Phân tích nghĩa của từ
1. Giới thiệu
Phân tích, miêu tả cho được cấu trúc nghĩa của từ là một trong những nhiệm vụ và mục đích hàng đầu của việc nghiên cứu từ vựng ngữ nghĩa.
Trong lĩnh vực này, người ta đã đề xướng nhiều phương pháp phân tích nghĩa của từ, nhưng thường gặp và dễ dùng nhất là phương pháp sử dụng ngữ cảnh.
2. Ngữ cảnh là gì?
2.1. Khi dùng ngôn ngữ để giao tiếp, người ta thường nói ra những câu, những phát ngôn, chứ không phải là những từ rời rạc. Tại đó, các từ kết hợp với nhau theo những quy tắc và chuẩn mực của ngôn ngữ. Cũng trong câu hoặc phát ngôn cụ thể, người ta mới biết được rằng: Tại trường hợp, hoàn cảnh cụ thể này, từ có nghĩa gì (tức là nó bộc lộ nghĩa nào trong số các nghĩa của nó).
Ví dụ, khi ta nghe thấy chỉ một từ "chắc" trong tiếng Việt thôi, thì không thể biết được người nói muốn nói gì tới nghĩa nào đó của từ này. Thế nhưng, từng nghĩa một của từ "chắc" sẽ xuất hiện rất rõ ràng, nếu ta nghe thấy nó trong các phát ngôn, những chuỗi từ đại loại như sau:
Lúa đã chắc hạt; Nhà xây rất chắc; Lời nói chắc như đinh đóng cột; Ông này chắc đã có con lớn; Anh làm thế, dễ người ta không biết đấy chắc;...
Định nghĩa về ngữ cảnh được phát biểu như sau:
Ngữ cảnh của một từ là chuỗi từ kết hợp với nó hoặc bao xung quanh nó, đủ để làm cho nó được cụ thể hoá và hoàn toàn xác định về nghĩa.
(Định nghĩa này cho thấy rằng ngữ cảnh có thể tối thiểu là một từ, tối đã là một chuỗi lớn hơn, có khả năng ứng với một câu, một phát ngôn,...)
2.2. Sở dĩ từ bộc lộ một nghĩa xác định nào đó trong ngữ cảnh chứa nó là vì trong mỗi ngữ cảnh, từ thể hiện khả năng kết hợp từ vựng và khả năng kết hợp ngữ pháp của mình.
Khả năng kết hợp ngữ pháp của từ là khả năng nó có thể đứng vào một vị trí nhất định trong những cấu trúc nhất định nào đó. Nói khác đi, đó là khả năng từ có thể tham gia vào những cấu trúc ngữ pháp nào đó.
Ví dụ, trong tiếng Việt, động từ có khả năng kết hợp với các từ: đã, đang, sẽ, sắp, lại, vừa,... ở đằng trước; và: xong, rồi, mãi,... ở đằng sau (ví dụ: đang đi, làm mãi,...).
Nếu từ thuộc lớp ngữ pháp nào, thuộc từ loại nào,... thì sẽ được quy định cho những khả năng tương ứng, những vị trí tương ứng trong các mô hình cấu trúc ngữ pháp.
Ngược lại, khả năng kết hợp từ vựng của từ lại là khả năng kết hợp giữa một nghĩa của từ này với một nghĩa của từ khác, sao cho tổ hợp được tạo thành phải đúng với thực tại, phù hợp với logic và thói quen sử dụng ngôn ngữ của nguời bản ngữ.
Ví dụ, người Việt vẫn nói: ăn cơm, học bài, nhắm mắt,... và cũng nói: bây giờ đang mùa thu, trông vẫn còn con gái như ai, nhà này cũng năm tầng;... mà không thể nói: ăn bài, học cơm, nhắm miệng, bây giờ đang nhà,...
Có những từ có khả năng kết hợp từ vựng rất rộng, nhưng có những từ thì khả năng đó lại hẹp hoặc vô cùng hẹp. Chẳng hạn, các động từ: nhắm, nháy, nghển, kiễng, phưỡn, mấp máy,... có khả năng kết hợp với từ vựng rất hẹp. Mỗi động từ đó chỉ kết hợp được với một hoặc vài danh từ khác mà thôi.
Có thể diễn giải khả năng kết hợp từ vựng của từ như sau:
– Khi có hai từ A và B kết hợp với nhau chẳng hạn, thì không phải lúc đó tất cả các nghĩa của A đều hiện lên và kết hợp với tất cả các nghĩa của B.
– Nếu ta hình dung mỗi từ có một "phổ" nghĩa:
A = a, b, c,... B = x, y, z,...
thì sự kết hợp AB về mặt từ vựng có thể là kết hợp nghĩa ax, by, bz, bx, ay, az,... tuỳ trường hợp cụ thể mà AB phản ánh.
Ví dụ: Xét kết hợp "che đầu" trong câu Trời mưa một mảnh áo bông che đầu, ta thấy:
Từ "che" có hai nghĩa:
1. (...)
2. Ngăn cho khỏi bị một tác động nào đó từ bên ngoài.
Từ "đầu" có 4 nghĩa:
1. Bộ phận thân thể người, động vật nằm ở vị trí trên cùng hoặc trước nhất.
2. (...)
3. (...)
4. (...)
Khả năng kết hợp từ vựng của "che" với "đầu" trong trường hợp này là kết hợp của nghĩa che (2) với nghĩa đầu (1).
Những phân tích vừa nêu trên chứng tỏ rằng: Khả năng kết hợp từ vựng của các từ quy định và cho phép chúng có kết hợp với nhau được hay không. Ngược lại, thông qua các kết hợp cụ thể từ này với các từ khác, ta có thể phát hiện dần từng nghĩa riêng của từ, tiến tới xác định được cả một "phổ", cả một cơ cấu của nghĩa từ. Điều này cũng tương tự như hình thái học phát hiện tất cả các từ hình của từ trong hoạt động lời nói để rồi quy chúng về cái gọi là từ vị vậy.
3. Cách dùng phương pháp phân tích theo ngữ cảnh
Khi áp dụng phương pháp phân tích nghĩa qua ngữ cảnh cho từ tiếng Việt, chúng ta phải làm những việc cụ thể (tất nhiên đây mới chỉ là cái cơ bản chứ chưa phải là những thao tác chi tiêt), như sau:
3.1. Phân tích ngữ cảnh
Đây là bước đầu tiên, bắt buộc phải thực hiện vì đó là tư liệu làm việc. Trước hết phải xác định được các ngữ cảnh (có chứa từ mà ta cần phân tích) trong các loại văn bản thành văn thuộc các loại hình phong cách chức năng khác nhau. Sau đó trích các ngữ cảnh đó ra và tập hợp lại.
3.2. Phân loại ngữ cảnh
Khi đã thu được số lượng ngữ cảnh đủ nhiều, đáng tin cậy, phản ánh đủ hết các nghĩa của từ, chúng ta sẽ phân loại. Những ngữ cảnh nào cùng làm hiện thực hoá một nghĩa của từ (tức là trong những ngữ cảnh đó, từ xuất hiện với cùng một nghĩa), thì được xếp vào một nhóm gọi là nhóm ngữ cảnh cùng loại.
Nếu việc phân loại ngữ cảnh làm càng chuẩn xác thì sẽ càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tách nghĩa của từ đa nghĩa, bởi vì, từ càng đa nghĩa thì càng phức tạp, càng khó xử lí.
Xét các ngữ cảnh chứa từ "say" như sau đây làm ví dụ:
1. Má hồng không thuốc mà say.
2. Đất say đất cũng lăn quay
Trời say trời cũng đỏ gay ai cười.
3. Say thuốc lào.
4. Say xe.
5. Say sóng.
6. Da anh đen cho má em hồng
Cho duyên em thắm, cho lòng anh say.
7. Các cụ ông say thuốc.
8. Các cụ bà say trầu.
9. Còn con trai con gái, chỉ nhìn mà say nhau.
Các ngữ cảnh trên đây được phân tích thành hai nhóm:
* Nhóm 1 gồm ngữ cảnh 1, 6, 9.
* Nhóm 2 gồm ngữ cảnh 2, 3, 4, 5, 7, 8.
3.3. Phân tích nghĩa
Đối với từ đơn nghĩa, nhiệm vụ ở bước này là so sánh với các từ khác cùng nhóm (tương đồng, tương cận hoặc tương phản với nó) để phát hiện các nghĩa tố cần yếu trong cấu trúc nghĩa của từ.
Riêng từ đa nghĩa, vấn đề phức tạp hơn. Cùng với việc so sánh, phát hiện các nghĩa tố cần yế của từng nghĩa, thì việc tách ra bao nhiêu nghĩa trong toàn bộ cơ cấu nghĩa từ phải được tiến hành trước một bước. Ta cần phải làm những bước sau đây:
1. Xác định nghĩa gốc của từ (trong thế tương quan lưỡng phân nghĩa gốc – nghĩa phái sinh). Nghĩa gốc của từ có thể là một nghĩa từ nguyên, nhưng cũng có thể chỉ là một nghĩa phái sinh rồi phái sinh tiếp tục ra nghĩa khác. Ví dụ tính từ "bạc" có 3 nghĩa:
1. Mỏng manh, ít ỏi, không trọn vẹn: Mệnh bạc,...
2. Ít ỏi, sơ sài (trái với hậu): Lễ bạc lòng thành,...
3. Không nhớ ơn nghĩa, không giữ được tình nghĩa trọn vẹn trước sau như một: Ăn ở bạc với bố mẹ,...
Nghĩa (1) của tính từ "bạc" là nghĩa từ nguyên, vốn từ gốc Hán.
Nghĩa (2) và (3) của nó đều được phái sinh từ nghĩa (1).
Thế nhưng trong tiếng Việt hiện đại, nghĩa (3) mới là nghĩa phổ biến nhất. Dựa vào nghĩa gốc, ta phát hiện các nghĩa phái sinh và các quy tắc chuyển nghĩa của chúng.
2. Xác định nghĩa không thường trực (nghĩa ngữ cảnh) nếu có, để loại trừ khỏi phạm vi mà chúng ta đang quan tâm. Như vậy, chỉ những nghĩa thường trực mới được đưa vào phân tích xử lí.
3. Ngay trong khi phân loại ngữ cảnh, thực chất là đã bao hàm việc tách nghĩa từ trong đó rồi. Vì vậy, nếu phân loại ngữ cảnh mà chuẩn xác thì số nhóm ngữ cảnh cùng loại nói chung là ứng với số nghĩa khác nhau của từ.
Theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 178–182.