất có tính khách thể- con người có thể nhận biết được vật chất bằng các giác quan.
Nội dung thứ hai.
Ý thức là gì? ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách quan. Bằng các giác quan của mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được thực tại khách quan; chỉ có những sự vật, hiện tượng của thực tại khách quan chưa được nhận biết biết chứ không thể không biết.
Nội dung thứ ba được suy ra từ hai nội dung trên để xác định mối quan hệ biện chứng giữa thực tại khách quan (vật chất) với cảm giác (ý thức). Vật chất (cái thứ nhất) là cái có trước, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức và quy định ý thức. Ý thức (cái thứ hai) là cái có sau vật chất, phụ thuộc vào vật chất và như vậy, vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức, là nguyên nhân làm cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên, ý thức tồn tại độc lập tương đối so với vật chất và có tác động, thậm chí chuyển thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng và được quần chúng vận dụng.
Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn
Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Về mặt thứ nhất, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục được quan điểm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cổ và cận đại). Về mặt thứ hai, định nghĩa khẳng định ý thức con người có khả năng nhận thức được thế giới vật chất (chống lại thuyết không thể biết và hoài nghi luận). Thế giới quan duy vật biện chứng xác định được vật chất và mối quan hệ của nó với ý thức trong lĩnh vực xã hội; đó là tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội, kinh tế quy định chính trị v.v tạo cơ sở lý luận cho các nhà khoa học tự nhiên, đặc biệt là các nhà vật lý vững tâm nghiên cứu thế giới vật chất.
Định nghĩa đưa lại phương pháp luận biện chứng duy vật của mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức. Theo đó, vật chất có trước ý thức, là nguồn gốc và quy định ý thức nên trong mọi hoạt động cần xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng các quy luật vốn có của sự vật, hiện tượng; đồng thời cần thấy được tính năng động, tích cực của ý thức để phát huy tính năng động chủ quan nhưng tránh chủ quan duy ý chí mà biểu hiện là tuyệt đối hoá vai trò, tác dụng của ý thức, cho rằng con người có thể làm được tất cả mà không cần đến sự tác động của các quy luật khách quan, các điều kiện vật chất cần thiết.
b. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, vận động là phương thức tồn tại; không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, "Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất,- tức được hiểu như là phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất,- thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy"[2]. Định nghĩa vận động trên đây thể hiện vận động là sự biến đổi nói chung và là phương thức tồn tại, là thuộc tính không tách rời của vật chất.
Định nghĩa trên về vận động khắc phục được quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình coi vận động của vật chất chỉ là sự chuyển dịch vị trí trong không gian; hoặc chỉ là vận động cơ học. Vì vậy, định nghĩa vận động của Ph.Ăngghen là cơ sở để chuyển quan niệm siêu hình về vận động sang quan niệm duy vật biện chứng về vận động. Ph.Ăngghen nhấn mạnh, các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ ra qua vận động, về một vật thể không vận động thì không có gì đáng nói cả. Như vậy, thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình; điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động và con người chỉ có thể nhận thức được vật chất khi nó vận động, không thể có vật chất không vận động cũng như không thể có vận động mà không có vật chất.
Các hình thức vận động cơ bản của vật chất. Theo Ph.Ăngghen, trong thế giới vật chất có vô vàn hình thức vận động, nhưng trong đó có năm hình thức vận động cơ bản nhất của vật chất; đó là vận động cơ học- sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian; vận động vật lý- sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt, điện v.v; vận động hoá học- sự vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá hợp và phân giải các chất; vận động sinh vật- sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường; vận động xã hội- sự thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế-xã hội. Năm hình thức vận động cơ bản này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Một hình thức vận động nào đó được thực hiện là do có sự tác động qua lại với nhiều hình thức vận động khác. Một hình thức vận động này luôn có khả năng chuyển hoá thành hình thức vận động khác, nhưng giữa chúng có sự khác nhau về chất nên không thể quy hình thức vận động này thành hình thức vận động khác. Mỗi một sự vật, hiện tượng có thể gắn với nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. Do vậy, cần nhận rõ sự thống nhất và khác nhau giữa các hình thức vận động; đặc biệt là các vận động phức tạp như vận động sinh học, vận động xã hội.
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ph.Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại, phân ngành; hợp loại, hợp ngành khoa học. Đồng thời đó còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình thức vận động khác.
Vận động và đứng im. Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng, trong sự vận động không ngừng đó có hiện tượng đựng im tương đối. Nếu không có sự đứng im tương đối này- hay còn gọi là vận động cân bằng- thì không có sự phân hoá thế giới vật chất thành các sự vật, hiện tượng phong phú và đa dạng. Ph.Ăngghen, trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên nhấn mạnh rằng, khả năng đứng im tương đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu cho sự phân hoá của vật chất. Nên hiểu hiện tượng đứng im chỉ xẩy ra đối với một hình thức vận động nào đó của vật chất trong một lúc nào đó và trong một quan hệ nhất định nào đó, còn xét đến cùng, vật chất luôn luôn vận động. Nếu vận động là sự tồn tại trong sự biến đổi của các sự vật, hiện tượng, thì đứng im tương đối là sự ổn định, là sự bảo toàn quảng tính của các sự vật, hiện tượng. Như vậy, đứng im là tương đối; tạm thời và là trạng thái đặc biệt của vật chất đang vận động không ngừng.
Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan đều có vị trí, hình thức kết cấu, độ dài ngắn, cao thấp của nó- tất cả các thuộc tính đó gọi là không gian và không gian biểu hiện sự cùng tồn tại và cách biệt giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, biểu hiện quảng tính, trật tự phân bố của chúng. Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong trạng thái không ngừng biến đổi, nhanh, chậm, kế tiếp nhau và chuyển hoá lẫn nhau- tất cả những thuộc tính đó gọi là thời gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất thể hiện ở độ lâu của sự biến đổi; trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái khác nhau trong thế giới vật chất; thời gian còn đặc trưng cho trình tự diễn biến của các quá trình vật chất, tính tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của quá trình đó. Tuy đều là hình thức tồn tại của vật chất, nhưng không gian và thời gian có sự khác nhau. Sự khác nhau đó nằm ở chỗ, không gian có ba chiều rộng, cao và dài; còn thời gian chỉ có một chiều trôi từ quá khứ tới tương lai.
Không gian, thời gian với vật chất vận động. Không có không gian, thời gian bên ngoài vật chất đang vận động mà chúng là những hình thức cơ bản của vật chất đang vận động. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen nhấn mạnh “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài thời gian cũng vô lý như tồn tại ngoài không gian”[3]. Thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể ở đâu ngoài không gian và thời gian[4]. Không gian và thời gian có tính khách quan; tính vĩnh cửu và vô tận-vô hạn.
c. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Vấn đề tính thống nhất của thế giới luôn gắn liền với cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Có hai khuynh hướng chính về vấn đề này. Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tinh thần là cái có trước, quy định vật chất thì tính thống nhất của thế giới nằm trong tính tinh thần của nó. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất; các sự vật, hiện tượng thống nhất với nhau ở tính vật chất. Điều này được thể hiện ở 1) Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều có tính vật chất là tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. 2) Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất; chúng đều mang đặc tính chung của vật chất (tồn tại vĩnh viễn, nghĩa là không bao giờ trở về số 0, không mất đi); đều được sinh ra từ vật chất (ý thức chẳng hạn). 3) Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn và vô tận. Trong thế giới đó không có gì khác ngoài vật chất đang vận động, biến đổi và chuyển hoá theo những quy luật khách quan chung của mình. 4) Tính thống nhất vật chất của thế giới thể hiện ở sự tồn tại của thế giới thông qua giới vô cơ, giới hữu cơ trong bức tranh tổng thể về thế giới duy nhất; giữa chúng có sự liên hệ tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau, vận động và phát triển. Các quá trình đó cho phép thấy đầy đủ sự thống nhất vật chất của thế giới trong các hình thức và giai đoạn phát triển, từ hạt cơ bản đến phân tử, từ phân tử đến các cơ thể sống, từ các cơ thể sống đến con người và xã hội loài người.
Quan điểm về bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới của chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ định hướng trong việc giải thích về tính phong phú, đa dạng của thế giới, mà còn định hướng nhận thức về tính phong phú, đa dạng ấy trong quá trình hoạt động cải tạo tự nhiên hợp quy luật.
2. Ý thức
Ý thức là một trong những phạm trù cơ bản của triết học, tâm lý học và xã hội học, dùng để chỉ tính tích cực ở mức độ cao nhất về tinh thần của con người với tính cách là một thực thể xã hội. Điểm đặc biệt của tính tích cực đó là sự phản ánh hiện thực khách quan trong dạng hình ảnh do cảm giác mang lại và đến lượt mình, ý thức định hướng hoạt động thực tiễn của con người. Triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, ý thức là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn ra trong não người, hình thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
a. Nguồn gốc của ý thức
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (yếu tố cần)
1) Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới hữu cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi đến con người- sinh vật-xã hội. Là tổ chức vật chất có cấu trúc tinh vi; chỉ khoảng 370g nhưng có tới 14-15 tỷ tế bào thần kinh liên hệ với nhau và với các giác quan tạo ra mối liên hệ thu, nhận đa dạng để não người điều khiển hoạt động của cơ thể. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ não càng hoàn thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài người cũng là quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi não bị tổn thương.
2) Sự phản ánh của vật chất là một trong những nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Mọi hình thức vật chất đều có thuộc tính phản ánh và phản ánh phát triển từ hình thức thấp lên hình thức cao- tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất. Phản ánh là sự tái tạo lại những đặc điểm, tính chất của dạng vật chất này (dưới dạng đã thay đổi) trong một dạng vật chất khác. Quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin, vật nhận tác động (cái phản ánh là cái chứa đựng thông tin về những sự vật, hiện tượng) mang thông tin của vật tác động (cái được phản ánh là những sự vật, hiện tượng cụ thể của vật chất) và đây là vấn đề quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
1. Vật chất
a. Phạm trù vật chất
Vật chất, (tiếng Latinh là materia) với nghĩa là chất, vật chất. Đây là phạm trù triết học đã có lịch sử hơn 2500 năm và kể từ khi xuất hiện, đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm xoay quanh phạm trù này. Cũng giống như các phạm trù khác, sự phát triển của phạm trù vật chất gắn liền với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Trong chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, có những quan niệm thô sơ, coi sự thống nhất trong tính nhiều hình, muôn vẻ và vô tận của các vật trong tự nhiên là điều hiển nhiên và tìm thấy sự thống nhất đó trong một vật hữu hình nhất định. Ở phương Đông, trường phái triết học Lôkayata cho rằng, bốn nguyên tố đất, nước, lửa và không khí tồn tại vĩnh viễn, không tự sinh ra và cũng không mất đi (bản nguyên). Thuyết Âm Dương cho rằng khởi thuỷ của mọi vật là Thái cực, từ đó sinh ra mọi vật (tự nhiên và xã hội), phân tán thì muôn phần khác nhau, thống nhất thì muôn phần là một. Thuyết Ngũ hành coi năm yếu tố kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ là những yếu tố khởi nguyên tạo nên mọi vật.
Ở Hy Lạp cổ đại, các nhà triết học duy vật như Talét (624-546 tr.c.n) cho rằng vật chất là nước; Anaximen (585-524 tr.c.n) coi là không khí; Hêraclít (540- 480 tr.c.n) coi là lửa; Anaximanđơrơ (610-540 tr.c.n) coi là Apâyrôn. Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại trong học thuyết về vật chất là thuyết nguyên tử của Lơxíp (500-440 tr.c.n) và học trò của ông là Đêmôcrít (460-370 tr.c.n). Các ông cho rằng nguyên tử là những hạt vật chất nhỏ nhất không thể phân chia được; là cái tạo ra mọi vật. Thuyết nguyên tử này (thường được gọi là thuyết nguyên tử cổ đại, tồn tại trong các hệ thống triết học duy vật mãi cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX) là một bước phát triển mới của chủ nghĩa duy vật trên con đường hình thành phạm trù vật chất với tính cách là một phạm trù triết học.
Trong chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỷ XVII-XVIII, do cơ học phát triển mạnh và chiếm ưu thế nên các quan niệm về thế giới (về vật chất) cũng mang tính cơ học. Niutơn (1642-1727) cho rằng khối lượng của các vật thể là bất biến, không phụ thuộc vào vận động nên đã đồng nhất khối lượng với vật chất, coi vận động của vật chất chỉ là vận động cơ học; còn nguồn gốc vận động của vật chất là do “cái hích đầu tiên” của Thượng đế.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các phát minh của vật lý học đã bác bỏ quan niệm đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất hoặc với thuộc tính của vật chất của các nhà triết học duy vật cổ đại và cận đại. Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X là sóng điện từ có bước sóng rất ngắn. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng sau khi bức xạ ra hạt Anpha, nguyên tố Urani chuyển thành nguyên tố khác. Năm 1897, Tôm xơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được rằng điện tử là một trong những thành phần tạo nên nguyên tử. Năm 1901, Kaufman đã phát hiện khối lượng của điện tử biến động và kết quả các thực nghiệm khoa học cho thấy khối lượng của các điện tử tăng lên khi vận tốc của điện tử tăng. Lợi dụng tình hình đó, chủ nghĩa duy tâm đã giải thích sai lệch những phát minh lớn của ngành vật lý; thậm chí các nhà khoa học “giỏi về khoa học nhưng kém cỏi về triết học” mang quan điểm duy vật siêu hình trượt vào quan điểm duy tâm. Họ cho rằng “vật chất (được họ đồng nhất với nguyên tử) tiêu tan mất”; chủ nghĩa duy vật đã mất chỗ dựa v.v. Điều này đòi hỏi khắc phục “cuộc khủng hoảng” phương pháp luận của vật lý; tạo đà cho phát triển tiếp theo của nhận thức duy vật biện chứng về vật chất, về những tính chất cơ bản của nó.
Phê phán tính siêu hình của chủ nghĩa duy vật, chống lại chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về vật chất và để làm rõ quan điểm của triết học của chủ nghĩa Mác về vật chất, trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909), V.I.Lênin, cho rằng không phải “vật chất tiêu tan” mà giới hạn hiểu biết của con người về vật chất bị “tiêu tan”; những phát minh vật lý trên đã chứng tỏ sự hiểu biết của con người về vật chất còn bị hạn chế. Đồng thời, ông nêu định nghĩa “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”[1].
Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Nội dung thứ nhất.
Vật chất là gì?
1) Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng vừa có tính cụ thể.
a) Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất- đó là đặc tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đây cũng là tiêu chí duy nhất để phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.
b) Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất bằng các giác quan của con người; chỉ có thể nhận thức được vật chất thông qua việc nghiên cứu các sự vật, hiện tượng vật chất cụ thể.
2) Vật chất là “thực tại khách quan” có đặc tính cơ bản là tồn tại không phụ thuộc vào các giác quan của con người. 3) Vật chất có tính khách thể- con người có thể nhận biết được vật chất bằng các giác quan.
Nội dung thứ hai.
Ý thức là gì? ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách quan. Bằng các giác quan của mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được thực tại khách quan; chỉ có những sự vật, hiện tượng của thực tại khách quan chưa được nhận biết biết chứ không thể không biết.
Nội dung thứ ba được suy ra từ hai nội dung trên để xác định mối quan hệ biện chứng giữa thực tại khách quan (vật chất) với cảm giác (ý thức). Vật chất (cái thứ nhất) là cái có trước, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức và quy định ý thức. Ý thức (cái thứ hai) là cái có sau vật chất, phụ thuộc vào vật chất và như vậy, vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức, là nguyên nhân làm cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên, ý thức tồn tại độc lập tương đối so với vật chất và có tác động, thậm chí chuyển thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng và được quần chúng vận dụng.
Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn
Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Về mặt thứ nhất, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục được quan điểm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cổ và cận đại). Về mặt thứ hai, định nghĩa khẳng định ý thức con người có khả năng nhận thức được thế giới vật chất (chống lại thuyết không thể biết và hoài nghi luận). Thế giới quan duy vật biện chứng xác định được vật chất và mối quan hệ của nó với ý thức trong lĩnh vực xã hội; đó là tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội, kinh tế quy định chính trị v.v tạo cơ sở lý luận cho các nhà khoa học tự nhiên, đặc biệt là các nhà vật lý vững tâm nghiên cứu thế giới vật chất.
Định nghĩa đưa lại phương pháp luận biện chứng duy vật của mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức. Theo đó, vật chất có trước ý thức, là nguồn gốc và quy định ý thức nên trong mọi hoạt động cần xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng các quy luật vốn có của sự vật, hiện tượng; đồng thời cần thấy được tính năng động, tích cực của ý thức để phát huy tính năng động chủ quan nhưng tránh chủ quan duy ý chí mà biểu hiện là tuyệt đối hoá vai trò, tác dụng của ý thức, cho rằng con người có thể làm được tất cả mà không cần đến sự tác động của các quy luật khách quan, các điều kiện vật chất cần thiết.
b. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, vận động là phương thức tồn tại; không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, "Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất,- tức được hiểu như là phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất,- thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy"[2]. Định nghĩa vận động trên đây thể hiện vận động là sự biến đổi nói chung và là phương thức tồn tại, là thuộc tính không tách rời của vật chất.
Định nghĩa trên về vận động khắc phục được quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình coi vận động của vật chất chỉ là sự chuyển dịch vị trí trong không gian; hoặc chỉ là vận động cơ học. Vì vậy, định nghĩa vận động của Ph.Ăngghen là cơ sở để chuyển quan niệm siêu hình về vận động sang quan niệm duy vật biện chứng về vận động. Ph.Ăngghen nhấn mạnh, các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ ra qua vận động, về một vật thể không vận động thì không có gì đáng nói cả. Như vậy, thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình; điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động và con người chỉ có thể nhận thức được vật chất khi nó vận động, không thể có vật chất không vận động cũng như không thể có vận động mà không có vật chất.
Các hình thức vận động cơ bản của vật chất. Theo Ph.Ăngghen, trong thế giới vật chất có vô vàn hình thức vận động, nhưng trong đó có năm hình thức vận động cơ bản nhất của vật chất; đó là vận động cơ học- sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian; vận động vật lý- sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt, điện v.v; vận động hoá học- sự vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá hợp và phân giải các chất; vận động sinh vật- sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường; vận động xã hội- sự thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế-xã hội. Năm hình thức vận động cơ bản này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Một hình thức vận động nào đó được thực hiện là do có sự tác động qua lại với nhiều hình thức vận động khác. Một hình thức vận động này luôn có khả năng chuyển hoá thành hình thức vận động khác, nhưng giữa chúng có sự khác nhau về chất nên không thể quy hình thức vận động này thành hình thức vận động khác. Mỗi một sự vật, hiện tượng có thể gắn với nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. Do vậy, cần nhận rõ sự thống nhất và khác nhau giữa các hình thức vận động; đặc biệt là các vận động phức tạp như vận động sinh học, vận động xã hội.
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ph.Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại, phân ngành; hợp loại, hợp ngành khoa học. Đồng thời đó còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình thức vận động khác.
Vận động và đứng im. Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng, trong sự vận động không ngừng đó có hiện tượng đựng im tương đối. Nếu không có sự đứng im tương đối này- hay còn gọi là vận động cân bằng- thì không có sự phân hoá thế giới vật chất thành các sự vật, hiện tượng phong phú và đa dạng. Ph.Ăngghen, trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên nhấn mạnh rằng, khả năng đứng im tương đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu cho sự phân hoá của vật chất. Nên hiểu hiện tượng đứng im chỉ xẩy ra đối với một hình thức vận động nào đó của vật chất trong một lúc nào đó và trong một quan hệ nhất định nào đó, còn xét đến cùng, vật chất luôn luôn vận động. Nếu vận động là sự tồn tại trong sự biến đổi của các sự vật, hiện tượng, thì đứng im tương đối là sự ổn định, là sự bảo toàn quảng tính của các sự vật, hiện tượng. Như vậy, đứng im là tương đối; tạm thời và là trạng thái đặc biệt của vật chất đang vận động không ngừng.
Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan đều có vị trí, hình thức kết cấu, độ dài ngắn, cao thấp của nó- tất cả các thuộc tính đó gọi là không gian và không gian biểu hiện sự cùng tồn tại và cách biệt giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, biểu hiện quảng tính, trật tự phân bố của chúng. Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong trạng thái không ngừng biến đổi, nhanh, chậm, kế tiếp nhau và chuyển hoá lẫn nhau- tất cả những thuộc tính đó gọi là thời gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất thể hiện ở độ lâu của sự biến đổi; trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái khác nhau trong thế giới vật chất; thời gian còn đặc trưng cho trình tự diễn biến của các quá trình vật chất, tính tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của quá trình đó. Tuy đều là hình thức tồn tại của vật chất, nhưng không gian và thời gian có sự khác nhau. Sự khác nhau đó nằm ở chỗ, không gian có ba chiều rộng, cao và dài; còn thời gian chỉ có một chiều trôi từ quá khứ tới tương lai.
Không gian, thời gian với vật chất vận động. Không có không gian, thời gian bên ngoài vật chất đang vận động mà chúng là những hình thức cơ bản của vật chất đang vận động. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen nhấn mạnh “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài thời gian cũng vô lý như tồn tại ngoài không gian”[3]. Thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể ở đâu ngoài không gian và thời gian[4]. Không gian và thời gian có tính khách quan; tính vĩnh cửu và vô tận-vô hạn.
c. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Vấn đề tính thống nhất của thế giới luôn gắn liền với cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Có hai khuynh hướng chính về vấn đề này. Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tinh thần là cái có trước, quy định vật chất thì tính thống nhất của thế giới nằm trong tính tinh thần của nó. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất; các sự vật, hiện tượng thống nhất với nhau ở tính vật chất. Điều này được thể hiện ở 1) Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều có tính vật chất là tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. 2) Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất; chúng đều mang đặc tính chung của vật chất (tồn tại vĩnh viễn, nghĩa là không bao giờ trở về số 0, không mất đi); đều được sinh ra từ vật chất (ý thức chẳng hạn). 3) Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn và vô tận. Trong thế giới đó không có gì khác ngoài vật chất đang vận động, biến đổi và chuyển hoá theo những quy luật khách quan chung của mình. 4) Tính thống nhất vật chất của thế giới thể hiện ở sự tồn tại của thế giới thông qua giới vô cơ, giới hữu cơ trong bức tranh tổng thể về thế giới duy nhất; giữa chúng có sự liên hệ tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau, vận động và phát triển. Các quá trình đó cho phép thấy đầy đủ sự thống nhất vật chất của thế giới trong các hình thức và giai đoạn phát triển, từ hạt cơ bản đến phân tử, từ phân tử đến các cơ thể sống, từ các cơ thể sống đến con người và xã hội loài người.
Quan điểm về bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới của chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ định hướng trong việc giải thích về tính phong phú, đa dạng của thế giới, mà còn định hướng nhận thức về tính phong phú, đa dạng ấy trong quá trình hoạt động cải tạo tự nhiên hợp quy luật.
2. Ý thức
Ý thức là một trong những phạm trù cơ bản của triết học, tâm lý học và xã hội học, dùng để chỉ tính tích cực ở mức độ cao nhất về tinh thần của con người với tính cách là một thực thể xã hội. Điểm đặc biệt của tính tích cực đó là sự phản ánh hiện thực khách quan trong dạng hình ảnh do cảm giác mang lại và đến lượt mình, ý thức định hướng hoạt động thực tiễn của con người. Triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, ý thức là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn ra trong não người, hình thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
a. Nguồn gốc của ý thức
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (yếu tố cần)
1) Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới hữu cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi đến con người- sinh vật-xã hội. Là tổ chức vật chất có cấu trúc tinh vi; chỉ khoảng 370g nhưng có tới 14-15 tỷ tế bào thần kinh liên hệ với nhau và với các giác quan tạo ra mối liên hệ thu, nhận đa dạng để não người điều khiển hoạt động của cơ thể. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ não càng hoàn thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài người cũng là quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi não bị tổn thương.
2) Sự phản ánh của vật chất là một trong những nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Mọi hình thức vật chất đều có thuộc tính phản ánh và phản ánh phát triển từ hình thức thấp lên hình thức cao- tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất. Phản ánh là sự tái tạo lại những đặc điểm, tính chất của dạng vật chất này (dưới dạng đã thay đổi) trong một dạng vật chất khác. Quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin, vật nhận tác động (cái phản ánh là cái chứa đựng thông tin về những sự vật, hiện tượng) mang thông tin của vật tác động (cái được phản ánh là những sự vật, hiện tượng cụ thể của vật chất) và đây là vấn đề quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.