• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Chia Sẻ Phân tích khổ một bài thơ " Tây Tiến" của Quang Dũng "Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi"

moc lam

New member
Xu
0
" Đoàn vệ quốc quân 1 lần ra đi nào có mong chi đâu ngày trở về . Ra đi ra đi bảo tồn sông núi , ra đi ra đi thà quyết không lui" . Vâng ! Đã có bao đoàn vệ quốc quân ra đi như thế , biết bao người lính đã”quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” để rồi "dòng tên anh khắc vào núi đá" khắc sâu vào tâm khảm của những thế hệ con người việt nam với dáng đứng đã tạc vào thế kỉ . Văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa một cách vĩnh cửu vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử., Mà lật dở lại những trang lịch sử vàng của một thời chiến đấu oanh liệt được viết lên bằng những trang thơ của dân tộc Việt Nam .Người ta sẽ còn không quên nhắc đến cái tên Tây Tiến của quang Dũng .Đặc biệt là những hình ảnh trong đoạn thơ mở đầu :

đoàn binh tây tiến.jpg


" Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rùng núi nhớ chơi vơi
....
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em cơm nếp xôi"

Chỉ mới bắt đầu bài thơ đã là tiếng gọi tha thiết ".. Tây Tiến ơi!" đã bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc , cồn cào ,vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian,cảm giác về một nỗi nhớ da diết , mêng mang lan mãi đến từng nhịp đập của trái tim nơi người đọc . Nỗi nhớ tạo nguồn cảm xúc giúp nhà thơ xóa dần sương khói của thời gian , không gian xa vời vợi . Để làm hiện lên trong tâm tưởng của những kỉ niệm đã gắn bó với cuộc đời của tác giả :

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"

Với thủ pháp "lắng dần" của điện ảnh tác gải đã để hình ảnh Sông Mã là hình ảnh đầu tiên gọi về nỗi nhớ . Để rồi dòng sông Mã mờ dần cho dòng cảm xúc miên man nhớ về Tây Bắc choáng ngợp tâm hồn nhà thơ :“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !”
Câu thơ như tiếng gọi chân thành , tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. Đó là âm hưởng ngân lên từ những chữ "xa rồi" và chữ "ơi" đầy cảm xúc nhớ thương Câu thơ vang lên như một lời bộc bạch lại như một lời gọi . Nỗi nhớ thương nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng .Trong đó ấn chứa cả sự nhớ nhung , tiếc nuối . Câu thơ 7 chữ mà có 4 chữ là tên riêng , đó cũng là lời gửi chốn về nỗi nhớ : Vùng đất miền Tây mà con sông Mã đã trở thanh biểu tượng mỗi lần người ta nhắc đến mảnh đất của chiến trường chiến đấu oanh liệt của bao đứa con của Tổ quốc nhìn lại ngậm ngùi . “Sông Mã” không đơn thuần là 1 con sông – nơi đã từng là địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến – mà nó đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui buồn, máu hoa,được mất

Và đoàn quân Tây Tiến “nhớ Tây Tiến” là nhớ đến một thời gian chiến đầu đầy kỉ niệm gắn với tên đất , tên sông khó phai mờ . Thời gian chiến đấu ấy con sông Mã cũng giống như một đồng chí , ngươi bạn đường từng chứng kiến và chia sẻ bao nỗi buồn vui của người lính Tây Tiến . Ba chữ “ Tây Tiến ơi” cất lên như một tiếng gọi khẽ lay động tâm hồn người đọc . “Tây Tiến” ko chỉ để gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự. Làm nỗi nhớ gọi nỗi nhớ đưa nhà thơ vào một trạng thái đặc biệt :

“ Nhớ về rừng nuí nhớ chơi vơi”

Câu thơ thứ 2 với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ như 1 cơn thác lũ tràn vào tâm trí đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. “ Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình ,chập trờn hư thực , vừa tha thiết, thường trực , vừa mênh mang , đầy ám ảnh , vừa mở ra không gian tiềm thức vừa như gọi ra không gian trập trùng của núi đèo rộng lớn . Cách hiệp vần “ơi” làm câu thơ như ngân vang , phù hợp với biên độ của cảm xúc nỗi nhớ trải dài và rộng từ cảnh vật đến con người - Từ sông Mã , núi rừng Tây Bắc đến đồng đội , đồng chí và đoàn binh Tây Tiến . Vì gắn bó yêu thương , cùng vào sinh ra tử và lại “nay đã xa rồi”nên mới có nỗi nhớ da diết triền miên như thế giống như những câu ca dao của Việt Nam còn mãi :

“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải
Nhớ chăn bạn nằm”

Nếu hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ . Thì đến với hai câu thơ tiếp theo độc giả lại là hình ảnh đoàn quan Tây Tiến nhơ mờ ảo , ẩn hiện trong sưong khói ,nơi những địa danh lạ :

“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi “

Hai câu thơ vừa tả thực , vừa sử dụng bút pháp lãng mạn . Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông …gợi ra đia bàn rộng lớn những cái tên mang âm hưởng của rừng núi hoang vu .Nhưng được nhắc đến với bao nhiêu kỉ niệm yêu thương . Những địad anh này đã từng gắn bó thân thiết với kỉ niệm của nhà thơ . Ngaòi ra nó còn gợi cho chúng ta cảm giác đầy là những vùng heo hút , xa xôi của chốn núi rừng sâu , rừng thẳm .Núi rừng Tây Bắc đẹp hùng vĩ mà dữ dội, một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nơi rừng thiêng nước độc. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, ko nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần ko “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc hoạ rõ hơn sự khắc nghiệt cuả núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương”

Các chi tiết “sương lấp” và “đêm hơi” gợi tả cảnh đoàn binh Tây Tiên hành quân trong biển sương mù dày đặc , trong màn đêm hoi núi gió rét căm căm đương lấp cả đường đi , lấp dáng người trong mờ mịt .. Nhưung dù có mỏi mệt vì thiên nhiên khắc nghiệt của núi rừng , vẫn thưởng thức hương thơm của các làoi hoa : “ Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Bốn câu thơ tiếo theo là hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ , hiểm trở và dữ dội hiện lên trong nỗi nhớ như một bức tranh hùng tráng . Mà theo cách nói của Xuân Diệu “ Thi trung hữu họa”:

“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà ko dùng từ “chót vót”. Bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu cuả nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội cuả núi rừng Tây Bắc. Những nẻo đường hành quân chiến đầu như kéo dài đến về tận với bao núi , đèo , cồn , dốc .Dốc lên thì “ khúc khuỷu “ quanh co , gập ghềnh . Không những thế , thiên nhiên của núi rừng Tây Bắc không chỉ dừng đem lại sự kinh ngạc , hãi hùng cho nhừng con người muốn bước lên mình nó bằng dốc lên , để vượt núi nhìn dốc xuống “thăm thẳm “ dấn xuống vực sâu .

Các từ láy “khúc khủy “ ,” thắm thẳm”, “héo hút “ kết hợp với cách ngắt nhịp ¾ như chặt đôi câu thơ , mật độ thanh trắc đặc khiên câu thơ trúc trắc gợi sự vất cả , nhọc nhằn góp phần làm tượng hình nên hình ảnh núi rừng Tây Bắc ghập ghềnh, hiểm trở . Quang Dũng không những thông minh trong cách dùng các từ láy miêu tả núi nơi địa đầu tổ quốc này mà cả câu thơ đều dùng thang trắc mà họa lên cả bức tranh núi non gồ ghề , sắc cạnh của các dãy núi đã tai mèo . Trước ngọn núi như thế những người chiến sĩ của chúng ta như thế nào . Người đọc nhứng tưởng Quang Dũng sẽ miêu tả lại những khó khăn mà những chàng trai trẻ tuổi ấy sẽ vượt qua thì không cần quá dài dòng , Quang Dũng chỉ hạ 3 chữ “ súng ngửi trời “.

“ Súng ngửi trơi” là hình ảnh nhân hóa táo bạo , đặc tả sự chót vót của dốc núi không chỉ vẽ ra địa thế đỉnh cao ngút trời của những ngọn núi quanh năm bị bao phủ mây mà còn thể hiện đựoc nét tinh nghịch khỏe khắn , vẫn có thể trêu đìa vô tư sau một chănngj đường hành quân vất cả , mệt nhọc của các anh lính Tây T tính hôn nhiên , lạ quan , hoám hình và yêu đời củanhững người lính trẻ vượt qua gian khó . Họ thấy mình như đang đi trong mây và đầu súngc hạm tới trời đúng với tinh thần

“Khó khăn nào cũng vượt qua
Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”.

Hình ảnh nhân hoá, ẩn dụ “ súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính, cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở. Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật đối xứng, câu thơ như một đường thẳng bị bẻ gấp lại:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 ko gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật hùng vĩ. Bên cạnh đó , quang dũng còn khắc họa lại ngọn núi sừng sunừg , coa vút hai bên dốc núi nhìn lên thì cao chót vót nhìn xuống thfi sâu thăm thằm . “ Ngàn thước lên cao , nàgn thước xuống “ Câu thơ như đựoc ngắt ra làm đôi vẽ ra 2 chặng đuờng của con đừong hành quân , diễn tả rất đạt sự chênh vênh , treo leo của dôc snúi . Nhịp điệu bẻ dodoi đột ngôth ấy kết hợp với thủ pháp tương phản đối lập khiên ngừoi đọc rơi vào cảm giác bất ngờ , nhưu một làn sương lạnh thốc vào giác quan chứng kiến cảnh vật biến động nhanh đến chóng mặt .

Sau ba câu thơ gân guốc , táo bạo , hơi thở dữ dội , mạnh mẽ . Tập chung khắc họa cái dữ dội tột đỉnh của thiên nhiene Tây Băc Quang Dũng đã sử dụng toàn thanh bằng với nhạ điệu nâng nâng , mênh mang thể hiện ánh mắt vô cùng thơ mộng của người linh Tây Tiến . Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:

“ Nhà ai Pha Lương mưa xa khơi”

Câu thơ như tiếng thở phào nhẹ nhõm của nguwoif lính sau khi vuwot qua đèo cao , núi sâu . Họ tạm dừng chân bên một dốc núi , phóng tầm mắt ra xa qua một không gian mịt mùng của sương rừng , mưa núi để ngắm nhìn những ngôi nhà đang thấp thoáng trôi nhẹ nhàng giữa biển mưa . Câu thơ giống như một gam màu lạnh giữa gam màu nóng trong hội họa dịu lại và xa mất cả khổ thơ tạo nên một cảm giác êm đềm . Xa xa , lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút cuả Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh , sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 với 7 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở cuả núi rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ những dòng thơ trong “Chinh phụ ngâm khúc”

“Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao
Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu”

8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến. Qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt cuả người lính Tây Tiến nói riêng và cuả những người lính nói chung.

Thiên nhiên dữ dội và khắc nghiệt nhưu vậy nên cuộc hành quân của người lính Tây Tiên vô vùng gian khổ đến nỗi .

“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên xúng mũ bỏ quên đời”

Câu thơ viết về một hiện thực khốc liệt ấy thế mà lại đuợc nói bằng giọng nhẹ nhàng , thấm thía “…không bước nữa” và “ gục lên súng mũ” gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến . Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là những phút giây đương nhiên. Người lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng lại với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ của người lính cũng là điều tất yếu đó sao. Các anh đã không bước tiếp được nữa trên con đường hành quân đầy gian khổ. Cái chế của các anh đựoc miêu ta rnhẹ nhàng , than thản “bỏ quên đời”. Ba chữ cuối: “bỏ quên đời” thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng miền Tây và biết rằng: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” (xưa nay chinh chiến mấy ai trở về)Họ chủ động chấp nhận cái chết , coi nó chỉ đơn giản như một giâc sngủ mà thôi . Hình ảnh vê fngười lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “ Dáng đứng Việt Nam “:

“ Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”

Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chana dung người lính Tây Tiến . Đây la fhình cảnh vừa bi vừa hùng mang không khí thời địa . Họ ra đi chiến đấu với lời thề thiêng liêng : “ Quyst tử hco tổ quốc quyêt sinh” Mỗi cuộc ra đi đều không hẹn ngày trở về giống như một lời ca thịnh hành thời đó :” Đoàn vệ quốc quân là có xa chi đâu nagỳ trở về”.

Hai câu thơ của Quang Dũng dẫu có buồn vì nói đến mất mát , hi sinh nhưng vẫn không bị lụy vê fthái dộ của người hi sinh . Người chiến sĩ ở đây dẫu không áp đảo đựoc khso khăn nhưng họ không chịu khuât sphục . Họ đứng trên cái chết, coi chết “nhẹ tựa lông hồng” và sẵn sàng đón nhận nó vì Tổ quuốc thân yêu .

Bấy nhiêu khắc nghiệt kể ra mà người lính phải chịu đững vẫn phải là tất cả bởi vùng rừng núi miền tây ấy còn là nơi ngự trị của những kẻ âm u , hoang dã , cua rthác cao , sông sâu , thác dữ . sđự âm u , haong dã ấy không chỉ đựoc mở ra theo chiêu fkhông gian mà đựoc khám ohá ở chiêu fthời gian tạo ra những đe dọa khủng khiếp luôn dình dập con người :

“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét ,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” . Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống từ trên cao và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê rợn. Quang Dũng bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động hóa những nhận xét của người đời. Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng tượng để cực tả vẻ hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và huyền bí của miền rừng núi Tây Bắc.Cảnh hoang vu của núi rừng Tây Bắc đúng là thử thách ghê gớm đối với nguwngf linh Tây Tiến khi mà “chiều chiều” , “đêm đếm” chỉ nghe thấy tiếng “thác gầm thét “ , “ vọp trêu người” .Các từ láy chỉ biên dodọ lặp lại thường xuyên của thơi gian kết hợp voiứ biện pháp nhân hóa “thac gầm thét “,” cọp trêu người “ đã nhân smạnh vẻ bí hiểm , dữ dội , hoang dã chứa đầy nguy hiểm , cai schết luôn luôn rình rập đe dọa nguwoif lính của núi rừng miền Tây Nhà thơ Trần Lê Văn từng viết “ Hai chữ có dấu nặng đi với nhau nghe nặng như tiếng chân cọp” , trước đó lại kết hợp với ca fhai thanh bằng đa xtạo lên một quá trình rình mồi rồi bât sngờ vồ mồi của loài cọp dữ dội , quyết liệt trên trang giấy Giữ nhưng kỉ niệm gian khổ , khắc nghiệt như thế . Đoạn thơ đã khép lại bằng một ấn tượng thật ấm áp và ngọt ngào.

“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu màu em cơm nếo xôi”

Những hiểm nguy vẫn rình rập đâu đó, những nét dữ dội quyết liệt mà đoàn binh Tây Tiến đã một thời vượt qua.Trên đuờng hành quân treo neo đầy trắc trở đoàn quân dừng lại nghỉ chân noiư những bản làng . Một bữa cơm nóng bôc skhói . Hương vị ngọt ngon của những nắm xôi nếp thơm do những bông hoa của núi rừng Tây Bắc đem tới đa xkhiên cho các chàng trai hào hao , phong nhã như quên đi tất ca rnỗi vất vả về thể xác suôt dọc đừong để đón nhạn tình quân –dân thắm thiết . Hương vị của nếp xôi , hương vị của lòng người . Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và sự đằm thắm tình người. Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau những câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha. Câu cảm thán gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp khói cơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều. Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tưoi vui. )Mia xlà mảnh tâm hồn của ngừoi cán bộ kháng chiến là kỉ niệm đpẹ của anh bộ đội cụ Hồ trong 9 năm kháng chiến chống Pháp :

“ Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi em giấu giữ rừng
Đất Tây Bắc tháng nagỳ không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương” ( Tiếng hát con tàu _ Chế Lan Viên)

Đoạn thơ đã cho thây snét tài hoa trong phong cách của Quang Dũng câu thơ đỡ câu thơ , hình ảnh đỡ hình ảnh để giữa sự trùng điệp của núi rừng sự gian lao của hành trình những người lính Tây Tiân vẫn có phút dừng chân thư thái yên bình những hình ảnh lãng mạn , trữ tình , thơ mộng .
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Quang Dũng ( 1921-1988) là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng , hồn hậu , lãng mạn và tài hoa . “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ và thể hiện sâu sắc phong cách thơ Quang Dũng . Có thể nói , tinh hoa của bài thơ được hội tụ lại trong khổ thơ đầu tiên . Khổ thơ đã dựng lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ , mĩ lệ của núi rừng miền Tây , nơi nhà thơ cũng đoàn quân Tây Tiến đã từng hoạt động , chiến đấu .

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây,súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

II/THÂN BÀI 1/

Giới thiệu chung .
Bài thơ “Tây Tiến” được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh , khi nhà thơ đã rời khỏi đơn vị cũ Tây Tiến , chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác . Tây Tiến là một đơn vị bộ đội chống Pháp được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào , tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc Việt Nam . Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rất rộng lớn trải dài từ Sơn la , Hòa Bình , miền tây Thanh Hóa đến Sầm Nưa ( Lào) – là những nơi hiểm trở , hoang vu , rừng thiêng nước độc . Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội , có nhiều học sinh , sinh viên , trong đó có Quang Dũng . Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ , thiếu thốn , bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan , anh dũng . Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập Trung đoàn 52 . Bài thơ ra đời từ nỗi nhớ , kỉ niệm , hồi ức của Quang Dũng về đồng đội và địa bàn chiến đấu cũ . Tác phẩm sau khi ra đời đã được bao thế hệ thanh niên và bạn yêu thơ truyền tay tìm đọc . Đến năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ “ Mây đầu ô” ( xuất bản 1986) . Ban đầu bài thơ có tên là “ Nhớ Tây Tiến” , sau đó tác giả chuyển lại thành “ Tây Tiến” . Nhan đề “ Tây Tiến” đảm bảo tính hàm súc của thơ , không cần phải trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ mà tình cảm ấy vẫn hiện lên sâu sắc , thấm thía . Nhan đề còn làm nổi rõ hình tượng trung tâm của tác phẩm , đó là hình tượng đoàn quân Tây Tiến . Việc bỏ đi từ “nhớ” đã vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến , khiến cho hình ảnh người lính Tây Tiến trở thành bất tử trong thơ ca kháng chiến Việt Nam . “Tây Tiến” là bài thơ in đậm phong cách tài hoa , lãng mạn , phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng . Tác phẩm đã bộc lộ nỗi nhớ sâu sắc của nhà thơ với người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn , đậm chất bi tráng. Đoạn thơ thứ nhất đã tái dựng lại sống động bức tranh thiên nhiên miền Tây với những khung cảnh , những chặng đường hành quân gian khổ , từ đó hình ảnh những chiến sĩ Tây Tiến cũng lần lượt hiên ra . 2/ Phân tích đoạn thơ a/ Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng : Sông Mã xa rồi , Tây Tiến ơi !

Nhở về rừng núi , nhớ chơi vơi
Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc , cồn cào không kìm nén nổi . Đối tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể , rõ ràng là : “sông Mã” , “Tây Tiến” , “rừng núi” . Nỗi nhớ ấy phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại hai lần từ “ nhớ” . “ Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ chập chờn hư thực , vừa tha thiết , thường trực , vừa mênh mang , đầy ám ảnh , vừa mở ra không gian của tiềm thức , vừa như gợi ra không gian trập trùng của núi đèo rộng lớn . Cách hiệp vần “ơi” làm câu thơ như ngân vang , phù hợp với biên độ của cảm xúc . Hai câu thơ đầu đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi . Nỗi nhớ ấy được cụ thể dần dần trong những vần thơ tiếp sau . b/ Hai câu thơ tiếp : gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm : “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi ,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Hai câu thơ vừa tả thực , vừa sử dụng bút pháp lãng mạn .Những từ chỉ địa danh Sài Khao , Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn , đầy lạ lẫm đối với người lính Tây Tiến . Sương mù vùng cao dày đặc như trùm lấp bước chân , nuốt chửng cả đoàn binh vốn đang mỏi mệt, rệu rã vì chặng đường dài gian khổ . Quang Dũng đã nhìn thấy và miêu tả một mảng hiện thực khuất lấp trong thơ ca kháng chiến . Nhưng những người lính ấy , dù mệt mỏi mà tâm hồn vẫn trẻ trung , hào hoa , lạc quan , yêu đời . Hình ảnh “ hoa về trong đêm hơi” là hình ảnh đẹp giàu sức gợi . Đó có thể là những ánh đuốc sáng lung linh của đoàn quân đang tiến về bản làng , cũng có thể là hình ảnh đoàn quân từ rừng đi ra , trên tay vẫn cầm theo những đóa hoa rừng ngát hương , mà đó cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như những bông hoa rừng . Đoàn quân ấy hành quân trong một “ đêm hơi” đầy huyền ảo , mơ hồ , bảng lảng khói sương chốn rừng suối . Hai câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa , lãng mạn của Quang Dũng . c/Bốn câu thơ tiếp theo đặc tả địa hình hiểm trở của miền Tây : Dốc lên khúc khuỷu , dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời ,
Ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống ,

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi .
Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy tượng hình “khúc khuỷu” , “ thăm thẳm”, “ heo hút” , kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 như chặt đôi câu thơ , mật độ thanh trắc dày đặc khiến câu thơ trúc trắc gợi sự vất vả , nhọc nhằn . Những phép tu từ đó mở ra trong tâm tưởng người đọc ấn tượng về sự gập ghềnh , hiểm trở , ẩn chứa bao bất trắc , nguy hiểm của núi cao , vực sâu nơi núi rừng miền Tây . Hình ảnh “ súng ngửi trời” là một nhân hóa táo bạo , đặc tả sự chót vót của dốc núi . Người lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc , cảm tưởng như mũi súng có thể chạm mây . Từ đó , ta cũng thấy được nét tinh nghịch khỏe khoắn , vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một chặng đường hành quân vất vả , mệt nhọc của các anh lính Tây Tiến . Phép đối “ ngàn thước lên cao – ngàn thước xuống” càng nhấn mạnh độ gập ghềnh , hình sông thế núi trập trùng , hiểm trở của thiên nhiên miền Tây . Ba câu thơ giàu chất hội họa , dựng lên bức tranh hoang vu , dốc đèo đứt nối , hùng vĩ trên con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến . Câu thơ thứ tư toàn bộ là bảy thanh bằng “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” , vần mở “ơi” đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ nhàng gợi ra những phút giây nghỉ ngơi thư giãn của người lính . Họ đứng trên những đỉnh núi , thưởng thức chút bình yên , vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng , phóng tầm mắt , thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông xa xôi . Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ dội hoang vu , sự êm đềm của núi rừng , vừa gợi ra những cuộc hành quân vất vả nhọc mệt nhưng đầy trẻ trung , yêu đời của các chàng trai Tây Tiến . d/Người lính Tây Tiến không chỉ đối diện với dốc cao vực sâu mà còn phải chịu những mất mát hi sinh : Anh bạn dãi dầu không bước nữa ,

Gục lên súng mũ bỏ quên đời .
Cách nói tránh về cái chết “không bước nữa” , “bỏ quên đời” gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến . Họ chủ động chấp nhận cái chết , coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thôi . Tư thế hi sinh “ gục lên súng mũ” đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng . Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam” : “ Và anh chết trong khi đang đứng bắn- Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng” . Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến . e/Và người lính Tây Tiến tiếp tục chịu sự thử thách của núi rừng miền Tây : “Chiều chiều oai linh thác gầm thét ,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” .
Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian” chiều chiều” , “đêm đêm” kết hợp với biện pháp nhân hóa “ thác gầm thét” , “ cọp trêu người” đã nhấn mạnh vẻ bí hiểm , dữ dội ,hoang dã chứa đầy nguy hiểm , cái chết luôn luôn rình rập đe dọa người lính của núi rừng miền Tây . Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng trong không gian mà còn kéo dài và lặp lại thường xuyên theo thời gian . g/Hai câu thơ cuối đoạn lại đột ngột chuyển cảnh : Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói ,

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi .
Núi cao rừng rậm lùi xa , chỉ còn lại hương vị ấm áp nghĩa tình quân dân lan tỏa từ nồi cơm của các cô gái Thái . Từ cảm thán “ Nhớ ôi” đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi nhớ da diết , ám ảnh khôn khuây của Quang Dũng cũng như người lính Tây Tiến về đồng bào miền Tây . Nhà thơ như nhói lòng khi hồi tưởng lại cảnh đoàn quân quây quần quanh nồi xôi nếp thơm lừng đang bốc khói . Đó là những giây phút ấm áp ngắn ngủi nhưng lại dịu ngọt , tinh tế nên khắc sâu mãi trong tâm trí nhà thơ . Cách kết hợp từ “ mùa em” rất độc đáo , gợi những liên tưởng đẹp , lãng mạn về những cô gái Thái vừa khỏe khoắn vừa dịu dàng mà đằm thắm yêu thương . Hai câu thơ kết thúc đoạn một bài thơ Tây Tiến có âm điệu nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm giác êm dịu , ấm áp , tạo tâm thế cho người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo . Trong những đoạn thơ còn lại , nhà thơ Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về cảnh những đêm liên hoan văn nghệ thắm thiết tình quân dân , những buổi chiều trên sông nước miền Tây thơ mộng , hư ảo , hồi tưởng về chân dung tập thể những người lính Tây Tiến anh dũng , hào hoa . Cuối bài thơ , Quang Dũng bộc lộ lời nguyện thề mãi gắn bó với miền Tây và đoàn quân Tây Tiến

.
III/ KẾT BÀI . Đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng khoáng của nhà thơ Quang Dũng . Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo hình , giàu nhạc điệu , gây ấn tượng táo bạo , dựng lên bức tranh sinh động , có chiều sâu về cảnh hành quân của đoàn quân Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên rừng núi hùng vĩ thơ mộng miền Tây . Qua đó , ta cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc , nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ Quang Dũng về những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến – một thời mãi mãi để nhớ và tự hào .
 
Hình ảnh người lính trong thơ ca thời kháng chiến chống Pháp.
Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ thường được phản ánh rất đậm nét trong thơ ca. Đó là hình tượng những người lính có những vẻ đẹp khác nhau. Có khi hình tượng đó được xây dựng theo bút pháp lãng mạn, có khi lại được xây dựng theo bút pháp hiện thực. Nhưng dù được xây dựng theo bút pháp nào, tất cả đều có nét đẹp chung rất cơ bản. Ấy là những con người dũng cảm, anh hùng, sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của mình cho Tổ quốc và có sức động viên lớn đối với nhân dân ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng gian khổ và ác liệt.

Tuy nhiên, mỗi hình tượng lại có những nét đẹp riêng. Tinh thần chiến đấu hi sinh và chất anh hùng ở mỗi hình tượng lại có những biểu hiện rất khác nhau.

Đọc Tây Tiến – bài thơ được viết theo bút pháp lãng mạn nên hình ảnh người lính trong Tây Tiến xuất hiện trong một bối cảnh hoang vu, hiểm trở, vừa hùng vĩ, vừa dữ dội khác thường:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trởi
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi


Một hình thể gập ghềnh, cheo leo của dốc núi được tạo ra bởi những thanh trắc và cách dùng chữ rất bạo; nào là “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, “súng ngửi trời”… Rồi đột nhiên, dòng thơ như bị bẻ đôi để vẽ ra hai dốc núi vút lên và đổ xuống gần như thẳng đứng: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, rồi bỗng dưng, dòng thơ như bay ngang lưng trời bởi một câu thơ độc đáo toàn thanh bằng “ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Trong khung cảnh đó, ta tưởng tượng những người lính đang tạm dừng chân nơi những sườn núi chênh vênh, phóng tầm mắt ra xa, thấy nhà ai thấp thoáng ẩn hiện qua một không gian mịt mù sương rừng, mưa núi… Và bất chợt, trên cái nền hiểm trở và hùng vĩ đó, những người línhTây Tiến xuất hiện cũng thật oai phong và dữ dội khác thường:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


Từ một thực tế gian khổ của người lính do thiếu thốn và bệnh sốt rét rừng hành hạ, da dẻ xanh xao, đầu trụi cả tóc, nhưng bằng ngòi bút lãng mạn, nhà thơ đã biến thành bức chân dung lẫm liệt oai hùng. Đặc biệt, hình tượng người lính trong Tây Tiến phảng phất bóng dáng của người anh hùng theo kiểu hình tượng các chinh phu, tráng sĩ cưỡi ngựa vung gươm, áo bào đỏ thắm, phong độ hào hoa, ra đi không hẹn ngày về trong thơ ca lãng mạn trước năm 1945. Vâng, nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa hình tượng người lính trong Tây Tiến như vậy.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh


Những người lính Tây Tiến sinh hoạt và chiến đấu trong hoàn cảnh rất thiếu thốn, ngay cả lúc chết vẫn không có manh chiếu che thân. Nhưng dù thế, hình tượng người chiến sĩ trong Tây Tiến còn có thêm vẻ đẹp khác. Đó là nét hào hoa thanh lịch, chất thơ mộng lãng mạn:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ


Một tiếng reo thầm đầy vui sướng trước người đẹp trong xiêm áo độc đáo của vũ nữ dân tộc Lào. Vẻ đẹp đó càng rực rỡ hơn trong đêm liên hoan…

Khác với Tây Tiến, hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu được miêu tả dưới một bút pháp hiện thực. Người lính xuất hiện trong bài thơ trên một bối cảnh khác thường, mà đặc biệt xuất hiện trong một môi trường quen thuộc, bình dị thường thấy ở các làng quê còn đói nghèo xơ xác hồi ấy:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.


Mà làng quê Việt Nam xưa nơi nào chẳng có giếng nước gốc đa, nơi người dân quê gặp gỡ nhau hằng ngày. Đó còn là nơi “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Ở đây, tác giả cũng không che giấu mà trái lại còn nhấn mạnh đến cái nghèo đói và lam lũ của họ:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày


Nhưng vẻ đẹp của người lính ở đây là tình đồng chí, tình đồng đội, gắn với tình giai cấp giữa những người nông dân mặc áo lính. Họ gần gũi với nhau vì cùng ra đi từ một làng quê đói nghèo. Trong kỉ niệm của họ, cũng cảnh đồng ruộng, cũng những túp lều tranh “gió lung lay”… Và khi trở thành người lính, họ lại gặp nhau trong hoàn cảnh thiếu thốn lam lũ của người lính, cũng chẳng khác hoàn cảnh của những người dân cày bao nhiêu. Cái gần gũi, cái giống nhau, cái thống nhất là điều được nhấn mạnh hơn là cái đặc biệt, cái phi thường. Và sự thống nhất cao hơn cả là tình đồng chí. Đây là tình cảm lớn khiến cho những người “xa lạ”, từ những phương trời “chẳng hẹn quen nhau”, bỗng chốc thành thân thiết, thậm chí thành đôi tri kỉ. Đó cũng chính là sức mạnh tinh thần to lớn khiến họ rời bỏ ruộng nương, gia đình, coi thường mọi gian khổ, hi sinh. Vâng, với họ, chỉ cần ‘thương nhau tay nắm lấy bàn tay” là đủ hơi ấm để chống chọi với những cơn sốt run người, với những ngày buốt giá và với cả giặc thù.

Rồi còn đó với những chiến sĩ “Lên Cấm Sơn” (Thôi Hữu), là những người luôn vươn lên để chiến thắng. Chiến thắng hoàn cảnh, chiến thắng bệnh tật, chiến thắng quân thù. Sống kham khổ nơi rừng núi hiu quạnh nhưng vẫn vui và luôn đem lại ánh sáng, nhịp sống mới cho bản làng. Vậy đó, ở đâu có người lính là ở đó có niềm vui. Còn bài Nhớ của Hồng Nguyên miêu tả những chiến sĩ trẻ, cuộc đời lưu động nhưng đầy lạc quan, trong sáng. Những ngày đầu kháng chiến, bộ đội ta rất nghèo thiếu thốn đủ thứ. Về văn hóa thì “chưa biết chữ”, về quân sự thì “súng bắn chưa quen”… nhưng lòng vẫn cười vui.

Hình ảnh anh bộ đội trong thơ lúc bấy giờ thật đẹp. Họ thật sự là những người anh hùng nhưng không có vẻ gì là anh hùng, là oai phong lẫm liệt cả. Sức mạnh lớn nhất của họ là tình đồng chí, là lòng yêu nước. Nhờ vậy mà khi có giặc khi cần thiết là họ lại “đứng bên nhau chờ giặc tới”…


Sưu Tầm
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top