Phân tích tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi

small star

Moderator
Xu
94
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM (TRUYỆN NGẮN) NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH CỦA NGUYỄN THI

Bài gợi ý:

I. Về thể loại - loại hình

Là một truyện ngắn tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam 1945 - 1975, Những đứa con trong gia đình hiển nhiên mang đậm tính sử thi và giàu cảm hứng lãng mạn (xem thêm phần viết về tính sử thi ở bài Rừng xà nu). Tuy vậy, nói đến tác phẩm này, người ta không thể không nói đến tính hiện thực sâu sắc của nó. Nguyễn Thi quả là một nhà văn hiện thực chủ nghĩa đích thực. Trong khi chịu sự chi phối của bối cảnh sáng tạo chung, ông vẫn kiên trì theo đuổi những nguyên tắc sáng tạo của mình, cố gắng tái hiện cho được diện mạo chân thực của hiện thực thông qua những tính cách điển hình, hoàn cảnh điển hình. Để xây dựng các tính cách điển hình, hoàn cảnh điển hình đó, ông rất chú ý tới mối quan hệ giữa tính cá thể, cá biệt và tính khái quát của hình tượng. Sự chính xác và sống động của các chi tiết luôn được đề cao. Chi tiết nào cũng gây ấn tượng, như được lấy "trực tiếp" từ đời sống, nóng hổi, giàu sức biểu hiện, giàu tính thẩm mỹ. Chính công việc chuẩn bị tư liệu chu đáo, cẩn thận, việc ghi chép miệt mài những điều mắt thấy tai nghe vào sổ tay đã hỗ trợ đắc lực cho Nguyễn Thi ở phương diện này. Đọc từng trang viết của ông, ta cảm nhận được một trữ lượng dồi dào những kinh nghiệm sống thấp thoáng ở phía sau. Truyện ngắn mà nhiều khi có sức chứa của một tiểu thuyết lớn. Tham vọng khái quát của nhà văn luôn được thể hiện thông qua cách ông sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau, nhưng tham vọng đó không hề khiến ông quên đưa ra những đường nét chạm khắc rạch ròi về nhân vật, bối cảnh. Sự hứng thú quan sát, miêu tả ngôn ngữ, tâm lí nhân vật, sự vận dụng đầy ý thức ngôn ngữ Nam Bộ trong trần thuật có mối liên hệ lô gích với động cơ sáng tạo này. Ngoài ra, việc học tập kinh nghiệm của các nhà tiểu thuyết hiện đại phương Tây trên vấn đề tái hiện dòng ý thức của nhân vật cũng được chú ý đúng mức, tạo nên những trang viết xuất thần, hiếm quý (đoạn miêu tả dòng hồi tưởng, suy nghĩ của nhân vật Việt khi bị thương nằm lại trên trận địa là một ví dụ cụ thể, điển hình).

Tuy là một truyện ngắn hoàn chỉnh, có cấu trúc chặt chẽ, nhưng rất có thể, với chính
Nguyễn Thi, Những đứa con trong gia đình vẫn còn mang nhiều tính tư liệu. Phải chăng, trong khát vọng sáng tạo của nhà văn, đây mới chỉ là bước chuẩn bị cho một công trình đồ sộ hơn, xứng tầm với cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc mà ông mong muốn được hoàn thành. Cảm nhận được điều đó, độc giả ngày nay không thể không thấy tiếc nuối khi nghĩ về sự ra đi quá sớm của Nguyễn Thi - một hiện tượng "bùng nổ về tài năng" (đánh giá của Nguyên Ngọc) trong thế hệ các nhà văn trưởng thành sau cách mạng tháng Tám.


II. Tiếp cận văn bản

Nguyễn Thi
là một nhà văn - chiến sĩ mà cuộc đời và sự nghiệp sáng tác đã để lại nhiều bài học lớn cho cả một thế hệ nhà văn thời chống Mĩ. Ông đã hi sinh ở mặt trận Sài Gòn trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Trong di sản văn học viết về chiến tranh của ông, có tác phẩm đã hoàn chỉnh, có tác phẩm mới ở dạng phác thảo nhưng tất thảy đều ngồn ngộn chất sống và giàu tính thẩm mĩ chứng tỏ tác giả của nó là một tài năng văn học lớn.

Từng sống ở Nam Bộ trước Cách mạng và sau này lại tham gia chiến đấu trên chiến trường ấy,
Nguyễn Thi rất hiểu con người và cảnh vật nơi này. Có thể nói ông là nhà văn của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ác liệt. Ông đã trút tấm huyết xây dựng họ thành những nhân vật văn học đáng nhớ đầy cá tính, có lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc, sống bộc trực, hồn nhiên, giàu tình nghĩa.

Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi rút từ tập Truyện và kí xuất bản năm 1978. Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân một lòng một dạ đi theo cách mạng và có những mối thù riêng đối với quân giặc. Chiến và Việt - hai chị em đồng thời là hai nhân vật chính của tác phẩm không còn cha mẹ. Cha bị địch giết hồi chín năm (kháng chiến chống Pháp) còn mẹ thì chết vì trúng đạn đại bác Mĩ. Họ lớn lên trong sự dìu dắt, đùm bọc của ông Năm (người chú ruột) và sau này là của đoàn thể, đồng đội (một gia đình mới thân thiết của họ). Tuy nói chuyện một gia đình nhưng tác phẩm của Nguyễn Thi có khả năng ôm trùm hiện thực rộng lớn. Số phận của mấy chị em ở đây cũng như cảnh ngộ gia đình họ không phải chỉ có ý nghĩa cá biệt. Có biết bao người, bao gia đình cũng phải gánh chịu những mất mát và đã vượt lên như thế trong cuộc chiến tranh khốc liệt này. Hình tượng cuốn sổ gia đình được nhắc tới mấy lần trong truyện có ý nghĩa nghệ thuật rất quan trọng. Nó hé lộ cho ta thấy ý đồ nghệ thuật của nhà văn muốn qua câu chuyện một gia đình mà đề cập những vấn đề khái quát hơn. Lời của chú Năm trong truyện đã nói lên điều đó : "Chú thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó. Chú kể chuyện con sông nào ở nước ta cũng đẹp, cũng lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, chị em Việt lớn lên rồi sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta". Thông thường, sự khái quát nghệ thuật của Nguyễn Thi là như vậy. Nó luôn tự nhiên như đời sống do bắt mạch thực sự được vào cuộc sống.


Trên một ý nghĩa khác, hình tượng cuốn sổ ngầm chứa chức năng lí giải chiều sâu hành động hiện tại của các nhân vật. Cuốn sổ ghi chép đủ những sự việc đáng nhớ xảy ra với gia đình lớn của chị em
Chiến - Việt, từ chuyện người nào bị giặc giết vào ngày nào đến chuyện ai bị chúng nhục mạ ra sao. Đặc biệt, cuốn sổ kể khá tỉ mỉ từng chiến công đánh giặc của các thành viên gia đình, trong đó có chiến công của Chiến và Việt theo du kích bắn tàu Mĩ trên sông Định Thuỷ. Cuốn sổ - ấy là lịch sử một gia đình, nó cho thấy truyền thống và sự tiếp nối. Nó là một hình thức giáo dục lòng tự hào về truyền thống mà chú Năm rất có ý thức xây dựng cho thế hệ con cháu. Chú nói : "Chừng nào bây trọng trọng (lớn lớn) tao giao cuốn sổ cho chị em bây". Câu nói ấy cũng rất mực tự nhiên mà chứa đầy ý nghĩa. Chính thế hệ mới sẽ là người viết tiếp những trang mới, vẻ vang cho truyền thống. Không thể nói mọi chiến công mà Chiến và Việt lập được lại không liên quan tới cuốn sổ gia đình này. Kể lại sự việc nhưng không bao giờ quên khám phá chiều sâu của nó chính là thuộc tính bản chất của ngòi bút Nguyễn Thi.

Nguyễn Thi rất có biệt tài dựng người, dựng cảnh. Vốn sống của ông phong phú khiến cho các chi tiết mà ông lẩy ra bao giờ cũng như giẫy trên trang sách, rất sinh động. Nhiều nhân vật chỉ xuất hiện thoáng qua trong truyện nhưng đã kịp để lại một ấn tượng khó quên, cả về hành động lẫn ngôn ngữ. Chú Năm của Chiến, Việt thật dễ nhớ với "giọng hò đã đục và tức như gà gáy" ("Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu chuyện, thế nào chú cũng hò lên mấy câu"). Giọng hò của người đàn ông trung niên này tuy không hay nhưng chứa đựng một cái gì đó thật tha thiết khiến cho chị em Chiến, Việt tuy thấy buồn cười nhưng vẫn rất cảm động. Theo như lời kể trong tác phẩm, ông ít nói, nhưng những câu nói của ông được hai chị em nhân vật chính khắc ghi trong tâm khảm. Nó tương tự như những châm ngôn kết tinh của cả một đời từng trải sông nước, lăn lộn với ruộng vườn và thuỷ chung một dạ với cách mạng. Bên cạnh nhân vật chú Năm, hình ảnh người má của chị em Chiến, Việt cũng hiện lên với những nét chạm khắc rạch ròi. Đó là người đàn bà xốc vác, gan dạ, giỏi thu xếp cả việc chung lẫn việc riêng. Nguyễn Thi đã chọn được nhiều chi tiết thật tài tình để xây dựng chân dung con người ấy. Nào là chuyện bà đi đấu tranh về bị cà nông giặc bắn đuổi theo, một trái rơi bịch trước mặt, không nổ, "bà đén dòm dòm rồi bỏ luôn vào rổ, cắp về" ; nào chuyện bà bế con, dắt con đi đòi đầu chồng từ ấp trong tới ấp ngoài, vượt qua sông về tới quận ; nào chuyện bà tần tảo sớm hôm làm lụng nuôi con, miệng nói, tay làm, chưa dứt câu dặn con mà chân đã "đẩy xuồng ra tuôt giữa sông"... Đặc biệt, chi tiết bà đối mặt với quân thù hai bàn tay to bản "phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân" hoặc "dùa đàn con lại đàng sau tránh đạn" đã cho ta hình dung đặc biệt rõ nét hình ảnh một người mẹ nơi Thành đồng Tổ quốc những năm đánh Mĩ.


Hai nhân vật được khắc hoạ đậm nét trong tác phẩm là Chiến và Việt. Chiến là chị. Theo lời chú Năm, cô "không khác mẹ một chút nào". Ngay cả Việt cũng nhận thấy thế. Cô có đức tính kiên trì, chịu khó, chỉ nội một việc bỏ ăn để ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ trưa cho tới lúc trời chạng vạng đã đủ chứng tỏ điều đó. Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính gan góc. Trong ngày tòng quân, cô nói với em : "Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu : Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à !". ở cô, khả năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ. Trước khi cùng em đi bộ đội, mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ, chu đáo, "nói nghe thiệt gọn" khiến cho chú Năm cũng phải có chút sững sờ, "nhìn hai cháu thiệt lâu" rồi nói : "Khôn ! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước". Câu nói của chú Năm thể hiện sự yên tâm của thế hệ trước đối với lớp người sau. Rõ ràng, họ đã trưởng thành, có thể gánh vác được những việc lớn của đất nước.


Khác với chị Chiến đã có dáng dấp của một người lớn thực thụ dù đôi lúc còn tranh giành với em, Việt còn giữ nguyên tính chất của một cậu bé. "Cậu Tư" này trong gia đình có điệu cười "lỏn lẻn" rất dễ thương. Cậu ta thường ngày vẫn hay tranh phần hơn với chị, từ chuyện bắt ếch đến chuyện đòi đi bộ đội trước chị. Cậu còn vô tâm vô tính, phó mặc chuyện nhà cho chị "Tôi nói chị tính sao cứ tính mà". Trong khi chị bàn những việc phải làm ngày mai, Việt vẫn đùa nghịch "chụp một con đom đóm úp trong lòng tay" và thú vị quan sát điệu bộ, cử chỉ, cách nói năng "in hệt má" của chị. Vào bộ đội rồi, cậu ta "giấu chị như giấu của riêng vậy" vì sợ mất chị trước những lời gạ gẫm đùa tếu của anh em. Trong hành trang người lính của mình, ngoài cái võng, bộ quân phục, Việt còn mang theo cái ná thun (súng cao su) - một vật bất li thân từng gắn bó từ ngày cậu "để đầu trần, mình mẩy tèm lem sình đất từ chỗ móc mương lên, lội tắt trong vườn, đi tìm chim". Tuy còn rất trẻ con như thế, Việt đã chiến đấu rất dũng cảm không thua kém ai. Việt đã dùng thủ pháp tiêu diệt được một chiếc xe bọc thép của địch. Bị thương,
Việt quyết bò đi tìm đồng đội. Nghe tiếng xe, pháo của giặc, Việt nằm chờ với tâm niệm : "Tao sẽ chờ mày ! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này chỉ còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày ! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy". Có bao nhiêu là quyết tâm, bao nhiêu là niềm trìu mến với đồng đội, bao nhiêu là sự coi thường, khinh bỉ kẻ thù thể hiện qua lời độc thoại ấy. Quả thực, Việt đã là một người lính chững chạc trong khi còn mang đầy đủ nét thơ ngây, trong sáng, đáng yêu của một cậu bé vừa đến tuổi thành niên.

Nhìn chung, trong khi xây dựng nhận vật, Nguyễn Thi rất quan tâm đến việc cá thể hoá. Nhân vật nao cũng có những nét riêng, độc đáo hiện lên mồn một trước mắt độc giả. Chú Năm nói khác má Việt và Việt nói khác chị Chiến. Lời nói của ai thể hiện rõ tính cách người đó. Nhưng mặt khác, nhà văn cũng có ý thức nhấn mạnh điểm giống nhau giữa họ. Chẳng thế mà ông nhiều lần qua lời chú Năm, qua lời Việt so sánh Chiến với người má của cô, và để người má ấy nói về Việt : "Đó, lại giống cái thằng cha nó rồi !". Nói lên điểm giống nhau ở đây tức là nói đến nét bền vững trong truyền thống một gia đình giàu tinh thần cách mạng, có lòng căm thù giặc sâu sắc, sống rất mực tình nghĩa thuỷ chung. Đây chính là điểm nút sẽ giúp ta lí giải được sức mạnh tinh thần nào đã giúp các nhân vật vượt qua được những thử thách lớn lao, gay gắt đến như vậy. Mở rộng ra, đấy cũng là điểm nút khiến cho mọi chi tiết, sự việc được mô tả trong tác phẩm quy tụ lại, thống nhất ở tinh thần chung là khẳng định những phẩm chất đẹp đẽ của người dân Nam Bộ trong chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Nhiều câu nói thốt ra từ miệng chú Năm hay từ miệng má Việt, vì vậy, có tầm khái quát triết lí, mang âm vang triết lí của cả một dân tộc bất khuất, dù nó được biểu hiện ra trong một hình thức rất mực giản dị - giản dị đến bất ngờ (chẳng hạn câu của má Viêt : "người chết có cái vui của người chết, nếu không, người ta sanh con ra làm gì ?"). ở đây, có thể nhận ra một đặc điểm trong sáng tác của Nguyễn Thi : tính triết lí rất cao nhưng đấy là triết lí của chính cuộc đời - một cuộc đời được tái hiện sinh động qua những biểu hiện mang tính bản chất. Ta có thể chứng minh thêm cho điều vừa nói bằng vào chi tiết "cực đắt" sau đây mà nhà văn đã đưa vào cuối tác phẩm : chi tiết hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm : "Chị Chiến đứng ra giữa sân, k** cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác". Khó mà không dẫn hết ra đoạn văn đầy xúc động này. Nó đã nói lên hết sức cô đọng về cuộc chiến đấu của chúng ta : có yêu thương, có căm thù, có cái mất mát nhưng có cái vĩnh hằng, có sự quyết liệt nhưng cũng có sự thanh thản, có yếu tố hành động nhưng cũng có yếu tố tâm linh... Và mùi hoa cam, nó chỉ thoảng qua một lần mà thơm mãi. Trong văn Nguyễn Thi, mùi hương "trữ tình" này thường chỉ được dùng rất dè sẻn, nhưng chính vì vậy mà nó vô cùng quý, để lại trong lòng người đọc những cảm nghĩ sâu xa.


Một thành công nữa rất cơ bản của
Nguyễn Thi trong Những đứa con trong gia đình là nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Ta đã thấy phần nào điều đó qua việc phân tích cái tài của ông khi lựa chọn các chi tiết đặc sắc làm nổi bật cá tính nhân vật ở trên. Cần đặc biệt lưu ý rằng truyện ngắn này được tổ chức dựa trên dòng hồi ức của nhân vật Việt khi bị thương trên trận địa. Miêu tả tâm lí của người tỉnh táo đã khó mà ở đậy lại là tâm lí của con người luôn nằm trong trạng thái giữa mê và tỉnh, hiển nhiên nhiệm vụ nghệ thuật đặt ra càng khó bội phần. Nhưng nhà văn đã thể hiện một cách xuất sắc trạng thái "chập chờn cơn tỉnh cơn mê" đó của nhân vật. Bốn lần Việt "tỉnh dậy" trên trận địa, mỗi lần Việt nhớ gì, nghĩ gì đều được nhà văn miêu tả rất cụ thể, tinh tế và chính xác. Thông thường, mạch hồi tưởng của nhân vật trong bước khởi đầu phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố dẫn dụ của ngoại cảnh. Tác giả hiểu điều đó rất rõ. Tâm lí con người tuy phức tạp nhưng vẫn diễn biến một cách có lôgic. Lần thứ hai Việt tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu dậy lên, Việt tự nhiên nhớ về những đêm đi soi ếch, nhớ "Khi đổ ếch vào thùng, chú Năm thế nào cũng sang". Thế là hình ảnh chú Năm hiện lên với những câu hò và cuốn sổ gia đình cùng ý nghĩa của nó. Lần thứ ba Việt tỉnh dậy, tiếng cu rừng nhắc Việt nhớ tới chiếc ná thun, rồi chiếc ná thun nhắc tới hành trang trong chiếc ba lô ngày nhập ngũ, ngày nhập ngũ là ngày má Việt vừa mất, thế là nỗi nhớ "chuyển vùng" sang hình ảnh của người má thân yêu. Việt tỉnh dậy lần thứ tư trong tiếng súng thôi thúc. Sự thôi thúc ấy khiến Việt liên hệ tới ý nghĩ thôi thúc ngày đi bộ đội, liên hệ chuyện chị em giành nhau nhập ngũ trước, sau đó là chuyện mang bàn thờ má đi gửi bên nhà chú... Nhìn chung nhà văn nắm rất chắc quy luật diễn biến tâm lí con người. Ông đã kh** l** tạo cho tác phẩm một hình thức kết cấu độc đáo tương đồng với "kết cấu" của những giấc mơ chập chờn, từ đó cứ mở rộng dần đối tượng được miêu tả và đi mỗi lúc một sâu vào đời sống tâm hồn của nhân vật.

Trong khi làm sáng tỏ tâm lí nhân vật, nhà văn đã sử dụng một ngôn ngữ trần thuật đặc biệt phù hợp. Đấy là ngôn ngữ của chính nhân vật nói về mình và kể về người khác, mặc dù bề ngoài có vẻ là ngôn ngữ khách quan của người trần thuật. Điều đó thể hiện ngay ở cách xưng hô rất đỗi thân thương, gắn bó : "Việt" (chứ không phải là "anh" hay "chú bé"), "chị Chiến" (chứ không phải là "cô", "chị"), "chú Năm" (chứ không phải là "ông Năm"), "má" (chứ không phải là "má Việt")... Điều đó cũng thể hiện ở màu sắc địa phương của lời trần thuật (chưa kể đến lời nói thực thụ của nhân vật): "Chú ít nói, nhưng đã nhậu vào ba hột là chú nói tới", "Thím Năm vừa khóc vừa kể thôi là kể", "Hai bên giáp mặt, ba cười hề hề, nhưng má chẳng thèm dòm, hai mắt hứ một cái "cóc", rồi đi thẳng"... Thật khó kể hết được những ví dụ sinh động như thế. Nhiều người từng biểu dương Nguyễn Thi rất thạo ngôn ngữ Nam Bộ. Cần phải thấy rằng cách sử dụng ngôn ngữ của ông ở đây trước hết có tác dụng làm nổi bật tâm lí những con người sống ở vùng đất ấy, sau nữa mới gọi dậy không khí của một vùng, của một thời...


st
 
Bạn nào tốt bụng post giúp tui bài văn này với khó quáT_T...........
Đề bài nè: Qua tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" em hãy hình dung về nhân vật Chiến.
 
Bạn nào tốt bụng post giúp tui bài văn này với khó quáT_T...........
Đề bài nè: Qua tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" em hãy hình dung về nhân vật Chiến.
Em tham khảo 2 bài này nhé:

Bài 1:
Nhà văn Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Ca , người Nam Hà . Ông vào Nam từ năm 1945 , gia nhập quân đội và viết văn dưới bút danh Nguyễn Ngọc Tấn . Tập kết ra Bắc năm 1954 , năm 1962 ông trở lại miền Nam lần thứ hai , viết văn dưới bút danh Nguyễn Thi . Ông thuộc lớp nhà văn cầm súng , ông hi sinh trong vị trí , tư thế chiến đấu giữa mùa xuân tiến công và nổi dậy năm 1968 trong trận đánh vào Sài Gòn . Là nhà văn chiến sĩ , Nguyễn Thi có nhiều đóng góp cho nền văn học cách mạng . Một trong những đóng góp đáng kể của ông về nghệ thuật là sự thể hiện thành công ở truyện "Những đứa con trong gia đình" . Truyện viết năm 1966 , lúc Bến Tre đã đồng khởi , nhân dân miền Nam đã cầm vũ khí đánh lại Mỹ-Nhật giải phóng quê hương . Trong tác phẩm , Chiến và Việt lớn lên trong cảnh tan tóc của gia đình và trong cuộc đồng khởi vĩ đại của quê nhà .

Tác giả Nguyễn Thi đã sử dụng nghệ thuật đồng hiện trong tác phẩm này , đây là một thủ pháp khá quen thuộc về kết cấu tác phẩm , một yếu tố thuộc về hình thức . Như ta đã biết , kết cấu là việc tổ chức , sắp xếp các yếu tố nội dung trong văn bản tác phẩm để nó đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất . Thủ pháp đồng hiện góp vai trò quan trọng trong công việc này . Nó là một trong những thủ pháp tạo ra được lối kết cấu độc đáo . Từ đó , cốt truyện nhân vật , chủ đề được thể hiện , gây hiệu quả nghệ thuật sâu sắc . Dựa vào suy nghĩ của mình , tác giả thể hiện các sự kiện trong một thời điểm , các nhân vật trong cả hai mảng thời gian hiện tại và quá khứ đan xen nhau rất có hiệu quả .

Sau một cuộc giao tranh quyết liệt giũa đơn vị của Việt và một chiến đoàn Mĩ , Việt lạc đơn vị giữa rừng đầy xác giặc , chân tay tê dại nhức nhối , khắp người rỉ máu , miệng tê cứng không la lên được , sau đó ngất đi . Nhưng Việt vẫn cố bò đi và sẵn sàng chiến đấu bằng khẩu súng của mình.Mười ngón tay không lên đạn được.Việt dùng răng giật cơ bẩm, đưa một viên đạn lên nòng .Chi tiết này nói lên ý chí diệt giặc của Việt rất mạnh mẽ.Trong tâm trạng thì luôn nhớ tới chị (cùng di bắt ếch và giành phần nhiều),tới chú Năm ( thường bênh mình và ghi sổ gia đình -đó là cuốn nhật kí,một cuốn sử nhà đặc biệt,ghi chép những tội ác của kẻ thù,nỗi đau và thành tích của từng người trong gia đình). Sang tới ngày thứ hai,Việt bắt đầu cảm thấy nóng và đói ,mắt bị thương nặng, đau khắp người . Đến đây hoàn cảnh của Việt càng gay go.Người chiến sĩ trẻ,người thương binh đang lạc đồng đội này phát hiện mình không thấy gì . Đường tìm về với đồng đội càng khó khăn gấp bội . Dù vậy ,anh vẫn sẵn sàng nổ súng với một ngón cái hơi nhúc nhích do chín ngón còn lại đã bị thương .Tâm trí thì nhớ về ngày tòng quân ,nhớ ngày theo má đi đòi đầu ba,nhớ má tần tảo lo nuôi các con và dò bọn lính ,nhớ tới cái chết tức tưởi của má .Trong hoàn cảnh hiểm nghèo , Việt không sợ chết mà (chỉ sợ không còn gặp được đồng đội,không còn được cầm súng)mà hướng về ba má,nhớ đến cái chết đau thương của ba má .Khi về đêm thì Việt cảm thấy kiệt sức hoàn toàn,cảm thấy không còn bò được nữa,cảm giác sờ sợ cái vắng lặng ,lạnh lẽo của đêm tối.Lúc này tâm trạng Việt luôn hướng về đồng đội , điều đó rất hợp lí vì Việt đã nghe thấy tiếng súng,tiếng kèn xung phong của ta và đang cảm thấy cuộc chiến đấu bùng ra .Do đó,Việt lại bò được một đoạn ,bò về phía trận đánh,phía đồng đội,phía sự sống .

Nhưng trận đánh ở xa Việt ,cho nên tâm trí Việtlắng lại ,hồi tưởng ngày giành đi bộ đội với chị Chiến và cảnh hai chị em bàn định việc nhà trước khi lên đường gia nhập ngũ.Cảm động nhất là khi hai chị em bàn và gửi bàn thờ má: đối với hai chị em dường đó là việc hệ trọng nhất .Nghĩ gì thì cuối cùng cũng vẫn đọng lại suy nghĩ về má.Hai chị em lo cúng má trước khi dời bàn thờ (càng cảm động hôn khi hai người lo làm cơm cúng má trong tiếng hò như vỡ ra ,nhắn nhủ,tha thiết rồi ngắt lại như một lời thề dữ dội của chú Năm).Và đối với hai chị em,dường như má vẫn còn sống(thoạt đầu Việt tin má đã về ngồi đâu đó thật,cuối cùng lúc khiêng bàn thờ,tác giả đã nương theo ý nghĩ của nhân vật, để hai chị em đóng vai trò kể chuyện -trước đó trác giả đứng ra kể chuyện-mà dùng các từ ngữ "đưa má sang ở tạm nhà chú","khiêng má"- chứ không phải khiêng bàn thờ-rồi đến cái ngày độc lập lại "đưa má về".Cũng qua cảm nghĩ của hai chị em và của riêng Việt ở đoạn này (chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má ...Việt thấy thương cho chị.Còn mối thù thằng Mỹ nó đang đè nặng trên vai...)ta thấy hai nhân vật trẻ này nhập ngũ không phải vì ý thích nông nổi mà do chiều sâu nhận thức:di đánh giặc vì căm thù và yêu thương sâu nặng .Việt đã nhìn lại quá khứ bằng con mắt của ý chí ,của tâm tưởng.Qua đó nhân vật bộc lộ nghị lực, ý chí,tinh thần chiến đấu cao và tình yêu thương đậm đà,hồn nhiên.Tuy Việt hay tranh giành với chị nhưng biết nghe lời chị(lúc hai chị em bàn việc nhà),thương chị.Nhân vật này cũng thể hiện nét hồn nhiên trẻ trung,thậm chí còn tính trẻ con (chi tiết cái ná thun theo Việt đi chiến đấu,không muốn mất chị...).Chính tình chị em,chú cháu,má con, đồng đội đã tiếp sức cho Việt vượt qua thử thách khắc nghiệt .

Sang tới ngày thứ ba ,Việt được tìm thấy và đưa về quân viện.Anh có thời gian trị vết thương, đồng thời cũng có cả thời gian để mà ôn lại,nhớ lại. Ở quân y viện "hai con mắt băng kín mít" dấu tích của người lính dũng cảm.Việt "với cây bút chì...mò mò viết thư".Anh không dám nhờ người khác viết thư cho chị.Anh sợ cái tiếng "cậu Tư".Sợ mất chị Ba quyết chiến.Anh "giấu chị như giấu của riêng vậy".Thật là ngây thơ.Cái ngây thơ đáng yêu của một người lính trẻ ,dũng cảm thật đấy,mà cũng khờ khạo trước cuộc đời.Ngay cả chuyện đùa vui của anh em theo tếu táo của lính anh cũng tưởng là chuyện thật.

Trên chiến trường ngổn nang xác giặc,Việt ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần dù đã kiệt sức,người lính trẻ ấy vẫn sẵn sàng chiến đấu tiếp nếu kẻ thù xuất hiện.Thế ma2khi nghe "ếch nhái kêu dậy lên",Việt bỗng trở thành chú bé con có "hai cái đèn soi,lóp ngóp đi"cùng chị ."Chiến và Việt ai cũng giành phần nhiều là của mình",phải nhờ chú Năm "đứng ra phân xử".Ngay cả lúc nhập ngũ,hai chị em cũng không ai chịu nhường ai đi trước ,chú Năm phải đứng ra "xin trên cứ ghi tên cho cả hai"

Qua một vài điều nói trên ,ta thấy thủ pháp nghệ thuật đồng hiện trong khắc hoạ nhân vật Việt,chủ yếu dựa trên cơ sở của phép liên tưởng ,phép bắc cầu từ sự kiện này sang sự kiện khác,từ chi tiết,nhân vật này sang chi tiết nhân vật kia...Trong sự liên kết đó,dòng hồi tưởng của nhân vật vẫn là sợi dây nối quan trọng nhất.Từ chi tiết anh em trong quân y viện họi anh là cậu Tư , Việt chợt nhớ tới chị Chiến,nhớ tới tiểu đội trưởng Tánh .Anh muốn viết thư cho chị nhưng khó có thể viết được vì hai mắt còn bị băng kín.Thế là Việt nhớ lại lần chị bị trúng bom,nhớ lại trận đánh của chính mình...Việt nhớ lại trong trận đánh,anh đã ngất đi,tỉnh lại ,bỗng nghe thấy tiếng ếch và cùng lúc đó,tuổi thơ,những ngày xa xưa uất hận cùng ùa về trong trí nhớ...Các tình tiết truyện diễn ra rất tự nhiên.Thủ pháp nghệ thuật này ta đã gặp ở truyện "Đôi mắt"của Nam Cao . Ở đó,câu chuyện cũng diễn ra trong hồi tưởng của nhân vật Hộ.Khác chăng là Nam Cao để Hộ xưng "Tôi" và tự kể.Còn ở đây,Nguyễn Thi trực tiếp miêu tả tâm trạng Việt . ông vừa miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật vừa mượn tâm trạng ấy nói lên câu cuyện mình muốn kể . Đây cũng là một lối kể chuyện độc đáo.

Vẫn bằng cách trên,theo lời độc thoại của nhân vật Việt,tác giả lần lượt giớ thiệu và đồng hiện các nhân vật Chiến,chú Nam,ba má Việt,Tánh...Cũng như Việt,Chiến tòng quân ra chiến đấu trong một tiểu đội bộ đội nữ địa phương .Chị đã chiến đấu dũng cảm,coi cái chết cũng chỉ như "chết giấc", "như ta ngủ vậy'.Chiến chỉ khác ở Việt ở chỗ là người chị cả trong gia đình nên sớm trưởng thành ,biết lo toan,tính toán già dặn hơn lứa tuổi 20 :cô gái 20 xuân này đóng vai trò một người chị với lòng yêu thương ,nhường nhịn ;một người má với nỗi lo tính khôn ngoan mọi mặt ;một người chiến sĩ với tâm hôn khát khao chiến đấu,trả thù.Có tinh thần quyết chiến cao như tên của cô "Quyết Chiến".Câu nói điển hình của cô với em : "Nếu giặc còn thì tao mất" -và cô đã trở thành tiểu đội trưởng quân địa phương.Chiến có nhiều nét giống mẹ cô (từ tính tình đến lời nói),giống như những người thời chiến phải đương đầu với hoàn cảnh thương đau quyết liệt .Chiến mang hình ảnh của má trong mình nhưng lại khác hơn vì cô đã vươn lên được mạnh mẽ với khẩu súng trong tay.

Chú Năm cũng chỉ là một nhân vật thoáng qua trong dòng tâm tưởng,gợi lên từ một tiếng ếch trên chiến trận đã im tiếng súng ...Mỗi lần Việt và Chiến soi ếch về ,chú đều "kiếm con trọng trọng đem về nhậu".Có hai đoạn văn đẹp như thơ tả đoạn chú Năm "nhậu vào ba hột là chú nói tới"hay "hò lên mấy câu".Câu hò khiến chú xúc động "đôi mắt mở to, đọng nước". Đoạn văn khi kể về cuốn sổ gia đình chú ghi,hầu để câu này "giao...chị em cất".Cuốn sổ lần về quá khứ,lẫn trong hiện tại ,không theo năm tháng. Đó là chứng tích lịch sử được khơi dậy lại ,chép lại bởi cái nhìn đa cảm ,cái yêu,cái ghét của một tư cách Nam Bộ trọng nghĩa ,bộc trực sôi nổi,yêu đời.

Ba má Việt hiện về trong Việt như những kỷ niệm về lòng yêu thương và căm thù .Tình yêu của ba má,con đường của ba và tội ác của giặc khiến chị em Việt không thể lên đường cứu nước.Những đoạn văn này Nguyễn Thi như đồng cảm với nhân vật và viết lên bằng nước mắt . Đọc thấy xúc động cùng nhân vật, đau nỗi đau cùng nhân vật .

Chính nghệ thuật đồng hiện làm cho câu chuyện thảm khốc và hào hùng , đậm đà tính người ...tưởng như chập chờn , đứt nối rời rạc...liền lại trong mạch nguồn tâm tưởng khá chặt chẽ .Chặt chẽ nhưng vẫn giữ được cái vẻ bề bộn của tầng tầng lớp lớp chi tiết trong cuộc sống thường và trong chiến trạn hồi chiến tranh .Các mảng sự kiện ,những đoạn đời trong quá khứ và hiện tại như được cố tình đan chéo vào nhau,bổ sung cho nhau một cách hợp lý,làm cho tính cách nhân vật được khắc hoạ rõ nét và chủ đề truyện được bọc lộ khá nổi bật.Lối kết cấu đặc biệt này buộc tác giả phải đi đến tận cùng trong việc phân tích và diễn đạt diễn biến phức tạp nhưng tinh tế của tâm lý nhân vật.Nó cũng đòi hỏi nhà văn phải nhập thân như người trong cuộc ,am hiểu và đồng cảm với nhân vật.Tất cả các điều này,Nguyễn Thi đều vượt qua và thể hiện rất thành công .

Truyện tái hiện hiện thực nóng bỏng của vùng quê rất đỗi thân thương với những người con chân chất hồn nhiên mang quyết tâm cao độ cầm súng trả thù nhà nợ nước,giành lại cuộc sống.Qua các nhân vật ta thấy sức mạnh truyền thống đấu tranh của gia đình ,quê hương,xứ xở. Đồng thời mỗi người lại góp một "khúc sông"xứng đáng vào con sông gia đình kiên cường,tất cả đổ vào ,tạo ra biển cả truyền thống dân tộc

Bài 2:

Những đứa con trong gia đình là một trong những thiên truyện ngắn xuất sắc nhất và tiêu biểu nhất của Nguyễn Thi.Chỗ đặc sắc nhất của truyện ở đâu? Trước hết phải nãi tới nghệ thuật kể chuyện(hay trần thuật) độc đáo, linh hoạt của nhà văn Ng~ Thi.

Tác phẩm kể chuyện một gia đình cách mạng, mọi thành viên đều là chiến sĩ diệt Mĩ kiên cường. Thù nhà nợ nước thống nhất làm một.Tình gia đình và tình cách mạng hoà lẫn với nhau:ba má Việt gặp nhau và yêu nhau và cùng cầm súng giết giặc.Họ đều ngã xuống trong chiến đấu.Những đứa con của họ (Việt và Chiến) gắn bó với nhau trong tình ruột thịt và trong niềm tự hào về truyền thống cách mạng của gia đình.Ng­ười mẹ nuôi con lớn lên để trả thù cho cha.Những đứa con giành nhau nhập ngũ để trả thù cho ba má… Một câu chuyện nh­ư thế tuy cảm động nh­ưng khá nặng nề, dễ đơn điệu và trùng lặp, nếu không tạo ra 1 cách trần thuật độc đáo linh hoạt.

Tác giả chọn lối trần thuật theo quan điểm của nhân vật,ấy là một chú lính
trẻ tên là Việt.Chú giải phóng quân này bí trọng th­ương và lạc đồng đội, một mình nằm lại giữa chiến tr­ường sau 1 trận ác chiến còn để lại khói lửa mịt mù và xác giặc ngổn ngang. Chú nhớ đồng đội, nhớ chị, nhớ chú Năm, nhớ những ngày ba má còn sống . nhớ nhưng buổi bắn chim, câu cá, bắt ếch, nhớ ngày cùng chị nhập ngũ và lên đường…Câu chuyện đc thuật kể qua dòng hồi ức của chú khi đứt khi nối bởi chú nhiều lần ngất đi rồi lại tỉnh lại.Câu chuyện vì thế không diễn ra theo trật tự thời gian, không gian tự nhiên mà theo logic chủ quan của tâm trí nhân vật hết sức biến hoá.Các sự việc, các nhân vật trong một gia đình, qua tâm sự của chú, hiện lên với 1 màu sắc tình cảm đậm đà và đầy hấp dẫn.Chuyện kể đến đâu thì tính cách nhân vật ng­ười kể chuyện càng hiện ra đến đấy một cách sinh động và đậm nét.

Đấy là 1 thủ pháp nghệ thuật nh­ưng k phải ai cũng sử dụng đc thành công. Fải am hiểu sâu sắc tâm lí nhân vật… , fai nhập vai nhân vật và nói đc đúng giọng nói của nhân vật...Đấy là sở tr­ường và tài năng độc đáo của Ng~ Thi, nhà văn ng` nông dân vùng đồng bằng Nam Bộ.
Bên cạnh nghệ thuật kể chuyện độc đáo vừa phân tích trên đây, ở truyện ngắn này Ng~ Thi còn xây dựng đc những tính cách nhân vật phong phú, hấp dẫn.

Qua dòng hồi t­ưởng của Việt, một “Đứa con trong gia đình” cách mạng, ng` ta thấy hiện lên các nhân vật: ba và má Việt,chú Năm, chị Chiến và Việt. Rất dễ dàng nhận thấy cả năm nhân vật đều cùng chung một bản chất, xé về phương diện phẩm chất cách mạng: giàu tình yêu n­ước, căm thù giặc, thủy chung và tự hào về truyền thống cách mạng của gia đình.
Ngoài ra, ở những nhân vật chính diện của Ng~ Thi th­ường có một tính chất chung này gọi là “ chất Út Tịch”.Ấy là cái tinh thần kiên c­ường gan góc,căm thù ngùn ngụt,say mê chiến đau, d­ường nh­ư sinh ra là đẻ cầm súng giết giặc.

Tuy nhiên, mỗi ng­ườii lại có 1 g­ương mặt riêng, một cá tính khác nhau.Chỗ ® đặc sắc của nghệ thuật khắc hoạ các hình t­ượng của nhân vật của Ng~ Thi là ở đó. đáng chú ý hơn cả là hai nhân vật: Việt và Chiến.

Chiến là một cô gáI mới lớn lên , tính khí còn rất “trẻ con” : tranh công bắt ếch,tranh công bắn tàu gịăc với em v.v… Ngay tr­ước khi nhập ngũ để trở thành một nữ giải phóng quân,vẫn giành nhau với em để đi bộ đội tr­ước… Nhưng khác với đứa em trai, cô có thể ngồi lì suốt một buổi chiều để đánh vần cuốn sổ ghi công gia đình của chú Năm- đây là cái chất gan lì của mẹ. Ba má mất cả, cô là chị nên sớm biết nh­ường nhịn em, sớm biết tính toán lo liệu việc nhà. Điều này thể hiện rất rõ trong giờ phút cùng em lên đường đánh giặc để trả thù cho ba má. Không phải ngẫu nhiên mà Việt thấy chị nghĩ ngợi, nói năng “ nghe in nh­ư má vậy “ . Còn chú Năm thì thật thán phục “-Khôn!Việc nhà nó thu đc gọn thì việc nc’ nó mở đc rộng,gọn bề gia thế,đặng bề n­ước non…”

Ngoài ra ở nhân vật này còn có 1 cái gì đó rất khó diễn tả, nó là cái chất trẻ trung và cái duyên dáng của cô thiếu nữ, thể hiện ở cái cử chỉ bịt miệng c­ười khi chú Năm cất tiếng hò, ở nét lông mày cau lại, chéo khăn hở ngang miệng, cặm cụi ngồi đánh vần cuốn sổ của chú Năm, ở cái tiếng “hứ một cá cóc” khi cậu em bảo mình nói năng hệt nh­ư má vậy v.v…

Việt thì tỏ ra là một cậu con trai của đồng quê , tính hiếu động(suốt ngày lang thang bắn chim,câu cá, bắt ếch, lúc nào cucng có cái ná thun trong ng` ,kể cả khi đã đi bộ đội…), hiếu thắng(bắt ếch, đánh tàu giặc,ghi tên nhập ngũ bao h cũng tranh phần hơn). Là con trai, là em(wen đc chiều chuộng) nên mỗi việc đều ỷ lại cho chị,cho chú;chỉ kém chị 1 tuổi,”trẻ con” hơn nhiều và vô tâm vô tính chẳng biết lo nghĩ gì,kể cả ngày nhập ngũ…Là con trai, Việt thường che giấu tình cảm uỷ mị,nh­ưng bản chất rất giàu tình cảm.Nằm ở chiến tr­ường, chú nhớ má,nhớ chú Năm, nhớ chị Chiến,nhớ thằnn em út, nhớ anh em đồng đội.Chú “­ước gì bh lại đc gặp má.Fải,ví nh­ư lúc má đang bơi xuồng, má sé ghé lại xoa đầu Việt,đánh thức Việt dậy,rồi lấy xoong cươm đi làm đồng để ở d­ưới xuồng lên cho Việt ăn…”Chú nhớ chị và th­ươngng chị vô cùng,tuy vẫn giành phần hơn với chị.Ở đơn vị, chú giấu biệt chị đi vì chỉ sợ lộ ra họ sẽ lấy mất chị v.v… Cách thể hiện tình cảm đích đáng nhất ở Việt là đánh giặc.Đấy là cách th­ương má, th­ương ba, th­ương chị, th­ương chú Năm, ngón tay chú vẫn đặt trên cò súng và một viên đạn đã lên đạn sẵn sàng bắn vào quân giặc…

Ngoài nghệ thuật kể chuyện,ngoài thành công trong xây dựng nhân vật,Những đứa con trong gia đình còn có những đoạn văn tuyệt hay.Ấy là đoạn Việt nhớ lại ngày chị Chiến ghi tên tòng quân và chuẩn bị lên đường.
Đêm ấy 2 chị em trò chuyện với nhau, thu xếp chuyện nhà cửa, chuyện gửi lại chú Năm bàn thờ má và thằng em út, chuyện hứa hẹn, khuyên nhủ nhau…Chị Chiến bỗng ăn nói nghiêm trang, x­ưng chị em(chứ không mày tao nh­ư mọi khi),bàn bạc, dặn dò em y hệt nh­ư giọng của mẹ x­ưa.Còn Việt thì vốn rất trẻ con,mặc chị lo toan tất cả.Nh­ưng chú nhớ má vô cùng và t­ưởng má cũng trở vvề để ngó coi chị em Việt tính chuyện nhà chuyện cửa nh­ư thế nào tr­ước lúc lên đường.Đây là đoạn đối thoại rất sinh động, vui và cảm động.

Sáng hôm sau,trc’ lúc lên đường,Chị em Việt khiêng bàn thờ má sang gửi bên chú Năm.Việt th­ương chị vô cùng, th­ương má vô cùng.Mối căm thù nặng trĩu trên vai nh­ư một trọng l­ượng cụ thể.Đây cũng là một đoạn văn có thể làm rớt nc’ mắt:

“Chị Chiến ra đứng giữa sân,kéo cái khăn trên cổ xuống,cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân ng` to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bên bàn thờ má lên.Việt ghé vào một đầu.Nào, đưa má sang ở bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má,đến chừng n­ước nhà độc lập con lại đưa má về.Việt khiêng tr­ước.Chị Chiến khiêng lịch bịch phía sau.Nghe tiếng chân chị, Việt thấy th­ương chị lạ.Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ nh­ư thế.Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể sờ thấy đc,vì nó đang đè nặng trên vai”
 
Ai giúp túi làm để văn này với

Anh(chị) hãy phân tích hình tựơng dòng sông trruyền thống liên tục chảy từ lớp người đi trước đến lớp người đi sau mà Nguyễn Thi đã gợi ra qua cách xây dựng các nhân vật trong truyện"Những đứa con trong gia đình"của Nguyễn Thi
 
Anh(chị) hãy phân tích hình tựơng dòng sông trruyền thống liên tục chảy từ lớp người đi trước đến lớp người đi sau mà Nguyễn Thi đã gợi ra qua cách xây dựng các nhân vật trong truyện"Những đứa con trong gia đình"của Nguyễn Thi

Mình sưu tầm được một đề bài và gợi ý có thể giúp bạn tham khảo để làm đề bài trên như sau:

Đề: Truyện “Những đứa con trong gia đình” Nguyễn Thi có nêu một quan niệm: Chuyện gia đình cũng dài như một sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm con sông gia đình lại cùng đổ về một biển, “mà biển thì rộng lắm […] , rộng bằng cả nước ta và ngoài cả nước ta”.

Hãy chứng minh rằng trong truyện của Nguyễn Thi có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy từ thế hệ cha anh đến thế hệ chị em Việt và Chiến.

Dàn ý

I. Mở bài

- Giới thiệu tác phẩm.

- Giới thiệu vấn đề (nêu quan niệm của Nguyễn Thi).

II. Thân bài

Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” quả là có một dòng sông truyền thống gia đình chảy miên man không dứt.

1. Khúc thượng nguồn của dòng sông được nhà văn cho thấp thoáng hiện ra qua hình tượng chú Năm. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả miêu tả nhân vật này có những câu hò gợi về nguồn cội xa xưa. Đây cũng chính là tác giả của một cuốn gia phả độc đáo ghi lại nợ máu của quân thù và những chiến công hiển hách của những thành viên trong dòng họ dũng cảm, kiên cường gốc Nam bộ. Và khi hai chị em Chiến và Việt ra trận thì bàn thờ của má cũng khiêng qua gửi nhà chú Năm. Chú Năm là người đã giữ gìn quá khứ cho hiện tại, người cất giữ truyền thống cho thế hệ cháu con.

2. Gần gũi nhất với lớp thanh niên như Việt , Chiến là khúc sông của đời mẹ. Đây là một hình tượng phụ nữ mang dấu ấn khá riêng của Nguyễn Thi: vẫn rất phụ nữ nhưng không mảnh mai, mềm yếu; ngược lại rất chắc khoẻ vể thể chất và mạnh mẽ về tinh thần. Con người ấy bộc lộ phẩm chất phụ nữ của mình ở sự tần tảo, xốc vác, ở sức chịu đựng, khả năng ghìm nén đau thương để sống, để chở che và tranh đấu.

- Ngưòi mẹ ấy hết lòng với chồng với con. Nhưng ở đây, cảm hứng của nhà văn về tình yêu của người mẹ là cảm hứng về một tình cảm có sức khiến con người không biết sợ, không biết chùn bước. Người phụ nữ ấy vừa bồng con, vừa cắp rổ đi theo thằng giặc để đòi đầu chồng. Người phụ nữ ấy hiên ngang đối đáp với giặc mà bàn tay to bản vẫn phủ lên đầu mấy đứa con đang đứng nép dưới chân.

- Có thể thấy qua hình tượng này truyền thống của người phụ nữ ở một đất nước mà đời sống thì quá khắc nghiệt, đau thương nhưng con ngưòi rất đỗi kiên cường, cao cả.

3. Người mẹ ấy sớm mất đi nhưng Nguyễn Thi vẫn dụng tâm cho thấy bóng dáng và hồn phách của chị vẫn tiếp tục sống trong những đứa con.

- Trước hết là Chiến, cô con gái thừa hưởng ở mẹ cả vóc dáng to chắc và tính nết gan góc, tháo vát. Tuy nhiên ở Chiến vẫn có những nét riêng mà má cô không có: cô đã đi vào cuộc chiến đấu rất hồn nhiên, vui tươi hơn người mẹ. Bởi cô là khúc sông sau. Nhưng khúc sông sau vẫn là của dòng sông truyền thống ấy.

- Việt cũng thế. Mẹ cha đã truyền lại cho cậu con trai ý chí kiên cường và cả lòng dũng cảm. Đó là cái tính không biết sợ, cái thái độ coi việc đánh giặc cũng tự nhiên như hít thở khí trời, không có gì cần phải đo đắn, phân vân, một việc dĩ nhiên phải thế.

- Việt khác chị ở cái dáng vẻ lộc ngộc, vô tư của một cậu con trai út đang tuổi ăn tuổi ngủ. Nhà văn Nguyễn Thi khắc hoạ hình tượng nhân vật bằng những chi tiết rất bình dị., chất phác, hồn nhiên, nhiều khi lại rất ngộ nghĩnh. Truyện đã mở ra khi Việt đã thành một chiến sĩ kiên cường. Dòng sông gia đình ấy, đến Việt, đã hoà nhập mạnh mẽ hơn lúc nào trước đó vào cả biển cả rộng lớn của cách mạng, của nhân dân cùng với trăm ngàn con sông khác.

III. Kết bài

- Khái quát lại vần đề đã chứng minh.

- Khẳng định: quan niệm của Nguyễn Thi mang tính khái quát rất cao, từ câu chuyện của một số nhân vật ta liên tưởng đến bao con ngưòi anh dũng khác, từ câu chuyện của một gia đình ta nghĩ đến câu chuyện của cả một dân tộc.

- Nét nghệ thuật đặc sắc được thể hiện trong truyện ngắn…

(Sưu tầm)
 
hix hix...ai tốt bụng viết hộ e cái mở bài và kết bài của đề này vs ak...sáng mai e pải nộp pài oy` mà chưa viết đc gì
Đề: Truyện “những đứa con trong gia đình” Nguyễn Thi có nêu một quan niệm: Chuyện gia đình cũng dài như một sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm con sông gia đình lại cùng đổ về một biển, “mà biển thì rộng lắm […] , rộng bằng cả nước ta và ngoài cả nước ta”.

Hãy chứng minh rằng trong truyện của Nguyễn Thi có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy từ thế hệ cha anh đến thế hệ chị em Việt và Chiến.
 
E hèm, Bút Chì thử viết cái mở bài nha. Đừng cười đấy. Mười mấy năm rồi không làm văn...

Cha ông ta xưa có câu: "Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy". Đây là một hiện tượng thiên nhiên, và cũng đúng với truyền thống của một gia đình, một bản làng, thậm chí là cả một dân tộc. Thế hệ sau thường noi gương thế hệ trước, tiếp bước, làm những việc mà thế hệ trước chưa làm được hoặc đang làm. Ta có thể tìm thấy dẫn chứng cho điều này ở một số tác phẩm văn học. Nếu như trong truyện ngắn "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành, thế hệ nối tiếp thế hệ của dân làng Xô Man đứng lên đánh Mỹ, thì truyện ngắn "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi lại nêu một quan niệm: Chuyện gia đình cũng dài như một sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm con sông gia đình lại cùng đổ về một biển, “mà biển thì rộng lắm […] , rộng bằng cả nước ta và ngoài cả nước ta”. Dòng sông truyền thống gia đình ấy đã chảy từ thế hệ cha anh đến thế hệ chị em Việt và Chiến, những con người Việt Nam trung dũng, kiên cường.
 
Cảm nhận về người đàn bà làng chài trong tac phảm chiec thuyen ngoài xa

Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời ba năm trước thời điểm 1986 - mốc mà bất cứ một nhà văn Việt Nam xã hội chủ nghĩa nào cũng phải nhớ, như là năm khai sinh và tái sinh con đường nghệ thuật của mình, ít nhất là về tư thế cầm bút, họ được tự do.
Nguyễn Minh Châu được coi là vị khai quốc công thần của triều đại văn học đổi mới. Bắt đầu từ Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu tăng dần độ rung chấn vào cơ địa văn đàn đương thời, dự báo một cuộc bung trào nhung nham đổi mới triệt để của văn học nghệ thuật những năm sau đó. Cuộc bung trào nhung nham này như là một nhu cầu nội sinh, xuất phát từ chính bản thân văn học, mặt khác, từ chính những biến đổi lớn lao của đời sống xã hội. Nhà văn bắt buộc phải kiểm soát những nhu cầu ấy, rời xa nó tức là chuốc lấy cho mình con đường hẹp, mọi sáng tác chỉ như một phế liệu của nghệ thuật mà thôi.
Nguyễn Minh Châu ý thức rất rõ nhu cầu của mình và nhu cầu của văn học. Ông từ giã chính ông, truy đuổi những cách khám nghiệm đời sống dưới góc nhìn và phương tiện mới. Trong Bức tranh và Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, ít nhất, sự truy đuổi ấy đã đặt Nguyễn Minh Châu trước một thử thách triết học: sự tự nhận thức. Nhận thức không chỉ diễn ra dưới công năng của tư duy lí trí, mà dường như còn phải diễn ra bằng nhưng luồng xung của tiềm thức, của vùng sâu vùng sáng và vùng tối trong tâm hồn. Cơ mà, cũng phải thấy, đôi khi ông bất lực để lí giải, lí giải cho nhân vật và lí giải cho hiện thực. Nhân vật của ông vượt qua những giăng bẫy hiện thực mà ông chân thật dựng nên, rơi vào trạng thái “bất khả tri”. Sự tự nhận thức trở nên đau đớn, trở thành một vết thương sẵn sàng thức tỉnh. Ai nào biết được khuôn mặt trong bức tranh kia là khuôn mặt gì của thời đại, của thế hệ, của từng cá nhân; ai biết được người đàn bà tên Quì ấy mắc một chứng bệnh cá nhân hay của thế hệ, của thời đại…?. Không dễ dàng đưa ra kết luận, cũng như các nhân vật kia, không dễ dàng dập tắt ngọn lửa tự nhận thức trong mình, dập tắt đồng nghĩa với thiêu rụi sự sống.
“Chiếc thuyền ngoài xa” nằm trong mạch sáng tác đòi hỏi cả độc giả và nhà văn phải nhận thức lại hiện thực. Hiện thực bây giờ không đơn giản là một vết xước rớm máu trên cánh tay trắng đẹp của cô gái thanh niên xung phong kia mà có lẽ, phải là vết xước trong tâm hồn. Ở đó, mỗi cá nhân là một chỉnh thể, một sở hữu của vết xước, bảo toàn và chưng cất nó khiến sự nhận thức mãi mãi không đưa ra một hệ số bằng lòng.
Câu chuyện bắt đầu từ việc Phùng, phóng viên ảnh, đi “săn” một tấm hình chụp cảnh bình minh trên biển. Tấm hình kia phải là một tác phẩm nghệ thuật, dĩ nhiên, như anh nhận thức, cần tránh lặp lại, nhàm chán và quen thuộc. Phùng rời Hà Nội gần sáu trăm cây số, “phục” ở một bờ biển, nơi vẫn còn lưu dấu cuộc chiến tranh: đó là bãi chiến trường. Tâm thế Phùng là sẵn sàng chờ đợi, anh quen được Phác, một cậu bé thông minh ở vùng biển đó. Sau gần tuần lễ, anh chụp được khá nhiều tấm hình cảnh ngư dân đánh mẻ lưới cuối cùng lúc bình minh lên. Nhưng tấm hình để đời, kiệt tác mà anh hằng mong muốn thì chưa có. Nghệ thuật nhiếp ảnh, qua cách hành xử của Phùng, ít nhiều là thứ quà tặng của thiên nhiên.
Và rồi thì anh cũng có một cảnh trời cho: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào… Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Những cảm xúc nghệ thuật mà Phùng đón nhận trước vẻ đẹp thiên nhiên quả làm cho ta cảm động. Nó là niềm hạnh phúc, nỗi sung sướng của kẻ luôn sẵn ý thức và trách nhiệm với con đẻ tinh thần mà mình hằng tâm nuôi dưỡng. Phùng rơi vào trạng thái “lên đồng”, một trạng thái cần có trước lúc sinh thành những cảm xúc sáng tạo: “trong giây phút bối rối ấy, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Vào khoảnh khắc đó, Phùng hoàn toàn thành tâm với nghệ thuật, nó vừa là cái toàn thiện, cái đạo đức, cái trong ngần, vừa là hạnh phúc…Anh được nó nâng đỡ, ban tặng đồng thời sáng tạo nó, cảm nhận nó. Và trong chốc lát anh “bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim”. “ Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại” trong ống kính có lẽ là cái đẹp đạo đức của thiên nhiên. Thiên nhiên, ngay cả khi dữ dội nhất, tàn nhẫn nhất, người ta vẫn thu được khoảnh khắc rất đẹp: núi lửa, tia chớp, sóng thần, bão cát … Thiên nhiên là bản thể tự nó. Cái gọi là “vẻ đẹp” kia chẳng qua là một chuỗi những thỏa thuận nằm ngoài nó, do con người tạo nên.
Nhưng câu chuyện đột nhiên chuyển sang một hướng khác, sau khoảnh khắc trời cho ấy, Phùng rơi vào một khoảnh khắc, một tình huống “hiện thực cuộc sống” ban cho. Chính từ lúc này, Phùng vấp phải một thách đố khác, có lẽ còn nghiệt ngã hơn cả sự sáng tạo nghệ thuật – thách đố lí giải, nhận thức hiện thực.
Trước cảnh tượng liền kề với khoảnh khắc nghệ thuật, Phùng kinh ngạc đến mức “trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Phùng lao tới nơi người đàn ông “tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ” đang dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà “cao lớn với những đường nét thô kệch”, “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két”… Nhưng Phùng đã bị cản lại bởi “bóng một đứa con nít”, đó là Phác, con trai của cặp vợ chồng kia. Phác giật chiếc thắt lưng từ tay người đàn ông, lão “dang thẳng cánh tay cho thằng bé hai cái tát”. Rồi lão lẳng bặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Kết thúc cái cảnh tượng ấy, “bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ”, chỉ còn Phùng, cậu bé Phác và tiếng sóng ngoài khơi, tất cả chìm vào cõi im lặng…
Có lẽ, đó là một hiện thực “quái đản”. Một hiện thực hiển nhiên mà không thể lí giải. Người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng. Người chồng đánh đập vợ tàn nhẫn như một thói quen, vô cảm và bản năng. Những đứa con bất lực nhìn cảnh bạo lực diễn ra ở chính cha mẹ chúng. Tất cả đều im lặng, triền miên ở ngay nơi chiến tranh vừa đi qua. Tất cả đều diễn ra đằng sau cái vẻ đẹp đơn giản và toàn bích của thiên nhiên. Một hiện thực quái đản xâm lấn ngay sau phút giây hạnh phúc của người nghệ sĩ. Một nỗi đau và dìm nén nỗi đau, một bình yên và phá hoại bình yên, một dư chấn và một khoảng lặng cứ đan cài nhau giữa muôn trùng tiếng sóng biển. Và rồi, cũng như trong câu chuyện cổ quái đản, tất cả đều biến mất, tất cả cứ lặp lại…
Lần thứ hai chứng kiến, Phùng trở thành người hùng, anh đánh quật gã đàn ông vũ phu bằng cú đánh của người “không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh …”. Phùng nhân danh một người lính- những người đã đổ máu để giành lại bình yên cho đồng bào mình, chăng? Hay ở anh còn có một động cơ “đạo đức” của người nghệ sĩ - người biết thưởng thức và giữ gìn vẻ đẹp toàn thiện chứ không phải là toàn ác, tha hóa?
Phùng đã nhờ Đẩu, người bạn đồng ngũ nay là chánh án huyện phụ trách địa bàn, can thiệp vào trường hợp gia đình vợ chồng thuyền chài này. Những cú đánh của Phùng chỉ là phản ứng nhất thời, anh cần đến tiếng nói của một quan tòa. Nhưng rút cuộc, cả Đẩu và Phùng chỉ như những đứa trẻ, đi hết bất ngờ rồi phẫn nộ rồi im lặng trước lời thú tội, kể lể của người đàn bà: “Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Hóa ra, ở người đàn bà xấu xí và tội nghiệp này là cả một hiện thực “bất khả tri”. Bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng như chức phận mà mình có được, thỏa nguyện vì chức phận đó. Trong thâm tâm bà, những nỗi đau đớn mà mình gánh chịu xứng đáng như thế vì bởi bà… đẻ nhiều con quá. Điều đó đồng nghĩa với cái đói, cái nghèo khổ còn bám riết lấy gia đình này. Nhưng thực tế, cái đói, cái nghèo khổ đâu chỉ bởi bà đẻ nhiều, mà nó cũng là một thiên chức rất đàn bà thôi. Trong lời thú tội ngậm ngùi, chân thật và tê tái của bà, có những câu hỏi không dễ trả lời, những mâu thuẫn khó giải thích: để yêu thương và sống qua muôn nỗi khó khăn, cơ cực, đôi khi người ta phải chấp nhận sự tàn nhẫn, tha hóa, phi đạo đức.
Người chồng vốn dĩ hiền lành, nghĩa hiệp. Sự khốn cùng, mong manh của đời sống chài lưới đã biến ông ta thành vũ phu. Có phải là một Chí Phèo, một quĩ dữ bước ra từ cái làng chài hẻo lánh kia không? Tại sao, dưới xã hội mới này, nơi mà “giấc mơ đại tự sự” đã lan tỏa trong mọi không gian nhỏ hẹp của đời sống, vẫn có những mảnh đời đau đớn, tha hóa kia?
Hành động vũ phu hay là sự bế tắc, hay là sự giải thoát của những con người tội nghiệp?. “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Rõ ràng, đây là một giải thoát trong bế tắc, một giải thoát đẫm nước mất và đau đớn.
Cả Đẩu và Phùng đều thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”. Họ không thể hiểu tại sao hai con người nhỏ bé kia lại chấp nhận sống và yêu thương bằng kiểu lạ lùng như vậy. Dù lời kể của người đàn bà phần nào giúp họ nhận ra những ẩn ức thẳm sâu nhưng họ vẫn dừng lại trên bờ vực của sự nhận thức hiện thực. Họ chưa thể nào dò thấu đáy sâu của nỗi ẩn ức kia cũng như hiện thực đang diễn ra trước mặt họ.
Tình huống mà Phùng không lường trước trong chuyến đi này có phải là tình huống dựng của nhà văn? Nhà văn đặt nhân vật và độc giả vào một tình huống phải nhận thức. Nhưng nhân vật đã không lí giải được hiện thực, tiếng nói của quan tòa cũng trở nên lạc lõng. Họ chấp nhận nó bằng những thỏa thuận bên ngoài. Cơn bão biển khơi lại nổi lên, biển động, gia đình thuyền chài này rất có thể lại phải nhịn ăn, đói rách. Cái cảnh tượng thường tình kia, sẽ lại xẩy ra. “Con sói con” - cậu bé Phác, lại phải thủ một con dao trong mình để trấn áp người cha, trấn áp người đàn ông lầm lũi kia… Những dự cảm buồn như vết xước trở đi trở lại trong tâm hồn. Những tâm hồn đầy vùng tối.
Phùng đã có một tấm hình để đời, được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Nhưng ám ảnh về cảnh tượng đằng sau bức ảnh thì không thể xóa mờ. Đằng sau vẻ đẹp vĩnh hằng kia cũng là nỗi đau vĩnh viễn. Nghệ thuật đã che giấu, khỏa lấp cái tha hóa, phi đạo đức? Hay nghệ thuật “bất khả tri” trước hiện thực ?. Cũng như chiếc thuyền ngoài xa, nghệ thuật chỉ có thể nắm bắt được cái bóng của nó, cái bóng của hiện thực. Vẻ ngoài của nghệ thuật, đôi khi như màn sương làm “mờ hóa” khả năng tri nhận ở chúng ta. Bất khả tri trở thành niềm day dứt của người nghệ sĩ. Với người nghệ sĩ, thiên chức là ngưỡng vọng và sáng tạo một vẻ đẹp toàn thiện nhưng sẽ là kẻ tội đồ nếu vẻ đẹp ấy làm che khuất và quên đi những bất hạnh trong đời. Cái đẹp không chỉ là đạo đức, nó là sự phản tỉnh.
Cá nhân Phùng, Đẩu sẽ không đủ sức lí giải, chấm dứt bi kịch của gia đình thuyền chài kia. Họ chưa đủ làm ánh sáng để xua đi vùng tối trong tâm hồn những con người bé nhỏ, khổ đau. Trước vẻ đẹp của thiên nhiên, Phùng hoàn toàn thấu nhận. Trước số phận của người đàn bà, Phùng là người ngoài cuộc. Mâu thuẫn đó dường như đeo đẳng suốt hành trình sáng tạo của nghệ thuật.
“Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn giàu chất điện ảnh do có sự gia tăng của kiểu chi tiết – hình ảnh. Trường đoạn Phùng chứng kiến người chồng hành hung vợ là trường đoạn được kể bằng hình ảnh. Nó diễn ra dưới một cú quay toàn cảnh kéo dài. Kịch tính đến nghẹt thở, bất ngờ đến choáng váng. Yếu tố “động” của chi tiết được bao bọc trong sự yên tĩnh của cảnh, cảm giác máy quay không di chuyển. Lời thoại rút giảm tối đa, những hình ảnh khô khốc và bạo liệt. Tiếng nghiến răng ken két của gã đàn ông vũ phu, tiếng thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà ngưng đọng giữa tiếng sóng biển. Thứ âm thanh dẫn dắt cảm xúc người đọc - người xem vào những mao mạch trí nhớ khác nhau, hoặc rát buốt hoặc tê cóng hoặc câm nín. Kết thúc trường đoạn, cảnh vật trở nên bình lặng, yên ả như chưa hề nhuốm sắc thái bạo lực khốc liệt. Một sự trả về hờ hững của thiên nhiên. Ống kính dừng lại ở một khoảnh khắc bình yên mà nhức buốt tâm can…Sử dụng yếu tố điện ảnh, Nguyễn Minh Châu tạo nên hiện thực gần như một cuốn phim tư liệu, chân thực và xúc động.
Là kiểu truyện ngắn mở ra tình huống nhận thức, Nguyễn Minh Châu còn sử dụng tính biểu tượng. Biểu tượng từ việc đặt tên nhân vật (Phùng - gặp gỡ, chứng kiến, ngụ ý người quan sát; Đẩu - vị phán quyết; Phác - sự thuần hậu, ngụ ý một phẩm chất của nghệ thuật; đứa con gái của vợ chồng thuyền chài – nàng tiên cá, ngụ ý vẻ đẹp bí ẩn mà cuộc sống ban tặng ) đến biểu tượng trung tâm: chiếc thuyền ngoài xa. Chiếc thuyền ngoài xa hay là sự bất khả tri, là một hiện thực khác chìm khuất sau những điều chúng ta có thể kiểm soát và chứng kiến được? Chiếc thuyền ngoài xa mãi mãi là một khát vọng tìm kiếm, với tới để níu giữ, để nhìn lại. Khi chiếc thuyền vẫn còn ở ngoài xa, những định giá và huyễn tưởng về nó vẫn chỉ nằm trong một lớp sương mờ ảo mà thôi.
Năm 1983, khi Chiếc thuyền ngoài xa ra đời, đất nước vẫn chưa thoát khỏi dư chấn của chiến tranh, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Số phận cá nhân nằm im dưới lớp băng hà của “giấc mơ đại tự sự”. Với những dự cảm thời cuộc sắc bén và tài năng nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đã giúp lớp băng hà kia có những vết nứt cần thiết. Vết nứt để nhìn ra vùng tối, và có thể, đón nhận vùng sáng
 
Những cánh rừng xà nu bạt ngàn ở Tây Nguyên là hình ảnh gắn bó mau` thịt giữa tác giả và những kỉ niệm sâu sắc trong cuộc đời chiến đấu và viết văn tại chiến trường Tây Nguyên.

Rừng xà nu là một sang tạo nghệ thuật dộc đáo của nhà văn.Rừng xà nu la một hình ảnh mang tính biểu tượng cho con người tây nguyên anh hung, ma cụt hể trong tác phẩm là dân làng Xô Man với những người con ưu tú : cụ Mết , Tnú, Dít, Heng…..Bức tranh thiên nhiên rừng xà nu thật hung vĩ với sức sống mãnh liệt ,sinh sôi nảy nở không ngừng ,bất chấp đạn đại bác của giặc bán phá mỗi ngày.Qua bức tranh thiên nhiên ấy, tác giả muốn khẳng định con người Tây Nguyên quýet vượt qua đau thương, quật khởi theo đảng làm cách mạng.

Nguyễn Trung Thành la nhà văn có sở trường viết truyện Tây nguyên . Vùng dất ấy đã rất quen thuộc đối với ông từ những ngày viết Đất nước đứng lên thời chống Pháp . Nay trở lại vùng đất ấy để viết về những người con Tây Nguyên chống Mĩ tác giả đã gặp lại cái màu xanh bạt nàgn của những rừng xà nu chạy dài đến chân trời . Tôi yêu say mê cây rừng xà nu tù ngày đó ông đã kể lại như vậy . Cho nên cây xà nu trở thành ấn tượng mạnh mẽ và gợi cảm hứng sang tác cho ông; không những thế , đã gợi cả cốt truyện và bố cục: Bắt đầu đến dưới ngòi bút , gần như không hề tinh trước , là một khu rừng xà nu, những cây xà nu.(Nguyễn Ngọc-Về một truyện ngắn –rừng xà nu ). Tên truyện cũng hình thành ; Rừng xà nu.

Như vậy là ,từ một ấn tương manh gợi cảm hứng ban đầu , tên truyện Rừng xà nu đã mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đây là một loại cây hung vĩ và cao thượng , man dại va trong sạch , mỗi cạy cao vút , vạm vỡ , ứa nhựa , tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rõi mênh mông , tửong nhu đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau , từng cây , hàng vạn , hàng triệu cây vô tận. . Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cây xà nu như thế và ta hiểu vì sao ông chọn cây xà nu, rừng xà nu làm biểu tượng cho nhân dân Tây Nguyên chống Mĩ trong truyện ngắn này . Không thể có cây nào phản ánh hùng hồn và sinh động cho phong trào chống Mĩ của họ bằng rừng xà nu chạy dài vô tận . Rừng xà nu , cái tên truyện ấy đã trở thành ,ột biểu tượng đẹp , tượng trưng cho khát vọng tự do , khát vọng giải phóng , cho phẩmc hát anh hung và súc sống mãnh liệt của dân làng Xô Man , nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước . Tên truyện đã cô đúc chủ đề của tác phẩm , mang ý nghĩa khái quát cao , lại giàu chất lãng mạn – chất thơ hung vĩ của núi rừng Tây nguyên . Bản than tên truyện đã là một sang tạo nghệ thuật của nhà văn , đem đến sự hấp dẫn cho người đọc.

II)Mở bài:

Rừng xà nu , truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn TRung thành và của văn học thời chống Mĩ , tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975.Chủ đề của tác phẩm gắn liền với tên truyện độc đáo và gợi nhiều hấp dẫn cho ngừơi đọc:Rừng xà nu.

Truyện kể về câu chuyện làng Xô Man đánh Mĩ nhưng vì sao Nguễyn Trung Thành lại đặt tên là rừng xà nu?Tên ấy có nguôn gốc ra sao, đã gợi gắm điều gì qua truyện ngắn chống Mĩ này?

III) Phân tích hình tượng cây xà nu:

Nguyễn Trung Thành đã chọn một loại cây rất gàn gũi với đời sống của đồng bào Tây Nguyên làm biểu tượng cho sức sống mãnh liệt và phẩm chất anh hung của dân làng Xô man , nhân dân Tây Nguyen trong công cuộc chống Mĩ cứu nước :cây xà nu.

A. NÉT ĐẶC SẮC CỦA TRUYỆN LÀ CÁCH TẢ “RỪNG XÀ NU” VÀ “CÂY XÀ NU”

Trong truyện , Nguyễn Trung Thành đã hai mươi làn nói đến rừng xà nu ở nhiểu góc độ khác nhau : nhụa xà nu , ngọn xà nu , đồi xà nu , khói xà nu , lửa xà nu , dầu xà nu …và khái quát , bao trùm tất cả là rừng xà nu .

Cây xà nu sinh sôi nảy nở nhanh , mạnh , bạt ngàn: sinh sôi nảy nở khỏe….. ham ánh sáng mặt trời , trãi dài ra đến hết tầm mắt … nối tiếp tới chân trời.

Cây xà nu có sức sống mãnh liệt : cạnh một cây mới ngã gục , đã có bốn năm cây con mọc lên , ngọn xanh rờn , hình nhọn mũi tên lao thảng lên bầu trời .Có những cây mới nhú khỏi mặt dất , nhọn hoắt như những mũi lê . Đạn đại bác không giết nỏi chúng , nhũng vết thương của chúng chóng lành như trên thân thể cường tráng .

Chất sử thi của truyện ngắn được tạo bởi hình tượng cây xà nu . nó được khai thác từ nhiều góc dộ lăp đi lặp lại nhiều lần : đồi xà nu (bốn lần ) , rừng xà nu (năm làn ) với hàng vạn cây ưỡn tấm nguc lớn của mình ra , che chở cho làng…

B.RỪNG XÀ NU BIỂU TƯỢNG CHO CON NGƯỜI – DÂN LÀNG XÔ MAN NÓI RIÊNG , ĐỒNG BÀO TÂY NGUYÊN NÓI CHUNG.

Hình tượng cây xà nu đẹp tượng trưng cho thế hệ trẻ của làng Xô man, bất khuất , gắn bó với cách mạng như Mai , Dít , Tnú …

Hình ảnh cụ Mết tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô Man , người nuôi giữ ngọn lửa khát vọng tự do , gắn bó với Đảng , với cách mạng cũng được ví nhủ một cây xà nu lớn.

Cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng … là hình ảnh “ đồng khởi “ mãnh liệt của dân làng Xô Man.

Rừng cây nu và con ngừơi làng Xô Man tuy hai mà một , mang ỳ nghĩa biểu tượng rất cao đẹp và sâu sắc.

IV)Phân tích nhân vật

A.Tnú:

Trứơc hết Tnú rất gắn bó với cách mạng . Từ nhỏ Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công tác giao lien . Khi bị giặc bắt , Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc . Sau khi vượt ngục , anh cùng cụ Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô man mài giáo , mài rựa chiến đấu chống kẻ thù .

Tnú tha thiết thương yêu bản làng . Sau ba năm chiến dấu trở về làng , anh nhớ rõ từng hàng cây , từng con đường , từng dòng suối , bối hồi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên cần rộn rã của những ngừơi đàn bà và những cô gái Strá của mẹ anh ngày xa xưa , của Mai , của Dít , từ ngày lọt long anh đã nghe tiếng chày ấy rồi.

Anh thương yêu vợ con tha thiết . Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dung cây sắt đập chết mẹ con Mai , nỗi đau thương của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặcc với một tiếng thét dữ dội và anh dang hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.

Càng đau thương , Tnú càng căm thù giặc . Vợ con bị giết , long căm hận biến đôi mắt Tnú thành hai cục lửa lớn.

Khi bi giặc bắt mười đầu ngón tay Tnú bi đốt , anh không kêu lên một tiếng nào. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi.

Yêu thương , căm thù biến thành hành động. Tnú thét len một tiếng… Chính nỗi đau xé long của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu đội giặc hung ác . Rieng Tnú ra đi lực lưỡng , quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng , giải phóng quê hương . Chinh trong thực tế chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhậnn thức đó , hiểu biết sâu sắc về kẻ thù và nâng long căm th2 cá nhân lên thành căm thù chung của cà dân tộc.

B.Cụ Mết

Cụ mết tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man.Lịch sử chiến đấu của làng , qua lời kể của cụ Mết , thấm sâu vào tim óc các thế hệ .Cu là cầu nối giữa quá khứ và hiện đại , là pho sử sống của làng .

Tấm long cụ Mết đối với cách mạng trứơc sau như một. Cụ đã từng nói:”Cán bộ là Đảng , Đảng còn , núi nước này còn.”.Trong những năm đen tối , cụ cùng dân làng Xô Man , từ thanh niên , ông già bà già , đến lũ trẻ đi nuôi và gác cho cán bộ : năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng này.

Cụ Mết là linh hồn của làng Xô Man . Chính cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình ảnh ông cụ mắt sang và xếch ngược , ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang vang nhu một trang sủ thi anh hung :”thế là bắt đầu rồi .Đốt lửa lên!...

Từ ngày ấy , làng Xô Man trở thành làng chiến đấu . Đó là phần đóng gáp không nhỏ của cụ Mết vào công cuộc giải phóng quê hương , bản làng.

C.DÍT

Dít là nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ , trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng . Trong thời gian dan làng Xô Man chuẩn bị chiến đấu , rồi bi địch bao vây , cụ Mết và Tnú dẫn đám thanh niên vào rừng . Chỉ có con Dít nhỏ , lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên.Khi bị giặc bắt Dít bi chúng dọa bắn , đạn chỉ sượt qua tai , sém tóc cày đất quanh hai chân nhỏ … đôi mắt nó thí vẫn nhìn bọn giặc bình thản…

Ngày Mai bi giặc đánh chết và Tnú ra đi , trong khi mọi người , cả cụ già , đều khóc ví cái chết của Mai thì Dít vãn lầm lì , không nói gí cả , Mắt ráo hoảnh , Tất cả chi tiết trên thể hệin tính cách kien cường ,sức chịu đựng phi thường của Dít , biết dồn nén đau thương để nung nấu long căm thù . Như những ngừoi con bất khuất của Làng Xô Man , Dít căm thù . Nhu những con ngừơi bất khuất của làng Xô Man ,Dít căm thù trên cơ sở nhận thức rõ bản chất của kẻ thù , để quyết tâm chiến đấu tiêu diệt chúng.

Khi Tnú về thăm làng , Dít đã là bí thu chi bộ vừa là chính trị viên xã đội. Như Ngày nào , đôi mắt Dít mở to , bình thản, trong suốt khi gặp lai tnú . Dù trong long rất đỗi vui mừng , Dít vẫn thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy về phép của anh. Rồi từ chỗi gọi tnú là đồng chí ,Dít chuểyn sang gọi là anh , xưng em thật tự nhêin , như ngừoi em gái nhỏ của mai và Tnú ngày xưa và tỏ bày tình thâm thiêt :”sao anh về có một đêm thôi? …Bọn em đứa nào cũng nhắc anh mãi”.

D.bé HENG

Ngày Tnú ra đi lực lưỡng, bé Heng mới đứng đến ngan bụng anh, chưa biết mang củi , chỉ mới đeo cái xà_lét nhỏ xíu theo ngừơi lớn ra rẫy .Ngày Tnú về phép ,bé Heng trưởng thành với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính , một chiến sĩ du kích của bản làng .Làng Xô Man giờ đây trở thành làng chiến đấu , và con đường vào làng [hải qua hai các dốc chằng chịt hầm chông, hố chông ngăn địch.Bé Heng đã góp phần không nhỏ vào việc thiết lập công sự này nên tỏ ra rất hãnh diện.

Nếu cụ Mết xứng đáng với hình ảnh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh tẫhm thì bé Heng tượng trưng như cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn , hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời ,sẽ phát triễn đến đâu chưa ai biết được.

V)KẾT BÀI:

Nghệ thuậ miêu tả nhân vật của Nguyễ Trung Thành mang những nét độc đáo riêng đượm khí vị Tây Nguyên anh hung. Nếu xà nu tượng trưng cho các thế hệ dân tộc Tây Nguyên kiên cường thì các nhân vật cụ Mết , Tnú, Dít, bé Heng là hình ảnh những cây xà nu đại diẹn cho các thé hệ nối tiếp nhau của dân làng Xô Man,được khắc họa thật sinh động

Qua Rừng xà nu , ta hiểu biết và yêu mến them đất nước và con ngừoi Tây Nguyên . Họ đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chiến đấu chung để giải phóng dân tộc. đọc xong nhớ cảm ơn mình nha minh ở nha trang hoc lop 12 01636318021
 
Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ.

- Bà cụ Tứ là người dân ngụ cư, nghèo khổ, góa bụa, ở vậy nuôi con, chịu nhiều đắng cay, cơ cực. Bà xuất hiện trong bóng chiều hôm chạng vạng tê tái với hình ảnh "lọng khọng từ ngoài ngõ vào vừa đi vừa lầm bầm tính toán gì trong miệng". Bà cũng như bao người mẹ Việt Nam khác rất mực yêu thương con cái.
Vẻ đẹp nhân văn được thể hiện qua diễn biến tâm trạng
* Lúc đầu bà ngạc nhiên
- Thấy Tràng "reo lên như một đứa trẻ", vồn vã khác thường khi thấy mẹ, tâm trạng bà cụ Tứ cũng trở nên "phấp phỏng": Có cái gì đó bất thường đang chờ đợi bà. Đầu tiên là tâm trạng ngạc nhiên: Ngạc nhiên đến nỗi bà phải " đứng sững lại". Bởi căn nhà xưa nay chỉ có bà và Tr nay lại thấy xuất hiện một người đàn bà xa lạ. Vì thế hàng loạt những câu hỏi luẩn quẩn trong đầu bà: "Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?". Vì ngạc nhiên, phân vân nên bước chân của bà lão cũng "lập cập". Khi đã vào trong nhà, Bà cụ Tứ lại càng ngạc nhiên hơn khi nghe thấy tiếng người đàn bà xa lạ chào mình bằng u.
* Khi hiểu ra bà tủi phận.
- Khi nghe Tràng phân trần, cắt nghĩa: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ", bà cụ mới hiểu. "Bà lão cúi đầu nín lặng". Một sự im lặng chất chứa biết bao suy nghĩ. "Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình". Một nỗi tủi hờn, xót thương trào lên trong lòng bà cụ Tứ "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này...Còn mình thì...". Đằng sau lời độc thoại bỏ lửng đó người đọc có thể thấy được nỗi cay đắng của bà đang dâng lên tột đỉnh và người mẹ nghèo khổ ấy đã khóc " Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt...".
* Bà lo lắng: Thương con nên lo lắng cho con: "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không". Suy nghĩ này của bà cụ Tứ chứng tỏ bà đang rất lo lắng cho tương lai của hai con. Cũng chứng tỏ sự ám ảnh về nạn đói ấy thật khủng khiếp.
*Từ tủi phận và lo lắng bà lão chuyển sang tâm trạng vừa vui mừng vừa thương xót anh con trai và người vợ nhặt. Vui mừng vì con có hạnh phúc, xót thương vì sự thật quá phũ phàng. Bà thở dài nhìn người đàn bà đang vân vê tà áo đã rách bợt nay đã là dâu con của bà. Càng nhìn bà càng thương thị lại càng thương con mình "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ. May ra mà qua được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó".
- Sau khi khẽ dặng hắng một tiếng, bà lão ôn tồn, "nhẹ nhàng" nói với nàng dâu: "Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng..." . Ngôn ngữ của bà lão nhẹ nhàng, cái nhìn của bà với nàng dâu đầy cảm thông. Tất cả xuất phát từ tình yêu thương con người của bà lão. Lời nói ấy làm anh Tràng nhẹ nhõm và cũng đã trả lại danh dự cho người đàn bà là mang tiếng "theo trai".

* Bà lão chợt nhớ ra cái bổn phận mẹ chồng. Thế là bà lão bắt đầu nói với 2 vợ chồng, bà dặn dò các con "Nhà ta thì nghèo con ạ! Vợ chồng chúng mày liệu bảo nhau mà làm ăn". Bà ấp ủ và hướng hai con vào niềm tin tưởng ở tương lai phía trước với triết lí dân gian gần gũi "Rồi may ra ông giời cho khá...Biết thế nào hở con, ai giầu ba họ, ai khó ba đời". Điều này chứng tỏ bà là một bà mẹ chu toàn. Đây chính là niềm lạc quan hy vọng đổi đời.
* Vì thương con bà lại ám ảnh chuyện cũ: "Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão , nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?".
* Song nổi bật hơn cả vẫn là tấm lòng thương yêu của bà cụ Tứ: Bà lão, nhìn người đàn bà, lòng đầy xót thương. Và cũng như biết bao bà mẹ nhân từ khác, bà cụ Tứ những mong con dâu mình hoà thuận. Bà an ủi đôi vợ chống son "Kể có được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo cũng chẳng ai người ta chấp nhặt chi lúc này. Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá". Bà cụ Tứ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ cháy xuống ròng ròng. Những giọt nước mắt xót xa, tủi nhục ấy, người vô tâm như Tràng làm sao có thể hiểu nổi.
* Sáng hôm sau: Bà cụ Tứ thật khác với ngày hôm qua. Người đọc thấy bà "nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Cùng với nàng đâu, bà cụ xăm xắn thu dọn; quét tước nhà cửa. Người mẹ từng trải và nhân hậu ấy đã bằng mọi cách nhen nhóm một niềm vui, niềm hi vọng cho dâu con của mình. Bà cụ nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này. Bà dặn Tràng nuôi gà để "Chẳng mấy chốc có ngay đàn gà cho mà xem".
Bà cố gắng tạo niềm vui bằng nồi chè cám, nồi chè bà đã dành dụm chắt chiu để hôm nay mới có dịp đãi con. Tuy không ai nuốt nổi nhưng chắc chắn rằng không ít người đọc đã chảy nước mắt trước tấm lòng cao thượng ấy của người mẹ nông dân nghèo khổ.
[FONT=.VnTime] [/FONT]Nghệ thuật:

KL :Bà cụ Tứ là hình ảnh điển hình về một người mẹ nghèo khổ nông dân Việt Nam với phẩm chất cao đẹp: thương con và giầu đức hy sinh, hiểu biết , lạc quan. Nhân vật mẹ Tứ thấm đượm tình cảm nhân đạo sâu xa vốn có trong truyền thống dân tộc. Và là một sáng tạo xuất sắc của KL. Khắc họa hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, KL đã sử dụng một ngòi bút trong sáng, chọn lọc để miêu tả tỷ mỉ, chân thực tấm lòng vừa trắc ẩn, vừa bao dung của một người mẹ nông thôn VN. hay hay ka ka nha trang nhân tài
 
dàn bài này còn thiếu.Thứ nhất, bài làm phải có ý những đứa con trong gia đình không chỉ là sự tiếp nối huyết thống mà còn là sự tiếp nối truyền thống. Thứ hai, con sông truyền thống không phải bắt nguồn từ hình ảnh người má hay chú năm mà còn cả các thế hệ trước đó: người ông, người cha của Chiến và Việt.... Thứ ba cần phải nêu được hoàn cảnh gia đình từ đó giải thích và nêu lên những đặc điểm tính cách nơi các nhân vật, làm bật lên sự kế thừa rồi sau đó khái quát các nhân vật để thấy được sự tiếp nối. nếu theo đề bài đầy đủ thì dàn ý này còn thiếu hẳn một phần nữa là "Rồi trăm con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển, "mà biển thì rộng lắm […], rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta".
+ Điều đó có nghĩa là: từ một dòng sông gia đình nhà văn muốn ta nghĩ đến biển cả, đến đại dương của nhân dân và nhân loại.
+ Chuyện gia đình cũng là chuyện của cả dân tộc đang hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ những đau thương.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top