" Đoàn vệ quốc quân 1 lần ra đi nào có mong chi đâu ngày trở về . Ra đi ra đi bảo tồn sông núi , ra đi ra đi thà quyết không lui" . Vâng ! Đã có bao đoàn vệ quốc quân ra đi như thế , biết bao người lính đã”quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” để rồi "dòng tên anh khắc vào núi đá" khắc sâu vào tâm khảm của những thế hệ con người việt nam với dáng đứng đã tạc vào thế kỉ . Văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa một cách vĩnh cửu vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử., Mà lật dở lại những trang lịch sử vàng của một thời chiến đấu oanh liệt được viết lên bằng những trang thơ của dân tộc Việt Nam .Người ta sẽ còn không quên nhắc đến cái tên Tây Tiến của quang Dũng .Đặc biệt là những hình ảnh trong đoạn thơ mở đầu :
" Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rùng núi nhớ chơi vơi
....
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em cơm nếp xôi"
Chỉ mới bắt đầu bài thơ đã là tiếng gọi tha thiết ".. Tây Tiến ơi!" đã bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc , cồn cào ,vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian,cảm giác về một nỗi nhớ da diết , mêng mang lan mãi đến từng nhịp đập của trái tim nơi người đọc . Nỗi nhớ tạo nguồn cảm xúc giúp nhà thơ xóa dần sương khói của thời gian , không gian xa vời vợi . Để làm hiện lên trong tâm tưởng của những kỉ niệm đã gắn bó với cuộc đời của tác giả :
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Với thủ pháp "lắng dần" của điện ảnh tác gải đã để hình ảnh Sông Mã là hình ảnh đầu tiên gọi về nỗi nhớ . Để rồi dòng sông Mã mờ dần cho dòng cảm xúc miên man nhớ về Tây Bắc choáng ngợp tâm hồn nhà thơ :“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !”
Câu thơ như tiếng gọi chân thành , tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. Đó là âm hưởng ngân lên từ những chữ "xa rồi" và chữ "ơi" đầy cảm xúc nhớ thương Câu thơ vang lên như một lời bộc bạch lại như một lời gọi . Nỗi nhớ thương nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng .Trong đó ấn chứa cả sự nhớ nhung , tiếc nuối . Câu thơ 7 chữ mà có 4 chữ là tên riêng , đó cũng là lời gửi chốn về nỗi nhớ : Vùng đất miền Tây mà con sông Mã đã trở thanh biểu tượng mỗi lần người ta nhắc đến mảnh đất của chiến trường chiến đấu oanh liệt của bao đứa con của Tổ quốc nhìn lại ngậm ngùi . “Sông Mã” không đơn thuần là 1 con sông – nơi đã từng là địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến – mà nó đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui buồn, máu hoa,được mất
Và đoàn quân Tây Tiến “nhớ Tây Tiến” là nhớ đến một thời gian chiến đầu đầy kỉ niệm gắn với tên đất , tên sông khó phai mờ . Thời gian chiến đấu ấy con sông Mã cũng giống như một đồng chí , ngươi bạn đường từng chứng kiến và chia sẻ bao nỗi buồn vui của người lính Tây Tiến . Ba chữ “ Tây Tiến ơi” cất lên như một tiếng gọi khẽ lay động tâm hồn người đọc . “Tây Tiến” ko chỉ để gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự. Làm nỗi nhớ gọi nỗi nhớ đưa nhà thơ vào một trạng thái đặc biệt :
“ Nhớ về rừng nuí nhớ chơi vơi”
Câu thơ thứ 2 với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ như 1 cơn thác lũ tràn vào tâm trí đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. “ Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình ,chập trờn hư thực , vừa tha thiết, thường trực , vừa mênh mang , đầy ám ảnh , vừa mở ra không gian tiềm thức vừa như gọi ra không gian trập trùng của núi đèo rộng lớn . Cách hiệp vần “ơi” làm câu thơ như ngân vang , phù hợp với biên độ của cảm xúc nỗi nhớ trải dài và rộng từ cảnh vật đến con người - Từ sông Mã , núi rừng Tây Bắc đến đồng đội , đồng chí và đoàn binh Tây Tiến . Vì gắn bó yêu thương , cùng vào sinh ra tử và lại “nay đã xa rồi”nên mới có nỗi nhớ da diết triền miên như thế giống như những câu ca dao của Việt Nam còn mãi :
“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải
Nhớ chăn bạn nằm”
Nếu hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ . Thì đến với hai câu thơ tiếp theo độc giả lại là hình ảnh đoàn quan Tây Tiến nhơ mờ ảo , ẩn hiện trong sưong khói ,nơi những địa danh lạ :
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi “
Hai câu thơ vừa tả thực , vừa sử dụng bút pháp lãng mạn . Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông …gợi ra đia bàn rộng lớn những cái tên mang âm hưởng của rừng núi hoang vu .Nhưng được nhắc đến với bao nhiêu kỉ niệm yêu thương . Những địad anh này đã từng gắn bó thân thiết với kỉ niệm của nhà thơ . Ngaòi ra nó còn gợi cho chúng ta cảm giác đầy là những vùng heo hút , xa xôi của chốn núi rừng sâu , rừng thẳm .Núi rừng Tây Bắc đẹp hùng vĩ mà dữ dội, một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nơi rừng thiêng nước độc. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, ko nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần ko “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc hoạ rõ hơn sự khắc nghiệt cuả núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương”
Các chi tiết “sương lấp” và “đêm hơi” gợi tả cảnh đoàn binh Tây Tiên hành quân trong biển sương mù dày đặc , trong màn đêm hoi núi gió rét căm căm đương lấp cả đường đi , lấp dáng người trong mờ mịt .. Nhưung dù có mỏi mệt vì thiên nhiên khắc nghiệt của núi rừng , vẫn thưởng thức hương thơm của các làoi hoa : “ Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bốn câu thơ tiếo theo là hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ , hiểm trở và dữ dội hiện lên trong nỗi nhớ như một bức tranh hùng tráng . Mà theo cách nói của Xuân Diệu “ Thi trung hữu họa”:
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà ko dùng từ “chót vót”. Bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu cuả nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội cuả núi rừng Tây Bắc. Những nẻo đường hành quân chiến đầu như kéo dài đến về tận với bao núi , đèo , cồn , dốc .Dốc lên thì “ khúc khuỷu “ quanh co , gập ghềnh . Không những thế , thiên nhiên của núi rừng Tây Bắc không chỉ dừng đem lại sự kinh ngạc , hãi hùng cho nhừng con người muốn bước lên mình nó bằng dốc lên , để vượt núi nhìn dốc xuống “thăm thẳm “ dấn xuống vực sâu .
Các từ láy “khúc khủy “ ,” thắm thẳm”, “héo hút “ kết hợp với cách ngắt nhịp ¾ như chặt đôi câu thơ , mật độ thanh trắc đặc khiên câu thơ trúc trắc gợi sự vất cả , nhọc nhằn góp phần làm tượng hình nên hình ảnh núi rừng Tây Bắc ghập ghềnh, hiểm trở . Quang Dũng không những thông minh trong cách dùng các từ láy miêu tả núi nơi địa đầu tổ quốc này mà cả câu thơ đều dùng thang trắc mà họa lên cả bức tranh núi non gồ ghề , sắc cạnh của các dãy núi đã tai mèo . Trước ngọn núi như thế những người chiến sĩ của chúng ta như thế nào . Người đọc nhứng tưởng Quang Dũng sẽ miêu tả lại những khó khăn mà những chàng trai trẻ tuổi ấy sẽ vượt qua thì không cần quá dài dòng , Quang Dũng chỉ hạ 3 chữ “ súng ngửi trời “.
“ Súng ngửi trơi” là hình ảnh nhân hóa táo bạo , đặc tả sự chót vót của dốc núi không chỉ vẽ ra địa thế đỉnh cao ngút trời của những ngọn núi quanh năm bị bao phủ mây mà còn thể hiện đựoc nét tinh nghịch khỏe khắn , vẫn có thể trêu đìa vô tư sau một chănngj đường hành quân vất cả , mệt nhọc của các anh lính Tây T tính hôn nhiên , lạ quan , hoám hình và yêu đời củanhững người lính trẻ vượt qua gian khó . Họ thấy mình như đang đi trong mây và đầu súngc hạm tới trời đúng với tinh thần
“Khó khăn nào cũng vượt qua
Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”.
Hình ảnh nhân hoá, ẩn dụ “ súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính, cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở. Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật đối xứng, câu thơ như một đường thẳng bị bẻ gấp lại:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 ko gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật hùng vĩ. Bên cạnh đó , quang dũng còn khắc họa lại ngọn núi sừng sunừg , coa vút hai bên dốc núi nhìn lên thì cao chót vót nhìn xuống thfi sâu thăm thằm . “ Ngàn thước lên cao , nàgn thước xuống “ Câu thơ như đựoc ngắt ra làm đôi vẽ ra 2 chặng đuờng của con đừong hành quân , diễn tả rất đạt sự chênh vênh , treo leo của dôc snúi . Nhịp điệu bẻ dodoi đột ngôth ấy kết hợp với thủ pháp tương phản đối lập khiên ngừoi đọc rơi vào cảm giác bất ngờ , nhưu một làn sương lạnh thốc vào giác quan chứng kiến cảnh vật biến động nhanh đến chóng mặt .
Sau ba câu thơ gân guốc , táo bạo , hơi thở dữ dội , mạnh mẽ . Tập chung khắc họa cái dữ dội tột đỉnh của thiên nhiene Tây Băc Quang Dũng đã sử dụng toàn thanh bằng với nhạ điệu nâng nâng , mênh mang thể hiện ánh mắt vô cùng thơ mộng của người linh Tây Tiến . Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:
“ Nhà ai Pha Lương mưa xa khơi”
Câu thơ như tiếng thở phào nhẹ nhõm của nguwoif lính sau khi vuwot qua đèo cao , núi sâu . Họ tạm dừng chân bên một dốc núi , phóng tầm mắt ra xa qua một không gian mịt mùng của sương rừng , mưa núi để ngắm nhìn những ngôi nhà đang thấp thoáng trôi nhẹ nhàng giữa biển mưa . Câu thơ giống như một gam màu lạnh giữa gam màu nóng trong hội họa dịu lại và xa mất cả khổ thơ tạo nên một cảm giác êm đềm . Xa xa , lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút cuả Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh , sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 với 7 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở cuả núi rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ những dòng thơ trong “Chinh phụ ngâm khúc”
“Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao
Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu”
8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến. Qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt cuả người lính Tây Tiến nói riêng và cuả những người lính nói chung.
Thiên nhiên dữ dội và khắc nghiệt nhưu vậy nên cuộc hành quân của người lính Tây Tiên vô vùng gian khổ đến nỗi .
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên xúng mũ bỏ quên đời”
Câu thơ viết về một hiện thực khốc liệt ấy thế mà lại đuợc nói bằng giọng nhẹ nhàng , thấm thía “…không bước nữa” và “ gục lên súng mũ” gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến . Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là những phút giây đương nhiên. Người lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng lại với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ của người lính cũng là điều tất yếu đó sao. Các anh đã không bước tiếp được nữa trên con đường hành quân đầy gian khổ. Cái chế của các anh đựoc miêu ta rnhẹ nhàng , than thản “bỏ quên đời”. Ba chữ cuối: “bỏ quên đời” thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng miền Tây và biết rằng: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” (xưa nay chinh chiến mấy ai trở về)Họ chủ động chấp nhận cái chết , coi nó chỉ đơn giản như một giâc sngủ mà thôi . Hình ảnh vê fngười lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “ Dáng đứng Việt Nam “:
“ Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chana dung người lính Tây Tiến . Đây la fhình cảnh vừa bi vừa hùng mang không khí thời địa . Họ ra đi chiến đấu với lời thề thiêng liêng : “ Quyst tử hco tổ quốc quyêt sinh” Mỗi cuộc ra đi đều không hẹn ngày trở về giống như một lời ca thịnh hành thời đó :” Đoàn vệ quốc quân là có xa chi đâu nagỳ trở về”.
Hai câu thơ của Quang Dũng dẫu có buồn vì nói đến mất mát , hi sinh nhưng vẫn không bị lụy vê fthái dộ của người hi sinh . Người chiến sĩ ở đây dẫu không áp đảo đựoc khso khăn nhưng họ không chịu khuât sphục . Họ đứng trên cái chết, coi chết “nhẹ tựa lông hồng” và sẵn sàng đón nhận nó vì Tổ quuốc thân yêu .
Bấy nhiêu khắc nghiệt kể ra mà người lính phải chịu đững vẫn phải là tất cả bởi vùng rừng núi miền tây ấy còn là nơi ngự trị của những kẻ âm u , hoang dã , cua rthác cao , sông sâu , thác dữ . sđự âm u , haong dã ấy không chỉ đựoc mở ra theo chiêu fkhông gian mà đựoc khám ohá ở chiêu fthời gian tạo ra những đe dọa khủng khiếp luôn dình dập con người :
“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét ,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” . Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống từ trên cao và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê rợn. Quang Dũng bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động hóa những nhận xét của người đời. Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng tượng để cực tả vẻ hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và huyền bí của miền rừng núi Tây Bắc.Cảnh hoang vu của núi rừng Tây Bắc đúng là thử thách ghê gớm đối với nguwngf linh Tây Tiến khi mà “chiều chiều” , “đêm đếm” chỉ nghe thấy tiếng “thác gầm thét “ , “ vọp trêu người” .Các từ láy chỉ biên dodọ lặp lại thường xuyên của thơi gian kết hợp voiứ biện pháp nhân hóa “thac gầm thét “,” cọp trêu người “ đã nhân smạnh vẻ bí hiểm , dữ dội , hoang dã chứa đầy nguy hiểm , cai schết luôn luôn rình rập đe dọa nguwoif lính của núi rừng miền Tây Nhà thơ Trần Lê Văn từng viết “ Hai chữ có dấu nặng đi với nhau nghe nặng như tiếng chân cọp” , trước đó lại kết hợp với ca fhai thanh bằng đa xtạo lên một quá trình rình mồi rồi bât sngờ vồ mồi của loài cọp dữ dội , quyết liệt trên trang giấy Giữ nhưng kỉ niệm gian khổ , khắc nghiệt như thế . Đoạn thơ đã khép lại bằng một ấn tượng thật ấm áp và ngọt ngào.
“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu màu em cơm nếo xôi”
Những hiểm nguy vẫn rình rập đâu đó, những nét dữ dội quyết liệt mà đoàn binh Tây Tiến đã một thời vượt qua.Trên đuờng hành quân treo neo đầy trắc trở đoàn quân dừng lại nghỉ chân noiư những bản làng . Một bữa cơm nóng bôc skhói . Hương vị ngọt ngon của những nắm xôi nếp thơm do những bông hoa của núi rừng Tây Bắc đem tới đa xkhiên cho các chàng trai hào hao , phong nhã như quên đi tất ca rnỗi vất vả về thể xác suôt dọc đừong để đón nhạn tình quân –dân thắm thiết . Hương vị của nếp xôi , hương vị của lòng người . Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và sự đằm thắm tình người. Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau những câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha. Câu cảm thán gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp khói cơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều. Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tưoi vui. )Mia xlà mảnh tâm hồn của ngừoi cán bộ kháng chiến là kỉ niệm đpẹ của anh bộ đội cụ Hồ trong 9 năm kháng chiến chống Pháp :
“ Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi em giấu giữ rừng
Đất Tây Bắc tháng nagỳ không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương” ( Tiếng hát con tàu _ Chế Lan Viên)
Đoạn thơ đã cho thây snét tài hoa trong phong cách của Quang Dũng câu thơ đỡ câu thơ , hình ảnh đỡ hình ảnh để giữa sự trùng điệp của núi rừng sự gian lao của hành trình những người lính Tây Tiân vẫn có phút dừng chân thư thái yên bình những hình ảnh lãng mạn , trữ tình , thơ mộng .
" Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rùng núi nhớ chơi vơi
....
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em cơm nếp xôi"
Chỉ mới bắt đầu bài thơ đã là tiếng gọi tha thiết ".. Tây Tiến ơi!" đã bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc , cồn cào ,vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian,cảm giác về một nỗi nhớ da diết , mêng mang lan mãi đến từng nhịp đập của trái tim nơi người đọc . Nỗi nhớ tạo nguồn cảm xúc giúp nhà thơ xóa dần sương khói của thời gian , không gian xa vời vợi . Để làm hiện lên trong tâm tưởng của những kỉ niệm đã gắn bó với cuộc đời của tác giả :
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Với thủ pháp "lắng dần" của điện ảnh tác gải đã để hình ảnh Sông Mã là hình ảnh đầu tiên gọi về nỗi nhớ . Để rồi dòng sông Mã mờ dần cho dòng cảm xúc miên man nhớ về Tây Bắc choáng ngợp tâm hồn nhà thơ :“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !”
Câu thơ như tiếng gọi chân thành , tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. Đó là âm hưởng ngân lên từ những chữ "xa rồi" và chữ "ơi" đầy cảm xúc nhớ thương Câu thơ vang lên như một lời bộc bạch lại như một lời gọi . Nỗi nhớ thương nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng .Trong đó ấn chứa cả sự nhớ nhung , tiếc nuối . Câu thơ 7 chữ mà có 4 chữ là tên riêng , đó cũng là lời gửi chốn về nỗi nhớ : Vùng đất miền Tây mà con sông Mã đã trở thanh biểu tượng mỗi lần người ta nhắc đến mảnh đất của chiến trường chiến đấu oanh liệt của bao đứa con của Tổ quốc nhìn lại ngậm ngùi . “Sông Mã” không đơn thuần là 1 con sông – nơi đã từng là địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến – mà nó đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui buồn, máu hoa,được mất
Và đoàn quân Tây Tiến “nhớ Tây Tiến” là nhớ đến một thời gian chiến đầu đầy kỉ niệm gắn với tên đất , tên sông khó phai mờ . Thời gian chiến đấu ấy con sông Mã cũng giống như một đồng chí , ngươi bạn đường từng chứng kiến và chia sẻ bao nỗi buồn vui của người lính Tây Tiến . Ba chữ “ Tây Tiến ơi” cất lên như một tiếng gọi khẽ lay động tâm hồn người đọc . “Tây Tiến” ko chỉ để gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự. Làm nỗi nhớ gọi nỗi nhớ đưa nhà thơ vào một trạng thái đặc biệt :
“ Nhớ về rừng nuí nhớ chơi vơi”
Câu thơ thứ 2 với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ như 1 cơn thác lũ tràn vào tâm trí đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. “ Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình ,chập trờn hư thực , vừa tha thiết, thường trực , vừa mênh mang , đầy ám ảnh , vừa mở ra không gian tiềm thức vừa như gọi ra không gian trập trùng của núi đèo rộng lớn . Cách hiệp vần “ơi” làm câu thơ như ngân vang , phù hợp với biên độ của cảm xúc nỗi nhớ trải dài và rộng từ cảnh vật đến con người - Từ sông Mã , núi rừng Tây Bắc đến đồng đội , đồng chí và đoàn binh Tây Tiến . Vì gắn bó yêu thương , cùng vào sinh ra tử và lại “nay đã xa rồi”nên mới có nỗi nhớ da diết triền miên như thế giống như những câu ca dao của Việt Nam còn mãi :
“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải
Nhớ chăn bạn nằm”
Nếu hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ . Thì đến với hai câu thơ tiếp theo độc giả lại là hình ảnh đoàn quan Tây Tiến nhơ mờ ảo , ẩn hiện trong sưong khói ,nơi những địa danh lạ :
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi “
Hai câu thơ vừa tả thực , vừa sử dụng bút pháp lãng mạn . Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông …gợi ra đia bàn rộng lớn những cái tên mang âm hưởng của rừng núi hoang vu .Nhưng được nhắc đến với bao nhiêu kỉ niệm yêu thương . Những địad anh này đã từng gắn bó thân thiết với kỉ niệm của nhà thơ . Ngaòi ra nó còn gợi cho chúng ta cảm giác đầy là những vùng heo hút , xa xôi của chốn núi rừng sâu , rừng thẳm .Núi rừng Tây Bắc đẹp hùng vĩ mà dữ dội, một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nơi rừng thiêng nước độc. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, ko nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần ko “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc hoạ rõ hơn sự khắc nghiệt cuả núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương”
Các chi tiết “sương lấp” và “đêm hơi” gợi tả cảnh đoàn binh Tây Tiên hành quân trong biển sương mù dày đặc , trong màn đêm hoi núi gió rét căm căm đương lấp cả đường đi , lấp dáng người trong mờ mịt .. Nhưung dù có mỏi mệt vì thiên nhiên khắc nghiệt của núi rừng , vẫn thưởng thức hương thơm của các làoi hoa : “ Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bốn câu thơ tiếo theo là hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ , hiểm trở và dữ dội hiện lên trong nỗi nhớ như một bức tranh hùng tráng . Mà theo cách nói của Xuân Diệu “ Thi trung hữu họa”:
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà ko dùng từ “chót vót”. Bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu cuả nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội cuả núi rừng Tây Bắc. Những nẻo đường hành quân chiến đầu như kéo dài đến về tận với bao núi , đèo , cồn , dốc .Dốc lên thì “ khúc khuỷu “ quanh co , gập ghềnh . Không những thế , thiên nhiên của núi rừng Tây Bắc không chỉ dừng đem lại sự kinh ngạc , hãi hùng cho nhừng con người muốn bước lên mình nó bằng dốc lên , để vượt núi nhìn dốc xuống “thăm thẳm “ dấn xuống vực sâu .
Các từ láy “khúc khủy “ ,” thắm thẳm”, “héo hút “ kết hợp với cách ngắt nhịp ¾ như chặt đôi câu thơ , mật độ thanh trắc đặc khiên câu thơ trúc trắc gợi sự vất cả , nhọc nhằn góp phần làm tượng hình nên hình ảnh núi rừng Tây Bắc ghập ghềnh, hiểm trở . Quang Dũng không những thông minh trong cách dùng các từ láy miêu tả núi nơi địa đầu tổ quốc này mà cả câu thơ đều dùng thang trắc mà họa lên cả bức tranh núi non gồ ghề , sắc cạnh của các dãy núi đã tai mèo . Trước ngọn núi như thế những người chiến sĩ của chúng ta như thế nào . Người đọc nhứng tưởng Quang Dũng sẽ miêu tả lại những khó khăn mà những chàng trai trẻ tuổi ấy sẽ vượt qua thì không cần quá dài dòng , Quang Dũng chỉ hạ 3 chữ “ súng ngửi trời “.
“ Súng ngửi trơi” là hình ảnh nhân hóa táo bạo , đặc tả sự chót vót của dốc núi không chỉ vẽ ra địa thế đỉnh cao ngút trời của những ngọn núi quanh năm bị bao phủ mây mà còn thể hiện đựoc nét tinh nghịch khỏe khắn , vẫn có thể trêu đìa vô tư sau một chănngj đường hành quân vất cả , mệt nhọc của các anh lính Tây T tính hôn nhiên , lạ quan , hoám hình và yêu đời củanhững người lính trẻ vượt qua gian khó . Họ thấy mình như đang đi trong mây và đầu súngc hạm tới trời đúng với tinh thần
“Khó khăn nào cũng vượt qua
Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”.
Hình ảnh nhân hoá, ẩn dụ “ súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính, cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở. Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật đối xứng, câu thơ như một đường thẳng bị bẻ gấp lại:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 ko gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật hùng vĩ. Bên cạnh đó , quang dũng còn khắc họa lại ngọn núi sừng sunừg , coa vút hai bên dốc núi nhìn lên thì cao chót vót nhìn xuống thfi sâu thăm thằm . “ Ngàn thước lên cao , nàgn thước xuống “ Câu thơ như đựoc ngắt ra làm đôi vẽ ra 2 chặng đuờng của con đừong hành quân , diễn tả rất đạt sự chênh vênh , treo leo của dôc snúi . Nhịp điệu bẻ dodoi đột ngôth ấy kết hợp với thủ pháp tương phản đối lập khiên ngừoi đọc rơi vào cảm giác bất ngờ , nhưu một làn sương lạnh thốc vào giác quan chứng kiến cảnh vật biến động nhanh đến chóng mặt .
Sau ba câu thơ gân guốc , táo bạo , hơi thở dữ dội , mạnh mẽ . Tập chung khắc họa cái dữ dội tột đỉnh của thiên nhiene Tây Băc Quang Dũng đã sử dụng toàn thanh bằng với nhạ điệu nâng nâng , mênh mang thể hiện ánh mắt vô cùng thơ mộng của người linh Tây Tiến . Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:
“ Nhà ai Pha Lương mưa xa khơi”
Câu thơ như tiếng thở phào nhẹ nhõm của nguwoif lính sau khi vuwot qua đèo cao , núi sâu . Họ tạm dừng chân bên một dốc núi , phóng tầm mắt ra xa qua một không gian mịt mùng của sương rừng , mưa núi để ngắm nhìn những ngôi nhà đang thấp thoáng trôi nhẹ nhàng giữa biển mưa . Câu thơ giống như một gam màu lạnh giữa gam màu nóng trong hội họa dịu lại và xa mất cả khổ thơ tạo nên một cảm giác êm đềm . Xa xa , lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút cuả Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh , sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 với 7 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở cuả núi rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ những dòng thơ trong “Chinh phụ ngâm khúc”
“Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao
Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu”
8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến. Qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt cuả người lính Tây Tiến nói riêng và cuả những người lính nói chung.
Thiên nhiên dữ dội và khắc nghiệt nhưu vậy nên cuộc hành quân của người lính Tây Tiên vô vùng gian khổ đến nỗi .
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên xúng mũ bỏ quên đời”
Câu thơ viết về một hiện thực khốc liệt ấy thế mà lại đuợc nói bằng giọng nhẹ nhàng , thấm thía “…không bước nữa” và “ gục lên súng mũ” gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến . Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là những phút giây đương nhiên. Người lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng lại với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ của người lính cũng là điều tất yếu đó sao. Các anh đã không bước tiếp được nữa trên con đường hành quân đầy gian khổ. Cái chế của các anh đựoc miêu ta rnhẹ nhàng , than thản “bỏ quên đời”. Ba chữ cuối: “bỏ quên đời” thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng miền Tây và biết rằng: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” (xưa nay chinh chiến mấy ai trở về)Họ chủ động chấp nhận cái chết , coi nó chỉ đơn giản như một giâc sngủ mà thôi . Hình ảnh vê fngười lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “ Dáng đứng Việt Nam “:
“ Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chana dung người lính Tây Tiến . Đây la fhình cảnh vừa bi vừa hùng mang không khí thời địa . Họ ra đi chiến đấu với lời thề thiêng liêng : “ Quyst tử hco tổ quốc quyêt sinh” Mỗi cuộc ra đi đều không hẹn ngày trở về giống như một lời ca thịnh hành thời đó :” Đoàn vệ quốc quân là có xa chi đâu nagỳ trở về”.
Hai câu thơ của Quang Dũng dẫu có buồn vì nói đến mất mát , hi sinh nhưng vẫn không bị lụy vê fthái dộ của người hi sinh . Người chiến sĩ ở đây dẫu không áp đảo đựoc khso khăn nhưng họ không chịu khuât sphục . Họ đứng trên cái chết, coi chết “nhẹ tựa lông hồng” và sẵn sàng đón nhận nó vì Tổ quuốc thân yêu .
Bấy nhiêu khắc nghiệt kể ra mà người lính phải chịu đững vẫn phải là tất cả bởi vùng rừng núi miền tây ấy còn là nơi ngự trị của những kẻ âm u , hoang dã , cua rthác cao , sông sâu , thác dữ . sđự âm u , haong dã ấy không chỉ đựoc mở ra theo chiêu fkhông gian mà đựoc khám ohá ở chiêu fthời gian tạo ra những đe dọa khủng khiếp luôn dình dập con người :
“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét ,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” . Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống từ trên cao và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê rợn. Quang Dũng bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động hóa những nhận xét của người đời. Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng tượng để cực tả vẻ hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và huyền bí của miền rừng núi Tây Bắc.Cảnh hoang vu của núi rừng Tây Bắc đúng là thử thách ghê gớm đối với nguwngf linh Tây Tiến khi mà “chiều chiều” , “đêm đếm” chỉ nghe thấy tiếng “thác gầm thét “ , “ vọp trêu người” .Các từ láy chỉ biên dodọ lặp lại thường xuyên của thơi gian kết hợp voiứ biện pháp nhân hóa “thac gầm thét “,” cọp trêu người “ đã nhân smạnh vẻ bí hiểm , dữ dội , hoang dã chứa đầy nguy hiểm , cai schết luôn luôn rình rập đe dọa nguwoif lính của núi rừng miền Tây Nhà thơ Trần Lê Văn từng viết “ Hai chữ có dấu nặng đi với nhau nghe nặng như tiếng chân cọp” , trước đó lại kết hợp với ca fhai thanh bằng đa xtạo lên một quá trình rình mồi rồi bât sngờ vồ mồi của loài cọp dữ dội , quyết liệt trên trang giấy Giữ nhưng kỉ niệm gian khổ , khắc nghiệt như thế . Đoạn thơ đã khép lại bằng một ấn tượng thật ấm áp và ngọt ngào.
“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu màu em cơm nếo xôi”
Những hiểm nguy vẫn rình rập đâu đó, những nét dữ dội quyết liệt mà đoàn binh Tây Tiến đã một thời vượt qua.Trên đuờng hành quân treo neo đầy trắc trở đoàn quân dừng lại nghỉ chân noiư những bản làng . Một bữa cơm nóng bôc skhói . Hương vị ngọt ngon của những nắm xôi nếp thơm do những bông hoa của núi rừng Tây Bắc đem tới đa xkhiên cho các chàng trai hào hao , phong nhã như quên đi tất ca rnỗi vất vả về thể xác suôt dọc đừong để đón nhạn tình quân –dân thắm thiết . Hương vị của nếp xôi , hương vị của lòng người . Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và sự đằm thắm tình người. Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau những câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha. Câu cảm thán gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp khói cơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều. Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tưoi vui. )Mia xlà mảnh tâm hồn của ngừoi cán bộ kháng chiến là kỉ niệm đpẹ của anh bộ đội cụ Hồ trong 9 năm kháng chiến chống Pháp :
“ Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi em giấu giữ rừng
Đất Tây Bắc tháng nagỳ không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương” ( Tiếng hát con tàu _ Chế Lan Viên)
Đoạn thơ đã cho thây snét tài hoa trong phong cách của Quang Dũng câu thơ đỡ câu thơ , hình ảnh đỡ hình ảnh để giữa sự trùng điệp của núi rừng sự gian lao của hành trình những người lính Tây Tiân vẫn có phút dừng chân thư thái yên bình những hình ảnh lãng mạn , trữ tình , thơ mộng .
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: