Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
PHILIPPIN THỜI KỲ CẬN ĐẠI
I- Philíppin trước khi thực dân Tây Ban Nha xâm lược
Trước khi bị người Tây Ban Nha xâm chiếm, Philíppin chưa đạt tới trình độ phát triển chế độ phong kiến tập quyền như ở các nước phương Đông khác. Ngoài một số vùng chịu ảnh hưởng ít nhiều của phong kiến Ấn Độ và Inđônêxia, còn hầu hết những vùng còn lại đều trong tình trạng lạc hậu. Xã hội Philíppin mới bước vào sự phân hoá giai cấp và hình thành nhà nước.
Xã hội chia làm 3 đẳng cấp: thủ lĩnh, dân tự do và nô lệ, nhưng ranh giới giữa thủ lĩnh và dân tự do không cách biệt lắm. Thậm chí người dân công xã bình thường vẫn có thể trở thành thủ lĩnh thông qua bầu cử dân chủ. Điều này chứng tỏ tàn tích của chế độ thị tộc tồn tại khá nặng nề.
Theo nhiều nhà nghiên cứu thì quan hệ phong kiến ở quần đảo này phát triển cùng lúc với sự có mặt của người châu Âu ở đây, có nghĩa là vào đầu thế kỷ XVI. Do tình trạng chia cắt về địa lý trên quần đảo chưa từng có một ông vua chuyên chế kiểu phương Đông. Tầng lớp quí tộc phong kiến có nhiều đặc quyền còn người nông dân công xã là người sở hữu trên thực tế ruộng đất công xã và không phải nộp thuế cho nhà nước. Họ chỉ có nghĩa vụ đi lính cho vua. Người nô lệ vốn là tù binh hay con nợ và không đóng vai trò quan trọng trong sản xuất. Họ chủ yếu phục vụ trong gia đình quí tộc.
Tình trạng kinh tế của Philíppin không đồng đều giữa các vùng. Ở những vùng ven biển do có điều kiện tiếp xúc với bên ngoài nên kinh tế phát triển hơn, còn vùng sâu trong nội địa, trình độ kỹ thuật rất thấp kém, thậm chí đang ở giai đoạn cuối của xã hội nguyên thuỷ (mặc vỏ cây, chưa biết làm nhà, vũ khí bằng cung, tên).
Như vậy, trước khi người Tây Ban Nha xâm chiếm Philíppin, ở đây đang tồn tại chế độ chính trị và kinh tế lạc hậu, tàn dư xã hội nguyên thuỷ còn hết sức nặng nề. Đó là điều kiện thuận lợi để thực dân Tây Ban Nha dễ dàng xâm lược và đặt ách đô hộ của mình.
[h=5] II- Sự xâm lược và chính sách thống trị của Tây Ban Nha[/h] 1- Sự xâm lược của Tây Ban Nha
Vào đầu thế kỷ XVI, Tây Ban Nha là nước phát triển nhất là ở châu Âu và nắm quyền thống trị trên biển Đại Tây Dương. Các thương nhân Tây Ban Nha có mặt ở khắp nơi trên thế giới.
Ngày 16/3/1521, Magienlăng đến Philíppin. Tại đây ông ta đã gây chiến với tù trưởng Lapu Lapu ở đảo Mắctan và bị bắn chết. Lapu trở thành người anh hùng đầu tiên của Philíppin chống quân xâm lược(1). Sự giàu có của quần đảo Philíppin qua chuyện kể của những thuỷ thủ còn sống sót đã thúc dục chính phủ Tây Ban Nha tìm cách chiếm vùng đất này.
Năm 1565, chính phủ Tây Ban Nha phái Lơgátspi chỉ huy đạo quân xâm lược Philíppin. Cuộc chiến đấu chống quân xâm lược của nhân dân Philíppin diễn ra anh dũng, nhưng tình trạng biệt lập về lãnh thổ, thiếu thống nhất trong hành động đã làm cho phong trào chống xâm lược lần lượt thất bại. Vùng chiếm đóng của Tây Ban Nha dần dần mở rộng. Đến năm 1572, về cơ bản cuộc chiến tranh xâm lược đã hoàn thành và ách thống trị của Tây Ban Nha ở Philíppin đã được thiết lập.
2- Ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha ở Philíppin.
Để cai trị Philíppin, Tây Ban Nha áp dụng chế độ thác quản (Encommiendas) đặt nhân dân Philíppin dưới quyền thống trị trực tiếp của bọn thực dân. Thực chất đây là chế độ nông nô tàn khốc. Người nông dân chịu sự bóc lột trực tiếp của địa chủ Tây Ban Nha. Đàn ông Philíppin từ 16 tuổi đến 60 tuổi hàng năm phải đóng thuế như sau: 10 rêan cho nhà nước, 1 rêan cho nhà thờ, 1 rêan cho ngân khố của huyện. Thuế này có thể trả bằng tiền hay hiện vật. Ngoài tô nộp cho địa chủ, nông dân còn phải thực hiện nghĩa vụ lao dịch với ít nhất 52 ngày trong 1 năm. Bởi vậy, đời sống nhân dân rất khó khăn. Nạn bắt người bán sang châu Mỹ làm nô lệ thường xuyên xẩy ra. Những người chống đối chính quyền thực dân bị bắt cũng bị biến thành nô lệ.
Chính quyền Tây Ban Nha sử dụng đạo Thiên chúa làm công cụ thống trị tinh thần. Trong quá trình bành trướng của đạo Thiên chúa có sự xung đột gay gắt với đạo Ixlam ở các đảo phía nam. Tuy nhiên, được sự hỗ trợ của chính quyền, đạo Thiên chúa ngày càng mở rộng, đẩy lùi và đánh bại đạo Ixlam vào giữa thế kỷ XIX. Thủ đoạn mà các giáo sĩ đạo Thiên chúa thường dùng là cưỡng bức, bắt các tù trưởng buộc cả bộ tộc theo đạo. Nếu thuyết phục mãi không được sẽ dùng lưỡi gươm để cưỡng bức. Bởi vậy Philíppin là nước châu Á có tỷ lệ dân số theo đạo Thiên chúa đông nhất (80% dân số). Nhà thờ và các tu viện chiếm nhiều vùng đất đai rộng lớn. Chúng bóc lột nông dân cả phần hồn lẫn phần xác.
Chế độ thống trị của Tây Ban Nha đã loại bỏ tầng lớp thống trị bản xứ, người Tây Ban Nha trực tiếp cai trị các địa phận. Các tù trưởng, quí tộc phong kiến mặc dù được miễn các thứ thuế và các nghĩa vụ tạp dịch nhưng lại chẳng có quyền hành gì. Họ trở thành người thu thuế và chịu trách nhiệm về hành vi của nhân dân vùng mình ở. Họ và vợ con thường bị bọn thực dân đánh đập, sỉ nhục. Bởi vậy, các tù trưởng và quý tộc người Philíppin rất phẫn uất và thường nổi dậy đấu tranh.
Để xoa dịu tinh thần của quần chúng, cuối thế kỷ XVII, chính quyền Tây Ban Nha tiến hành một số cải cách:
- Chia Philíppin thành 16 tỉnh (đến đầu thế kỷ XIX, lại chia thành 34 tỉnh) đứng đầu là người Tây Ban Nha. Bộ máy hành chính do người Philíppin quản lý nhưng dưới sự giám sát của người Tây Ban Nha.
- Mở trường học theo kiểu phương Tây cho tầng lớp trên của người Philíppin học tập nhằm đào tạo đội ngũ tay sai người bản xứ.
Với cải cách này, chính quyền thực dân đã tạo ra một bộ máy tay sai người bản xứ để làm cơ sở cho chế độ thực dân. Giai cấp phong kiến Philíppin trở thành tầng lớp quan lại phục vụ cho chính quyền thực dân. Chúng được phép bóc lột nông dân nhưng về hình thức không được quyền sở hữu ruộng đất. Tuy nhiên trên thực tế, chúng vẫn cướp đoạt được ruộng đất của nông dân bằng nhiều thủ đoạn, nhất là qua con đường cho vay nặng lãi. Người nông dân ngày càng bị mất đất, bị bần cùng hoá.
Cho đến cuối thế kỷ XVIII, chính quyền Tây Ban Nha vẫn thực hiện chính sách đóng cửa Philíppin để độc quyền bóc lột nhân dân nước này. Vì thế, kinh tế Philíppin không phát triển được. Nhưng chính sách này chỉ có thể làm chậm sự bành trướng kinh tế của các nước tư bản vào Philíppin mà không thể ngăn chặn được quá trình này. Trước sự xâm nhập ngày càng tăng của hàng hoá các nước khác vào Philíppin, năm 1785, chính quyền Tây Ban Nha lập “Công ty Hoàng gia Philíppin” để dành độc quyền ngoại thương ở nước này và cạnh tranh với các công ty của các nước khác trên thị trường châu Á. Về khách quan, Công ty Hoàng gia Philíppin góp phần làm suy yếu tình trạng biệt lập, mở rộng khả năng giao lưu với bên ngoài, từ đó tạo điều kiện cho kinh tế Philíppin phát triển.
Dưới sức ép của các nước Mỹ, Anh, Pháp, Tây Ban Nha buộc phải mở cửa Philíppin cho các nước này vào tự do buôn bán. Mỹ là nước đầu tiên được phép tự do buôn bán trong các hải cảng của Philíppin. Philíppin bị cuốn vào quĩ đạo kinh tế tư bản chủ nghĩa với tư cách là nơi cung cấp hàng nông nghiệp và tiêu thụ hàng hoá công nghiệp.
Sự xâm nhập của hàng hoá từ bên ngoài ngày càng tăng đã góp phần thúc đẩy kinh tế hàng hoá ở Philíppin phát triển và tạo điều kiện cho giai cấp tư sản dân tộc ra đời. Nhiều đồn điền của tư sản và địa chủ Philíppin xuất hiện, thuê nhân công làm việc. Mặt khác đầu thế kỷ XIX, các công ty nước ngoài tăng cường đầu tư vào Philíppin lập nhà ngân hàng, nhà máy, công xưởng. Điều này để góp phần thúc đẩy quan hệ sản xuất TBCN ở Philíppin phát triển.
[h=6] III - Cuộc cách mạng tư sản cuối thế kỷ XIX[/h][h=6] 1- Sự thức tỉnh của dân tộc Philíppin[/h] Đầu thế kỷ XIX, dưới ảnh hưởng của cách mạng tư sản lần thứ nhất ở Tây Ban Nha (1801-1814) và phong trào giải phóng dân tộc ở Mỹ latinh, phong trào giải phóng dân tộc ở Philíppin phát triển mạnh.
Năm 1823, sĩ quân và binh lính người Philíppin do Nôvalét lãnh đạo đã khởi nghĩa chiếm thành phố Manila và dinh Toàn quyền nhưng sau đó bị đàn áp.
Năm 1824, nông dân ở đảo Xêbu và năm 1844, nông dân Nêgôcốt khởi nghĩa. Đáng chú ý là khởi nghĩa nông dân do Kơrútxơ lãnh đạo.
Trong các cuộc khởi nghĩa nửa đầu thế kỷ XIX, giai cấp phong kiến đã tham gia, nhưng lực lượng đông đảo nhất vẫn là nông dân. Các cuộc khởi nghĩa này trước hết nhằm giải quyết mâu thuẫn dân tộc và sau đó giải quyết mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ (địa chủ Tây Ban Nha và Philíppin).
Khởi nghĩa Kavíttơ: nguyên nhân trực tiếp để cuộc khởi nghĩa nổ ra là do quyết định của chính quyền thực dân bắt công nhân công binh xưởng Kavíttơ đóng thuế. Điều đó đã gây nên sự bất mãn trong công nhân và binh lính. Ngày 21/1/1872, công nhân và binh lính Kavíttơ khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa kéo dài trong 3 ngày thì bị đàn áp.
Cuộc khởi nghĩa Kavíttơ được coi mở đầu cho giai đoạn đấu tranh quyết liệt của phong trào giải phóng dân tộc ở Philíppin.
2- Hôxê Ridan và tổ chức Liên minh Philíppin.
Hôxê Ridan sinh năm 1861, trong một gia đình thương nhân gốc Hoa, vì có tư tưởng không phục tùng Tây Ban Nha nên gia đình ông bị quản thúc, mẹ ông bị bắt giam khi ông mới 10 tuổi. Gia đình đã có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành tư tưởng của Ridan. Ngay từ khi là học sinh trung học, Ridan đã nhận được giải nhất về thơ ca với bài thơ “Gửi thanh niên Philíppin”, trong đó ông kêu gọi thanh niên:
“Hỡi hy vọng của Tổ quốc
Hãy đấu tranh cho tương lai tươi sáng của Philíppin”
Ông học ngành y tại đại học tổng hợp Mađrít, nhưng ông còn theo học nhiều bộ môn khác như triết học, văn học, hội hoạ, điêu khắc và các thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Ý. Sau này ông đã sử dụng được 22 ngôn ngữ khác nhau. Những cuốn tiểu thuyết “Đừng đụng đến tôi” và “Cách mạng” cùng với những vần thơ ca ngợi tự do, lòng yêu tổ quốc của ông thực sự đã thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Philíppin. Ông đã bóc trần cảnh sống khổ nhục của người nông dân và dân tộc Philíppin. Nhưng H. Ridan không tìm ra phương pháp đấu tranh và con đường cứu nước cho dân tộc. Ông cho rằng, chính quyền Tây Ban Nha sẽ trả tự do độc lập cho Philíppin. Tư tưởng của Ridan phản ánh tư tưởng của giai cấp tư sản Philíppin yếu đuối, ôn hoà. Cùng với những đồng chí của mình, Ridan đấu tranh đòi:
- Quyền bình đẳng giữa người Philíppin và Tây Ban Nha
- Người Philíppin được cử đại biểu vào nghị viện.
- Bảo vệ quyền tư hữu tài sản.
- Tự do buôn bán.
Năm 1892, Hôxê Ridan thành lập tổ chức “Liên minh Philíppin” tổ chức này gồm nhiều tầng lớp tham gia: địa chủ, tư sản, tiểu tư sản và cả một số nông dân. Liên minh đề ra nhiệm vụ:
- Thống nhất cả quần đảo thành một quốc gia lớn mạnh.
- Chống bạo lực và bất công.
- Phát triển giáo dục, công nghiệp, nông nghiệp và buôn bán.
- Thi hành cải cách.
Những nhiệm vụ trên thể hiện nguyện vọng của giai cấp tư sản Philíppin và của Hôxê Ridan, phản đối đấu tranh bạo lực, không tin vào lực lượng của nhân dân. Ông chỉ chú trọng hoạt động trong giới trí thức. Ông cho rằng chỉ cần biện pháp giáo dục cũng sẽ cải thiện đời sống nhân dân và chỉ có bằng con đường cải cách mới dành độc lập, tự do cho Philíppin.
Những hoạt động của H. Ridan làm kẻ thù lo sợ và chúng đã xử tử ông vào ngày 30/12/1896. Ông đã không hề biện hộ cho mình, không run sợ trước cái chết và hiên ngang bước ra pháp trường. Lòng yêu nước và khí phách của người anh hùng vang vọng mãi trong bài thơ “Lời vĩnh biệt cuối cùng của tôi” viết đêm 29/12/1896, trước khi ra pháp trường.
3- Bônêphaxiô và tổ chức Liên hiệp những người con yêu quí của nhân dân.
Bônêphaxiô sinh ngày 30/11/1863, ở Manila, trong một gia đình lao động. Lúc đầu Bônêphaxiô tham gia vào Liên minh Philíppin với tư cách là đại diện cho tầng lớp bình dân, nhưng ông không đồng tình với tư tưởng cải lương của tổ chức này nên đã thành lập tổ chức bí mật: “Những người con yêu quý của nhân dân” (viết tắt là Katipunan) vào năm 1892. Tham gia tổ chức là những người bình dân và trí thức tiểu tư sản. Lần đầu tiên trong lịch sử Philíppin có một tổ chức là Katipunan đã đặt vấn đề giành độc lập dân tộc cho Philíppin. Tuy nhiên Katipunan không có cương lĩnh rõ ràng. Trong “Mười lời răn người con nhân dân” do Bônêphaxiô viết, mang đầy màu sắc tôn giáo phản ánh lòng tin ngây thơ vào sự bình đẳng tuyệt đối, vào sự thắng lợi của lòng từ thiện.
Năm 1896 là năm phát triển mạnh nhất của Katipunan về số lượng. Liên minh có chi hội ở nhiều nơi và trở thành một tổ chức quần chúng.
4- Cách mạng Philíppin (1896-1898).
a) Giai đoạn I của cuộc cách mạng.
Ngày 23/8/1896, Ban lãnh đạo Katipunan quyết định khởi nghĩa. Với khẩu hiệu “Chiến thắng hay là chết”, mọi người tham gia hội nghị xé thẻ thuế thân để biểu thị sự quyết tâm.
Ngày 28/8/1896, Bônêphaxiô phát động khởi nghĩa. Hàng vạn quần chúng nổi dậy. Binh lính người bản xứ trong quân đội thực dân cũng ngả về phía cách mạng. Chính quyền cách mạng thành lập ở nhiều vùng. Sự đàn áp của kẻ thù, thắng lợi bước đầu của cách mạng đã làm cho một bộ phận tư sản và địa chủ do Emilio Aghinanđô đứng đầu tham gia vào cuộc khởi nghĩa. Aghinanđô xuất thân từ giai cấp địa chủ và đã từng giữ chức thị trưởng thành phố Cavíttơ. Ông tham gia vào Katipunan, phát động khởi nghĩa và giành được chính quyền tại Cavíttơ. Để cướp đoạt thành quả cách mạng, Aghinanđô đã quyết định thủ tiêu Katipunan và giết người lãnh đạo của nó là Bônêphaxiô. Tại hội nghị ngày 23/3/1897, phái ủng hộ Aghinanđô giành thắng lợi, Katipunan bị thủ tiêu, nước cộng hoà Philíppin được thành lập do Aghinanđô làm tổng thống. Ngày 10/5/1897, Bônêphaxi ô bị xử bắn. Như vậy, quyền lãnh đạo cách mạng hoàn toàn rơi vào tay giai cấp tư sản, địa chủ.
Toàn quyền Tây Ban Nha Rive tìm mọi cách tiêu diệt cách mạng. Y tiến hành đàm phán với Aghinanđô và hứa sẽ cải cách nền chính trị ở Philíppin nếu Aghinanđô giải tán chính phủ cộng hoà. Ngày 18/11/1897, hai bên ngừng bắn và kí hiệp ước. Theo hiệp ước thì chính quyền Tây Ban Nha đồng ý tiến hành cải cách ở Philíppin nhưng lại có thêm điều khoản rằng cải cách như thế nào sẽ phụ thuộc chính phủ Tây ban nha. Biện pháp thực thi hiệp ước gồm:
- Quân đội Aghinanđô phải đầu hàng.
- Aghinanđô và các thành viên chính phủ phải tị nạn tại Hồng Công.
- Tây Ban Nha trả cho Aghinanđô và quân du kích 80 vạn pêsô.
Ngày 27/12/97, Aghinanđô rời Philíppin, phó mặc tương lai Philíppin vào “lòng thương” của bọn cướp nước. Bản chất nửa vời, sợ cách mạng của giai cấp tư sản, địa chủ đã không cho phép họ cùng nhân dân lao động tiến hành cách mạng đến cùng. Hy vọng của Aghinanđô vào sự cải cách của Tây Ban Nha chỉ là ảo vọng.
b) Giai đoạn II (1898) của cuộc cách mạng.
Tuy Aghinanđô đầu hàng nhưng ngọn lửa chiến tranh cách mạng vẫn tiếp tục bùng nổ ở nhiều nơi. Để không bị gạt khỏi vai trò lãnh đạo cách mạng, ở Hồng Công, Aghinanđô lập “Hội đồng ái quốc” và bắt liên lạc với phong trào trong nước. Tháng 4/1898, chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha bùng nổ. Nhằm nhanh chóng chiếm Philíppin, Mỹ đã bắt liên lạc với Aghinanđô, yêu cầu phát động chiến tranh chống Tây Ban Nha và hứa bảo đảm độc lập cho Philíppin sau giải phóng.
Ngày 2/5/1898, hạm đội Mỹ do Điuây chỉ huy đánh tan hạm đội Tây Ban Nha ở vịnh Manila. Cuối tháng 5, Aghinanđô về nước. Aghinanđô vẫn ngây thơ cho rằng Mỹ là người cứu tinh cho nền độc lập của Philíppin.
Ngày 12/6/1898, ở Kavíttơ, Aghinanđô tuyên bố nền độc lập của Philíppin. Tuyên ngôn độc lập mang tính chất chống đế quốc và phong kiến nên đã khích lệ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của quần chúng. Nhiều tỉnh được giải phóng, thủ đô Manila bị quân cách mạng bao vây. Nhưng ngày 13/8/1898, quân Mỹ đổ bộ lên Philíppin, tấn công và chiếm Manila. Mỹ ngăn cấm không cho lực lượng cách mạng tiến vào Manila với mục đích biến Manila thành bàn đạp để tấn công nước Cộng hoà Philíppin.
Tháng 11/1898, Hiến pháp mới của nước cộng hoà được ban bố (gọi là Hiến pháp Malôlốt, vì được thông qua tại thành phố Malôlốt - thủ đô của cách mạng). Trong Chương 1 của Hiến pháp đã tuyên bố “chủ quyền thuộc về nhân dân”, quyền tự do dân chủ của nhân dân được ghi nhận, quyền lập pháp nằm trong tay Quốc hội. Đây là một trong những bản hiến pháp tiến bộ nhất trên thế giới lúc bấy giờ.
Ngày 10/12/1898, Mỹ và Tây Ban Nha ký hiệp định Pari, theo đó Tây Ban Nha nhượng lại quần đảo Philíppin cho Mỹ với giá 20 triệu USD. Cuộc cách mạng của nhân dân Philíppin đã góp phần quyết định sự diệt vong của chế độ thực dân Tây Ban Nha ở Philíppin và đã bị Mỹ cướp thành quả tại bàn hội nghị.
Ngày 4/2/1899, chiến tranh Philíppin - Mỹ bùng nổ. Quân cách mạng trang bị lạc hậu đã bị thất bại trước đội quân xâm lược Mỹ. Tháng 3/1901, Aghinanđô và các thành viên của chính phủ cộng hoà bị bắt. Ông ta đã kêu gọi nhân dân hạ vũ khí đầu hàng quân xâm lược Mỹ. Từ đây, Philíppin trở thành thuộc địa của Mỹ.
Cách mạng Philíppin thất bại do những nguyên nhân sau:
Cuộc cách mạng Philíppin do giai cấp tư sản lãnh đạo. Phần lớn tư sản Philíppin gắn chặt với kinh doanh ruộng đất, chỉ có một số ít kinh doanh công thương nghiệp. Họ có mối ràng buộc với chính quyền thuộc địa nên dễ dao động thoả hiệp với chúng. Bởi vậy, họ sẵn sàng đầu hàng kẻ thù, bán rẻ quyền lợi dân tộc khi cách mạng gặp khó khăn.
Cách mạng Philíppin bùng nổ trong lúc chủ nghĩa đế quốc đang phát triển, bởi vậy tương quan lực lượng bất lợi cho cách mạng.
Lực lượng lãnh đạo thiếu cương lĩnh ruộng đất đúng đắn do đó không động viên được tuyệt đại đa số nông dân tham gia. Trong quá trình diễn biến của cách mạng có lúc vì áp lực của phong trào quần chúng, chính quyền Aghinanđô đã đưa ra chính sách ruộng đất rất hạn chế như tịch thu ruộng đất của nhà thờ và địa chủ phản bội dân tộc nhưng thực ra số ruộng đất này lại lọt vào tay giai cấp tư sản còn nông dân không được hưởng quyền lợi gì.
(1) Đoàn thám hiểm của Magienlăng ra đi từ Tây Ban Nha ngày 20/9/1519 , với 5 thuyền và 265 người, nhưng đến ngày 6/9/1922 chỉ còn 1 thuyền với 18 người trở về với vàng và hương liệu đủ để trang trải cho chuyến đi.
VĂN NGỌC THÀNH