1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
- Kết quả là phạm trù triết học chỉ là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
- Phân biệt nguyên nhân và nguyên cớ, nguyên nhân và điều kiện:
+ Nguyên cớ là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng chỉ là liên hệ bên ngoài không bản chất.
+ Điều kiện: Đó là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân nhưng lại có tác dụng biến khả năng chứa đựng trong nguyên nhân thành kết quả, thành hiện thực. Vì vậy, điều kiện là cái không thể thiếu được cho sự xuất hiện kết quả.
2. Tính khách quan và phổ biến của mối quan hệ nhân quả:
- Tính khách quan:
Thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó cho thấy vật chất đang vận động quy đến cùng là nguyên nhân duy nhất, là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng, quá trình. Và mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có căn cứ của nó trong những sự vật, hiện tượng, quá trình khác. Cho nên không có sự vật hiện tượng nào không có nguyên nhân mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra nguyên nhân của hiện tượng đó, và cũng không có một hiện tượng nào không sinh ra kết quả mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra được kết quả của nó.
- Tính phổ biến:
Tính phổ biến của quan hệ nhân quả thể hiện ở chỗ mọi sự vật và hiện tượng đều nảy sinh từ những sự vật hiện tượng khác. Trong đó cái sản sinh ra cái khác được gọi là nguyên nhân và cái được sinh ra gọi là kết quả.
3. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân sinh ra kết quả vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân, khi nguyên nhân đã xuất hiện, đã bắt đầu tác động.
Tuy nhiên không phải mọi sự nối tiếp nhau về mặt thời gian của các sự vật hiện tượng cũng là biểu hiện của mối liên hệ nhân quả. Cái để phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian là ở chỗ quan hệ nhân quả bao giờ cũng là quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân phải sản sinh ra kết quả.
- Trong hiện thực, mối quan hệ nhân quả biểu hiện hết sức phức tạp. Một kết quả thường không phải do một nguyên nhân mà do nhiều nguyên nhân gây ra; đồng thời một nguyên nhân cũng có thể sản sinh ra nhiều kết quả. Vì sự phối hợp tác động của nhiều nguyên nhân đòi hỏi phải phân tích tính chất, vai trò của mỗi loại nguyên nhân đối với kết quả cũng như sự liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nguyên nhân và phân loại các nguyên nhân.
+ Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn. Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm lại. Thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
+ Phân loại nguyên nhân:
* Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu:
Nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà không có nó thì kết quả không thể xuất hiện. Nó quyết định những đặc trưng tất yếu của sự vật, hiện tượng. Nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ quyết định những mặt, những đặc điểm nhất thời, tác động có giới hạn và có mức độ vào việc sản sinh ra kết quả.
* Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài: Nguyên nhân bên trong là nguyên nhân tác dụng ngay bên trong sự vật, được chuẩn bị và xuất hiện trong tiến trình phát triển của sự vật, phù hợp với đặc điểm về chất của nó. Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động giữa các sự vật khác nhau đem lại sự biến đổi nhất định giữa các sự vật đó.
- Tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân và sự chuyển hóa của nguyên nhân-kết quả:
Mối liên hệ nhân quả có tính chất tác động qua lại lẫn nhau trong đó không những nguyên nhân sinh ra kết quả mà kết quả còn tác động trở lại đối với nguyên nhân đã sinh ra nó, làm cho những nguyên nhân cũng biến đổi bởi vì nguyên nhân sinh ra kết quả bao giờ cũng là một quá trình. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân chính là sự ảnh hưởng thường xuyên lẫn nhau giữa nguyên nhân và kết quả, gây nên sự biến đổi giữa chúng. Nguyên nhân và kết quả thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau, nên “cái bây giờ ở đây là kết quả thì ở chỗ khác, lúc khác lại trở thành nguyên nhân và ngược lại”.
Trong thế giới vô tận, nguyên nhân sinh ra kết quả, đến lượt nó kết quả chuyển hóa thành nguyên nhân mới sinh ra kết quả mới,.. là vô tận. Chính vì thế, trong thế giới ta không thể chỉ ra được đâu là nguyên nhân đầu tiên và đâu là kết quả cuối cùng.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Mối quan hệ nhân quả đã vạch rõ nguồn gốc của các hiện tượng cụ thể, riêng biệt vì vậy là cơ sở để đánh giá kết quả của sự nhận thức thế giới, hiểu rõ con đường phát triển của khoa học, khắc phục tính hạn chế của các lý luận hiện có và là công cụ lý luận cho hoạt động thực tiễn để cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Hiện tượng nào cũng có nguyên nhân, nên muốn hiểu đúng một hiện tượng thì phải tìm hiểu nguyên nhân xuất hiện của nó hoặc muốn xóa bỏ một hiện tượng thì phải xóa bỏ nguyên nhân sản sinh ra nó.
- Nếu nguyên nhân chỉ sinh ra kết quả trong những điều kiện nhất định thì phải nghiên cứu điều kiện để thúc đẩy hay kìm hãm sự ra đời của kết quả. Phải có quan điểm toàn diện và cụ thể khi nghiên cứu hiện tượng chứ không được vội vàng kết luận về nguyên nhân của hiện tượng đó.
- Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
- Kết quả là phạm trù triết học chỉ là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
- Phân biệt nguyên nhân và nguyên cớ, nguyên nhân và điều kiện:
+ Nguyên cớ là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng chỉ là liên hệ bên ngoài không bản chất.
+ Điều kiện: Đó là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân nhưng lại có tác dụng biến khả năng chứa đựng trong nguyên nhân thành kết quả, thành hiện thực. Vì vậy, điều kiện là cái không thể thiếu được cho sự xuất hiện kết quả.
2. Tính khách quan và phổ biến của mối quan hệ nhân quả:
- Tính khách quan:
Thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó cho thấy vật chất đang vận động quy đến cùng là nguyên nhân duy nhất, là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng, quá trình. Và mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có căn cứ của nó trong những sự vật, hiện tượng, quá trình khác. Cho nên không có sự vật hiện tượng nào không có nguyên nhân mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra nguyên nhân của hiện tượng đó, và cũng không có một hiện tượng nào không sinh ra kết quả mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra được kết quả của nó.
- Tính phổ biến:
Tính phổ biến của quan hệ nhân quả thể hiện ở chỗ mọi sự vật và hiện tượng đều nảy sinh từ những sự vật hiện tượng khác. Trong đó cái sản sinh ra cái khác được gọi là nguyên nhân và cái được sinh ra gọi là kết quả.
3. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân sinh ra kết quả vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân, khi nguyên nhân đã xuất hiện, đã bắt đầu tác động.
Tuy nhiên không phải mọi sự nối tiếp nhau về mặt thời gian của các sự vật hiện tượng cũng là biểu hiện của mối liên hệ nhân quả. Cái để phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian là ở chỗ quan hệ nhân quả bao giờ cũng là quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân phải sản sinh ra kết quả.
- Trong hiện thực, mối quan hệ nhân quả biểu hiện hết sức phức tạp. Một kết quả thường không phải do một nguyên nhân mà do nhiều nguyên nhân gây ra; đồng thời một nguyên nhân cũng có thể sản sinh ra nhiều kết quả. Vì sự phối hợp tác động của nhiều nguyên nhân đòi hỏi phải phân tích tính chất, vai trò của mỗi loại nguyên nhân đối với kết quả cũng như sự liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nguyên nhân và phân loại các nguyên nhân.
+ Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn. Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm lại. Thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
+ Phân loại nguyên nhân:
* Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu:
Nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà không có nó thì kết quả không thể xuất hiện. Nó quyết định những đặc trưng tất yếu của sự vật, hiện tượng. Nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ quyết định những mặt, những đặc điểm nhất thời, tác động có giới hạn và có mức độ vào việc sản sinh ra kết quả.
* Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài: Nguyên nhân bên trong là nguyên nhân tác dụng ngay bên trong sự vật, được chuẩn bị và xuất hiện trong tiến trình phát triển của sự vật, phù hợp với đặc điểm về chất của nó. Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động giữa các sự vật khác nhau đem lại sự biến đổi nhất định giữa các sự vật đó.
- Tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân và sự chuyển hóa của nguyên nhân-kết quả:
Mối liên hệ nhân quả có tính chất tác động qua lại lẫn nhau trong đó không những nguyên nhân sinh ra kết quả mà kết quả còn tác động trở lại đối với nguyên nhân đã sinh ra nó, làm cho những nguyên nhân cũng biến đổi bởi vì nguyên nhân sinh ra kết quả bao giờ cũng là một quá trình. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân chính là sự ảnh hưởng thường xuyên lẫn nhau giữa nguyên nhân và kết quả, gây nên sự biến đổi giữa chúng. Nguyên nhân và kết quả thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau, nên “cái bây giờ ở đây là kết quả thì ở chỗ khác, lúc khác lại trở thành nguyên nhân và ngược lại”.
Trong thế giới vô tận, nguyên nhân sinh ra kết quả, đến lượt nó kết quả chuyển hóa thành nguyên nhân mới sinh ra kết quả mới,.. là vô tận. Chính vì thế, trong thế giới ta không thể chỉ ra được đâu là nguyên nhân đầu tiên và đâu là kết quả cuối cùng.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Mối quan hệ nhân quả đã vạch rõ nguồn gốc của các hiện tượng cụ thể, riêng biệt vì vậy là cơ sở để đánh giá kết quả của sự nhận thức thế giới, hiểu rõ con đường phát triển của khoa học, khắc phục tính hạn chế của các lý luận hiện có và là công cụ lý luận cho hoạt động thực tiễn để cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Hiện tượng nào cũng có nguyên nhân, nên muốn hiểu đúng một hiện tượng thì phải tìm hiểu nguyên nhân xuất hiện của nó hoặc muốn xóa bỏ một hiện tượng thì phải xóa bỏ nguyên nhân sản sinh ra nó.
- Nếu nguyên nhân chỉ sinh ra kết quả trong những điều kiện nhất định thì phải nghiên cứu điều kiện để thúc đẩy hay kìm hãm sự ra đời của kết quả. Phải có quan điểm toàn diện và cụ thể khi nghiên cứu hiện tượng chứ không được vội vàng kết luận về nguyên nhân của hiện tượng đó.
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: