• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Chia Sẻ Phong trào cách mạng dân tộc ở Việt Nam trong những năm 1925-1929

Trang Dimple

New member
Xu
38
1. Khởi nghĩa Yên Bái

Từ đầu tháng 2 năm 1929, nhân vụ án Badanh, thực dân Pháp ra sức truy lùng, bắt bớ những người yêu nước và phá vỡ hàng loạt các cơ sở cách mạng của Việt Nam quốc dân đảng ở Hà Nội và các tỉnh. Số phận của VNQDĐ đang mấp mé bên bờ vực thẳm.

Trước tình thế nguy cấp, những người lãnh đạo Tổng bộ cho rằng không thể cứ ngồi yên chịu chết, mà phải đứng lên sống mái với quân thù. Từ cách nhìn nhận đó, Nguyễn Thái Học đã quyết định triệu tập hội nghị đại biểu toàn quốc của VNQDĐ ngày 17-9-1929 tại Lạc Đạo (Hải Dương) để bàn bạc và thống nhất kế hoạch khởi sự. Trong hội nghị này, xuất hiện hai phái: Phái cải tổ(l) và phải khởi nghĩa. Phái chủ trương khởi nghĩa do Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu đứng đầu chiếm ưu thế trong hội nghị. Tiếp theo hội nghị đại biểu toàn quốc, VNQDĐ còn tổ chức một cuộc họp nữa ở Bắc Ninh để hoạch định thời gian và phương thức tiến hành khởi nghĩa. Theo kế hoạch đã được thống nhất, VNQDĐ sẽ tổ chức khởi nghĩa ở các nơi và cùng lúc đánh vào các đô thị lớn là những trung tâm quân sự của Pháp. Lực lượng khởi nghĩa chủ yếu gồm anh em binh lính là người của Đảng trong quân đội của Pháp, đồng thời phối hợp với lực lượng của Đảng ở bên ngoài. Vũ khí một phần do các cơ sở của Đảng chế tạo phần còn lại phải cướp từ tay giặc. Thời gian khởi nghĩa ấn định vào ngày 9-2-1930. Theo phân công của Đảng, Nguyễn Thái Học trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ở ba tỉnh đồng bằng: Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An; còn Nguyễn Khắc Nhu chịu trách nhiệm tố chức cuộc khởi nghĩa ở ba tỉnh trung du Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Bái.

Sau hai hội nghị ở Lạc Đạo và Bắc Ninh, công tác chuẩn bị khởi nghĩa được triển khai và đẩy mạnh ở các địa phương. Các xưởng chế bom được lập ra tại các tỉnh Bắc Ninh, Phú Thọ, Hải Dương, và đã sản xuất được hàng nghìn quả bom xi măng. Ngoài ra, VNQDĐ còn tổ chức rèn dao, kiếm, mã tấu và đưa đi cất giấu Ở những nơi kín đáo chờ ngày khởi sự. Các cơ sở may cờ, quân phục và in truyền đơn cũng làm việc liên tục ngày đêm.

Giữa lúc công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa đang được tiến hành khẩn trương thì một số biến cố đã xảy ra, gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động của VNQDĐ. Điển hình là vụ nổ bom do sơ suất khi chế tạo đã làm chết 3 đảng viên VNQDĐ ở Bắc Ninh (ngày 8-9-1929), và nhất là vụ phản bội của Phạm Thành Dương (tức Đội Dương) ngày 25-12-1929 tại hội nghị Võng La (Phú Thọ) . Những sự cố này đã buộc Pháp cảnh giác, tăng cường các cuộc lùng sục, khủng bố, đẩy VNQDĐ đến nguy cơ khởi nghĩa non.

Để đối phó với tình hình, ngày 26-1-1930, Nguyễn Thái Học lại triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại làng Mỹ Xá (Nam Sách, Hải Dương) để khẳng định lại chủ trương khởi nghĩa, đồng thời kiểm tra và thúc đẩy tiến độ thực hiện các công việc chuẩn bị khởi nghĩa. Trên cơ sở phần tích tình hình của Đảng, Nguyễn Thái Học nhận xét: "Đảng chúng ta (tức VNQDĐ - TG) có thể tiêu ma hết lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã chen vào đầu óc quần chúng khiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng thì phong trào cách mạng có thể nguội lạnh như đám tro tàn, rồi người của Đảng cũng sẽ liên tiếp bị bắt dẩn, vô tình đã xô đẩy anh em vào cái chết lạnh lùng mòn mỏi ở các phòng ngục trại giam, âu là chết đi để thành cái gương phấn đấu cho người sau nối bước. Không thành công thi cũng thành nhân"(l).

Căn cứ vào kết quả chuẩn bị khởi nghĩa ở các địa phương, Nguyễn Thái Học đã bàn bạc với các đổng chí, quyết định hoãn thời gian khởi nghĩa tại ba tỉnh miền xuôi đến ngày 15-2-1930.

Đúng như kế hoạch đã định, đêm ngày 9 rạng ngày 10-2-1930, cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ ở Yên Bái. Quân khởi nghĩa đã chiếm được trại lính cơ số 5 và 6, giết được một số sĩ quan và hạ sĩ quan người Pháp. Nhưng họ vẫn không lôi kéo được toàn bộ lính khố xanh, và không làm chủ được tình hình chiến sự ở Yên Bái.

Sáng ngày 10-2, Pháp tập trung lực lượng (có máy bay yểm trợ) tố chức phản công chiếm lại các căn cứ bị mất, đẩy nghĩa quân vào tình trạng tan rã.

Tại Lâm Thao (Phú Thọ), nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Phạm Nhận đã nhất loạt nổ súng và nhanh chóng chiếm được huyện đường. Tri phủ Đỗ Kim Ngọc bỏ trốn. Nghĩa quân treo cờ và đốt lửa báo tin thắng lợi.

Cũng đêm 9-2-1930, Nguyễn Khắc Nhu dẫn một toán nghĩa quân đến đánh đồn Hưng Hóa, nhưng không đạt kết quả. Sáng hôm sau, quân Pháp từ Phú Thọ kéo lên phản công quyết liệt, quân khởi nghĩa bị đánh tan, Nguyễn Khắc Nhu bị thương sau đó bị bắt, rồi tự sát để giữ tròn khí tiết .

Tại Sơn Tây, cuộc tấn công đánh đốn chùa Thông cũng không giành được thắng lợi do kế hoạch khởi nghĩa bị lộ. Sáng ngày 10-2, người phụ trách có khởi nghĩa ở đây là Phó Đức Chính đã bị bắt.

Sau khi các cuộc nổi dậy ở các tỉnh miền ngược do Nguyễn Khắc Nhu đã thất bại thì tại các tỉnh miền xuôi kế hoạch khởi nghĩa mới bắt đầu được triển khai. Đêm ngày 14 rạng 15 tháng 2 năm 1930, VNQDĐ đã nổi dậy khởi nghĩa ở Phả Lại, Vĩnh Bảo (Hải Dương), Kiến An và Phụ Dực (Thái Bình), nhưng đều không thu được kết quả.

Tại Vĩnh Bảo, dưới sự chỉ huy của Trần Quang Diệu, nghĩa quân đã từ Cổ Am kéo lên đánh phá huyện đường, giết tri huyện Hoàng Gia Mô, rồi tự giải tán: ở Phụ Dực nghĩa quân đánh chiếm phủ huyện, đốt hết giấy tờ sổ sách, sau đó tự giải tán.

Tại Kiến An, do kế hoạch khởi nghĩa bị lộ, thực dân Pháp đã tức thời bắt giam toàn bộ số lính khố đỏ, và tố chức canh phòng cẩn mật. Biết không thể khởi nghĩa thắng lợi, nghĩa quân nhanh chóng tự giải tán trước khi bi quân Pháp phản công.

Riêng ở Hà Nội, ngay đêm nổ ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái (10-2), một số đảng viên VNQDĐ (đều là học sinh trường Bách Nghệ) đã ném bom vào nhà tên Giám đốc sở mật thám ác nu (Arnoux ), vào nhà tù Hỏa Lò và Sở cảnh sát. Nhưng các vụ ném bom này ít gây tổn hại cho Pháp, không có tiếng vang lớn trong dân chúng.

Như vậy, chỉ trong vòng một tuần lễ, cuộc khởi nghĩa vũ trang quy mô lớn do VNQDĐ phát động đã bùng nổ ở nhiều nơi và mau chóng đi tới thất bại. Cuộc khởi nghĩa tuy không đạt được kết quả (do công tác tổ chức thiếu chu đáo, kế hoạch rất chủ quan, còn Pháp thì đang mạnh), nhưng đã có tiếng vang cả trong và ngoài nước. Tại Thủ đô Paris (Pháp), sinh viên và Việt kiều đã tổ chức biểu tình ủng hộ khởi nghĩa Yên Bái và chống việc khủng bố các chiến sĩ VNQDĐ.

Khởi nghĩa Yên Bái với những hành động quả cảm của các nghĩa quân VNQDĐ đã thể hiện tinh thần yêu nước, chí khí quật cường của dân tộc ta, góp phần thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong các tầng lớp nhân dân. Từ đó, thấy rõ mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Pháp đã trở nên vô cùng gay gạt.

Tuy nhiên, thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái cũng chứng tỏ sự bồng bột, hăng hái nhất thời của tầng lớp tiểu tư sản. Đó cũng là thất bại của giai cấp tư sản dân tộc trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam

Đồng chí Lê Quẩn - nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: "Khởi nghĩa Yên Bái chi là một 'cuộc bạo động bất đắc dĩ, một cuộc bạo động non, để rồi chết luôn không bao giờ ngóc lên nổi. Khẩu hiệu “Không thành công thì thành nhân" biểu lộ tính chất hấp tấp tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất thời và đồng thời cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư sản.

Từ sau cuộc bạo động Yên Bái, VNQDĐ hoàn toàn tan rã, khuynh hướng cách mạng dân tộc hoàn toàn thất bại, hệ tư tưởng tư sản cũng hoàn toàn bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Ngọn cờ cách mạng đã chuyển hẳn sang tay giai cấp vô sản. Từ đây trở đi, trên dải đất Việt Nam, phong trào chống đế quốc, giành độc lập dân tộc chỉ là những phong trào do giai cấp vô sản lãnh đạo".


2.Sự xuất hiện các tổ chức cộng sản

Phong trào công nhân cuối những năm 20 phát triển không đồng đều, mạnh nhất là phong trào công nhân ở Bắc Kỳ, bởi ở đây có đông hội viên và trong hoạt động thực tiễn có nhiều sáng tạo. Phong trào "vô sản hóa" cũng được phát sinh từ đây và đã góp phần đẩy nhanh quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Từ thực tiễn sinh động đó, những ng¬ười lãnh đạo trong Kỳ bộ '' Bắc Kỳ những học trò xuất sắc của Nguyễn ái Quốc, đã nắm bắt được đòi hỏi '' của phong trào, nhận ra sự cấp thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản thay cho HVNCMTN để tiếp tục đưa phong trào giải phóng dân tộc tiến lên.

Tháng 3-1929, Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu, Đỗ Ngọc Du, Dương Hạc Đính và Nguyễn Tuân, họp tại ngôi nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội) đã quyết định lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên nhóm làm đầu tàu cho cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Ở Việt Nam.

Tại Đại hội đầu biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ họp vào cuối tháng 3-1929 trong đồn điền Bô ren (Sơn Tây) đã nhất trí thông qua chủ trương lập Đảng Cộng sản thay cho HVNCMTN đã hết vai trò lịch sử và cử một đoàn đại biểu gồm 4 đồng chí do Trần Văn Cung, Bí thư Kỳ bộ, dẫn đầu đi dự Đại hội I của Hội VNCMTN sẽ họp ở Hương Cảng. Đại hội cũng giao cho đoàn đại biểu của mình có nhiệm vụ '' đấu tranh khẳng định xu thế thành lập Đảng Cộng sản của Kỳ bộ mình tại Đai '' hội I Hội VNCMTN. 1 Đầu tháng 5-1929, tại Đại hội I của HVNCMTN, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã đưa ra đề nghị giải tán tổ chức Thanh niên và thành lập Đảng Cộng sản. Nhưng đề nghị đó không được chấp nhận, nên Đoàn đã bỏ đại hội ra về.

Sau khi về tới Hà Nội, ngày 1-6-1929, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã ra Tuyên ngôn giải thích lý do họ bỏ Đại hội ra về và chỉ ra những điều kiện khách quan và chủ quan đã chín muồi để thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân.

Đêm 17-6-1929, 20 đại biểu ưu tú của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã nhóm họp từ ngôi nhà 312 phố Kham Thiên (Hà Nội) tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản đảng. Hội nghị đã thông qua Tuyên ngôn, Điểu lệ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận của Đảng. Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản đảng xác định rõ tính chất của Đảng : "Đông Dương Cộng sản đảng là Đảng cách mạng, đại biểu cho tất cả anh chị em vô sản giai cấp (tức thợ thuyền) ở Đông Dương. Đảng Cộng sản là đảng bênh vực cho toàn thế giới vô sản giai cấp, nhưng chỉ gồm những người nào giác ngộ cách mạng, tiên tiến hơn cả trong giai cấp vô sản".

Cùng với công tác tuyên truyền, Đông Dương Cộng sản đảng đã cử người vào Trung Kỳ và Nam Kỳ tuyên truyền và tổ chức các cơ sở Đảng Ở các địa phương đó. Trước ảnh hưởng sâu rộng của Đông Dương Cộng sản đảng, Tổng bộ Thanh niên và Kỳ bộ Nam Kỳ đã quyết định thành lập An Nam Cộng .sản đảng vào tháng 8-1929(7), xuất bản báo ĐỎ làm cơ quan ngôn luận của mình.

Cùng với quá trình phân hóa trong HVNCMTN dẫn tới sự ra đởi của hai tổ chức cộng sản, khuynh hướng tư tưởng xã hội chủ nghĩa ngày càng thắng thế trong Tân Việt Cách mạng đảng. Các đại biểu cấp tiến của Tân Việt đã nhóm họp tại Sài Gòn vào tháng 9-1929, ra "Tuyên đạt" tuyên bố chính thức thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn và sẽ cùng Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng "1iên hợp thành một tổ chức cộng sản ở Đông Dương để cho sức mạnh cộng sản vững chắcvà duy nhất". Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở nửa sau năm 1929 khẳng định hệ tư tưởng cộng sản đã chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc ở Việt Nam.

3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Sau khi ra đời, ba tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính. Trong quá trình phát triển tổ chức của mình, các đảng cộng sản không thể không tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân, và không tránh khỏi công kích lẫn nhau. Tình hình đó sớm muộn sẽ gây ra sự chia rẽ trong phong trào công nhân, dẫn đến sự tổn thất cho phong trào cách mạng. Một đòi hỏi khách quan là phải thống nhất các tổ chức cộng sản lại làm một. Vì vậy, ngày 27-10-1929 Quốc tế Cộng sản đã gửi một lá thư, như một chỉ thị cho những ng¬ười cộng sản Đông Dương, trong đó yêu cầu các tổ chức cộng sản phải chấm dứt sự chia rẽ, công kích lẫn nhau và tích cực xúc tiến việc hợp nhất thành một đảng duy nhất ở Đông Dương. Thực hiện chỉ thị đó của Quốc tế Cộng sản, Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng đã cử những đại diện của mình, tiến hành những cuộc tiếp xúc bàn việc hợp nhất, nhưng không thành.

Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cộng sản trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng Ở Đông Dương Nguyễn Ái Quốc đã tới Hương Cảng (Trung Quốc) để triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất.

Hội nghị hợp nhất gồm hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu dưới sự chủ trì của Nguyễn ái Quốc, đã họp ở Cửu Long Hương Cảng (Trung Quốc). Tại phiên họp ngày 3-2-1930, các đại biểu đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt(8). Trong các văn kiện chủ yếu trên, Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định là 'đội tiền phong của vô sản giai cấp" chủ trương tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Đồng thời, qua các văn kiện đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cho mình nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, thành lập chính phủ công nông binh, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc phong kiến chia cho nông dân nghèo, quốc hữu hoá các sản nghiệp, mở mang sản xuất, thực hiện các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng nam nữ, thi hành luật ngày làm việc 8 giờ ...

Để thực hiện được mục tiêu chiến lược trên, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tập hợp được đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo được quần chúng, phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vào hạng dân cay nghèo. Đồng thời phái “hết sức liên lạc với tiểu tư sản trí thức, trung nông... để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nữa là làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ".

Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do Nguyễn ái Quốc khởi thảo và thông qua tại Hội nghị hợp nhất là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng một cương lĩnh cách mạng đúng đắn và sáng tạo.

Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24-2-1930 theo đề nghị của Đông Dương cộng sản liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấp nhận hợp nhất tổ chức này vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, việc hợp nhất các tổ chức cộng sản đến cuối tháng 2 năm 1930 mới hoàn tất.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-lênin tư tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành và đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thông qua đội tiền phong của mình, giai cấp công nhân có sứ mệnh lãnh đạo toàn thể nhan dân tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tới thắng lợi. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước lừ cuối thế kỷ trước. Sự ra đời của Đảng chính là sự chuẩn bị nhân tố quan trọng đầu tiên cho những thắng lợi tiếp sau. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là bước ngoặt lịch sử quan trọng trong lịch sử nước ta.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, dưới tác động của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai, đất nước ta đã có những biến chuyển mạnh mẽ trên phương diện kinh tế và xã hội. Từ đó, phong trào dân tộc cũng có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong những năm 20 của thế kỷ này, các giai tầng xã hội đã bước lên vũ đài chính trị với những đòi hỏi, yêu cầu và những hành động cách mạng riêng, tùy thuộc vào mối quan hệ của mình đối với chính quyền thực dân, tùy thuộc vào vị thế của mình trong kết cấu giai cấp của xã hội thuộc địa. Phong trào dân tộc sau chiến tranh có những chuyển biến mới trong nội dung và phong phú về các hình thức biểu hiện. Và cuối cùng, lịch sử đã chứng kiến sự bất lực của hệ tư tưởng dân chủ tư sản trước nhiệm vụ cứu nước và chứng kiến sự chuyển giao ngọn cờ giải phóng vào tay giai cấp công nhân với đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
 
Sự xuất hiện và hoạt động của ba tổ chức cách mạng

Phong trào dân tộc ở Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã phát triển sôi nổi, trong đó mỗi giai tầng đều tung ra những đòi hỏi khác nhau đối với chính quyền thực dân. Trước khí thế của phong trào, thực dân Pháp đã tự lột mặt nạ, dùng vũ lực đàn áp phong trào lấy không của nhân dân ta. Cuộc đàn áp, khủng bố đó về khách quan đã đẩy một bộ phận lớn những người yêu nước cố kết với nhau trong các tổ chức cách mạng. Vì thế, dần dần xuất hiện 3 tổ chức cách mạng : hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Tân Việt cách mạng đảng Việt Nam quốc dân đảng. Sự ra đời của các tổ chức cách mạng này đánh dấu một bước tiến dài trong phong trào dân tộc.

1 Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
Sự ra đời của tổ chức cách mạng nay gắn liền với hoạt động của Nguyễn ái Quốc tại Quang Châu (Trung Quốc). Rời Mátxcơva, tháng 1 1-1924, Nguyễn ái Quốc đến Quảng Châu. Sau khi hợp thức hóa công việc của mình trong Phái bộ Bôrôđin, Người bắt đầu tiếp xúc với những người yêu nước Việt Namđang hoạt động. Ở đây, đặc biệt với tổ chức Tâm Tâm xã. Người đã lựa chọn một số thanh niên tích cực trong tổ chức nay, tuyên truyền giác ngộ họ và tháng 2- 1 925 lập ra nhóm Cộng sản đoàn làm hạt nhân cho một tổ chức cách mạng rộng lớn hơn. Tháng 6-1925 Nguyễn ái Quốc( thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên niên (HVNCMTN). Tháng 7 năm đó, Người cùng với một số nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Inđônêxia ... lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức và đưa Hội VNCMTN vào trong hiệp hội quốc tế này. Sau khi thành lập, Hội công bố Chương trình, Điều lệ, tuyên bố lập trường chính trị, nguyên tắc tổ chức và tiến hành hoạt động.
Trong đường lối chính trị của HVNCMTN có những nội dung chủ yếu sau đây:
- Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, tiếp đó là cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Thành lập chính phủ công nông binh, thực hiện chính sách phát triển sản xuất, xoá bỏ tư bản, xây dựng xã hội cộng sản ở Việt Nam và trên thế giới, trước mặt là chia ruộng đất cho dân cày, bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác, thực hiện ngay làn tám giờ, quyền tự do dân chủ, quyền nam nữ bình đẳng.
- Đoàn kết với giai cấp vô sản và phong trào cách mạng thế giới.
Về tổ Chức, Hội tổ chức một hệ thống gồm 5 cấp : Tổng bộ, Xứ (kỳ) bộ, Tỉnh (thành) bộ, Huyện bộ và Chi bộ; hoạt động theo nguyên tắc tập trung, dân chủ.
Như vậy, HVNCMTN chưa phải là Đảng Cộng sản, nhưng đường lối chính trị, chương trình hành động và điều lệ của Hội đã thể hiện rõ lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Thông qua tổ chức cách mạng này, Nguyễn ái Quốc muốn xúc tiến thêm một bước việc chuẩn bị về chính trị tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Sau khi thành lập, hoạt động HVNCMTN tập trung vào các hướng sau đây:
Đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng được tiến hành theo 2 phương thức: tự mở lớp và gửi học sinh đi học.
Ở phương thức đầu, từ năm 1925 đến đầu năm 1927, Hội đã liên tục mở nhiều khóa huấn luyện chính trị cho thanh niên yêu nước học. Nguyên ái Quốc cho biết đã đưa được 75 thanh niên Việt Nam đến học ở trường do Người tổ chức ở Quảng Châu.(5) Nội dung học tập khá rộng. Học viên được truyền thụ về lịch sử tiến hóa nhân loại, các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, về phong trào giải phóng dân tộc, về phương pháp cách mạng, về Cách mạng tháng Mười Nga, về lịch sử các tổ chức Quốc tế I, II, III. Tại các khóa học, học viên còn được huấn luyện kỹ năng hoạt động bí mật như diễn thuyết, làm báo và công tác dân vận. Kết thúc các khóa học, học viên được kết nạp vào Hội, được cử về nước và sang Xiêm hoạt động. Họ trở thành những người cổ động, tuyên truyền và tổ chức cho khuynh hướng cách mạng mới.
Ngoài việc mở các lớp huấn luyện, Nguyễn ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên xuất sắc gửi đi học Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản Ở Mátxcơva như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Hà Huy Tập ... và Trường Quân sự Hoàng Phố của Chính phủ cách mạng Quảng Châu như Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn, Trương Văn Lĩnh v.v...
Cùng với việc đào tạo, Hội rất chú trọng tới việc xuất bản báo chí, sách vở làm phương tiện tuyên truyền đường lối của Hội trong quần chúng nhân dân lao động. Nói đến báo chí, trước hết phải kể tới tờ báo Thanh niên, cơ quan ngôn luận của Hội. Đây là tuần báo, in bằng tiếng Việt, số 1 ra ngày 21-6-1925. Cho đến tháng 2-1930, báo Thanh niên ra được tất cả 208 số. Trong 60 số đầu, báo Thanh niên tập trung giáo dục lòng yêu nước, kêu gọi đoàn kết, từ số 61 trở đi mới đề cập tới sự cần thiết phải có một Đảng cách mạng, Đảng Cộng sản để lãnh đạo phong trào cách mạng nước ta đi tới thắng lợi. Ngoài báo Thanh niên, Hội còn xuất bản những tờ báo có phạm vi bạn đọc hẹp hơn như tờ Công Nông, Lính Cách mạng.
Ngoài báo chí, đầu năm 1927, Hội cho ấn hành cuốn sách Đường kách mệnh của Nguyễn ái Quốc. Nội dung chủ yếu của tập sách chỉ ra cho nhân dân ta con đường và cách thức tiến tới thắng lợi. Đường kách mạng chỉ rõ cách mạng Việt Nam trước hết phải làm "dân tộc cách mạng" đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập cho đất nước, tự do cho đồng bào, sau đó tiến hành làm "giai cấp cách mệnh" đánh đổ tư bản giải phóng quần chúng lao động. Cách mạng muốn giành đợc thắng lợi phải coi "công nông là gốc" của cách mạng, còn học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ là bầu bạn của cách mạng. Đường kách mạng còn chỉ rõ nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng là sự lãnh đạo của Đảng cách mạng được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-lênin.
- Xây dựng hệ thống tổ chức trong nước
Từ cuối năm 1926. sau khi bế giảng lớp huấn luyện chính trị đầu tiên, Nguyễn ái Quốc đã chọn 6 học viên, cử về ba trung tâm của đất nước Hà Nội, Vinh, Sài Gòn để tuyên truyền và gây dựng cơ sở. Với sự hoạt động tích cực của các chiến sĩ tiên phong này các chi bộ đầu tiên của HVNCMTN được thành lập. Trên cơ sở đó, xuất hiện các cấp tổ chức cao hơn : Kỳ bộ, Tỉnh bộ (Thành bộ) và cuối cùng là Huyện bộ. Cùng với việc xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức của Hội ở trong nước, HVNCMTN còn chú trọng xây dựng các chi bộ trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan). Thời kỳ đầu xây dựng tổ chức, các hội viên thường sử dụng các mối quan hệ bè bạn, họ hàng, thầy trò trong việc lập các chi bộ. Vì vậy, thành phần trí thức tiểu tư sản chiếm tỷ lệ cao. Từ cuối năm 1928, Hội đã định hướng mới trong hoạt động của mình bằng chủ trương phát động phong trào "vô sản hóa" nên đã tăng tỷ lệ công nhân, nông dân trong tổ chức cách mạng này. Đến nam 1929, HVNCMTN đã xây dựng được cơ sở ở khắp các tỉnh, thành phố cả nước. Số hội viên đã lên tới 1.500 người. Hội VNCMTN đã đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tân Việt Cách mạng đảng
Tân Việt Cách mạng đảng (Tân Việt) là tên gọi cuối cùng của một tổ chức yêu nước đã trải qua nhiều biến thiên và chủ tổ. Tiền thân của Tân Việt là Hội Phục hưng Việt Nam (Phục Việt), được thành lập ngày 14-7-1925 tại Vinh (Nghệ An) từ hai lực lượng : nhóm tù chính trị vừa được tha về như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên... và nhóm sinh viên Cao đẳng sư phạm Hà Nội như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai. Chương trình hành động của Phục Việt rất đơn giản, gồm 3 điểm :
- Nghiên cứu tình hình chính trị trong nước để quyết định nên bạo động hay hòa bình.
- Tìm cách liên lạc với các nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở Trung Quốc và Xiêm xem chủ trương của họ thế nào.
- Tuyển mộ đồng chí mới.
Sau khi thành lập, Phục Việt tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh đòi ân xá Phan Bội Châu bằng việc rải truyền đơn tại Hà Nội. Sợ bị lộ nên đầu năm 1926 Phục Việt đổi thành Hưng Nam, năm 1927 đổi thành Việt Nam Cách mạng đảng, rồi Việt Nam cách mạng đồng chí hội. Cuối cùng; tại Đại hội họp ở Huế tháng 7-1928, Hội chính thức mang tên Tân Việt cách mạng đảng. Cho đến tháng 7-1928, Tân Việt là tổ chức chính trị theo khuynh hướng dân tộc tư sản. Trong suốt quá trình tồn tại, tổ chức chính trị này đã cử người sang Quảng Châu (Trung Quốc) dự các lớp huấn luyện chính trị của Nguyễn ái Quốc và chịu ảnh hưởng tư tưởng của HVNCMTN. Vì thế, lập trường chính trị của tổ chức ngày dần dần thay đổi và chuyển dần sang khuynh hướng dân tộc xã hội chủ nghĩa.
Về tư tưởng chính trị, Tân Việt xác định :"Liên hợp cả các đồng chí trong ngoài, trong thì dẫn đạo công nông binh, quần chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa đặng kiến thiết một xã hội bình đẳng bác ái mới".
Thành phần xã hội của đảng viên Tân Việt chủ yếu gồm các phần tử thanh niên trí thức, học sinh, công chức, tiểu thương và công nông, đặc biệt là những người có học. Tỉnh bộ, Đại tổ và Tiểu tổ. Tiểu tổ, đơn vị cơ sở của Tân Việt được tổ chức theo nguyên tắc "Tam Tam chiêm tứ (là một tiểu tổ có 3 đảng viên, 3 tiểu tổ hợp thành một đại tổ. Tân Việt có 10 liên tỉnh bộ và 3 kỳ bộ. Các kỳ bộ được gọi theo quy ước riêng: Bắc Kỳ gọi là Nhân Kỳ, Trung Kỳ - Trí Kỳ, Nam Kỳ - Dũng Kỳ. Địa bàn hoạt động chủ yếu của Tân Việt là các tỉnh miền Trung, mạnh nhất ở Nghê - Tĩnh. Đến cuối năm 1928 , ở đây số lượng đảng viên đã lên tới 612 người, đã gây dựng được cơ sở trong các nhà máy, xí nghiệp, đường phố và các vùng nông thôn.
Trong suốt quá trình hoạt động, Tân Việt chú ý nhiều tới công tác giáo dục, huấn luyện đảng viên theo hình mẫu của HVNCMTN. Đồng thời Tân Việt còn tổ chức và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của học sinh, tiểu thương và công nhân. tiêu biểu là cuộc đình công của công nhân Nhà máy diêm Bản Thủy (tháng 4- 1928), cuộc bãi công của công nhân đường sắt Biên Hòa - Sài Gòn (tháng 9- 1929).
Do chịu ảnh hưởng tư tưởng mác xít, nhiều đảng viên Tân Việt đã chuyển sang hoạt động cho HVNCMTN. Nội bộ Tân Việt ngày càng phân hóa thành 2 khuynh hướng rõ rệt: dân tộc tư sản và dân tộc xã hội chủ nghĩa. Những người trong ban lãnh đạo Tổng bộ đều đứng trên lập trường dân tộc tư sản. Giữa năm 1929 những người theo khuynh hướng dân tộc tư sản trong Ban lãnh đạo Tổng bộ Tân Việt đã công bố đề án thành lập "Khối quốc gia”, Trước tình hình đó, những đảng viên tích cực, cấp tiền trong Tân Việt đã nhóm họp và đi đến tiến hành cuộc vận động thành lập một tổ chức cộng sản lấy tên là Đông Dương cộng sản liên đoàn.
Sự biến thiên của tổ chức chính trị này phản ảnh một sự thực lịch sử là vào những năm 20, tại Việt Nam, đã diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng giữa tư tưởng dân tộc tư sản và tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cuối cùng tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã chiến thắng. Sự thắng lợi của khuynh hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top