Trong đề tài viết về người nông dân,Nam Cao là người đến muộn, trước đó đã sừng sững những Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng. Sẽ tiếp tục thu hoạch gì đây trên mảnh đất đã được nhiều người cày xới? Thử thách ấy được đặt ra khá gay gắt với Nam Cao. Nhưng với một cảm quan hiện thực sắc sảo,với một tấm lòng nhân đạo cao đẹp và tài năng nghệ thuật độc đáo, Nam Cao đã vượt qua những thử thách ấy và để lại cho đời những áng văn bất hủ. Viết về đề tài nông thôn và người nông dân, ngòi bút Nam Cao đã đi sâu vào những xác xơ nghèo đói cùng thân phận bi kịch của những con người dưới đáy xã hội. Từ những trang viết của Nam Cao, hiện lên hình ảnh nông thôn Việt Nam những năm cuối cùng của chế độ thuộc địa tiêu điều, heo hút. Trong xã hội đó giai cấp thống trị tác oai, tác quái và những người nông dân bị đẩy vào ngõ cụt không lối thoát. Truyện ngắn Chí Phèo tiêu biểu cho các đặc điểm đó trong những sáng tác của nam cao. Nhân vật Chí Phèo đã trở thành một hình tượng nghệ thuật bất hủ không chỉ trong nền văn học dân tộc mà cả trong nền văn học nhân loại của thế kỉ XX.
Chí Phèo sinh ra trong đói nghèo,cô độc, tủi nhục. Chết đi cũng trong tủi nhục,cô độc và đói nghèo. Trong làng Vũ Đại,Chí Phèo là một thằng cùng hơn cả dân cùng: không cha, không mẹ, không nhà cửa, không thân thích họ hàng. Cả cuộc đới hắn chưa bao giờ được chăm sóc bởi bàn tay của một người đàn bà. Người nhặt hắn về là một anh đi thả ống lươn, nuôi hắn là một bác phó cối không con. Đến nỗi ước mong chung sống với một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn như Thị Nở cũng không được chấp nhận.
Mở đầu tác phẩm, Chí Phèo xuất hiện với những tiếng chửi. Chí chứi trời tức là đối lập với tạo hóa, Chí chửi đời tức là đối lập với cả xã hội. Đau đớn hơn, Chí “nghiến răng vào mà chửi cái đứa chết mẹ nào đã đẻ ra Chí Phèo”, điều ấy có nghĩa là Chí đối lập với chính nguồn gốc của mình. Trong tiếng chửi ấy, hiện lên một con người cô độc tuyệt đối. Giữa lúc đó, tiếng chó sủa xuất hiện, dường như Chí chỉ còn mối liên hệ với loài vật. Trong không khí vắng lặng của làng Vũ Đại, chốc chốc lại vang lên tiếng chửi của Chí Phèo, tiếng chó sủa đáp lại và thỉnh thoảng lại ồn lên tiếng gào thét rạch mặt ăn vạ rồi sau đó tất cả lại rơi vào tõm vào im lặng. Như thế Chí Phèo sinh ra để mà bị người ta khinh rẻ, bị quăng khỏi cuộ sống chỉ trông mong vào lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Rồi Chì tồn tại cũng trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người. Không có gì đau xót hơn khi Chí Phèo chết mà người ta mừng. Quả thật số phận khốn khổ ấy của Chí Phèo là số phận của lớp người dưới đáy xã hội.
Hình tượng Chí Phèo vô cùng độc đáo nhưng không phải là ngẫu nhiên và cá biệt. Thông qua hình tượng nhân vật này, Nam Cao đã khái quát lên quy luật hủy hoại con người ghê gớm của xã hội cũ. Con quỷ dữ này cũng từng có một thời là người hiền lành, lương thiện. Từ tuổi bơ vơ, hết đi ở nhà này lại đến ở cho nhà khác, đến tuổi thanh niên, làm canh điền cho Lý Kiến, Chí Phèo sống cuộc sống lao động cực khổ của người cố nông Việt Nam trước Cách mạng. Anh nông dân hiền lành ấy đã từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc giản dị. Tuy còn trẻ nhưng anh đã phân biệt được tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu xa. Thế nhưng bản chất trong sáng, lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo đã bị bọn cường hào và nhà tù thực dân hợp sức bóp chết.
Trở về làng trần trụi giữa bầy sói, Chí Phèo không thể hiền lành mà muốn sống thì phải cướp giật, ăn vạ, phải đâm chém. Muốn thế phải liều lĩnh, phải có gan. Những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Rồi Chí luôn say, mà đã say thì hắn làm bất cứ điều gì người ta sai hắn làm. Chí Phèo đã gây tội ác trong khi say một cách vô ý thức. Linh hồn của y đã bán cho quỷ dữ mất rồi. Chí Phèo là người đau khổ tủi nhục nhất trên đời. Chị Dậu của Ngô Tất Tố phải dứt ruột để bán con nhưng chị còn có gia đình, còn có tổ ấm để mà tồn tại. Chí Phèo không có gì đành phải bán cái nhân tính của mình để mà sống. Mà Chí lại bán rất rẻ mạt. Mỗi lần chỉ 5 hào bạc để uống rượu mà thôi. Vì bán nhân phẩm như thế Chí Phèo đã bị tha hóa. Đáng lẽ phải đứng về hàng ngũ những người lương thiện, thì Chí lại trơ thành mối đe dọa của họ; đáng lẽ phải đối đầu vơi Bá Kiến thì Chí lại trở thành chỗ đầy tớ chân tay tin cậy của y.
Qua đó Nam cao đã vạch trần một quy luật đau xót, nghiệt ngã của chế độ cũ: gặp phải kẻ thù xảo quyệt, nếu không tỉnh táo thì con người lương thiện bị biến thành đối ngược với đồng loại của mình. Người đọc khó có thể quên cái dáng đi ngất ngưỡng, cái bộ mặt cương cương, vằn ngang, vằn dọc và “đôi mắt gườm gườm trông gớm chết” của Chí Phèo. Cái xã hội tàn nhẫn ấy đã hủy hoại một cách sâu sắc và toàn diện con người chí Phèo.
Sự xuất hiện của Thị Nở đã chia đôi cuộc đời Chí Phèo: Ở chặng đầu Chí bị tha hóa mà không biết. Gặp Thị Nở rồi, Chí bắt đầu có ý thức về sự tha hóa, về việc trượt quá xa loài người của mình. Lúc này, bi kịch tinh thần ở Chí mới xuất hiện. Cuộc gặp gỡ đã lóe sáng như một tia chớp trong chuỗi ngày tăm tối giằng giặc của Chí Phèo. Thị Nỏ với một tình yêu thô lỗ nhưng rất chân thành đã gợi lên bản chất con người vốn từ lâu bị vùi lấp trong lòng Chí. Từ đây mà Chí Phèo mới biết có một người thương mình. Lần đầu tiên trong đời, Chí mới được ăn một bát cháo hành tử tế do người khác đem cho chứ không phải vì cướp giật. Bát cháo hành ấy mang hương thơm chân thành của tình yêu. Nó gợi lại bao ước mơ thầm kín trong Chí Phèo ngày xưa để có một buổi sáng trong đời thật là cảm động.Nam Cao đã phát hiện ở những con người như Chí Phèo một tâm hồn thi sỹ. Những âm thanh hết sức bình thường của cuộc đời ngày nào cũng có, thế mà như lần đầu tiên Chí mới nghe thấy. Ước mơ trở lại với xã hội loài người của Chí lúc này thật mộc mạc và đáng nâng niu. Thị Nở không chỉ là người yêu mà còn là con đường sống của Chí Phèo: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!” Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, lương thiện của những người lương thiện.
Nhưng cái tia chớp lóe lên thật ngắn ngủi rồi tắt ngấm. Nỗi đau xót ở chí Phèo là ước mơ trở lại làm người không được chấp nhận. Lúc thị Nở trở mặt, ban đầu Chí không hiểu nổi vì quá tin, vì đang say với tình yêu, say với ước mơ trở lại làm người. Khi hiểu ra rồi, Chí Phèo lại tìm đến rượu, nhưng lúc này y càng uống càng tỉnh.cái phản ứng sinh lí do rượu gây ra không lấn át nổi sự chấn động mạnh mẻ về tâm lí lúc này. Đó chính là chỗ sâu sắc nhất của ngòi bút Nam Cao khi miêu tả nỗi đau đớn tinh thần ở con người khốn khổ này. Bề ngoài là thị Nở và bà cô từ chối Chí Phèo nhưng thực chất là Chí Phèo đã bị cả xã hội cự tuyệt. Ai mà tin được Chí Phèo - con người có cái lí lịch gớm ghiếc đến như vậy, con người chỉ có độc một nghề là rạch mặt ăn vạ lại có thể thành người lương thiện được. Cái xã hội tàn nhẫn ấy đã đẩy Chí Phèo ra ngoài lề cuộc sống, giờ đây lại chặn đứng Chí Phèo lại ngay trên ngưỡng cửa Chí Phèo trở về làm người lương thiện, ngay khi Chí Phèo đang háo hức gia nhập lại xã hội loài người. Đó chính là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người - bi kịch xót xa, đau đớn nhất của Chí Phèo.
Kết thúc tác phẩm, Chí Phèo đẫ tìm đến tiêu diệt kẻ thù truyền kiếp của mình và tự kết liễu cuộc đời. Hành động ấy là tất yếu khi con người đứng trước một tình thế tuyệt vọng. Không muốn tiếp tục làm quỷ dữ cũng không thể làm người lương thiện, Chí Phèo chỉ còn cách tìm đến cái chết. Vì chỉ có cái chết mới giải thoát cho Chí Phèo khỏi cái bi kịch đau đớn của đời mình. Cái chết của Chí Phèo là lời tố cáo đanh thép nhất đối với xã hội đương thời. Đồng thời khi thể hiện cái chết ấy, Nam Cao cũng bộc lộ phần hạn chế trong tư tưởng của mình. Đó là hạn chế về thế giới quan của nhà văn, điều đó cũng có nghĩa bản thân nhà văn Nam Cao cũng tột cùng bế tắc trong thời kì trước Cách mạng tháng Tám.
Thông qua số phận bi thảm của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã lên tiếng tố cáo mãnh liệt cả guồng máy xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời đã đè nghiến, hủy hoại con người một cách triệt để. Đồng thời qua Chí Phèo, nhà văn cũng bộc lộ một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc khi đồng cảm với bi kịch đau xót ở lớp người như Chí, khi nhìn thấy tia sáng lương thiện hồi sinh ở nhân vật này. “Chí Phèo” xứng đáng là hình tượng văn học bất hủ, vô cùng độc đáo và có ý nghĩa khái quát sâu rộng này./.
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: