Phân tích đoạn thơ : Thúy Kiều báo ân báo oán ( Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)

thich van hoc

Moderator
Thành viên BQT
Bài làm

Đã bước sang thế kỉ XXI nhưng Nguyễn Du và Truyện Kiều vẫn có sức hấp dẫn lớn đối với hàng triệu độc giả Việt Nam và thế giới. Cho đến nay Nguyễn Du vẫn là đại thi hào duy nhất của dân tộc, Thúy Kiều vẫn là kiệt tác số một của văn học Việt Nam. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Du viết : “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, câu thơ ấy đã bộc lộ rất rõ quan điểm đề cao chữ tâm cũng như trái tim giàu lòng yêu thương của tác giả. Tấm lòng ấy phần nào được bộc lộ qua cách xử sự hết sức nhân văn trong đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán”.

Dân gian ta có câu “Ơn đền oán trả”, quan điểm ấy đã thể hiện một thái độ rạch ròi, dứt khoát trong cách sống của người Việt. Có lẽ cách sống ấy đã có từ ngàn đời nay, được thử thách qua thời gian . Cho đến nay nó vẫn còn nguyên vẹn giá trị, chỉ có điều ơn trả thế nào, oán báo ra sao cho có văn hóa thì thật khó. Trong đoạn trích này thông qua việc báo ân oán của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gián tiếp bộc lộ văn hóa ứng xử của mình, chính ở đây tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Trước hết là báo ân:

Cho gươm mời đến Thúc Lang,
Mặt như chàm đổ minh dường dẽ run.
Nàng rằng : Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tong,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp, bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưa sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.


Thực ra đoan Thúy Kiều báo ân báo oán không chỉ gồm báo ân Thúc SInh và báo oán Hoạn Thư mà còn báo ân với Giác Duyên; báo oán với :

Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà.
Bên là Ưng Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú Bà với Mã Giám Sinh…


Tuy vậy đoạn trích đã lược bớt để làm nổi bật cuộc đối thoại giữa Kiều với Thúc Sinh và Hoạn Thư mà vẫn đảm bảo nội dung ơn đền, oán trả. Trước tiên là báo ân, âu đó cũng là việc làm hợp lẽ đời. Thúc Sinh được mời đến trong cảnh oai nghiêm nơi Kiều xử án “Cho gươm mời đến Thúc Lang”. Hình ảnh “gươm” nói rõ quyền uy mà Kiều đang có trong tay nhờ gặp được Từ Hải – người anh hùng “đội trời đạp đất”. Kiều giờ đây thật vững vàng, từng trải để nhận ra người ơn, kẻ oán, hoàn toàn khác xa với cô Kiều với thân phận “con ong, cái kiến” trước kia. Chứng kiến sự uy nghiêm đó Thúc Sinh tỏ ra sợ hãi đến mức mất cả thần sắc “mặt như chàm đỏ” và người run như con chim dẽ. Hình ảnh tội nghiệp ấy hoàn toàn phù hợp với tính cách có phần nhu nhược của Thúc Sinh. Và đó cũng là chi tiết có ảnh hưởng đến cách báo oán Hoạn Thư ở đoạn sau. Sau hai câu đầu nói về Thúc Sinh, mười câu thơ còn lại là đoạn đối thoại của Kiều với Thúc Sinh. Qua lời nói của Kiều có thể thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ của Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn, nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”. Đó là một cách so sánh rất cao, nghĩa nặng như hàng ngàn trái núi. Để xưng hô với Thúc Sinh có lúc Kiều gọi chàng là “người cũ” mang sắc thái thân mật, gần gũi; lúc lại dùng “cố nhân” mang sắc thái trang trọng, kính trọng. Có lẽ đó cũng là hai sắc thái tình cảm Thúy Kiều dành cho Thúc SInh. Với Kiều việc Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục, cho nàng những ngày tháng êm ấm trong cuộc sống gia đình là cái ơn vô cùng lớn mà cô không thể nào trả hết “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” cũng chưa dễ xứng với ơn nghĩa đó. Cao hơn cả vật chất chính là tấm lòng “nghĩa nặng nghìn non” mà cô dành cho chàng Thúc. Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng những từ Hán Việt: nghĩa , chữ tong (theo), cố nhân, tạ lòng…điển cố Sâm Thương. Cách nói trạng trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc, đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Thúy Kiều đối với Thúc Sinh.
Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư. Bởi vì nàng hiểu nỗi đau khổ của nàng khi gắn bó với Thúc Sinh không phải do chàng gây ra mà thủ phạm chính là Hoạn Thư “Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”. Vẫn đang nói với Thúc Sinh nhưng khi nói về Hoạn Thư ngôn ngữ của Kiều lại hết sức nôm na, bình dị. Nàng dùng những thành ngữ quen thuộc “kẻ cắp bà già gặp nhau” hay “kiến bò miệng chén”. Cách nói ấy vừa tạo ngữ điệu đanh hơn vừa theo quan điểm “ác giả ác báo” của nhân dân nên mươn luôn lời ăn tiếng nói của nhân dân để diễn đạt. Từ cách nói này để cô chuyển sang Hoạn Thư – báo oán. Đoạn này gồm những lời đối thoại trực tiếp giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư. Trong hai đoạn lời nói của Kiều lộ rõ thái độ mỉa mai với Hoạn Thư. Nàng vẫn cố tình giữ thái độ và cách xưng hô như hồi còn làm hoa nô trong nhà họ Hoạn:


Thoắt trong nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây.


Thái độ “chào thưa” hay gọi Hoạn Thư là “tiểu thư” khi giữa hai người đã có sự thay đổi ngôi thứ, nhất là vào lúc này Kiều đang ngồi ở ghế xử án và Hoạn Thư là kẻ có tội thì điều đó quả là một đòn mỉa mai quất mạnh vào danh gia họ Hoạn. Nhưng không dừng lại ở đó sang những câu nói sau giọng của Kiều đã dần thay đổi, giọng đay nghiến, phẫn uất càng ngày càng tăng tiến. Người ta như cảm nhận được giọng nói rành rọt từng tiếng đang dằn ra, nhấn mạnh:

Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều.


Cách nói này quả là xứng với lối đối đáp “vỏ quýt dày có móng tay nhọn” nếu không cái mụ nham hiểm giết người không dao ấy lại lấn lướt như trước kia Kiều đã từng chịu trận. Đến đây ta thấy thái độ quyết trừng trị Hoạn Thư của Kiều cho bõ những ngày tháng Kiều bị mụ ta hành hạ.

Vậy liệu Hoạn Thư đối phó thế nào trước thái độ ấy.

Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.


Quả thật là khôn ngoan đến giảo hoạt. Nhận thấy điều bất lợi đang đến gần mụ ta đã cố gắng trấn tĩnh để “liệu điều kêu ca”.

Rằng : Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.


Một câu nói thật khôn khéo đến mức tinh vi. Thứ nhất mụ nói về tâm lý chung của phụ nữ : ghen tuông là chuyện thường tình, cách nói này vừa để kêu gọi lòng trắc ẩn của người đàn bà trong Kiều vừa có tính phổ quát. Thứ hai ngôn ngữ sắc như dao “chút phận” – hạ thấp mình thành nhỏ bé, “thường tình” – đó là chuyện bình thường chứ không đáng tội: “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Qua miệng lưỡi biện bạch của mụ, tội nhân đã trở thành nạn nhân của chế độ đa thê. Mà đã là nạn nhân ai lại nỡ trừng trị. Hoạn Thư quả là một luật sư tự bào chữa cực giỏi. sau đó như lẽ tất yếu để “lấy lòng” Thúy Kiều, Hoạn Thư đã “kể công” với Kiều : cho nàng ra gác Quan Âm viết kinh, không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn. Cuối cùng Hoạn Thư nhận tội và trông chờ tấm lòng bao dung, độ lượng của Kiều:

Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.


Quả thực đó là một bài đối thoại được sắp xếp chặt chẽ, logic, hợp lý. Qua lời đối thoại ấy Kiều phải thừa nhận đó là con người: “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”. chính những lời nói đó khiến cho Kiều bị thuyết phục và phải phân vân:

Tha ra thì cũng mang đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.


Hoạn Thư đã biện bạch đến thế nếu Kiều quyết trả thù thì lại trở thành người nhỏ nhen, ích kỷ. Và thái độ của Kiều đã thay đổi so với đoạn trước. Hoạn Thư đã biết lỗi “Đánh người chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại”.

Như vậy qua đoạn trích này ta thấy Hoạn Thư quả là một người “quỷ quái, tinh ma”. Tất nhiên việc Hoạn Thư được tha bổng không chỉ vì có khả năng “tự bào chữa” mà chủ yếu là do tấm lòng vị tha độ lượng của Kiều. Qua đó tấm lòng nhân ái bao dung của người con gái ấy một lần nữa lại sáng lên.

Đoạn thơ là sự phản ánh ước mơ, khát vọng công lý chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du : người bị áp bức, đau khổ được ngồi ghế quan tòa cầm cán cân công lý để thực hiện triết lý sống của dân gian “ơn đền oán trả”.

Theo 100 bài văn hay lớp 9*
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Em hãy phân tích đoạn trích "Kiều báo ân báo oán" trong tác phẩm truyện kiều của Nguyễn Du

Em hãy phân tích đoạn trích "Kiều báo ân báo oán" trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du

1357180410_news.jpg


Đã có khá nhiều lời bình phẩm và kiến giải về màn "Báo ân báo oán" trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, thậm chí có những ý kiến trái ngược xung quanh việc Kiều tha bổng Hoạn Thư trong khi lại thẳng tay trừng trị "lũ người bạc ác tinh ma" khác. Trong bài viết này, tôi xin bổ sung một số kiến giải theo quan điểm riêng của mình, mong bạn đọc có ý kiến khác thì cùng trao đổi...

Với kiệt tác "Truyện Kiều", Nguyễn Du thể hiện thiên tài văn học ở nhiều phương diện, ở toàn bộ tác phẩm, đồng thời cũng thật xuất sắc trong từng trường đoạn, trong đó có đoạn thể hiện quan hệ tay ba giữa Thúc Sinh - Hoạn Thư và Thúy Kiều. Đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán" trong sách giáo khoa Ngữ văn 9 (tập 1) đã lược bỏ quang cảnh pháp đình, đoạn Thúy Kiều đền ơn vãi Giác Duyên và bà quản gia trong dinh họ Hoạn, chỉ giữ lại hai đoạn đền ơn Thúc Sinh và xử án Hoạn Thư (do khuôn khổ của một giờ dạy và đặc thù của đối tượng tiếp nhận). Dù vô tình hay hữu ý, các tác giả soạn sách đã làm nổi bật quan hệ tay ba: Thúc Sinh - Hoạn Thư - Thúy Kiều ở màn chót của nó, và chính tại đây, tính cách của từng nhân vật được hiện ra rõ ràng, sinh động hơn bao giờ hết. Mỗi câu chữ đều gợi nhớ đến quãng đời chìm nổi, đắng cay hoặc mong manh hạnh phúc đã qua của nàng Kiều, gợi đến những quan hệ quá khứ liên quan đến cả ba người.

Thật ra, người có đủ uy lực tuyệt đối để chủ tọa phiên tòa đúng ra phải là Từ Hải! Nhưng Từ vì quá tôn trọng nàng mà trao lại cái quyền đó, thành ra, dường như Kiều chưa được trang bị đầy đủ để ngồi ở vị trí quan tòa luận tội, và Từ Hải tuy "cùng ngồi" trên bục quan tòa mà hóa ra như thừa!

Vì thế cho nên, việc đền ơn cho Thúc Sinh không thể được coi là trọn vẹn tốt đẹp và việc trả oán không phải là không có mâu thuẫn, gây nên tranh cãi xưa nay.

Ta hãy xem Kiều đền ơn Thúc Sinh. Mở đầu đoạn: "Cho gươm mời đến Thúc lang". Kể cũng lạ ở cái nghi thức "cho gươm mời", dù là nghi thức thể hiện sự trang trọng ở nơi công đường, người được đưa đến để đáp đền ơn nghĩa, bất cứ ai sẽ không bao giờ ưa cái nghi thức ấy. Nhất là với Thúc Sinh, bản chất con người bạc nhược thế nào chắc Kiều đã quá hiểu. Chẳng trách gì mà anh ta nát cả thần hồn, bộ dạng thật thê thảm: "Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run". Nỗi sợ hãi từ phút đầu tới phút chót khiến cho chàng câm lặng, tuyệt nhiên không có bất kì một cử chỉ hoặc một câu cảm tạ nào!

Lời Kiều nói với Thúc Sinh gợi về quan hệ quá khứ giữa hai người: "Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non/ Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?/ Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng/ Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?/ Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân/ Tạ lòng, dễ xứng báo ân gọi là"...

Âm điệu của những câu thơ ít có sự ngắt nhịp mau nghe êm đềm phù hợp với lời nói dịu dàng, thể hiện được phần nào chân tình của Kiều. Bởi công bằng mà xét, Thúc Sinh quả là người có công khi cứu vớt nàng ra khỏi lầu xanh Tú Bà nhơ nhớp và quả là có thương xót nàng trong lúc bị Hoạn Thư đánh ghen cay nghiệt. Nhưng từ trong bản chất, Thúc Sinh là kẻ không dám xả thân vì người yêu nên cuối cùng bỏ cuộc nửa vời. Là người thông minh, nhạy cảm, Kiều hiểu được thực chất tình cảm ở con người này. Thế cho nên, đền ơn Thúc Sinh, trong lời lẽ của Kiều vẫn có chút gì gượng gạo. Sự gượng gạo đó được phủ lên bằng lớp từ hoa mĩ mang phong cách ngôn ngữ ước lệ, khuôn sáo: "nghĩa nặng nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, há dám phụ lòng cố nhân".

Thêm một chi tiết cần lưu ý: lễ vật đền ơn. Với mụ quản gia và vãi Giác Duyên là: "Nghìn vàng gọi chút lễ thường/ Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân". Họ được đền đáp bằng vàng, tương ứng với tấm lòng tốt vô tư của họ. Còn với chàng Thúc lại là: "Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân". Không nói chuyện lớn nhỏ, chỉ thấy chúng có sự khác biệt nhau về tên gọi và giá trị. Điều này đủ thấy Kiều là người thật rạch ròi, sòng phẳng và tinh tế.

Cuối lời đối thoại với Thúc Sinh, Kiều lại tung ra một tràng lời đe nẹt Hoạn Thư với một ngữ khí nôm na, quyết liệt đối lập với những lời cao nhã vừa rồi. Tiết tấu các câu thơ nhanh, dứt khoát, thành ngữ dân gian dày đặc khiến cho Kiều như vụt chuyển thành một người khác, đáo để một cách rất ... đàn bà: "Vợ chàng quỷ quái tinh ma/ Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau/ Kiến bò miệng chén chưa lâu/ Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa". Nếu quả thực Kiều hàm ơn sâu sắc và trân trọng Thúc Sinh, thiết nghĩ nàng sẽ không nỡ nói ra những lời cay nghiệt ấy...

Như đã nói trên, chủ tọa phiên tòa - xét theo tính hợp lí của đời sống thực, phải là Từ Hải, người ngoài cuộc. Oái oăm ở đây lại là Thúy Kiều, cùng lúc là nguyên cáo lẫn quan tòa. Mà phiên tòa chủ yếu giải quyết những ân oán cá nhân lại được phơi giữa ba quân, nơi thanh thiên bạch nhật. Bởi vậy, mọi phán quyết không thể tùy tiện chủ quan mà phải phù hợp với lẽ phải và lòng người. Vả chăng, một phiên tòa chân chính, vai trò của luật sư bào chữa luôn được đề cao. Ở đây, Hoạn Thư - bị cáo - đồng thời kiêm luôn trạng sư cho mình.Trước đây, tư thế bị động của một người đàn bà trước nguy cơ "bị cướp chồng", nàng đã nhanh chóng nắm vai trò chủ động và trở thành đạo diễn tài ba của màn kịch: "Làm cho nhìn chẳng được nhau... Cho người thăm ván bán thuyền biết tay". Giờ đây, trước tình thế liên quan đến tồn vong của danh dự và tính mạng, Hoạn Thư đã tỏ ra vô cùng xuất sắc. Có thể nói, Hoạn Thư là nhân vật phụ nữ sinh động, đáng nể và đáng sợ nhất trong số những nhân vật phụ nữ của "Truyện Kiều"! Thúy Kiều hơn Hoạn Thư ở tấm lòng nhưng không bao giờ là đối thủ của Hoạn Thư về mưu trí, kể cả ở màn Báo oán này.

Hãy xem Thúy Kiều vào vị trí quan tòa xử tội: "Thoắt trông nàng đã chào thưa:/ Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây".

Câu "chào thưa" mát mẻ, mỉa mai, đay nghiến tuy có phản ánh cái thế "thay bậc đổi ngôi", ngầm kiêu của Kiều, nhưng thực ra không có nhiều tác dụng để áp đảo đối phương "ngay từ loạt đạn đầu", mà vô tình nó lại giống như một sự khơi gợi lòng kiêu hãnh của dòng dõi trâm anh thế phiệt ở ả ta mà thôi.

Rồi sau đó là một tràng lời đe nẹt chung chung, không có nội dung luận tội cụ thể: "Đàn bà dễ có mấy tay/ Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan/ Dễ dàng là thói hồng nhan/ Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều".

Hầu như tất cả đều là những dáng dấp của thành ngữ dân gian để nói về đàn bà và lẽ đời nhân quả nói chung. Hớ hênh, vô ý hay là khó nói, Thúy Kiều như đã vô tình gợi ý cho Hoạn Thư quỷ quyệt để ả có cơ hội chộp lấy và xoáy sâu vào hai chữ "đàn bà", "thói hồng nhan" trong lời tự bào chữa.

Sau một thoáng sợ hãi "hồn lạc phách xiêu", Hoạn Thư nhanh chóng tìm ra con đường thoát thân tuyệt hảo bằng tất cả sự khôn ngoan vốn có.

Về lẽ chung, "Dễ dàng là thói hồng nhan/ Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều". Đúng là như thế, nhưng cùng với nó còn một quy luật nữa, cô (Thúy Kiều) cũng cần phải hiểu: "Rằng: "Tôi chút phận đàn bà/ Ghen tuông thì cũng người ta thường tình"; "Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai".

Nếu Thúy Kiều đánh trúng vào cái tội tàn ác, cay nghiệt trước đây của Hoạn Thư, thì Hoạn Thư đã khôn khéo lái mũi tên sang hướng khác: Đàn bà với chuyện ghen tuông! Bằng sự phản bác đúng lí, Hoạn Thư đã nhanh chóng san hòa 1-1, lập lại thế cân bằng giữa quan tòa và tội phạm. Từng từ ngữ một, Hoạn Thư đều cân nhắc kỹ lưỡng: Không chỉ "đàn bà" mà còn là "chút phận" (thu nhỏ hết mức thân phận vốn mỏng manh); "người ta" (quy luật phổ biến), "thì cũng" (tất yếu), "thường tình" (đó là chuyện dễ hiểu); "chưa dễ ai chiều cho ai" (ai lâm vào cảnh ấy, kể cả cô - Thúy Kiều - cũng hành xử thế thôi!). Qua lời Hoạn Thư, đòn ghen hiểm độc xưa kia mà ả dành cho Kiều trở thành nhẹ tênh.

Về lẽ chung thì như thế, còn tình riêng: "Nghĩ cho khi gác viết kinh/ Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo".

Đây là đòn phản công hiểm ác nhất nhằm hạ uy thế quan tòa của Kiều. Một câu khiêm nhường: "nghĩ cho..." mà chẳng khác nào kim châm đau nhói vào tâm khảm của Kiều. Vì nó nhắc nhớ đến tháng ngày ở Quan Âm các với tâm trạng hoang mang lo sợ "miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này", đến - đặc biệt đến - việc Kiều chạy trốn có mang theo chuông vàng khánh bạc để độ đường phòng thân mà không bị Hoạn Thư truy đuổi. Cái ân: "đánh" xong mở cửa cho ra của Hoạn Thư đối với Thúy Kiều, đó là hiện thực. Công bằng mà xét, so với lũ Mã, Sở, Bạc..., Hoạn Thư hơn chúng là không đẩy Kiều tới bước đường cùng và không phải không có lúc ứng xử với Kiều một cách "quân tử".

Và nữa: "Lòng riêng riêng những kính yêu", lý lẽ này của Hoạn Thư cũng có cơ sở thực tiễn khá vững vàng, bởi đã có đến ba lần Hoạn Thư vì "tri ngộ" tài năng của Kiều mà có phần nương nhẹ, thậm chí thương cảm với Kiều khi nàng trong tay ả.

"Già dơ" hơn, Hoạn Thư gạt lẽ chung, tình riêng ra một bên, nhận tội lỗi về mình: "Trót đà gây việc trông gai". Một cách nói giảm nhẹ, khiến người nghe có cảm giác rằng cái sự đánh ghen có trù liệu kĩ càng, bài bản và cay độc trước đây của Hoạn Thư dành cho Thúy Kiều chỉ là đã quá tay ngoài chủ ý! Và cuối cùng, Hoạn Thư đánh vào tình cảm và sĩ diện của đối phương: "Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?". Câu nói chứa đựng sự tâng bốc, đề cao lòng nhân hậu của Kiều và xin xỏ; nhưng xin xỏ mà vẫn giữ được cái thế không van lơn, cái thế của một người làm chủ tình huống, mang theo cái "hách" của dòng dõi trâm anh thế phiệt.

Có thể nói, trong màn trả ân báo oán, Hoạn Thư đã bộc lộ sự khôn ngoan kiệt xuất trong vai trò trạng sư tự bào chữa cho mình.

Với lời tự bào chữa đầy thuyết phục ấy của Hoạn Thư, vị quan tòa Thúy Kiều không thể không tha bổng cùng vời lòng thầm phục đối thủ: "Khen cho: "Thật đã nên rằng/ Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời/ Tha cho thì cũng may đời/ Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen/ Đã lòng tri quá thì nên/ Truyền quân lệnh, xuống trướng tiền tha ngay".

Xem thế, cuộc đền ơn trả oán của Kiều lại trở thành dở dang, không trọn vẹn, như tất cả những dang dở không trọn vẹn trong suốt cuộc đời nàng.

Nguồn: Sưu tầm
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top