Đề bài: Phân tích hình tượng người phụ nữ qua các tác phẩm : Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Vợ nhặt của Kim Lân, Một người Hà Nội của Nguyễn Khải và Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
Trong vương quốc văn học, “biên giới” là hai từ không bao giờ tồn tại. Minh chứng rõ nhất là từ xa xưa cho đến nay, đề tài về số phận và vẻ đẹp người phụ nữ luôn là một đề tài nóng, được vô số tác giả khám phá và thể hiện. Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu- bốn tác giả ở bốn giai đoạn khau nhau, với bốn phong cách nghệ thuật riêng nhưng đã gặp nhau ở hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của mình. “Vợ chồng A Phủ” với nhân vật Mị, “Vợ nhặt” với nhân vật Thị, “Một người Hà Nội” với nhân vật cô Hiền hay “Chiếc thuyền ngoài xa” với người đàn bà hàng chài, bốn người phụ nữ ấy đã làm nên bức tượng đài người phụ nữ Việt Nam mà trong mỗi hoàn cảnh, họ mang số phận và vẻ đẹp riêng.
Thơ ca từ xưa đến nay, người phụ nữ luôn gánh trên vai một số phận long đong, bất hạnh, một nỗi đau xuyên thời gian, không gian và tìm gặp nhau ở điểm chung:
Cuộc đời Mị là vậy, còn cuộc đời của Thị và bà cụ Tứ trong Vợ nhặt cũng chẳng vui vẻ là bao. Nếu Mị là kiếp con dâu gạt nợ, nhục nhằn và lầm lũi nhưng chí ít vẫn có cái ăn còn Thị và bà cụ Tứ thì lại xuất hiện trong nạn đói năm 1945. Mỗi người một số phận khác nhau có cái khổ khác nhau. Thị xuất hiện với bộ dạng rách rưới, không xinh đẹp đã thế lại còn ăn nói chỏng lọn chanh chua thế nhưng cô vẫn hiện lên với nét đẹp của bản thân mình. Đó là một vẻ đẹp khi cùng Tràng về nhà nhìn thấy cảnh nhà Tràng không như mình mơ tưởng nhưng cô vẫn chấp nhận ở lại cùng anh, cái đói làm cho cô không giữ ý tứ và chỏng lỏn như thế nhưng khi về nhà Tràng thì cô lại tỏ ra là một người vợ hiền đảm đang. Còn bà cụ Tứ một người mẹ già cả nhưng trước hoàn cảnh của nạn đói bà vẫn phải bươm chải kiếm tiền, bà già yếu ho khù khụ. Khi nhìn thấy con trai mang về một người đàn bà lạ, cụ Tứ đã thấy lo lắng và ngạc nhiên. Cụ không hẹp hòi vì thêm một miệng ăn mà cụ thấy thương cho con trai, thương cho người đàn bà kia. Cụ hiểu ra sự tình thì cụ ngoảnh đi che đi những giọt nước mắt của mình. Có thể nói giọt nước mắt ấy đã biết bao nhiêu lần rơi vì gia đình vì con cái, đó là những giọt nước mắt lặng thầm và cũng không biết rằng những giọt nước mắt ấy đã rơi bao nhiêu lần rồi. và lần này nó lại rơi, rơi vì trong tình cảnh khốn khó ấy, thế rồi cụ vẫn chấp nhận và hướng các con mình đến một tương thương lại hạnh phúc hơn thực tại. Có thể nói ngay trước thực tại phũ phàng ấy, con người ta vẫn cưu mang lấy nhau. Vẻ đẹp của bà cụ Tứ là vẻ đẹp người mẹ hiện từ nhân hậu giàu đức hi sinh và luôn khuyên con niềm tin về cuộc sống.
Nhà văn Nguyễn Khải cũng xây dựng một nhân vật khá điển hình cho đề tài người phụ nữ. Đó là nhân vật cô Hiền, cô đại diện cho phẩm chất và đẹp của những người phụ nữ thức thời mà vẫn mang đậm vẻ đẹp truyền thống. Hoàn cảnh sống của cô là khi miền bắc đang đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thì trường phát triển. bên cạnh những mặt tích cực của cuộc sống thì cũng có những mặt tiêu cực, vẻ đẹp của cô Hiền được tác giả ví như “hạt bụi vàng” của Hà Nội. Cô Hiền trong thời buổi khó khăn vẫn vươn lên kiếm lấy một cái nghề để nuôi sống gia đình. Đó là một vẻ đẹp đảm đang của người Việt Nam nói chung và của người Hà Nội nói riêng. Không chỉ vậy cô Hiền còn biết dạy con mình trở thành một người có trách nhiệm với Tổ quốc và có lòng tự trọng cao. Cô khuyên con của cô đi tòng quân vào miền Nam đánh giặc, có người thân ai mà chẳng sợ mất đi người con của mình nhưng vì Tổ quốc cần vì miền Nam ruột thịt, cô khích lệ con mình. Như vậy không phải cô đẩy con mình vào chỗ chết mà cô đang dạy con mình yêu nước thương dân, dạy con mình biết sống vì người khác. Đó chẳng phải là một vẻ đẹp của người phụ nữ Việt nam hay sao, một người mẹ hay sao? Cô còn là một người Hà Nội không pha trộn, có những cái mới du nhập vào nhưng cô thì vẫn vậy vẫn giữ nguyên phẩm chất và tính cách của người Hà Nội. Đó là vẻ đẹp của truyền thống:
Đến với nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Người đàn bà bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thời về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ: có mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,... Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ. Là một người phụ nữ yếu đuối phải chịu bao đắng cay tủi phận của cuộc đời nhưng chị lại có một phẩm chất đáng quý. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình. Chị hiểu cơ cực của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được.
Qua đây, ta thấy mỗi một số phận, mỗi một người phụ nữ trong truyện đều khác nhau nhưng họ có một cái chung nhất đó là thể hiện đầy đủ những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Đặc biệt, họ để lại cho ta nhiều suy nghĩ về triết lý của cuộc sống này. Đó là người phụ nữ Tây Bắc đã phải sống như thế nào trong thần quyền và cường quyền, là mặc cho đói nhưng Thị và bà cụ Tứ những người phụ nữ ấy vẫn có một tình thương yêu con người, đùm bọc lấy nhau và chia sẻ cho nhau những ngọt bùi tình yêu cuộc sống, họ không thôi nuôi dưỡng một niềm tin vào cuộc sống tương lai. Hay cô Hiền một người Hà Nội có phẩm chất đáng quý, hay người đàn bà hàng chài khiến ta phải suy nghĩ về những mảng của cuộc đời và nhìn chúng theo nhiều góc độ chứ không thể nhìn qua cái vẻ bề ngoài. Tóm lại, những nhân vật ấy điển hình cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong bất kì thời kì hoàn cảnh nào vẫn sáng lấp lánh như những hạt ngọc quý giá. Đó là vẻ đẹp nhan sắc, yêu đời, người vợ hiền đảm đang, người mẹ nhân hậu, chịu thương chịu khó…
Như vậy có thể nói những nhà văn trên thật sự phải có lòng yêu thương phụ nữ lắm mới hiểu được hết những tâm tư tình cảm của họ đến như vậy. những nhân vật ấy như một minh chứng cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, một vẻ đẹp của người phụ nữ Á Đông hoàn toàn khác so với những vẻ đẹp của người phụ nữ nước khác. Phải chăng họ đã góp phần làm cho xã hội Việt Nam nhìn nhận và trân trọng những người mẹ, người vợ, người chị của mình!
Bài làm
Trong vương quốc văn học, “biên giới” là hai từ không bao giờ tồn tại. Minh chứng rõ nhất là từ xa xưa cho đến nay, đề tài về số phận và vẻ đẹp người phụ nữ luôn là một đề tài nóng, được vô số tác giả khám phá và thể hiện. Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu- bốn tác giả ở bốn giai đoạn khau nhau, với bốn phong cách nghệ thuật riêng nhưng đã gặp nhau ở hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của mình. “Vợ chồng A Phủ” với nhân vật Mị, “Vợ nhặt” với nhân vật Thị, “Một người Hà Nội” với nhân vật cô Hiền hay “Chiếc thuyền ngoài xa” với người đàn bà hàng chài, bốn người phụ nữ ấy đã làm nên bức tượng đài người phụ nữ Việt Nam mà trong mỗi hoàn cảnh, họ mang số phận và vẻ đẹp riêng.
Thơ ca từ xưa đến nay, người phụ nữ luôn gánh trên vai một số phận long đong, bất hạnh, một nỗi đau xuyên thời gian, không gian và tìm gặp nhau ở điểm chung:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
(Nguyễn Du)
Trước hết là hình tượng người phụ nữ Tây Bắc qua nhân vật Mị của nhà văn Tô Hoài trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Đó là một cô gái xinh đẹp thùy mị, nết na, có tài năng thổi sáo rất hay, hiếu thảo với bố mẹ, có lòng tự trọng và chăm chỉ. Tưởng rằng cuộc đời cô phải được hưởng những tháng ngày hạnh phúc cùng với người yêu của mình nào ngơ hoàn toàn ngược lại. Cô trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lý Pa tra trong Hồng Ngài. Kiếp làm dâu gạt nợ ấy đã mang đến những ngày tháng đau khổ lầm lùi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ban đầu cô còn có tinh thần phản kháng đó là chạy về nhà hai mắt đỏ hoe cầm lá ngón trong tay định tử tự nhưng vì cha cô lại quay về nhà thống lí. ở đây cô sống đã quen và đến khi cha chết cô cũng không có ý định tự tử nữa. Cô làm đi làm lại những công việc thường ngày, cuộc sống đói với cô chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Cô bị trà đạp về thể xác cũng như tinh thần bị trói buộc bởi hủ tục thần quyền và cường quyền bạo lực. thế nhưng những đêm tình mùa xuân đến đã đánh thúc trái tim ngủ quên của cô bấy lâu nay. Tiếng sao gọi bạn tình của anh chàng nào đó làm cô nhớ lại những ngày cô còn trẻ và tự dưng cô thấy bòi hồi thiết tha, co uống rượu và thấy tâm hồn phơi phới trở lại. cô còn trẻ và cô muốn đi chơi. Thế nhưng ước muốn ấy lại bị chính tay A Sử vùi dập. Cô quay trở về những ngày tháng lầm lũi, nhưng sức sống trong cô vẫn luôn tiềm tàng như thế và đến đêm đông trên Rẻo Cao cô quyết định cắt dây trói cho A Phủ và cùng anh chạy trốn, hành động đó không chỉ cứu A Phủ và còn cứu chính cuộc đời cô. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
(Nguyễn Du)
Cuộc đời Mị là vậy, còn cuộc đời của Thị và bà cụ Tứ trong Vợ nhặt cũng chẳng vui vẻ là bao. Nếu Mị là kiếp con dâu gạt nợ, nhục nhằn và lầm lũi nhưng chí ít vẫn có cái ăn còn Thị và bà cụ Tứ thì lại xuất hiện trong nạn đói năm 1945. Mỗi người một số phận khác nhau có cái khổ khác nhau. Thị xuất hiện với bộ dạng rách rưới, không xinh đẹp đã thế lại còn ăn nói chỏng lọn chanh chua thế nhưng cô vẫn hiện lên với nét đẹp của bản thân mình. Đó là một vẻ đẹp khi cùng Tràng về nhà nhìn thấy cảnh nhà Tràng không như mình mơ tưởng nhưng cô vẫn chấp nhận ở lại cùng anh, cái đói làm cho cô không giữ ý tứ và chỏng lỏn như thế nhưng khi về nhà Tràng thì cô lại tỏ ra là một người vợ hiền đảm đang. Còn bà cụ Tứ một người mẹ già cả nhưng trước hoàn cảnh của nạn đói bà vẫn phải bươm chải kiếm tiền, bà già yếu ho khù khụ. Khi nhìn thấy con trai mang về một người đàn bà lạ, cụ Tứ đã thấy lo lắng và ngạc nhiên. Cụ không hẹp hòi vì thêm một miệng ăn mà cụ thấy thương cho con trai, thương cho người đàn bà kia. Cụ hiểu ra sự tình thì cụ ngoảnh đi che đi những giọt nước mắt của mình. Có thể nói giọt nước mắt ấy đã biết bao nhiêu lần rơi vì gia đình vì con cái, đó là những giọt nước mắt lặng thầm và cũng không biết rằng những giọt nước mắt ấy đã rơi bao nhiêu lần rồi. và lần này nó lại rơi, rơi vì trong tình cảnh khốn khó ấy, thế rồi cụ vẫn chấp nhận và hướng các con mình đến một tương thương lại hạnh phúc hơn thực tại. Có thể nói ngay trước thực tại phũ phàng ấy, con người ta vẫn cưu mang lấy nhau. Vẻ đẹp của bà cụ Tứ là vẻ đẹp người mẹ hiện từ nhân hậu giàu đức hi sinh và luôn khuyên con niềm tin về cuộc sống.
Nhà văn Nguyễn Khải cũng xây dựng một nhân vật khá điển hình cho đề tài người phụ nữ. Đó là nhân vật cô Hiền, cô đại diện cho phẩm chất và đẹp của những người phụ nữ thức thời mà vẫn mang đậm vẻ đẹp truyền thống. Hoàn cảnh sống của cô là khi miền bắc đang đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thì trường phát triển. bên cạnh những mặt tích cực của cuộc sống thì cũng có những mặt tiêu cực, vẻ đẹp của cô Hiền được tác giả ví như “hạt bụi vàng” của Hà Nội. Cô Hiền trong thời buổi khó khăn vẫn vươn lên kiếm lấy một cái nghề để nuôi sống gia đình. Đó là một vẻ đẹp đảm đang của người Việt Nam nói chung và của người Hà Nội nói riêng. Không chỉ vậy cô Hiền còn biết dạy con mình trở thành một người có trách nhiệm với Tổ quốc và có lòng tự trọng cao. Cô khuyên con của cô đi tòng quân vào miền Nam đánh giặc, có người thân ai mà chẳng sợ mất đi người con của mình nhưng vì Tổ quốc cần vì miền Nam ruột thịt, cô khích lệ con mình. Như vậy không phải cô đẩy con mình vào chỗ chết mà cô đang dạy con mình yêu nước thương dân, dạy con mình biết sống vì người khác. Đó chẳng phải là một vẻ đẹp của người phụ nữ Việt nam hay sao, một người mẹ hay sao? Cô còn là một người Hà Nội không pha trộn, có những cái mới du nhập vào nhưng cô thì vẫn vậy vẫn giữ nguyên phẩm chất và tính cách của người Hà Nội. Đó là vẻ đẹp của truyền thống:
“ Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”
Đến với nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Người đàn bà bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thời về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ: có mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,... Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ. Là một người phụ nữ yếu đuối phải chịu bao đắng cay tủi phận của cuộc đời nhưng chị lại có một phẩm chất đáng quý. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình. Chị hiểu cơ cực của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được.
Qua đây, ta thấy mỗi một số phận, mỗi một người phụ nữ trong truyện đều khác nhau nhưng họ có một cái chung nhất đó là thể hiện đầy đủ những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Đặc biệt, họ để lại cho ta nhiều suy nghĩ về triết lý của cuộc sống này. Đó là người phụ nữ Tây Bắc đã phải sống như thế nào trong thần quyền và cường quyền, là mặc cho đói nhưng Thị và bà cụ Tứ những người phụ nữ ấy vẫn có một tình thương yêu con người, đùm bọc lấy nhau và chia sẻ cho nhau những ngọt bùi tình yêu cuộc sống, họ không thôi nuôi dưỡng một niềm tin vào cuộc sống tương lai. Hay cô Hiền một người Hà Nội có phẩm chất đáng quý, hay người đàn bà hàng chài khiến ta phải suy nghĩ về những mảng của cuộc đời và nhìn chúng theo nhiều góc độ chứ không thể nhìn qua cái vẻ bề ngoài. Tóm lại, những nhân vật ấy điển hình cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong bất kì thời kì hoàn cảnh nào vẫn sáng lấp lánh như những hạt ngọc quý giá. Đó là vẻ đẹp nhan sắc, yêu đời, người vợ hiền đảm đang, người mẹ nhân hậu, chịu thương chịu khó…
Như vậy có thể nói những nhà văn trên thật sự phải có lòng yêu thương phụ nữ lắm mới hiểu được hết những tâm tư tình cảm của họ đến như vậy. những nhân vật ấy như một minh chứng cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, một vẻ đẹp của người phụ nữ Á Đông hoàn toàn khác so với những vẻ đẹp của người phụ nữ nước khác. Phải chăng họ đã góp phần làm cho xã hội Việt Nam nhìn nhận và trân trọng những người mẹ, người vợ, người chị của mình!