Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ

  • Thread starter Thread starter Butchi
  • Ngày gửi Ngày gửi

Butchi

VPP Sơn Ca
Xu
92
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM HAI ĐỨA TRẺ - PHÂN TÍCH TÁC PHẨM HAI ĐỨA TRẺ

(Hai đứa trẻ của Thạch Lam)

Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp.

Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát...” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương day cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.

Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế.

Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này...”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên... tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dầy đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.
Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại.

Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền, rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một chút hi vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người khốn khổ ấy. Nhất Linh cũng từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vô thức hiện thực đó, khát vọng đó. Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu.

“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm của phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho những con người lao động nghèo khổ.

Sưu tầm


 
Thạch Lam tên thật là Nguyễn Tường Lân. Sinh năm 1910, trong một gia đình công chức khá giả. Ông là một cây bút đắc lực cho báo Phong Hóa và Ngày Nay (Hà Nội) vào những năm ba mươi của thế kỉ này. Sự nghiệp văn chương đang trên đà phát triển thì ông bị bệnh và mất sớm vào năm 1942, khi mới ngoài 30 tuổi. Tuy tác phẩm để lại không nhiều nhưng cũng đủ chứng tỏ Thạch Lam là nhà văn có phong cách riêng, có đóng góp đáng quý cho sự nghiệp phát triển của văn xuôi trước cách mạng tháng Tám.

Truyện ngắn hai đứa trẻ trích trong tập Nắng trong vườn (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, 1938). Tác phẩm đi vào những cảnh đời thường, những số phận tăm tối, bất hạnh của người dân nghèo trong xã hội cũ.Mỗi lần nghĩ đến họ, Thạch Lam không khỏi xót thương cảm. Bối cảnh của truyện là một phổ huyện nhỏ bé nằm giữa thôn xóm và cánh đồng, có đường xe lửa chạy qua. Thời gian từ chập tối đến nửa đêm. Cả không gian và thời gian, nhân vật điều hạn chế, ít ỏi và vấn đề đặt ra trong truyện chẳng còn gì là phức tạp, lớn lao. Ấy vậy mà sau khi đọc tác phẩm, những cơn sóng xúc cảm trong tâm hồn chúng ta xao động mãi khôn nguôi. Nhân vật chính của truyện là hai chị em Liên và An –hai đứa trẻ. Chị khoảng mười ba, mười bốn; em độ lên chín lên mười. Trước, gia đình sống ở Hà Nội, sau sa sút phải về quê, mẹ bận hàng xay hàng xáo, giao cho hai chị em trông coi một tạp hóa nhỏ bé ở gần ga. Đêm đêm hai chị em thức chờ đoàn tàu khuya chạy ngang qua mới dọn hàng đóng cửa đi ngủ.

Bắt đầu truyện là cảnh phố huyện lúc chiều xuống. Tiếng là phố huyện nhưng thật nhỏ bé tiêu đìu.

Hiệu lệnh phát ra từ một chòi canh lẩn mình vào dãy tre làng đang đen lại. Trời tây đỏ rực nhưng sắp tàn. Ngoài cánh đồng, ếch nhái đã kêu ran và trong cái cửa hàng nhỏ bé của hai chị em Liên, tiếng muỗi vo ve không dứt. Cảnh thật buồn khiến cô bé Liên bỗng dưng thấy cái buồn của ngày tàn thấm thía vào tâm hồn và đôi mắt em ngập đầy dần bóng tối. Bấy nhiêu chi tiết đều tập trung vào cái thế giới thu nhỏ lại, lụi tàn đi của những cảnh vật này để chiếm thế lĩnh, tràn dâng ngày càng mạnh của những cảnh tình đêm mà bóng tối và đêm đen dần dần ngự trị tất cả cảnh vật và con người.
Lúc mới xẩm tối, tuy các nhà đã lên đèn nhưng nguồn sáng ấy không đủ xua tan bóng tối. Khi bắt đầu đêm thì đường phố và các ngõ dần dần chứa đầy bóng tối. Bác phở Siêu lom khom nhóm lửa, bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào bên ngõ. Chị em Liên ngồi dưới gốc bàng với cái tối chung quanh. Toàn là bóng tối. Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường ra chợ về nhà, cácngõ vào làng đen sẫm lại. Tiếng trống canh cũng đánh tung lên một tiếng ngắn rồi chìm vào bóng tối. Các cửa hàng cơm ở ga cũng im lặng, tối đen, vào bóng tối. Chuyến tàu đi qua rồi thì đêm tối lại mịt bao quanh, màu đêm của đất quê, của đồng ruộng mênh mang và yên lặng.

Như vậy, mở đầu truyện là bóng tối, chấm dứt truyện cũng là bóng tối. Đâu đâu cũng ngập tràn bóng tối. Bóng tối át cả ánh sáng. Đây đó, một vài ánh sáng nhỏ nhoi chỉ làm cho bóng tối thêm dày đặc. Vệt sáng đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào cành cao, ánh sáng mờ nhạt của hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh trên bầu trời đêm xa vời…hòa tan vào bóng đêm. Ngọn đèn trên chõng hàng nước chị Tí chỉ là một quầng sáng nhỏ nhoi trên mặt đất đen thẳm, dưới một bầu trời bao la thăm thẳm đầy bí mật.

Bếp lửa bập bùng trong gánh phở bác Siêu cũng chỉ là một chấm lửa nhỏ và vàng, lơ lửng đi trong đêm tối, thấp thoáng ẩn hiện trên con đường vắng ngắt. Ánh đèn trong cửa hàng của chị em Liễn thì thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa. Ánh đèn lồng của người đi đón khách ở ga làm lung lay cái bóng đen dài của người cầm đèn; ánh đèn ghi lửa xanh biếc như ma trơi…Chung quanh những điểm sáng loe lét ấy là cả một màn bóng tối dày đặc và đen nghịt. Trong bóng tối đó là những mảnh đời đen bạc.

Trang sách nhuộm đầy bóng tối ấy là để gắn vài cái khung tối tăm của những mẫu đời tăm tối.

Ngay từ lúc nhá nhem, bóng tối chưa phủ lên mặt đất nhưng những cảnh đời đen tối đã hiện ra. Đó là mấy đứa trẻ nghèo ven chợ. Sau khi chợ đã vãn, chúng tranh nhau nhặt nhạnh tất cả những gì còn dùng được cho cuộc sống tăm tối của gia đình mình. Vào buổi đêm, có cuộc đời mẹ con chị Tí với cái hàng nước quá đơn sơ, chỉ có cái chỏng tre, dăm cái ghê thấp, một ấm chè tươi, vài cái bát, cái điếu thuốc lào và ngọn đèn dầu loe lét. Ngày, hai mẹ con lặng lội mò cua, bắt tép; từ chập tối cho đến đêm thì bán nước chè tươi, thuốc lào, mong kiếm mấy đồng xu xòm cõi, thêm vào cho cuộc sống đói kém, bấp bênh. Có khi chờ mãi mà chẳng có ai ghé uống bát chè, hút điếu thuốc. Hãy nghe lời buồn bã của chị thốt lên trước cảnh hàng ế ẩm: Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?...Ôi chao, sớm với muộn có ăn thua gi! Ta có thể hinh dung đến tận đáy cuộc sống của con chị Tí, đã cơ cực mà còn mong chờ vào sự rủi may, một sự trông chờ cầm chắc là chẳng có hi vọng gì.

Tuy vậy, mẹ con chị còn có cái ghế để ngồi, có ngọn đèn để soi sáng; còn gia đình bác xẩm thì nằm ngồi ngay trên chiếc chiếu rách trải trên mặt đất. Thằng con bò ra đất, cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng trống trơ trước mặt. Tất cả im lìm, chỉ có tiếng đàn bầu nổi lên bần lật, run rẩy trong bóng đêm. Rồi sau đó, không khách, không hát, không tiền, họ lăn ra ngủ luôn trên đất, giấc ngủ của kiếp sống vất vưởng, lầm than.

Còn bà cụ Thi hơi điên, đêm nào cũng ra quán chị em Liên mua rượu, khen liên rót đầy ,ngửa cổ uống sạch, lảo đảo bước đi, bóng nhòa lẫn vào bóng tối, và tiếng cười khanh khách mỗi lúc một nhỏ dần. Bà cụ oan ức gì chăng, buồn khổ vì chăng phải lấy rượu giả sầu? Bao nhiêu rượu đã uống cạn mà nỗi sầu chưa vơi? Nỗi sầu ấy tạo nên bóng tối bao phủ tâm hồn bà cụ.

Tất cả những mảnh đời kể trên đều là những cảnh đời ở cái phố huyện heo hút, xơ xác này. Đến khuya, tất cả phố xá trong huyện đều thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí, bởi còn có ngọn đèn tù mù trong khi cả phố tối om. Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ.

Giữa những cuộc đời đen tối ấy là cảnh đời không đến nỗi tối tăm nhưng thật tẻ nhạt và buồn của hai chị em liên. Liên là thiếu nữ mười ba, mười bốn, đã biết làm dáng với chiếc dây xà tích bạc đeo chìa khóa ở thắt lưng. Liên muốn tỏ ra là chị, là người con gái lớn đảm đang. Liên biết tính toán, sắp đặt, mua bán và nhất là biết thương đứa em nhỏ mới tám, chín tuổi. Hai chị em đã hòa nhập với cuộc sống ở phố huyện này một cách hồn nhiên.

Trước hết là quen với bóng đêm. Trước đây ở Hà Nội, liên thấy Hà Nội nhiều đèn quá. Còn ở đây trái hẳn. Chiều xuống, mắt Liên ngập đầy bóng tối và không hiểu sao Liên thấy buồn. Mãi rồi quen đi, Liên không sợ màn đêm nữa mà còn chú ý đến nó và những gì chứa đựng trong nó: cảnh vật, con người. Hai chị em đã quen với cái mùi âm ẩm cát bụi mà tưởng mùi riêng của đất này. Chiều tàn, nhìn những đứa bé lem luốc tranh nhau bới rác, nhặt nhạnh những thứ bỏ đi trong chợ, Liên và An động lòng thương. Liên lặng lẽ quan sát rồi nhận xét giờ giấc xuất hiện của mẹ con chị Tí, bác phở Siêu, bà cụ Thi, gia đình bác Xẩm. Quen mặt, quen tên từng khách mua hàng, hòa nhập với đám trẻ con nơi phố huyện.

Riêng Liên, em vẫn mơ hồ nhớ quãng đời sống ở Hà Nội, được hưởng những quà ngon lạ, được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ…Hà Nội là một vùng ánh sáng rực và lấp lánh…Thật ra, đó không phải chỉ là kí ức mà là hình bóng của cuộc đời bình thường, sáng sủa mà lẽ ra ,những trẻ thơ như chị em Liên phải được hưởng. Nhưng bây giờ, tất cả lùi xa, xa vời như một ảo tưởng nhưng lại là một niềm ao ước thiết tha muôn đời của con người, mong một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ triền miên của họ.

Cũng cho mọi người trong phố huyện nhỏ này, chị em Liên cũng cố thức chờ đoàn tàu chạy ngang qua với những toa đèn sáng tự trưng, những toa hạng sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh. Hình ảnh đoàn tàu là một thế giới ước mơ, khát vọng của người nghèo. Tàu đến với đủ thứ vùng đất này. Tàu đi, chiếc đèn xanh ở toa sau cùng xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre, như một ảo ảnh, một hi vọng le lói.

Dù sao, hình ảnh đoàn tàu sáng trưng cũng tạo một thoáng vui cho những cảnh đời bóng tối, những số phận bóng tối đã nói ở trên, để họ phút chốc khuây quên nỗi khổ, tìm đến với giấc ngủ sau một ngày nhọc nhằn, vất vả.

Giống như truyện Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa, truyện ngắn Hai đứa trẻ đi vào thế giới tâm tình, đi vào cuộc sống của những mảnh đời khốn khó. Cách cảm, cảm nghĩ chân thành của Thạch Lam đã gây xúc động cho người đọc. Nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét: Truyện ngắn Hai đứa trẻ có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm về quá vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì đó còn ở trong tương lai…nơi cái thế giới khách quan của một đôi trẻ ở phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi đã thành một thói quen của cảm xúc cà của ước vọng. Đọc Hai đứa trẻ, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái và sâu kín.

Theo Ths.Phạm Ngọc Thắm*
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top