Thi sĩ, nhạc sĩ, chiến sĩ Lorca khi còn sống luôn bị ám ảnh bởi cái chết. Và trong nhiều tác phẩm của mình ông đã nhắc tới điều ấy . ông đã bị bọn phát xít giết hại khi mới 37 tuổi. Cái chết của Lorca đã để lại một mất mát lớn và sự thương tiếc vô bờ cho những người yêu thích Lorca và đồng đội của ông. Hòa nhập với nỗi đau đó, tiếng ghi ta xuất hiện liên tiếp như một khúc tấu âm bi ai, nó lung linh, hư ảo:
“tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy”
Tiếng đàn xuất hiện liên tiếp 4 lần nhưng trong bản thể từng tiếng đàn đã có sự thay đổi gam màu, hình khối. Cái vô hình thì nay đã nhuốm màu siêu thực trở nên có màu sắc. “tiếng ghi ta nâu”, tại sao lại là âm thanh màu nâu mà không phải là “tiếng ghi ta đỏ, tiếng ghi ta đen”? Màu nâu gợi nên màu của chất liệu làm nên cây đàn, màu của đồng đất, màu da nâu gợi tình tràn trề sức sống của cô gái Di gan và đó cũng là màu của nỗi buồn. Trong thơ Lorca, màu nâu gắn liền với Chúa Kitô cao cả, thiêng liêng:
“Chúa Kitô màu nâu
Mớ tóc dài rực cháy
Hai gò má nhô cao
Và hai tròng mắt trắng.”
( “Saeta” – Hoàng Hưng dịch)
“Tiếng ghi ta nâu” tạo âm hưởng tiếng ghi ta vừa gần gũi, vừa buồn thương, da diết. Không chỉ được tái hiện thông qua một màu sắc, tiếng ghi ta còn gắn liền với màu xanh “tiếng ghi ta lá xanh biết mấy”, màu xanh là màu của sự sống tràn trề, nhưng kết hợp từ ngữ “ biết mấy” gợi nên sự nuối tiếc, ngậm ngùi cho một vẻ đẹp đang bị phá hủy. Màu sắc bản thân chúng không phải vô hồn mà chất chứa bao ý nghĩa. Sự cộng hưởng màu sắc (thị giác) với âm thanh tiếng đàn (thính giác) tạo hiệu quả nghệ thuật độc đáo, nó tạo nên tiếng đàn màu sắc buồn bã, xót xa, bao nuối tiếc. Phải chăng đó chính là sự nuối tiếc, xót thương của nhà thơ dành cho Garxia Lorca?
Bút pháp tượng trưng, siêu thực đã ngấm vào ngòi bút Thanh Thảo khi ông xây dựng biểu tượng tiếng đàn, tiếng ghi ta không chỉ nhuốm màu sắc mà còn vỡ ra thành hình khối( tròn), thành sinh thể đớn đau (ròng ròng máu chảy). Bản thân biểu tượng tiếng đàn luôn có sự vận động, từ hình ảnh “những tiếng đàn bọt nước” mở đầu bài thơ đến hình ảnh “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan” đã có sự biến thiên của hình tượng : những cảm nhận về số phận mong manh của tiếng đàn và số phận người nghệ sĩ Lor-ca đã hiện thực hoá qua cái chết “vỡ tan”. Sự nối kết hình ảnh tiếng đàn với nét bút phác họa qua các từ ngữ giàu biểu cảm: “ròng ròng”, Thanh Thảo đã khiến cho tiếng đàn ghi ta mang ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận thấy gắn liền với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động của tiếng đàn. “Tiếng ghi ta ròng ròng/ máu chảy”, tiếng đàn như tiếng kêu cứu của con người, của cái Đẹp trong thời khắc bị đẩy đến chỗ tuyệt vọng, âm nhạc đã hóa thành thân phận. Tiếng đàn chính là số mệnh, là hiện thực hóa cuộc đời, cái chết bi thương của người nghệ sĩ Lorca. Nó là tiếng van vỉ, khóc thương của “ trái tim tử thương” trong thơ Lorca, nó cũng là định mệnh nghiệt ngã của người nghệ sĩ yêu tự do, cái Đẹp, người chiến sĩ kiên cường đã chết dưới tay phát xít.
Những câu thơ này đã miêu tả tiếng đàn của Lor-ca như một sinh mệnh trong bi kịch. Ở đây, tiếng đàn được nhân hóa, có tâm trạng, cảm giác; được hữu hình hóa thành màu sắc, hình khối.
Từ góc độ ngữ âm, có thể thấy mỗi câu thơ như một cung bậc của tiếng đàn mà các âm giai đã hòa vào thành hợp âm bi tráng của một bản nhạc cứ tăng dần về cường độ và trường độ. Cách hòa phối âm thanh như thế đã gợi liên tưởng đến hình ảnh một con người kiên gan, bất khuất như cố ngẩng cao đầu trước khi ngã gục, "ròng ròng máu chảy".
Từ góc độ ngữ nghĩa, những câu thơ này lại mở ra một trường liên tưởng khác. Kể cũng có lý khi lý luận văn học hiện đại đã phân biệt rõ văn bản tác phẩm và tác phẩm. Văn bản tác phẩm thì chỉ có một, cùng lắm là có thêm một vài dị bản (trừ văn học dân gian) còn tác phẩm thì có muôn vàn. Tác phẩm là cái phần cảm thụ mang màu sắc chủ quan của mỗi người đọc. Tôi đã đọc khá nhiều bài viết về Đàn ghi ta của Lor-ca và ở khổ thơ này, mỗi người lại “nghe” ra những ý nghĩa thú vị. Trong số đó chắc chắn không khỏi có những ý áp đặt nhưng tôi tin Thanh Thảo cũng không nỡ trách người đọc bởi cấu trúc cú pháp thơ và đặc biệt là cú pháp bài thơ này vốn lỏng lẻo, mơ hồ. Vả lại người đọc - ở một chừng mực nào đó cũng có quyền “vẽ” ra cho mình một tác phẩm riêng từ những gợi ý trong văn bản của tác giả. Trở lại với khổ thơ thứ ba bài thơ, bắt đầu là "tiếng ghi ta nâu" còn hiền hoà với chủ âm là thanh bằng, là hình ảnh tả thực, là tiếng của chiếc ghi ta màu nâu (khác với “chiếc ghi ta màu bạc” mà có người đó cho rằng đó là chiếc ghi ta đã được hóa, như nghi lễ hóa vàng trong tín ngưỡng dân gian). Gắn với âm thanh ấy là hai hình ảnh tương phản : “bầu trời” và “cô gái ấy”. Tương phản bởi lẽ, “bầu trời” là hình ảnh thuộc về cái bao la, vô cùng, “cô gái ấy” là hình ảnh con người hữu hạn. Câu thơ tái hiện bóng dáng một cô gái lẻ loi trên một nền trời trống trải, mênh mang. Theo chú thích của hai bộ sách giáo khoa ngữ văn 12 hiện hành, đó có thể là An-na Ma-ri-a, người mà sau khi Lor-ca chết đã chưa từng một lần lên xe hoa, đó cũng là người đã từng gợi bao tứ thơ kỳ diệu về tình yêu, cuộc sống cho thơ Lor-ca. Nếu tin như vậy thì câu thơ này còn là sự ngậm ngùi thương cảm cho một mối tình tan vỡ mà thi sĩ bỏ lại?. Hình ảnh "tiếng ghi ta lá xanh biết mấy’’ lại là ẩn dụ nói lên một bi kịch xót xa. Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy hay tài năng Lor-ca đang ở độ chín, sức dâng hiến đang dồi dào mà cái chết “bỗng kinh hoàng” xảy đến mang theo bao nỗi tức tưởi. Những thi ảnh nối tiếp từ “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan” đến “ròng ròng máu chảy” tạo tính lôgic của những dòng thơ càng gợi lên nỗi bàng hoàng. “Tròn bọt nước” là toàn bích, là độ hoàn mĩ của tiếng đàn nhưng cũng là cái mốc dẫn đến “vỡ tan” rồi ứa ra “ròng ròng máu chảy”. Không chỉ là “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay’’ (Truyện Kiều) mà là tiếng đàn đang tuôn máu. Tâm trạng của Nguyễn Du khi than thở cho tập ký của Tiểu Thanh “văn chương vô mệnh lụy phần dư” (văn chương vốn không có số mệnh mà sao vẫn bị đốt đến chỉ còn lại phần dư cảo) hay Hoàng Cầm than khóc cho số phận tranh Đông Hồ trước sự tàn phá của giặc Pháp chắc cũng đến thế là cùng. Như thế, nếu khổ thơ trên tái hiện bi kịch của người chiến sĩ bị hành quyết thì khổ thơ này lại thể hiện bi kịch của người nghệ sĩ bị thủ tiêu tác phẩm
Tái hiện lại cuộc đời, số mệnh đau thương, ngắn ngủi của nhà thơ Lorca, Thanh Thảo đã sử dụng biểu tượng tiếng đàn như thay cho lời than khóc. Tiếng đàn mà Garxia Lorca đã từng yêu tha thiết nay trở thành dòng ca tưởng niệm chính Lorca. Tác giả liên tục thay đổi các kênh cảm giác để cảm nhận tiếng đàn, âm thanh đó như vỡ ra thành màu sắc, hình khối, thành sinh thể đớn đau. Màu sắc siêu thực đã tạo nên biểu tượng giàu ý nghĩa vừa hiện thực mà vừa kì ảo. Ẩn chứa trong tiếng đàn là nỗi buồn xót thương của nhà thơ Thanh Thảo dành cho Garxia Lorca – một con người tài năng nhưng đoản mệnh.
Điều băn khoăn nhất trong mối tri âm của Thanh Thảo là những di nguyện của Lor-ca: “không ai chôn cất tiếng đàn / tiếng đàn như cỏ mọc hoang / giọt nước mắt vầng trăng / long lanh trong đáy giếng”. Nếu cần viện dẫn để chứng minh tính giao thoa giữa các lớp nghĩa của thơ ca viết theo lối tương giao thì đây là một ví dụ điển hình. Ở lớp nghĩa bề mặt có thể hiểu Lor-ca tuy chết nhưng tiếng đàn bất tử, bất diệt, dẫu là "ròng ròng máu chảy". Kẻ thù của nền dân chủ có thể giết hại Lor-ca nhưng không thể chôn nổi tiếng đàn. Nó vẫn như "cỏ mọc hoang" lan nhanh và mạnh mẽ. Khi hành quyết, bọn độc tài đã ném xác Lor-ca xuống giếng hòng phi tang. Đây là nỗi đau của cả đất nước Tây Ban Nha mà sự thật, đến nay, hài cốt của Lor-ca vẫn lẫn khuất trong số hàng bao nhiêu nạn nhân của các vụ đàn áp. Nếu “diễn nghĩa” ý thơ của những câu này thì có thể hiểu, Lor-ca chết thảm, vốn đã đau đớn nhưng còn đau đớn hơn vì di nguyện “hãy chôn tôi với cây đàn” đã không được thực hiện. Sự nghiệp cách tân nghệ thuật của thi hào không có người kế tiếp. Đó là vì thần tượng Lor-ca quá lớn khiến người ta không thể chôn vùi được tiếng đàn hay vì quá yêu Lor-ca mà hậu thế không nỡ quên, không thể quên? Và vì thế tiếng đàn trở thành một thứ cỏ mọc hoang níu chân người đến sau. Thế nên những giọt nước mắt tức tưởi kia không chịu ngủ yên, không thể nguôi yên, không thể lặn chìm ngay vào cõi vĩnh hằng mà cứ ánh lên, nhức nhối một niềm đau “long lanh trong đáy giếng”. Nghĩa là hình ảnh "giọt nước mắt vầng trăng" kia lại thêm một lần tổn thương. Càng long lanh càng đau xót. Không hiểu trong lúc viết những câu thơ này, Thanh Thảo có bị ám ảnh bởi những câu thơ tả nhạc trong bài "Nguyệt cầm" của Xuân Diệu không nhưng rõ ràng giữa Thanh Thảo và Xuân Diệu vẫn có nét tương đồng. Mượn tứ bài thơ "Tỳ bà hành" của Bạch Cư Dị để viết về cái chết của người thiếu phụ trên bến Tầm Dương (Vì nghe nương tử trong câu hát / Đã chết đêm rằm theo nước xanh), Xuân Diệu cũng dùng từ “long lanh” để diễn tả nỗi sầu hận: “Long lanh tiếng sỏi vang vang hận / Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người”. Tuy nhiên ở Nguyệt Cẩm, Xuân Diệu chỉ muốn mượn lời tri âm với nàng “nương tử” để trải nghiệm đến cùng nỗi sầu, muốn được “Sống toàn thân và thức nhọn giác quan” còn Thanh Thảo thì khác. Nhắc lại di nguyện của Lor-ca, chắc chắn, tác giả muốn bộc lộ khát vọng thực hiện di nguyện ấy - khát vọng muốn góp phần cách tân thơ ca Việt Nam sau chiến tranh.
Mặc dù, với di chúc mong hậu thế hãy quên mình đi nhưng thực tế Lorca cùng tiếng thơ ông vẫn sống mãi trong lòng mọi người. Biểu tượng tiếng đàn xuất hiện khẳng định sự sống bất diệt của đời thơ cũng như tâm hồn “chàng hát rong thời trung cổ”: “không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang” . Sự kết hợp hành động “chôn cất” với tiếng đàn, Thanh Thảo một lần nữa khiến cho tiếng đàn trở thành một linh hồn hơn thế thành một sinh thể, một thân phận. Câu thơ gợi ta liên tưởng đến câu thơ của Nguyễn Du: “Thác là thể phách còn là tinh anh”. Bọn phát xít có thể giết chết Lorca nhưng không thể nào giết những vần thơ, những tiếng đàn người nghệ sĩ ấy để lại trong lòng dân chúng. Khát vọng sống, tình yêu bất diệt của Lorca đã được phổ vào tiếng đàn và giờ đây nó vẫn lên tiếng, vẫn mãnh liệt bằng sức sống tự nhiên không gì ngăn nổi: “tiếng đàn như cỏ mọc hoang”. Sự cộng hưởng ý nghĩa của hai biểu tượng đã tạo nên nét nghĩa đầy ám gợi. “Cỏ” là biểu tượng thường xuất hiện trong thơ Thanh Thảo tượng trưng cho những gì âm thầm, lặng lẽ: “cỏ âm thầm mọc dưới trời sao”, cỏ là chứng nhân lịch sử ghi chép lại những dấu chân trên đường ra chiến trường: “dấu chân qua trảng cỏ”… Trong “Đàn ghi ta của Lorca”, tiếng đàn vô hình được tượng trưng hóa qua so sánh lạ nhưng hợp lí với “cỏ mọc hoang” một lần nữa thể hiện sức sống âm thầm, dồi dào mãnh liệt không gì ngăn trở của hồn thơ Lorca, của nghệ thuật chân chính.
****
Các ý chính cần nêu
Trên cơ sở hiểu bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca: những nét chính về tác giả, hoàn cảnh ra đời, giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, vị trí đoạn trích… làm rõ sự cảm nhận (tức là sự hiểu biết và tình cảm, xúc cảm của bản thân) về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. Có thể trình bày, sắp xếp theo nhiều cách nhưng cần nêu được:
Về nội dung:
- Đoạn thơ diễn tả cái chết bi tráng, đột ngột của người nghệ sĩ Lor-ca đấu tranh cho tự do và cách tân nghệ thuật: (6 dòng thơ đầu)
+ Mỗi tiếng ghi ta là một hình dung về cái chết thảm khốc của Lor-ca.
+ Mỗi tiếng ghi ta còn là một cảm nhận, một nỗi niềm của con người trước cái chết ấy.
- Đoạn thơ thể hiện niềm tiếc thương sâu sắc và niềm tin mãnh liệt vào sự bất tử của tên tuổi và sự nghiệp Lor-ca( 4 dòng thơ cuối):
+ Niềm tiếc thương đối với Lor-ca, người nghệ sĩ với khát vọng tự do và cách tân nghệ thuật.
+ Niềm tin mãnh liệt vào sự bất tử của tiếng đàn Lor-ca.
Về nghệ thuật: Phát hiện và phân tích hiệu quả của các thủ pháp nghệ thuật:
- Điệp từ: tiếng ghi ta.
- Thủ pháp chuyển đổi cảm giác(rất đặc trưng của trường phái thơ tượng trưng)
- Hình ảnh tượng trưng,siêu thực: bầu trời ,cô gái, nâu,lá xanh, tròn bọt nước vỡ tan, ròng ròng máu chảy,chôn cất tiếng đàn, giọt nước mắt vầng trăng, đáy giếng…
- Kết hợp giữa thi ảnh và âm thanh.
- Câu thơ không vần, không dấu chấm, dấu phẩy; không viết hoa; phân câu theo một trật tự khác thường: tiếng ghi ta ròng ròng - máu chảy