Phân tích tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành

Bút Nghiên

ButNghien.com
Phân tích tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành


I . ĐẶT VẤN ĐỀ .

Rừng xà nu là tác phẩm để lại một dấu ấn sâu đậm trong kí ức mỗi chúng ta . Nguyễn Trung Thành được coi như là nhà văn của Tây Nguyên theo đúng nghĩa của nó . Cả cuộc đời ông sống, chiến đấu và gắn bó với núi rừng , với đồng bào Tây Nguyên dù ông không hề được sinh ra trên mảnh đất này . Ông cũng chính là người phản ánh một cách sinh động đời sống, tính cách và tâm hồn đồng bào Tây Nguyên trong tác phẩm của mình , và phần Tây Nguyên đó được đánh giá là hay nhất trong sự nghiệp cầm bút của nhà văn .

Với vốn sống phong phú và một sự gắn bó đến kì lạ, mảnh đất Tây Nguyên đi vào tác phẩm của Nguyễn Trung Thành một cách tự nhiên, chân chất như cái bụng của đồng bào các dân tộc anh em nơi đây, và một trong những sáng tạo nghệ thuật để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc là Rừng xà nu . Tác phẩm không chỉ đề cập đến lòng yêu nước quật cường, tinh thần đấu tranh không mệt mỏi của đồng bào Tây Nguyên trong cuộc trường kì kháng chiến chống Mĩ , mà quan trọng hơn, khắc hoạ chân dung những con người anh dũng đã chiến đấu vì lí tưởng, trong mối quan hệ mật thiết với thiên nhiên núi rừng .

II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .

1 . Hình tượng cây xà nu .


Nguyễn Trung Thành có sở trường viết về đề tài Tây Nguyên, vùng đất đã quen thuộc với ông từ ngày viết Đất nướcđứng lên . Nay lai được trở về với vùng đất ấy, tác giả gặp lại cái màu xanh bạt ngàn của núi rừng, đặc biệt là rừng xà nu chạy tít tắp tới tận chân trời . Nhà văn đã từng thốt lên : Tôi yêu say mê cây xà nu, rừng xà nu từ đó . Bởi vậy cây xà nu trở thành ấn tượng mạnh gợi cảm hứng sáng tác cho nhà văn, và nhan đề tác phẩm ra đời từ đó .

Xà nu, một loại cây họ thông mọc thành rừng , man dại mà trong sạch, hùng vĩ mà cao thượng . Thân cây cao vút, vạm vỡ, rắn rỏi, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã, rừng xà nu gồm hàng vạn , hàng triệu cây nối tiếp nhau vô tận tạo nên màu xanh mỡ màng cho núi rừng Tây Nguyên, thành một nét đặc trưng riêng biệt của Tây Nguyên .

Cây xà nu có ý nghĩa quan trọng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của đồng bào Tây Nguyên mà cụ thể là dân làng Xô Man từ ngàn đời nay : Ngọn lửa xà nu trong bếp của mỗi nhà, ngọn đuốc xà nu soi sáng từng đêm, đống lửa xà nu ở nhà cụ Mết trong đêm tụ họp dân làng đón chào Tnú trở về ... rồi xà nu tham gia vào những sự kiện trọng đại của làng Xô Man : Dưới ánh lửa xà nu người dân Xô Man đêm đêm mài vũ khí chuẩn bị kháng chiến ... Truyện có đến hơn hai mươi lần nhắc đến rừng xà nu ở nhiều góc độ khác nhau . Như vậy không có cây nào đúng và tiêu biểu cho vóc dáng, cho sức mạnh của dân làng Xô Man bằng cây xà nu . Tên tác phẩm đã cô đúc chủ đề tác phẩm, mang ý nghĩa khái quát cao, giàu chất lãng mạn, chất thơ hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên .

Trong tác phẩm Nguyễn Trung Thành đã đồng nhất hình tượng cây xà nu với hình thượng dân làng Xô Man yêu nước . Xà nu cũng như dân làng chịu nhiều đau thương . Những ngày cách mạng Việt Nam còn chìm trong bão tố chiến tranh, dân làng Xô Man cũng như rừng xà nu cùng chung số phận : Làng ở trong tầm đại bác của giặc, chúng nó bắn đã thành lệ hai lần mỗi ngày ... Sự sống nằm trong sự huỷ diệt của bạo tàn, của bom đạn chiến tranh . Do vậy cả rừng xà nu không cây nào không bị thương . Có nhiều cây xà nu bị đạn chặt đứt làm đôi, gục ngã nhưng cũng có cây xà nu chỉ để lại vết thương nhẹ , chóng lành . Cũng như xà nu, những con người Xô Man, thân thể và trái tim họ đầy thương tích . Cũng có những đời người như những cây xà nu bị chặt đứt tuổi xuân . Mai ngã xuống khi hạnh phúc lứa đôi và tình yêu tuỏi trẻ đang tràn trề ... Đó là chuỗi ngày đau thương của người dân làng Xô Man, những quần chúng bị giết vì nuôi cán bộ . Anh Suốt bị giết, bà Nhan bị chặt đầu ... lưng Tnú ngang dọc những vết dao, mười đầu ngón tay anh bị kẻ thù thiêu cháy . Những người con ưu tú đã ngã xuống : anh Quyết, Mai, cả đứa con thân yêu của Tnú ... nhưng cũng như cây xà nu niềm tin bất diệt vào cuộc sống đã giúp họ vươn lên, vượt qua đau thương để chờ đón ngày ngày hạnh phúc .

Nguyễn Trung Thành lấy hình tượng cây xà nu đặt trong mối tương quan mật thiết với con người không phải chỉ là gần gũi trong đời sóng sinh hoạt . Rừng xà nu còn là hiện thân của sức sỗng mãnh liệt và bất diệt . Bản năng tự bảo tồn và sự thèm khát vươn tới bầu trời và ánh sáng đã khiến rừng xà nu chiến thắng được sự huỷ diệt của đạn bom . Nghĩa là tại một nơi mà sự sống và cái chết đối diện nhau, sự sống vẫn bất diệt ngay trong sự huỷ diệt . Cũng giống như lịch sử của dân làng Xô Man , đó là lịch sử của sự sống không bao giờ bị dập tắt , một tư thế sống không hề biết cúi đầu . Thanh niên không thể nuôi cán bộ thì cụ già, và khi cụ già ngã xuống thì đến lượt Mai, Tnú , và khi Mai không còn nữa đã có Dít thay thế ... đến cả Tnú, khi mười đầu ngón tay không còn nữa, anh vẫn ra đi làm chiến sĩ giải phóng quân bởi anh nghĩ còn cử động ngón tay được nghĩa là còn khả năng cầm súng chiến đấu . ý chí của Tnú hay nói cách khác, khát vọng sống và bảo vệ cuộc sống trong anh nói riêng và của dân làng Xô Man nói chung là mạch nguồn để chiến thắng cái chết, chiến thắng bạo tàn .

Bên cạnh đó cây xà nu còn là loại cây ham ánh sáng, ham khí trời cũng giống như dân làng Xô Man yêu thích tự do . Họ biết yêu thương gắn bó với quê hương, gắn bó với cách mạng, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ : Đảng còn, Bác Hồ còn là đất nước này còn , Suy nghĩ của họ đơn sơ là vậy nhưng chân thật . Các thế hệ dân làng Xô Man, từ những người cao tuổi như cụ Mết vẫn khoẻ mạnh, quắc thước, rắn chắc như một cây xà nu lớn, hay những lớp thanh niên trẻ hơn , những lớp mang non đều nỗ lực vươn lên, vượt qua sự huỷ diệt như những cây xà nu lao vút lên bầu trời nhọn hoắt như những mũi lê .

Lấy hình tượng cây xà nu và sức sống mãnh liệt của nó , Nguyễn Trung Thành khắc hoạ sâu hơn tính cách con người Tây Nguyên : anh dũng, kiên cường . Cây xà nu trở thành hình ảnh ẩn dụ, trở thành biểu tượng cho sức sống mới và từ đó những con người hiện lên chói ngời ý chí đấu tranh và khát vọng hướng tới cuộc sống .

2 . Nhân vật Tnú .


Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lí tưởng . Nhà văn lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ỏ Tây Nguyên . Năm 1959, anh Đề đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang. Sở dĩ trong “Rừng xà nu”, ông phải đặt một tên khác vì nếu lấy tên Đề nó “người Kinh quá”, gọi bằng Tnú “không khí hơn nhiều”, Tây Nguyên hơn nhiều . Tnú là hiện thân của sự khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày cuả kẻ thù . Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn . Anh là con của dân làng Xô Man . Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu mang anh . “Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó . Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” . Chính tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống , tin vào chính mình và không hề biết sợ hãi , không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng . Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực cho cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện . Và cũng từ đấy Tnú bộc lộ một trí tuệ hơn người . “Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nước êm thàng Mĩ - Diệm hay phục , qua chỗ nước mạnh nó không ngờ” . Sức mạnh của Tnú còn được hun đúc bởi một tình yêu lớn của một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhượng nhìn . Vậy mà bằng ấy cái có , Tnú đã không cứu dược mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù giết hại . Mái ấm gia đình từng là mơ ước của biết bao đôi thanh niên ấy bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù . Tnú không cứu được vợ, được con , đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng . Vì sao vậy ? Vì Tnú cũng chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí . Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng mà còn nói lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn : khi một Tnú có ý chí mà tay không thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào ngạt và như đọng nắng quê hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt chính những bàn tay vẫn hằng ngày chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy .

Tnú không cứu được mẹ con Mai … Lời cụ Mết vang lên “Mày nhớ không Tnú, mày không cứu được vợ mày …Tau không nhảy ra cứu mày . Tau cũng chỉ có hai bàn tay không” . Những lời ấy của cụ Mết như một minh chứng cho qui luật : không thể chiến đấu với quân thù bằng tay không và lòng căm thù mù quáng . Chỉ còn cách cầm vũ khí , lúc đó lửa xà nu sẽ tắt trên bàn tay của Tnú . Lửa xà nu chỉ còn soi xác giặc ngổn ngang . Núi rừng Xô Man sẽ ào ào rung động . “Tiếng chuông nổi lên … và lửa cháy khắp rừng …Nghe rõ chưa các con, rõ chưa . Nhớ lấy, ghi lấy . Sau này tau chết rồi , bay còn sống phải nói lại cho con cháu : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo …” . Đó là một chân lí lớn của cách mạng miền Nam : phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.

Và có lẽ việc Tnú đi lực lượng cũng bắt nguồn từ lí tưởng đó . Anh đi lực lượng để hiện thực hóa việc “cầm giáo” mà cụ Mết truyền dạy và cũng để có điều kiện chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược . Ra đi để trả thù nước, rửa thù nhà . Dù bàn tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng cử động được có nghĩa là cầm súng được . Anh đi bộ đội, trở thành tấm gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man . Đối với dân làng, Tnú là một biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí . Bên cạnh cụ Mết, người cha tinh thần, Tnú là hiện thân của những khát vọng vươn lên . Mỗi một việc làm của anh đều đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi . Anh về thăm quê, cấp trên cho chỉ có một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành nghiêm túc nội qui quân đội mới là Tnú . Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhưng những ánh mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi . Bởi ở anh một lời nói , một hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và tinh thần của người dân Xô Man .

Cuộc đời Tnú, cuộc đời gắn liền với những đau thương mà không chỉ riêng anh gánh chịu . Cái đau đớn mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh . Cùng với hình tượng cây xà nu, Nguyễn Trung Thành một lần nữa lên án sự tàn bạo của kẻ thù, đồng thời nhấn mạnh khát vọng của con người , hướng tới tới tương lai và ánh sáng . Khắc sâu thêm một chân lí, cũng là lời phán quyết thiêng liêng của lịch sử : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo .

Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của anh . Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật . Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn . Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy , bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ , bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây … Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật . Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt . “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng . Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi” . Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt lũ giặc, mở ra tràn sử đấu tranh mới của dân làng . Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời . Đến cuối tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm .

Như vậy , có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện . Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy .

Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, giầu chất lí tưởng . Qua nhân vật này Nguyễn Trng Thành muốn thể hiện một số phận nhất là con đường của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân Miền nam trong quá trình đấu tranh giải phóng .

3 . Chất sử thi của “Rừng xà nu” .

Truyện ngắn “Rừng xà nu” tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi của Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, đặc biệt trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước .

Trước hết nên hiểu thế nào là khuynh hướng sử thi trong văn học . Đó là một khuynh hướng trong sáng tác nghệ thuật thiên về việc phản ánh những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính cách toàn dân. Nhân vật trung tâm trong những tác phẩm viết theo khuynh hướng sử thi thường là những con người đại diện cho giai cấp, cho dân tộc với những phẩm chất cao cả, kết tinh những gì cao đẹp nhất của cộng đòng. Và khi khẳng định, ngợi ca những anh hùng, những kì tích sáng chói ..., người nghệ sĩ không nhân danh cá nhân mà nhân danh dân tộc, nhân danh cộng đồng. Khuynh hướng sử thi thường gắn liền với khuynh hướng lãng mạn .

Trong tác phẩm “Rừng xà nu”, khuynh hướng sử thi được thể hiện khá rõ ở việc lựa chọn đề tài, việc xây dựng nhân vật, việc sử dụng hình ảnh lẫn giọng điệu của tác phẩm ... Đề tài của truyện “Rừng xà nu” nói đến vấn đề sinh tử hết sức hệ trọng không chỉ của cả cộng đồng dân làng Xô Man mà của cả dân tộc Việt Nam. Truyện viết về một thời điểm lịch sử trọng đại của cách mạng Miền Nam những năm đen tối sau Hiệp định Giơ-ne-vơ cho đến lúc Đồng khởi, nhưng đây là thời điểm tức nước vỡ bờ, nhân dân Miền Nam chuẩn bị vũ trang chiến đấu . Chủ đề của tác phẩm mang đậm tính sử thi : trước sự tàn ác của kẻ thù, nhân dân Miền Nam chỉ có một con đường duy nhất là cầm vũ khí vùng lên chiến đấu giải phóng quê hương. Những nhân vật trong tác phẩm, tiêu biểu như Tnú, cụ Mết, thực chất là những kết tinh cao độ những phẩm chất tiêu biểu của cả cộng đồng (gắn bó với dân làng, trung thành với cách mạng, căm thù giặc sâu sắc, kiên cường bất khuất, dũng cảm chiến đấu hi sinh ...) . Lí tưởng sống của những nhân vật này luôn gắn liền với vận mệnh của cả cộng đồng. Hơn nữa, các nhân vật ở đây cũng được xây dựng thể hiện sự tiếp nối giữa các thế hệ cách mạng làng Xô Man. Cụ Mết đại diện cho thế hệ cách mạng từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp, cụ truyền lại cho con cháu truyền thống oanh liệt đó của dân làng; Tnú tiêu biểu cho ý chí và sức mạnh của cả cộng đồng; Dít, Heng là thế hệ non trẻ tiếp nối cha anh ... Vì thế, tất cả só phận của mọi nhân vật đều thống nhất với nhau, thống nhất với số phận của cả cộng đồng. Điều đó cũng thể hiện rõ nét tính sử thi của tác phẩm .

Ngoài ra, chất sử thi của tác phẩm còn bộc lộ qua cách trần thuật. Câu chuyện về cuộc đời của nhân vật Tnú và cuộc nỏi dậy của dân làng Xô Man thực ra là một câu chuyện hiện đại, vừa mới diễn ra. Tuy vậy, chúng được kể như một câu chuyện của lịch sử với không khí và thái độ trang nghiêm, đầy ngưỡng vọng giống như lối kể về các tù trưởng hùng mạnh tiêu biểu cho ý chí, khát vọng và sức mạnh của cộng đồng trong các sử thi Đam San, Xinh Nhã ... của các bộ tộc Tây Nguyên .

Trong “Rừng xà nu”, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng được nhiều hình ảnh chói lọi, kì vĩ như hình cây xà nu, rừng xà nu, hình ảnh hai bàn tay bị đốt của Tnú . Giọng văn trong truyện là giọng văn trang trọng, trang nghiêm, hùng tráng . Đấy cũng là giọng văn và hình ảnh của sử thi .

Như vậy, chất sử thi thể hiện qua nhiều yếu tố của tác phẩm , đặc biệt trong việc khắc hoạ tư tưởng, chủ đề của “Rừng xà nu” .

III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ .

Rừng xà nu là truyện của một người nhưng qua đó ta thấy được số phận của cả một dân tộc . Đó là bức tranh hoành tráng , hoành tráng trong hình ảnh, với vóc dáng vạm vỡ của cao cả của rừng núi và của con người và hoành tráng trong âm hưởng với lời văn đầy nhịp điệu, khi vang động, khi tha thiết trang nghiêm .

(Sưu tầm)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

HƯỚNG DẪN

A.TÁC GIẢ


- Nguyên Ngọc – Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu. Ông vốn là nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp với tiểu thuyết nổi tiếng Đất nước đứng lên. Đó là ngòi bút gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, có nhiều thành tựu nhất khi viết về Tây Nguyên.

B.KIẾN THỨC CƠ BẢN


1. Hoàn cảnh sáng tác:
Truyện ngắn Rừng xà nu được viết vào mùa hè năm 1965, khi đế quốc Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam nước ta. Tác phẩm in lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ giải phóng (số 2/1965). Sau in trong tập Truyện và kí Quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969). Rừng xà nu mang đậm chất sử thi, viết về những vấn đề trọng đại của dân tộc; nhân vật trung tâm mang những phẩm chất chung tiêu biểu cho cộng đồng; giọng điệu ca ngợi, trang trọng, hào hùng.

2. Hình tượng cây xà nu – rừng xà nu:


Đây là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình tượng cây xà nu – rừng xà nu nổi bật, xuyên suốt tác phẩm, vừa mang ý nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng.

a. Cây xà nu được miêu tả cụ thể, gắn bó với con người Tây Nguyên


- Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm trước hết như một loài cây đặc thù, tiêu biểu của miền đất Tây Nguyên. Mở đầu và kết thúc tác phẩm cũng bằng hình ảnh cây xà nu à Cây xà nu, rừng xà nu như chính dân làng Xô Man, như người Tây Nguyên nơi núi rừng trùng điệp.

- Cây xà nu gắn bó thân thiết với cuộc sống người dân Tây Nguyên trong sinh hoạt hằng ngày, trong kí ức của người Xô Man, trong đấu tranh chống giặc; là lá chắn bảo vệ làng Xô Man trước đạn pháo của giặc…

b. Cây xà nu tượng trưng cho phẩm chất và số phận con người Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ.

- Thương tích mà rừng xà nu gánh chịu do đại bác của kè thù gợi nghĩ đến những mất mát, đau thương mà đồng bào làng Xô Man đã phải trải qua trong thời kì cách mạng miền Nam bị khủng bố khốc liệt.

- Trong bom đạn, chiến tranh thương tích đầy mình cây xà nu vẫn hiên ngang vươn lên mạnh mẽ như người dân Tây Nguyên kiên cường bất khuất, không khuất phục trước kẻ thù.

- Cây xà nu rắn rỏi, ham ánh mặt trời tựa như người Xô Man chân thật, mộc mạc, phóng khoáng, yêu cuộc sống tự do.

- Rừng xà nu bạt ngàn, rừng xà nu trùng trùng lớp lớp các thế hệ nối tiếp cũng là thể hiện sự gắn bó, sức mạnh đoàn kết và sự nối tiếp bất tận của các thế hệ, gợi liên tưởng đến sức sống vô tận, bền bỉ, bất diệt của con người Xô Man (Chú ý kết cấu vòng tròn: Mở đầu, kết thúc là hình ảnh của rừng xà nu, cùng với sự trở về của Tnú sau ba năm xa cách).

- Rừng xà nu tạo thành một bức tường vững chắc hiên ngang trước bom đạn cũng là biểu trưng cho sức mạnh đoàn kết của người dân Tây Nguyên khiến kẻ thù phải khiếp sợ.

c.Kết luận:


- Cây xà nu tượng trưng cho số phận đau thương và phẩm chất anh hùng của người dân làng Xô Man nói riêng cũng như nhân dân Tây Nguyên nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

- Được xây dựng với cảm hứng sử thi hoành tráng, bút pháp lãng mạn.

- Kết tinh giá trj tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.

3.Hình tượng nhân dân làng Xô Man:
Được miêu tả tương ứng với rừng cây xà nu qua nhiều thế hệ, thể hiện sự tiếp nối và trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong sự nghiệp chống Mĩ cứu nước.

a. Cụ Mết:


- Là thế hệ đi trước, tham gia chống giặc từ thời chống Pháp

- Là cây xà nu đại thụ của làng Xô Man (được miêu tả qua dáng vẻ, cách nói, bản lĩnh, tấm lòng yêu thương đối với dân làng, đối với quê hương,…)

Hình ảnh biểu tượng cho sức mạnh tinh thần có tính truyền thống, cội nguồn của các dân tộc Tây Nguyên.

- Là linh hồn của cuộc chiến đấu, là gạch nối giữa Đảng và dân làng đến với cách mạng; vững vàng, gan góc trong đấu tranh; yêu thương chăm sóc thế hệ tương lai; yêu quê hương, tự hào về quê hương của mình…)
Cụ Mết tiêu biểu cho thế hệ già làng trong cuộc đấu tranh của dân tộc.

b. Nhân vật Tnú:
Được tác giả tâp trung khắc họa tính cách lẫn số phận, mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giải phóng của nhân dân Tây Nguyên.

*Số phận:


- Nhỏ: mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống nhờ vào cự cưu mang đùm bọc của dân làng.

- Trưởng thành: Số phận của Tnú giống như số phận của người làng Xô Man:

+ Có gia đình, vợ, con nhưng đều bị giặc sát hại dã man.

+ Bản thân Tnú cũng mang thương tích trên thân thể - hậu quả của những đòn tra tấn của kẻ thù: tấm lưng lằn ngang dọc, bàn tay cụt mười ngón.

*Phẩm chất:


- Là một chú bé gan góc, táo bạo, trung thực, trung thành với cách mạng (giặc khủng bố dã man vẫn cùng Mai hăng hái vào rừng nuôi cán bộ, quyết tâm học tập để làm cán bộ, gan dạ dũng cảm khi làm giao liên, bị giặc bắt, tra tấn, quyết không khai, chỉ tay vào bụng Cộng sản ở đây…).Khi lớn lên, Tnú trở thành người lãnh đạo dân làng Xô Man bình tĩnh vững vàng chống Mĩ Diệm.

- Yêu thương vợ con, dân làng và quê hương (chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù hành hạ, biết là thất bại, anh vẫn xông ra cứu. Xa làng Tnú nhớ làng, nhớ âm thanh vfa nhịp điệu sinh hoạt của làng; khi về, anh nhớ tất cả mọi người…).

- Biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân để dũng cảm chiến đấu, trả thù cho quê hương và gia đình (Khi xông ra cứu vợ con, anh bị bắt đốt mười đầu ngón tay, Tnú quyết không kêu van à tiếng thét của anh trở thành hiệu lệnh cho dân làng giết giặc. Dù mất vợ con, dù hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt, Tnú vẫn nén đau thương, tham gia lực lượng vũ trang để góp phần giải phóng quê hương…).

- Có tinh thần kỉ luật cao: Ba năm đi bộ đội, dù nhớ làng nhưng được phép cấp trên mới dám về thăm làng. Khi được về thăm làng, dù rất lưu luyến song anh chấp hành đúng qui định, ở lại một đêm rồi đi…

*Tác giả đặc biệt miêu tả đôi bàn tay của Tnú, gây ấn tượng sâu sắc và đậm nét, qua đó hiện lên cả cuộc đời và tính cách nhân vật (bàn tay khi còn lành lặn là bàn tay trung thực, nghĩa tình: Cầm phấn học chữ, cầm đá mài giáo, đặt lên bụng khi bị tra tấn, cầm tay Mai; với hai bàn tay không xông ra cứu vợ - Bàn tay bị giặc đốt cụt, trở thành mười ngọn đuốc trở thành chứng tích tội ác của kẻ thù – Bàn tay còn hai đốt vẫn cầm được súng để bảo vệ quê hương…).

Tóm lại:


- Tnú là nhân vật có tính sử thi: số phận và phẩm chất của anh ta tiêu biểu cho con người Xô Man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung.

- Cảm hứng, giọng điệu chủ đạo là ca ngợi.

- Làm phong phú thêm chân dung con người Việt Nam anh hùng trong kháng chiến chống Mĩ.

c. Dít:


Cùng với Tnú là đại diện cho thế hệ thanh niên, là lực lượng chiến đấu chính của dân làng – những cây xà nu đã trưởng thành.

-Phẩm chất gan dạ, dũng cảm.

-Tôn trọng kỉ luật.

d. Bé Heng:

Đại diện cho thế hệ măng non sẵn sàng tiếp bước cha anh. Rất háo hức tham gia đánh giặc, rất thông thuộc, tự hào về trận địa của dân làng.

Tóm lại:
Các thế hệ nhân dân Xô Man tiếp nối trong cuộc chiến đấu, càng về sau càng lớn mạnh. Nhà văn đã xây dựng được hệ thống nhân vật tiêu biểu, có tác dụng làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ.

4. Nghệ thuật
: Đặc sắc, đậm đà chất sử thi hùng tráng. Chất sử thi toát lên qua đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật, hình ảnh thiên nhiên, các chi tiết nghệ thuật, giọng điệu, ngôn ngữ qua tác phẩm:

+ Đề tài, xung đột
có ý nghĩa lịch sử: sự vùng dậy của dân làng Xô Man chống Mĩ Diệm.

+ Bức tranh thiên nhiên
hùng vĩ, hoành tráng. Rừng xà nu làm nền cho bức tranh về cuộc đấu tranh chống giặc (cả rừng…ào ào rung động, lửa cháy khắp rừng).

+ Các nhân vật tiêu biểu
được miêu tả trong bối cảnh trang nghiêm, hùng vĩ, vừa mang phong cách Tây Nguyên vừa mang phẩm chất anh hùng thời đại.

+ Giọng điệu, cảm hứng:
chuyện về sự nổi dậy của dân làng và cuộc đời Tây Nguyênú được kể lại trong đêm anh về thăm làng, qua lời cụ Mết, bên bếp lửa bập bùng – Giọng kể trang trọng như truyền cho thế hệ con cháu những trang sử bi thương và anh hùng của cộng đồng. Chuyện về thời hiện tại được kể bằng giọng điệu và cảm hứng ngợi ca.

C.KẾT LUẬN:


Tác phẩm đã khắc họa được tập thể nhân dân anh hùng, gắn bó với nhau trong thời đại anh hùng, vừa mang dấu ấn của thời đại chống Mĩ, vừa mang phóng cách của núi rừng Tây Nguyên.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top