Phân tích thông điệp về văn hóa gia đình trong đoạn trích “ Mùa lá rụng trong vườn”

  • Tác giả, tác phẩm
  • Tác giả
  • - Ma Văn Kháng, tên khai sinh Đinh Trọng Đoàn, sinh năm 1936, quê gốc ở phường Kim Liên, quận Đống Đa Hà Nội, là người đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự vận động và phát triển nhiều mặt của văn học nghệ thuật. Ông được tặng Giải thưởng Văn học ASEAN năm 1998 và giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
  • - Truyện được tặng giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1986. Thông qua câu chuyện xảy ra trong gia đình ông Bằng, một gia đình nề nếp, luôn giữ gia pháp nay trở nên chao đảo trong những cơn địa chấn từ bên ngoài, nhà văn bày tỏ niềm lo lắng sâu sắc cho giá trị truyền thống trước những đổi thay của thời cuộc.
2. Phân tích

  • Kn văn hóa: nt
  • VH gia đình: Gia đình là một hình thức tổ chức cộng đồng của con người, một thiết chế xã hội đặc thù được hình thành, tồn tại và phát triển trên quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên.
  • Nét đẹp lớn nhất mà ai cũng có thể nhận thấy, bắt nguồn từ thuở cha ông chảy mãi đến tận ngày nay, đó là mối quan hệ nghĩa tình trong gia đình. Gia đình - một tổ chức dựa trên quan hệ nghĩa tình. Đây là nét đặc trưng, một nét đẹp văn hoá mà có lẽ chỉ có ở một dân tộc hình thành từ nền nông nghiệp lúa nước, lại phải trường kỳ chịu cảnh thiếu thốn khó khăn, phải chống chọi với ngoại xâm, thiên tai và thú dữ.
  • Thông điệp văn hóa:
  • Đây là cảnh sum họp, toàn bộ chương II xoay quanh nội dung cụ thể của gia đình ông Bằng: Chiều 30 tết ( ngày đoàn viên, sum họp, lễ tất niên) => Sự trang trọng, tục lệ cổ truyền, dù ai đi đâu cũng về sum họp với gia đình, chuẩn bị đón 1 năm mới.
  • Đây là bối cảnh đặc trưng.
  • Trong xh thời buổi kinh tế thị trường thì việc cùng nhau chuẩn bị lễ tết ấy khiến cho không khí trang trọng, cuộc sống có khó khăn nhưng mọi thứ vẫn được chuẩn bị hết sức chu đáo.
  • Tinh thần chu tất cho lễ tục cổ truyền, 1 tinh thần chuyển hóa: thời điểm 1 năm mới đến, tiến 1 năm mới qua đi→ Tết sum họp, tết đoàn viên.
  • Sum họp và gắn với suy tư, tâm trạng của từng nhân vật:
  • Mô tả một ngày Tết sum họp, ngòi bút Ma Vần Kháng như thăng hoa trong nhiệt hứng tạo dựng không khí điển hình của một cái Tết cổ truyền. Từng chi tiết được chọn lựa kĩ lưỡng, từng động tác, từng lời của nhân vật đều có khả năng hé mở tâm tính và tâm trạng:
  • + “ Cầu được ước thấy. Người phụ nữ mà Lí và Phượng cùng ao ước hiện ra, thật như đã hiện ran gay trước cổng nhà, vào đúng lúc cả nhà đang tíu tít vào buổi cúng tất niên chiều 30 Tết.”
  • Chị Hoài xuất hiện là niềm mong ước của cả nhà. Thể hiện mong ước đoàn viên, sum họp
+ Chị Hoài : ngoại hình được miêu tả:“ 1 người phụ nữ nông thôn trạc 50, người thon gọn trong cái áo bông chần hạt lựu. Chiếc khăn len nâu thắt ôm 1 khuôn mặt rộng có cặp mắt 2 mí đằm thắm và cái miệng tươi.”

Chị có mối lo toan riêng nhưng vẫn có mối liên hệ đặc biệt với gia đình chồng cũ

  • Chị Hoài mang nét đẹp truyền thống từ dáng vẻ cho đến suy nghĩ, là hiện thân của văn hóa truyền thống.
  • Tình cảm giữa các thành viên trong gia đình:
  • Sự xuất hiện của chị Hoài và thái độ mừng rỡ vừa vồn vã, sôi nổi, vừa ý nhị, xót xa của mọi người là đỉnh điểm hạnh phúc sum họp. Bữa cỗ tất niên thành bữa tiệc đoàn viên, bữa tiệc của lòng người:
  • + Chị Hoài tiêu biểu cho vẻ đẹp cúa người nông dân chất phác, xởi lởi, thật thà nhưng cũng không kém hiểu biết và bao dung.
  • Chị "đẹp người, đẹp nết", "dù đã có gia đình riêng, những quan hệ riêng và lo toan riêng" nhưng vẫn không quên căn nhà đã từng ghi dấu một thời hạnh phúc và đau khổ của chị, "chị có quyền quên mà không ai được trách cứ". Chín năm xa cách, chị vẫn nguyên ý thức của người dâu cả, không cho mình quyền quên gia đình người chồng cũ, vẫn giữ liên lạc để biết tình hình của mọi người. Tạm gác lại công việc bộn bề của gia đình riêng, chị trở lại nhà ông Bằng đúng dịp đón năm mới là bời chị biết gia đình có chuyện không hay và nhất là "sợ ông buồn". Hoài khiến Phượng "cảm kích bất ngờ" khi nhận ra "người phụ nữ tướng như đã cắt hết mối dây liên hệ với gia đình này, vẫn giao cảm, vẫn chia sẽ buồn vui và cùng tham dự cuộc sống của gia đình này".
  • Hoài hiện thân cho lối sống trọng nghĩa tình, "có thuỷ có chung", như tấm gương mà khi soi vào đấy, nhiều người phải giật mình.
Sự xuất hiện của chị tác động mạnh vào các thành viên khác của gia đình ông Bằng. Không chỉ vậy, người phụ nữ ấy bằng tình yêu thương nồng hậu còn gắn kết cả cái gia đình mới của mình với gia đình cũ. Chồng con chị cũng yêu thương và quan tâm tới gia đình ông Bằng. Họ lấy tình nghĩa làm phương châm ứng xử. Tấm lòng trưng hậu của họ xoá tan mọi nỗi hoài nghi về quan hệ "khác máu tanh lòng".

  • + Hoài hiện ra đột ngột không báo trước (chị đã đi bước nữa do anh Tường chồng chị hi sinh từ thời đánh Mĩ) không chỉ đem lại niềm vui ngỡ ngàng cho các thành viên gia đình ông Bằng mà còn khiến người đọc cũng thấy rưng rưng. Hoá ra chỉ cần có tấm lòng, chỉ cần biết nghĩ về nhau là thế giới vụt ấm áp, thơm thảo, là bất hạnh vợi bớt, nỗi đau mất mát được xoa dịu.
  • + Hai người em dâu (Lí và Phượng) ao ước được gặp chị Hoài thì sung sướng, "reo lên", ríu rít, hồn nhiên như, hai đứa trẻ. Phượng "sôi nổi, nồng hậu", "mừng rỡ", "nắm tay",... Lí "ôm chầm" lấy chị "nức nở". Những lời hỏi thăm, những câu trò chuyện tới tấp,... Mọi người đều muốn biết công việc làm ăn, sức khoẻ của nhau - một cách quan tâm rất giản dị mà hậu tình , xa lạ với thói ích kỉ, lạnh lùng đang có nguy cơ thành phổ biến trong giao tiếp thời hiện đại.
  • + Xúc động nhất là cảnh gặp gỡ giữa ông Bằng và chị Hoài. Ông Bằng sững lại, "mặt thoáng một chút ngơ ngẩn", mắt "chớp liên hồi", môi "lật bật không thành tiếng", như "sắp khóc oà", "giọng khê đặc, khàn rè",... Còn chị Hoài thì "gần như không chủ động được mình", "lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản, gót nứt nẻ thâm đen, giẫm trên nền đá lạnh", "thốt lên một tiếng như nấc". (Cái vẻ cuống quýt của Hoài mới đáng quý làm sao! Nếu chị không vì hấp tấp mà quên đi dép, làm sao mọi người thấy hết cuộc sống lam lũ của chị ?).
  • Nỗi xúc động không chỉ do xa cách quá lâu, hay do sự gặp gỡ bất ngờ mà chủ yếu xuất phát từ tình cha con họ dành cho nhau. Trong niềm vui đoàn tụ, nhói buốt một cái tên, một hình bóng không ai nỡ thốt ra. Hai cha con gặp nhau mà như đang đón nhận lại nhau, như bị cái tình ruột thịt thiêng liêng dẫn dắt một cách vô thức, không sao kiểm soát được hành động và cảm xúc.
+ Cảnh tượng cảm động này lan truyền ra xung quanh, khiến "Phượng quay mặt đi, mắt ngấn lệ, không nở nhìn cảnh gặp gỡ, không nỡ thấy đôi gót chân nứt nẻ của chị Hoài, ngực dội lên những cơn sóng nghẹn ngào và hai cánh mũi se se cay".

Biệt tài của Ma Văn Kháng trong miêu tả tâm lí là lấy cảm xúc này để khơi gợi cảm xúc khác, lấy tình thương để kêu gọi tình thương (Phượng ứa nước mắt trước đôi gót chân nứt nẻ của Hoài còn người đọc ứa nước mắt vì tấm lòng đồng cảm tinh tế của Phượng). Tình yêu thương biểu hiện qua phút gập gỡ, sum họp của một gia đình đã thể hiện tập trung nét đẹp trong văn hoá ứng xử, văn hoá sống của người Việt Nam : coi trọng đạo lí, tình cảm. Khắc họa không khí chung, nhà văn còn tạo "điểm nhấn" và "dư ba" bằng việc đưa lên "cận cảnh" chân dung những con người có tâm hồn nhân hậu, biết nuôi dưỡng ngọn lửa ấm trong mỗi gia đình (Phượng, Hoài và ông Bằng).
 
  • Khung cảnh sum họp, không khí chiều 30 tết:
  • Tết mang đậm màu sắc văn hoá tâm linh với không khí đặc trưng bới sự âm cúng, sum họp. Bữa cúng tất niên trong gia đình ông Bằng rõ ràng là còn phán chiếu nhiều nét đẹp chung của truyền thống dân tộc. Nét đẹp đó hiện ra trên cả bình diện vật chất lẫn tinh thần.
  • + Lễ cúng bài bản, trang trọng theo đúng nghi thức với khói trầm ngát thơm, bánh chưng xanh buộc lạt điều, mâm ngũ quả, những chén rượu xinh xắn rải ngang trước bàn thờ, ngọn đèn dầu lim dim,... Có sự thành kính nghiêm cẩn, thiêng liêng một dòng chảy mơ hồ mà xao động đến rưng rưng cảm động. Đó là thời khắc giao hoà giữa hai thế giói : quá khứ và hiện tại, thực và ảo, sống và chết, cõi dương và cõi âm, cõi người và cõi hồn, thể xác và tâm linh,...=> sự chân thành, niềm mong mỏi.
  • + Không khí diễn ra vừa trang nghiêm vừa ấm áp tình người thể hiện nét đẹp vh truyền thống trong phong tục lễ tết của người VN:
  • Trong lễ cúng gia tiên, “ mọi người dạt ra, để trống 1 khoảng rộng trước bàn thờ.” ; “ Ông Bằng soát lại hang khuy áo, chỉnh lại cái cà vạt, ho khan 1 tiếng, dịch chân lại trước mặt bàn thờ” => trang trọng, chỉnh tề…
  • Thoáng cái, ông Bằng như quên hết xung quanh và bản thể. Dâng lên trong ông cái cảm xúc thiêng liêng rất đỗi quen thân và tâm trí ông bỗng mờ nhoà, phiêu diêu lãng đãng gần xa, ẩn hiện tầng tầng lớp lớp những ảnh hình khi tỏ khi mờ, chập chờn như trong chiêm bao".
  • Giây phút này con người như được thanh tẩy để trở nên tinh khiết, đau đáu niềm hướng thiện. Lời khấn của ông Bằng là tình cảm thiết tha hướng về cội nguồn bằng tất cả lòng biết ơn trân trọng và tâm nguyện đắp bồi, củng cố mái ấm gia đình giữa bao sóng gió. Trong lời khấn ấy có một sợi dây bí ẩn nối kết mọi người, cả kẻ sống người chết, kẻ có mặt và người vắng mặt : dòng chảy của đạo lí, của tình yêu thương chung thuỷ, của ý thức làm người. Quá khứ không tách rời với hiện tại. Tổ tiên luôn đi cùng con cháu. Tất cả liên kết thành sức mạnh, thành niềm tự hào và trách nhiệm.
  • Có một xúc cảm thật đẹp được gợi lên từ mâm cỗ tất niên : long kính trọng tổ tiên, niềm âu yếm dành cho anh em, con cháu, bạn bè, tình yêu cuộc sống, nét tài hoa,... đều được con người gửi vào mâm cỗ ấy (Lí và mọi người đã tính toán công phu, đã nỗ lực hết mình để có thể chu toàn). Nó phải thoả mãn đủ các tiêu chí : đầy đặn gợi sự no ấm, đẹp đẽ gợi sự lịch lãm, sang trọng gợi niềm thành kính;... => Dường như văn hoá ẩm thực của người Việt, mà nổi tiếng là của người Hà Nội đã tập trung trọn vẹn trong mâm cỗ tất niên nhà ông Bằng : gà luộc, giò, nem, chả, măng hầm chân giò, miến nấu lòng, vịt quay ướp húng lìu, gà tần hạt sen,... Người ta không chỉ ăn bằng miệng mà còn ngắm bằng mắt, không chỉ cốt cho no mà còn thưởng thức cái tinh tế, cái tài hoa, cái đảm đang của người làm cỗ, cái kì diệu của hương vị sản vật quê hương xứ sở.
+ Nhà văn đã nhìn ra cái gốc gác, cái nền tảng sâu xa gắn bó mỗi cá thể là truyền thống gia đình. Lời khấn của ông Bằng không chỉ hướng đến tri ân người đã khuất, tri ân tổ tiên mà còn tri ân những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Những từ ngữ cổ kính, mang phong cách tôn giáo hoá ("Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu...") in đậm dấu ấn nhà nho mẫu mực. Nhà nho ấy quay trở về cõi thực, dù trong bầu không khí đoàn tụ, ấm cúng cũng không sao giấu được nỗi đau làm tổn hại danh dự tổ tiên.

  • Ông Bằng mắt "cay sè", lòng "bổn ngộn" khi nghĩ đến người con út tha hoá, tự cô lập mình bằng lối sống bất cần, trở thành kẻ chối từ gốc gác, dối cha lừa vợ. Ông lặng lẽ mà quyết liệt khi gạt tên Cừ (người con lạc loài ấy) ra khỏi lời khấn xin tổ tiên phù hộ. Có lẽ trong ông, nỗi đau vì truyền thống gia đình bị vấy bấn còn lớn hơn nỗi đau của người cha mất con.
  • Chi tiết này khiến ngày Tết sum họp năm nay của gia đình ông như là "khúc vĩ thanh" của sự đầm ấm, bình yên, báo trước những bi kịch không lường hết của cuộc sống thời buổi kinh tế thị trường. (Có người nói Ma Văn Kháng đã bày "mặt trận" giữa một gia đình bé nhỏ chí có thứ vũ khí thuần tuý là đạo đức và văn hoá với những tác động tiêu cực của cả một xã hội đang trong cơn "trở dạ").
  • Cách kể chuyện, ngôn ngữ, giọng điệu:
  • Vì tác phẩm chú trọng vào tâm lí nhân vật, nên điểm nhìn trần thuật bắt đầu được di chuyển sang nhân vật. Người kể chuyện nhập vào nhân vật để thuật kể, bình luận và điểm nhìn này thay đổi rất linh hoạt (từ người kể chuyện ngôi thứ ba giấu mặt sang Luận, ông Bằng, có lúc là Lí, Cần, Cừ,...). Đây là quan điểm trần thuật hiện đại, mở ra khả năng thể hiện thế giới nội tâm phong phú, tạo sự đa dạng cho điểm nhìn, tăng cường tính dân chủ, kích thích dối thoại.
  • Đoạn trích dựa trên nển cốt truyện, ít biến cố, mà chủ yếu bộc lộ tâm trạng, tâm linh nên nhịp điệu trần thuật chậm rãi, tương hợp với giọng văn trầm lắng, dạt dào cảm xúc, đậm đặc nghĩa tình.
  • Ngày Tết sum họp kết thúc bằng dư âm của niểm vui, niềm tin tưởng, dù không hoàn toàn nhẹ nhõm, thanh thản. Ma Văn Kháng đã gửi gắm vào đây quan niệm của ông về chuẩn mực văn hoá gia đình - thứ vũ khí mà mỗi gia đình hiện đại cần phải có để có thể đề kháng, chống chọi lại với những va đập của một xã hội đầy biến động.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top