- Xu
- 458
ĐỀ ( Bảng A): Nhà văn Bùi Hiển đã phát biểu khẳng định ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương:
"Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm thông, sẽ chia giữa người đọc và người viết là trên hết".
Anh, chị có suy nghĩ gì về vấn đề này ?
Hãy phân tích hai bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" của thi hào Nguyễn Du và "Kính gửi cụ Nguyễn Du" của nhà thơ Tố Hữu để làm rõ tiếng nói tri âm ở mỗi bài.
Bài làm:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hả nhân khấp Tố Như?
Nguyễn Du xưa đã từ giã cõi đời không một lời trăng trối, mang theo cả một tam sự bi kịch, u uất không giải thoát cùng ai đã sống sâu sắc với cuộc đời, hẳn thấu hiểu lắm tâm sự của Nguyễn Du - một con người suốt đời đi tìm tri kỉ giữa cõi đời đen bạc. Tố Như ơi! Xin người hãy "ngậm cười chín suối" vì "cả cuộc đời nay hiểu Nguyễn Du", vì có biết bao người như Huy Cận, Bùi Kỉ, Tế Hanh, Chế Lan Viên, ...và đặc biệt là Tố Hữu đã làm thơ giãi bày, giải toả hộ người những uất hận kia. Bài thơ "Kính gửi cụ Nguyễn Du" ra đời như bắt nhịp cầu tri âm đến những tâm sự của Tố Như trong "Độc Tiểu Thanh kí", đồng thời cũng khẳng định ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương, nói như nhà văn Bùi Hiển : "Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm thông sẽ chia giữa người đọc và người viết là trên hết".
Là một nhà văn từng nếm trải những vinh quang cả những cay đắng trong nghề văn, Bùi Hiển hiểu hơn ai hết về ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm giữa nhà văn và người đọc. Đã có những thời người ta chỉ đề cao vai trò của tác giả và tác phẩm mà xem nhẹ yếu tố bạn đọc. Đúng nhà văn là người tạo ra tác phẩm bằng tài năng và tâm huyết của mình. nhưng lẽ nào anh chỉ muốn tác phẩm ấy là của riêng anh, chỉ mình anh biết anh hay? Nếu thế, tác phẩm ấy sẽ đi vào quên lãng, không một ai biết đến. Phải chăng vì vậy, M.Gorki đã viết : "người tạo nên tác phẩm là tác giả nhưng người quyết định số phận của tác phẩm lại là độc giả"? Tác phẩm văn chương chỉ sống được trong tấc lòng của những người tri kỉ - là bạn đọc như thế không phải bạn đọc nào cũng hiểu được tác phẩm và thông điệp thẩm mĩ của tác giả. Thực tế văn học đã có biết bao chuyện đáng buồn - người đọc hiểu hoàn toàn sai lệch giá trị của tác phẩm và suy nghĩ của nhà văn. Cho nên, ở bất kỳ thời đại nào, bất cứ nền văn học dân tộc nào cũng đều rất cần tiếng nói tri âm của bạn đọc giành cho tác giả. Nghĩa là bạn đọc ấy phải cảm thông, sẻ chia với những nỗi niềm tâm sự , nghĩ suy của người viết gửi gắm vào tác phẩm. Ý kiến của nhà văn Bùi Hiển, vì thế, có thể xem như một yêu cầu lí tưởng trong tiếp nhận văn học mọi thời đại, mọi dân tộc. Vì vậy tại sao Bùi Hiển lại đề cao ý nghĩa của tiếng nói tri âm như vậy?
Có lẽ bởi đó là yếu tố đặc thù của lĩnh vực văn chương. Nếu như trong các ngành khoa học, thì một chân lí khoa học được tìm ra là đúng đắn thì dù sớm hay muộn nó sẽ được công nhận và khẳng định. Còn với văn học thì sao? Những suy nghĩ, tâm trạng nhà văn sâu sắc, nhiều tầng bậc, không phải một thời, một người là có thể hiểu thấu để mà cảm thông chia sẻ. Tiếp nhận văn học phụ thuộc vào nhiều yếu tố, có khi do tâm lý và tâm thế tiếp nhận, cũng có khi do môi trường văn hoá mà người đọc đang sống, đang tiếp thu, .... Chuyện khen hay chê, khẳng định hay phủ định trong văn chương là điều dễ thấy. Bởi vậy là người đọc có con mắt xanh mới thể hiểu thấu cảm thông chia sẻ với người viết được.
Thế nhưng cơ sở nào đem lại sự cảm thông, chia sẻ giữa người đọc và người viết ? Trước hết được bắt đầu từ quy luật của sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ cầm bút trước tiên là để giải bày lòng mình . Khi những trăn trở, nghĩ suy, dằn vặt, vui hay buồn không thể nói với ai thì người nghệ sĩ tìm đến văn học bởi "thơ là tiếng lòng ", là tiếng nói hồn nhiên nhất của trái tim và "có những đều chỉ nói được bằng thơ". Người nghệ sĩ sáng tác trước hết cũng do chính mình hoặc cho những người thực sự hiểu mình mà thôi. Phải chăng vì vậy khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến đã không viết thơ vì:
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết
Viết đưa ai, ai viết mà đưa
Thế nhưng nhà thơ là "tiếng nói điệu đồng đi tìm những tâm hồn đồng điệu". Nhà thơ đồng thời cũng là bạn đọc thơ, như Tế Hanh nói : đọc thơ đồng chí ngỡ thơ mình. Nhà văn viết tác phẩm như ban phát phấn thông vàng đi khắp nơi, mong có ngươi theo phấn tìm về. Cho nên bạn đọc là một mắt xích không thể thiếu trong chu trình sáng tác - tiếp nhận tác phẩm. Bạn đọc cũng là một người có suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc, có niềm vui và nỗi buồn, có cảnh ngộ và tâm trạng, nhiều khi bắt gặp sự đồng điệu với nhà văn, nhà thơ. Khi hai luồng sóng tâm tình ấy giao hoà thì tác phẩm sẽ rực sáng lên, trở thành nhịp cầu nối liền tâm hồn với tâm hồn, trái tim với trái tim. Cho nên, người đọc đến với thơ để tìm thấy chính mình, thấy những suy nghĩ cảm xúc của chính mình mà nhà thơ, bằng tài năng đã gửi gắm qua những câu thơ . Phải chăng vì thế Lưu Quý Kì viết : "nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình". Và như thế, Bá Nha đã tìm được Tử Kì, những tri âm đã gặp được nhau qua chiếc cầu văn chương. Văn học quả là có sức cảm hóa thật kỳ diệu.
Có lẽ chính bởi ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương mà biết bao nhà thơ, nhà văn đã sáng tác những tác phẩm mà đối tượng lại chính là các nhà văn, nhà thơ. Bằng Việt viết về Pauxtôpxki, Ximônôp sung sướng khi tìm được tri âm là Tố Hữu:
Ở đây tôi thấy thơ tôi
Sống trong bản dịch tuyệt vời của anh
Trường hợp của Nguyễn Du và Tố Hữu trong hai bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" và "Kính gửi cụ Nguyễn Du" cũng không nằm ngoài mạch nguồn cảm hứng giàu giá trị nhân văn ấy.
Có thể thấy cả hai bài thơ đều là tấc lòng của hai nhà thơ gửi gắm cho những người nghệ sĩ sống khác thời đại. Nguyễn Du viết về Tiểu Thanh, cách Tố Như ba trăm năm nhưng đồng thời Tiểu Thanh cũng là một nhà thơ. Sống cô đơn vò võ một mình trong sự ghen tuông cay nghiệt của người vợ cả, sự thiếu đồng cảm của chính người chồng, Tiểu Thanh đã tìm đến thơ để kí thác tâm tình, để tìm đến những tri âm vô hình để khuây khoả nỗi cô đơn. Thế mà thói đời cay nghiệt, khi nàng chết, những vần thơ của nàng cũng phải từ giả cõi đời trong ngọn lửa ghen tuông , đố kị. Những câu thơ còn sót lại của nàng đã khiến Tố Như rung động. Một trái tim lúc nào cũng căng lên như dây đàn nối giữa đất và trời, nỗi đau của con người có thể làm sợi dây ấy rung lên bần bật. Dễ hiểu vì sao Nguyễn Du lại viết hay, viết xúc động về Tiểu Thanh đến vậy. Còn Tố Hữu, trong những năm tháng chống Mĩ cứu nước, nhất là trong không khí của những ngày kỉ niệm ngày sinh Nguyễn Du, đã xúc động viết nên "Kính gửi cụ Nguyễn Du", Tố Hữu đã thể hiện sự cảm thông, chia sẻ với bi kịch của Nguyễn Du và hết lời ngợi ca giá trị của thơ ca Tố Hữu. Như thế hai bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" và "Kính gửi cụ Nguyễn Du" điều thể hiện tiếng nói tri âm giữa Nguyễn Du, Tố Hữu - người đọc đồng thời cũng là những nhà thơ với Tiểu Thanh, Nguyễn Du - những nghệ sĩ sống khác thời đại. Sự trùng hợp tuyệt đẹp này con góp phần khẳng định truyền thống nhân đạo sâu sắc, mênh mông của dân tộc và văn học Việt Nam. Bởi lẽ Tiểu Thanh, Nguyễn Du là ai nếu không phải là những người tài hoa bạc mệnh ?.
Mặc dù vậy, bản chất của lao động nghệ thuật bao giờ cũng là sáng tạo. Cho nên, hai bài thơ dù giống nhau ở cảm hứng nhưng nội dung tiếng nói tri âm và cách thể hiện tiếng nói tri âm ấy cũng có sự khác biệt sâu sắc. Trước hết "Độc Tiểu Thanh kí" là tiếng nói tri âm của một cá nhân giành cho một cá nhân. Nguyễn Du thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ của Tiểu Thanh - người con gái sống khác dân tộc, sống khác thời đại. Có một khoảng không gian và thời gian diệu vợi, hun hút, ngăn cách hai người nhưng chính văn chương đã xoá nhoà biên giới địa lí, biên giới lịch sử để họ tìm đến với nhau.
Nguyễn Du xót thương cho cảnh ngộ của nàng;
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Bài thơ mở đầu bằng câu thơ nói về quy luật nghiệt ngã của cuộc đời. Dòng đời lạnh lùng, chảy trôi cuốn theo bao con người bao số phận, tàn phá bao cảnh sắc. Hồ Tây xưa đẹp đẽ, rực rỡ là thế, giờ chỉ là đống đất hoang lạnh, vắng vẻ, tiêu điều. Một sự biến đổi thật ghê gớm ! Tận nghĩa là biến đổi hết, sạch trơn. Cảnh xưa đã không còn. Câu thơ nghe cứ ngậm ngùi, thoáng gợi sự đời dâu bể thương hải biến vi tang điền hay xót xa nỗi niềm thế gian biến cải vũng nên đồi trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là quy luật tự nhiên, sao ta không khỏi day dứt? Bởi lẽ cùng với sự đổi thay ấy là sự ra đi của kiếp người, đời người. Tiểu Thanh nàng hỡi, sự hiện diện của nàng trên cõi đời này còn gì đâu nếu không có vần thơ sót lại, nhưng may thay những vần thơ ấy - tấc lòng của nàng đã đến được bờ tri âm - ấy chính là Nguyễn Du. Nguyễn Du hiểu lắm nỗi oan nghiệt của nàng:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cả cuộc đời Tiểu Thanh hiện lên qua hai chữ : chi phấn văn chương. Nói đến chi phấn là nói đến tài sắc, nói đến văn chương là nói đến tài năng. Nàng là người nhan sắc tài năng vẹn toàn, thế sao cuộc đời nàng lại đau khổ như vậy? Nhà thơ đã thổi hồn vào son phấn, văn chương để chúng cất lên tiếng nói bi phẫn, xót xa. Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết còn văn chương không có mệnh mà còn bị đốt bỏ. Hỡi cuộc đời, son phấn , văn chương có tội tình gì mà đoạ đày oan nghiệt đến thế? Nguyễn Du người ở đâu, hay người đã nhập vào chi phấn, văn chương đã cất lên tiếng nói bi thương thống thiết ấy? Hai câu thực cũng chính là chìa khoá mở cửa vào hai câu luận:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Thế là đâu chỉ Tiêu Thanh, đó là số phận bất hạnh của biết bao con người. Hai chữ cổ kim gợi dòng thời gian miệt mài chảy trôi, vô thuỷ vô chung từ xưa đến nay, từ đông sang tây, trên đó thấp thoáng tiếng khóc nàng Kiều, tiếng ai oán của cô Cầm, tiếng hát của người ca nữ đất Long Thành, người hát rong ở Thái Bình, tiếng van lơn của mẹ ăn xin,... Đó là mối hận của bao kiếp người, bao cuộc đời, bao thời đại, giờ đây tát cả cùng về đổ bóng xuống câu thơ Tố Như. Như mối hận chất chứa, dày đặc thế mà trời không hỏi. Hỏi người, người không biết. Hỏi trời không đáp, cho nên Nguyễn Du tự lý giải cho mình:
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Tiểu Thanh đau khổ, bao con người đau khổ chính nổi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Thì ra chính chi phấn, văn chương kia là nguyên nhân gây ra nỗi đau khổ dường này! Nhà thơ tự coi mình là người cùng hội, cùng thuyền với Tiểu Thanh và những người tài hoa bạc mệnh. Thế là Nguyễn Du đã "lấy hồn tôi để hiểu hồn người". Tố Như sỡ dĩ là tri âm bởi ông thấy mình trong cuộc đời và thơ văn Tiểu Thanh. Cho nên, bài thơ kết thúc bằng tâm sự của chính Nguyễn Du:
Bất tri tam bách dư niên hậu.
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Thương người rồi mới thương mình. Thương người càng sâu sắc thì thương mình càng da diết. Tiểu Thanh đã có may mắn là tìm được người tri âm nơi Nguyễn Du. Thế còn Nguyễn Du, ai sẽ làm tri âm đây ? Bài thơ kết thúc mà nỗi đau cứ khắc khoải, đau đáu khôn nguôi. Khấp là khóc không thành tiếng, nghĩa là nước mắt lặng vào trong, ngưng đọng, kết tụ bằng nỗi hận, nỗi u uất khôn nguôi. Tố Như đã từng cho mình mang nỗi sầu "vị tằng khai" không giải toả được, sâu thẳm như nước sông Lam dưới chân núi Hồng: Ngã hữu thốn tâm vô dư ngã. Cho nên ông không hỏi người ở hiện tại mà phải hướng về người cách mình hơn ba trăm năm xa xôi, vô định. Bởi lẽ con người ấy suốt đời không tri âm. Người chỉ tìm thấy tri kĩ ở một nàng Kiều trong nhà sách. Ở Tiểu Thanh cách mình ba trăm năm và ở một dân tộc khác. Bài thơ khép lại mà đau đáu nỗi đau không tri âm, không tri kĩ giữa cõi đời đen bạc. Như vậy, hiểu Tiểu Thanh, day dứt trước số phận nàng, ráo riết tìm câu trả lời nhưng cuối cùng Nguyễn Du lại bế tắc, rơi vào thuyết hư vô siêu hình như trong truyện Kiều:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Cho nên bài thơ đầy nước mắt trong giọng điệu bi phẫn, sầu tủi, nghẹn ngào. Dẫu sao tấm lòng tri âm của Tố Như với Tiểu Thanh vô cùng đáng quý, đáng trân trọng .
Hai trăm năm sau Nguyễn Du , Tố Hữu đứng trên đỉnh cao của thời đại, của dân tộc hướng về quá khứ cha ông với niềm xót xa, thương cảm. Biết bao nhà thơ khác đồng cảm với Nguyễn Du nhưng ở Tố Hữu, sự đồng cảm ấy sâu sắc, mênh mông hơn. Trước hết nhà thơ hiểu, chia sẻ với bi kịch của Nguyễn Du:
Hỡi lòng tê tái thương yêu
Giữa dòng trong đục, cánh bèo lênh đênh
Ngổn ngang bên nghĩa bên tình
Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nào
Ngẩn ngơ trông ngọn cờ cao?
Đành như thân gái sóng xao Tiên Đường !
Tưởng như đó là những lời Tố Hữu viết về Thuý Kiều. Mà quả thực, nhà thơ tỏ lòng thương cảm với nàng Kiều tài sắc mà thân phận như cánh bèo lênh đênh. Nàng đã đứng trước sự lựa chọn chữ hiếu và chữ tình khi quyết định bán mình chuộc cha; đã từng xao lòng trước vinh hoa để rồi xót xa thấy ngọn cờ đào Từ Hải, kết liễu đời mình nơi dòng Tiền Đường định mệnh. Thế nhưng qua sự so sánh đành như thân gái, người đọc hiểu được đó là lời tâm huyết, gan ruột của Tố Hữu gửi Tố Như. Trong cuộc đời bể dâu kia , Tố Như cũng chỉ như cánh bèo chìm nổi, từng đau đớn trước bi kịch "sống hay không sống" và sống như nào giữa đen tối và tội ác, giữa dòng trong đục kia? Nguyễn Du cũng đã từng đứng trước sự lựa chọn giữa nghĩa và tình . Người hiểu xã hội phong kiến đã đến hồi cáo chung, hiểu được sự mọt rỗng của triều Lê nhưng tình với nhà Lê, tư tưởng phù Lê của tôi trung không thờ hai chủ nên người đã từng chống lại Tây Sơn. Thế nhưng trong đêm đen cuộc đời, người đâu đã thoát được bi kịch. Người thấy triều đại Tây Sơn tài hoa trong Long Thành cầm giả ca nhưng cuối cùng lại theo Nguyễn Ánh, làm quan cho triều Nguyễn. Bi kịch không giải thoát được, người đành như thân gái sóng xao Tiền Đường phó mặc cho số phận. Tố Hữu đã nhận thấy Thuý Kiều là hiện thân của Nguyễn Du. Nguyễn Du viết Truyện Kiều để kí thác tâm sự của chính mình. Đó thật sự là tấm lòng tri âm sâu sắc.
Không chỉ hiểu bi kịch của Nguyễn Du, Tố Hữu còn chia sẻ, cảm thông với bi kịch tình đời của người :
Nỗi niềm xua, nghĩ mà thương:
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng...
Nhân tình, nhắm mắt, chưa xong
Biết ai hậu thế, khóc cùng Tố Như ?
Mai sau dù có bao giờ...
Câu thơ thuở trước, đâu ngờ hôm nay!
Phải thương cảm Tố Như sâu sắc lắm, Tố Hữu mới có thể nhận thấy bi kịch ẩn sâu này. Nguyễn Du cả một đời yêu thương con người. Cả đến khi nhắm mắt suôi tay vẫn chưa nguôi nỗi đau đời ấy. Thế nhưng đau đời có cứu được đời đâu. Cho nên ông đau đáu hỏi người ba trăm năm sau : Ai người khóc Tố Như ? Tố Hữu sử dụng ý thơ ấy thật linh hoạt. Khóc cùng không chỉ là khóc cho Tố Như mà cùng Tố Như khóc cho nỗi đau của con người . Đó phải chăng cũng là điều Tố Như tìm kiếm, trăn trối trước lúc đi xa ?
Nếu như Nguyễn Du chủ yếu tri âm với cuộc đời Tiểu Thanh thì Tố Hữu còn tri âm với cả thế giới nhân vật của tác phẩm Nguyễn Du và với cả thơ Nguyễn Du. Hoài Thanh nhận xét, sau cách mạng, chưa ai đánh giá Tố Như cao như Tố Hữu:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày .
Tiếng thơ ai nghe trìu mến, vừa thân thương, vừa ngưỡng phục. Tiếng thơ của Nguyễn Du thấu lòng người, thấu cả trời xanh. Dường như cả trời xanh cũng rung động bởi những vần thơ ấy. Thật là một tầm vóc lớn lao, vĩ đại! Không những vậy, Tố Hữu còn nghe trong tiếng thơ ấy hồn của dân tộc lời của nước non:
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Tố Hữu đã từng ví tiếng nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh như lời non nước:
Con nghe Bác, tưởng nghe lời non nước
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau...
Lần thứ hai, ông lại dùng hình ảnh so sánh này để ca ngợi sự vĩ đại của nhà thơ - Một danh nhân văn hoá lỗi lạc của cả dân tộc và thế giới. Tiếng thơ của Nguyễn Du từ tiếng nói của cá nhân đã trở thành lời của non nước. Non nước mượn thơ người để vọng lời. Tiếng thơ ấy có cả tiếng lòng của dân tộc, của non nước. Cho nên nó có tầm vóc ngang với vũ trụ, sông núi và với cả thời gian. Từ ngàn thu đâu chỉ gợi thời gian dằn dặt mà còn gợi không gian mênh mông cho tiếng thơ cụ Tiên Điền vang vọng, chảy trôi, hôm nay, mai sau , thậm chí nghìn năm sau người Việt Nam vẫn không quên được tiếng thơ ấy vì : Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày .
Thơ của Nguyễn Du được ví với tiếng thơ, lời non nước, lời ngàn thu, tiếng thương rồi là tiếng mẹ ru. Đó là những cấp bậc đánh giá hay chăng chính là con đường đi vào bất tử của thơ Nguyễn Du? Cái đích cuối cùng của thơ là "chảy đến lòng người" nên hình ảnh tiếng mẹ ru chính là cách đánh giá cao cao nhất giành cho một tiếng thơ. Tiếng thơ ấy đã nhập vào nguồn mạch văn hoá, vào đời sống tâm hồn, tình cảm của người dân Việt Nam, trở thành dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng bao thế hệ . Tiếng thơ ấy là tình thương của mẹ dành cho con, là hiện thân của tình mẹ mênh mông. "Thương" là nội dung, bản chất, là cội nguồn hay là phương tiện của tiếng thơ ? Và hiểu theo cách nào, đó cũng là sự tri âm tuyệt đối của Tố Hữu với Tố Như rồi. Bởi lẽ Nguyễn Du là "nhân đạo lỗi lạc", là trái tim lớn suốt đời mang nặng nỗi nỗi thương đời.
Đau đớn thay phận đàn bà
Không chỉ thấu hiểu, sẽ chia với cuộc đời, ngợi ca thơ Nguyễn Du, Tố Hữu còn tìm cách lý giải nỗi đau của Nguyễn Du. Ông cho rằng nỗi đau ấy không phải do trời mà chính là do xã hội vạn ác thời Nguyễn Du gây nên:
Gớm quân Ưng Khuyển, ghê bầy Sở Khanh
Cũng loài hổ báo, ruồi xanh
Cũng phường gian ác hôi tanh hại người !
Chính thằng bán tơ, bè lũ Mã Giám Sinh, Tú Bà, Ưng Khuyển, Sở khanh mới là những kẻ gieo mầm đau khổ cho Nguyễn Du, Tiểu Thanh, Thuý Kiều. Cho nên muốn thay đổi số phận, phải tiêu diệt xã hội vạn ác ấy đi. Và tiếng trống ba hồi gọi quân kết thúc bài thơ là sự giải quyết ấy. Xã hội nay vẫn còn những kẻ ác nhưng cả dân tộc ra trận để tiêu diệt kẻ thù, để cuộc đời nhiều hạnh phúc và tình yêu hơn . Tố Hữu không sa vào tư tưởng bia quan như Nguyễn Du bởi ông là nhà thơ cách mạng, được luồng gió mới của thời đại thổi mát. Nguyễn Du ơi xin người hãy yên lòng. Những nàng Kiều, cô Cầm, người mẹ ăn xin, ...của người sẽ không còn đau khổ nữa đâu.
Chính sự khác nhau về tiếng nói tri âm ấy đã chuyển hoá thành hình thức nghệ thuật khác nhau, bài "Độc Tiểu Thanh kí" của Tố Như viết theo thể đường luật cô đúc, hàm súc nhưng phảng phất giọng điệu bi phẫn do rất nhiều thanh trắc, dấu nặng gợi cảm giác trĩu nặng, ngưng đọng. Còn Tố Hữu sử dụng thành công thể lục bát nhẹ nhàng, đằm thắm, trang trọng; hình thức tập kiều, lẩy Kiều để chuyển tải giọng điệu lạc quan, hào hứng say mê.
Như vậy tiếng nói tri âm giữa người đọc và người viết là điều văn học dân tộc nào, thời đại nào cũng hướng tới. Điều đó đặt ra yêu cầu với nghệ sĩ phải sáng tác từ những cảm xúc chân thành nhất, da diết nhất. Và người đọc hãy sống hết mình với tác phẩm để hiểu được thông điệp thẩm mĩ của tác giả, để chia sẻ cảm thông với tác giả. Mỗi người hãy rung lên khúc Bá Nha Như Tử Kì để văn chương mãi tươi đẹp kì diệu.
Tôi muốn đến với Nguyễn Du như thế với một con người suốt đời khắt khoải, da diết với với thân phận con người. Nguyễn Du đã từng rõ biết bao nước mắt khóc thương cho những con người đau khổ ấy, lẽ nào ta lại chẳng một lần khóc cho Nguyễn Du để bi kịch của của người sẽ tan như bóng hình Trương Chi trong chén nước của Mị Nương xưa?
---------------
NGUYỄN THỊ HẢI HẬU ( Trường THPT chuyên Hùng Vương - Phú Thọ )*
"Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm thông, sẽ chia giữa người đọc và người viết là trên hết".
Anh, chị có suy nghĩ gì về vấn đề này ?
Hãy phân tích hai bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" của thi hào Nguyễn Du và "Kính gửi cụ Nguyễn Du" của nhà thơ Tố Hữu để làm rõ tiếng nói tri âm ở mỗi bài.
Bài làm:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hả nhân khấp Tố Như?
Nguyễn Du xưa đã từ giã cõi đời không một lời trăng trối, mang theo cả một tam sự bi kịch, u uất không giải thoát cùng ai đã sống sâu sắc với cuộc đời, hẳn thấu hiểu lắm tâm sự của Nguyễn Du - một con người suốt đời đi tìm tri kỉ giữa cõi đời đen bạc. Tố Như ơi! Xin người hãy "ngậm cười chín suối" vì "cả cuộc đời nay hiểu Nguyễn Du", vì có biết bao người như Huy Cận, Bùi Kỉ, Tế Hanh, Chế Lan Viên, ...và đặc biệt là Tố Hữu đã làm thơ giãi bày, giải toả hộ người những uất hận kia. Bài thơ "Kính gửi cụ Nguyễn Du" ra đời như bắt nhịp cầu tri âm đến những tâm sự của Tố Như trong "Độc Tiểu Thanh kí", đồng thời cũng khẳng định ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương, nói như nhà văn Bùi Hiển : "Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm thông sẽ chia giữa người đọc và người viết là trên hết".
Là một nhà văn từng nếm trải những vinh quang cả những cay đắng trong nghề văn, Bùi Hiển hiểu hơn ai hết về ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm giữa nhà văn và người đọc. Đã có những thời người ta chỉ đề cao vai trò của tác giả và tác phẩm mà xem nhẹ yếu tố bạn đọc. Đúng nhà văn là người tạo ra tác phẩm bằng tài năng và tâm huyết của mình. nhưng lẽ nào anh chỉ muốn tác phẩm ấy là của riêng anh, chỉ mình anh biết anh hay? Nếu thế, tác phẩm ấy sẽ đi vào quên lãng, không một ai biết đến. Phải chăng vì vậy, M.Gorki đã viết : "người tạo nên tác phẩm là tác giả nhưng người quyết định số phận của tác phẩm lại là độc giả"? Tác phẩm văn chương chỉ sống được trong tấc lòng của những người tri kỉ - là bạn đọc như thế không phải bạn đọc nào cũng hiểu được tác phẩm và thông điệp thẩm mĩ của tác giả. Thực tế văn học đã có biết bao chuyện đáng buồn - người đọc hiểu hoàn toàn sai lệch giá trị của tác phẩm và suy nghĩ của nhà văn. Cho nên, ở bất kỳ thời đại nào, bất cứ nền văn học dân tộc nào cũng đều rất cần tiếng nói tri âm của bạn đọc giành cho tác giả. Nghĩa là bạn đọc ấy phải cảm thông, sẻ chia với những nỗi niềm tâm sự , nghĩ suy của người viết gửi gắm vào tác phẩm. Ý kiến của nhà văn Bùi Hiển, vì thế, có thể xem như một yêu cầu lí tưởng trong tiếp nhận văn học mọi thời đại, mọi dân tộc. Vì vậy tại sao Bùi Hiển lại đề cao ý nghĩa của tiếng nói tri âm như vậy?
Có lẽ bởi đó là yếu tố đặc thù của lĩnh vực văn chương. Nếu như trong các ngành khoa học, thì một chân lí khoa học được tìm ra là đúng đắn thì dù sớm hay muộn nó sẽ được công nhận và khẳng định. Còn với văn học thì sao? Những suy nghĩ, tâm trạng nhà văn sâu sắc, nhiều tầng bậc, không phải một thời, một người là có thể hiểu thấu để mà cảm thông chia sẻ. Tiếp nhận văn học phụ thuộc vào nhiều yếu tố, có khi do tâm lý và tâm thế tiếp nhận, cũng có khi do môi trường văn hoá mà người đọc đang sống, đang tiếp thu, .... Chuyện khen hay chê, khẳng định hay phủ định trong văn chương là điều dễ thấy. Bởi vậy là người đọc có con mắt xanh mới thể hiểu thấu cảm thông chia sẻ với người viết được.
Thế nhưng cơ sở nào đem lại sự cảm thông, chia sẻ giữa người đọc và người viết ? Trước hết được bắt đầu từ quy luật của sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ cầm bút trước tiên là để giải bày lòng mình . Khi những trăn trở, nghĩ suy, dằn vặt, vui hay buồn không thể nói với ai thì người nghệ sĩ tìm đến văn học bởi "thơ là tiếng lòng ", là tiếng nói hồn nhiên nhất của trái tim và "có những đều chỉ nói được bằng thơ". Người nghệ sĩ sáng tác trước hết cũng do chính mình hoặc cho những người thực sự hiểu mình mà thôi. Phải chăng vì vậy khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến đã không viết thơ vì:
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết
Viết đưa ai, ai viết mà đưa
Thế nhưng nhà thơ là "tiếng nói điệu đồng đi tìm những tâm hồn đồng điệu". Nhà thơ đồng thời cũng là bạn đọc thơ, như Tế Hanh nói : đọc thơ đồng chí ngỡ thơ mình. Nhà văn viết tác phẩm như ban phát phấn thông vàng đi khắp nơi, mong có ngươi theo phấn tìm về. Cho nên bạn đọc là một mắt xích không thể thiếu trong chu trình sáng tác - tiếp nhận tác phẩm. Bạn đọc cũng là một người có suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc, có niềm vui và nỗi buồn, có cảnh ngộ và tâm trạng, nhiều khi bắt gặp sự đồng điệu với nhà văn, nhà thơ. Khi hai luồng sóng tâm tình ấy giao hoà thì tác phẩm sẽ rực sáng lên, trở thành nhịp cầu nối liền tâm hồn với tâm hồn, trái tim với trái tim. Cho nên, người đọc đến với thơ để tìm thấy chính mình, thấy những suy nghĩ cảm xúc của chính mình mà nhà thơ, bằng tài năng đã gửi gắm qua những câu thơ . Phải chăng vì thế Lưu Quý Kì viết : "nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình". Và như thế, Bá Nha đã tìm được Tử Kì, những tri âm đã gặp được nhau qua chiếc cầu văn chương. Văn học quả là có sức cảm hóa thật kỳ diệu.
Có lẽ chính bởi ý nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương mà biết bao nhà thơ, nhà văn đã sáng tác những tác phẩm mà đối tượng lại chính là các nhà văn, nhà thơ. Bằng Việt viết về Pauxtôpxki, Ximônôp sung sướng khi tìm được tri âm là Tố Hữu:
Ở đây tôi thấy thơ tôi
Sống trong bản dịch tuyệt vời của anh
Trường hợp của Nguyễn Du và Tố Hữu trong hai bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" và "Kính gửi cụ Nguyễn Du" cũng không nằm ngoài mạch nguồn cảm hứng giàu giá trị nhân văn ấy.
Có thể thấy cả hai bài thơ đều là tấc lòng của hai nhà thơ gửi gắm cho những người nghệ sĩ sống khác thời đại. Nguyễn Du viết về Tiểu Thanh, cách Tố Như ba trăm năm nhưng đồng thời Tiểu Thanh cũng là một nhà thơ. Sống cô đơn vò võ một mình trong sự ghen tuông cay nghiệt của người vợ cả, sự thiếu đồng cảm của chính người chồng, Tiểu Thanh đã tìm đến thơ để kí thác tâm tình, để tìm đến những tri âm vô hình để khuây khoả nỗi cô đơn. Thế mà thói đời cay nghiệt, khi nàng chết, những vần thơ của nàng cũng phải từ giả cõi đời trong ngọn lửa ghen tuông , đố kị. Những câu thơ còn sót lại của nàng đã khiến Tố Như rung động. Một trái tim lúc nào cũng căng lên như dây đàn nối giữa đất và trời, nỗi đau của con người có thể làm sợi dây ấy rung lên bần bật. Dễ hiểu vì sao Nguyễn Du lại viết hay, viết xúc động về Tiểu Thanh đến vậy. Còn Tố Hữu, trong những năm tháng chống Mĩ cứu nước, nhất là trong không khí của những ngày kỉ niệm ngày sinh Nguyễn Du, đã xúc động viết nên "Kính gửi cụ Nguyễn Du", Tố Hữu đã thể hiện sự cảm thông, chia sẻ với bi kịch của Nguyễn Du và hết lời ngợi ca giá trị của thơ ca Tố Hữu. Như thế hai bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" và "Kính gửi cụ Nguyễn Du" điều thể hiện tiếng nói tri âm giữa Nguyễn Du, Tố Hữu - người đọc đồng thời cũng là những nhà thơ với Tiểu Thanh, Nguyễn Du - những nghệ sĩ sống khác thời đại. Sự trùng hợp tuyệt đẹp này con góp phần khẳng định truyền thống nhân đạo sâu sắc, mênh mông của dân tộc và văn học Việt Nam. Bởi lẽ Tiểu Thanh, Nguyễn Du là ai nếu không phải là những người tài hoa bạc mệnh ?.
Mặc dù vậy, bản chất của lao động nghệ thuật bao giờ cũng là sáng tạo. Cho nên, hai bài thơ dù giống nhau ở cảm hứng nhưng nội dung tiếng nói tri âm và cách thể hiện tiếng nói tri âm ấy cũng có sự khác biệt sâu sắc. Trước hết "Độc Tiểu Thanh kí" là tiếng nói tri âm của một cá nhân giành cho một cá nhân. Nguyễn Du thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ của Tiểu Thanh - người con gái sống khác dân tộc, sống khác thời đại. Có một khoảng không gian và thời gian diệu vợi, hun hút, ngăn cách hai người nhưng chính văn chương đã xoá nhoà biên giới địa lí, biên giới lịch sử để họ tìm đến với nhau.
Nguyễn Du xót thương cho cảnh ngộ của nàng;
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Bài thơ mở đầu bằng câu thơ nói về quy luật nghiệt ngã của cuộc đời. Dòng đời lạnh lùng, chảy trôi cuốn theo bao con người bao số phận, tàn phá bao cảnh sắc. Hồ Tây xưa đẹp đẽ, rực rỡ là thế, giờ chỉ là đống đất hoang lạnh, vắng vẻ, tiêu điều. Một sự biến đổi thật ghê gớm ! Tận nghĩa là biến đổi hết, sạch trơn. Cảnh xưa đã không còn. Câu thơ nghe cứ ngậm ngùi, thoáng gợi sự đời dâu bể thương hải biến vi tang điền hay xót xa nỗi niềm thế gian biến cải vũng nên đồi trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là quy luật tự nhiên, sao ta không khỏi day dứt? Bởi lẽ cùng với sự đổi thay ấy là sự ra đi của kiếp người, đời người. Tiểu Thanh nàng hỡi, sự hiện diện của nàng trên cõi đời này còn gì đâu nếu không có vần thơ sót lại, nhưng may thay những vần thơ ấy - tấc lòng của nàng đã đến được bờ tri âm - ấy chính là Nguyễn Du. Nguyễn Du hiểu lắm nỗi oan nghiệt của nàng:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cả cuộc đời Tiểu Thanh hiện lên qua hai chữ : chi phấn văn chương. Nói đến chi phấn là nói đến tài sắc, nói đến văn chương là nói đến tài năng. Nàng là người nhan sắc tài năng vẹn toàn, thế sao cuộc đời nàng lại đau khổ như vậy? Nhà thơ đã thổi hồn vào son phấn, văn chương để chúng cất lên tiếng nói bi phẫn, xót xa. Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết còn văn chương không có mệnh mà còn bị đốt bỏ. Hỡi cuộc đời, son phấn , văn chương có tội tình gì mà đoạ đày oan nghiệt đến thế? Nguyễn Du người ở đâu, hay người đã nhập vào chi phấn, văn chương đã cất lên tiếng nói bi thương thống thiết ấy? Hai câu thực cũng chính là chìa khoá mở cửa vào hai câu luận:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Thế là đâu chỉ Tiêu Thanh, đó là số phận bất hạnh của biết bao con người. Hai chữ cổ kim gợi dòng thời gian miệt mài chảy trôi, vô thuỷ vô chung từ xưa đến nay, từ đông sang tây, trên đó thấp thoáng tiếng khóc nàng Kiều, tiếng ai oán của cô Cầm, tiếng hát của người ca nữ đất Long Thành, người hát rong ở Thái Bình, tiếng van lơn của mẹ ăn xin,... Đó là mối hận của bao kiếp người, bao cuộc đời, bao thời đại, giờ đây tát cả cùng về đổ bóng xuống câu thơ Tố Như. Như mối hận chất chứa, dày đặc thế mà trời không hỏi. Hỏi người, người không biết. Hỏi trời không đáp, cho nên Nguyễn Du tự lý giải cho mình:
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Tiểu Thanh đau khổ, bao con người đau khổ chính nổi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Thì ra chính chi phấn, văn chương kia là nguyên nhân gây ra nỗi đau khổ dường này! Nhà thơ tự coi mình là người cùng hội, cùng thuyền với Tiểu Thanh và những người tài hoa bạc mệnh. Thế là Nguyễn Du đã "lấy hồn tôi để hiểu hồn người". Tố Như sỡ dĩ là tri âm bởi ông thấy mình trong cuộc đời và thơ văn Tiểu Thanh. Cho nên, bài thơ kết thúc bằng tâm sự của chính Nguyễn Du:
Bất tri tam bách dư niên hậu.
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Thương người rồi mới thương mình. Thương người càng sâu sắc thì thương mình càng da diết. Tiểu Thanh đã có may mắn là tìm được người tri âm nơi Nguyễn Du. Thế còn Nguyễn Du, ai sẽ làm tri âm đây ? Bài thơ kết thúc mà nỗi đau cứ khắc khoải, đau đáu khôn nguôi. Khấp là khóc không thành tiếng, nghĩa là nước mắt lặng vào trong, ngưng đọng, kết tụ bằng nỗi hận, nỗi u uất khôn nguôi. Tố Như đã từng cho mình mang nỗi sầu "vị tằng khai" không giải toả được, sâu thẳm như nước sông Lam dưới chân núi Hồng: Ngã hữu thốn tâm vô dư ngã. Cho nên ông không hỏi người ở hiện tại mà phải hướng về người cách mình hơn ba trăm năm xa xôi, vô định. Bởi lẽ con người ấy suốt đời không tri âm. Người chỉ tìm thấy tri kĩ ở một nàng Kiều trong nhà sách. Ở Tiểu Thanh cách mình ba trăm năm và ở một dân tộc khác. Bài thơ khép lại mà đau đáu nỗi đau không tri âm, không tri kĩ giữa cõi đời đen bạc. Như vậy, hiểu Tiểu Thanh, day dứt trước số phận nàng, ráo riết tìm câu trả lời nhưng cuối cùng Nguyễn Du lại bế tắc, rơi vào thuyết hư vô siêu hình như trong truyện Kiều:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Cho nên bài thơ đầy nước mắt trong giọng điệu bi phẫn, sầu tủi, nghẹn ngào. Dẫu sao tấm lòng tri âm của Tố Như với Tiểu Thanh vô cùng đáng quý, đáng trân trọng .
Hai trăm năm sau Nguyễn Du , Tố Hữu đứng trên đỉnh cao của thời đại, của dân tộc hướng về quá khứ cha ông với niềm xót xa, thương cảm. Biết bao nhà thơ khác đồng cảm với Nguyễn Du nhưng ở Tố Hữu, sự đồng cảm ấy sâu sắc, mênh mông hơn. Trước hết nhà thơ hiểu, chia sẻ với bi kịch của Nguyễn Du:
Hỡi lòng tê tái thương yêu
Giữa dòng trong đục, cánh bèo lênh đênh
Ngổn ngang bên nghĩa bên tình
Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nào
Ngẩn ngơ trông ngọn cờ cao?
Đành như thân gái sóng xao Tiên Đường !
Tưởng như đó là những lời Tố Hữu viết về Thuý Kiều. Mà quả thực, nhà thơ tỏ lòng thương cảm với nàng Kiều tài sắc mà thân phận như cánh bèo lênh đênh. Nàng đã đứng trước sự lựa chọn chữ hiếu và chữ tình khi quyết định bán mình chuộc cha; đã từng xao lòng trước vinh hoa để rồi xót xa thấy ngọn cờ đào Từ Hải, kết liễu đời mình nơi dòng Tiền Đường định mệnh. Thế nhưng qua sự so sánh đành như thân gái, người đọc hiểu được đó là lời tâm huyết, gan ruột của Tố Hữu gửi Tố Như. Trong cuộc đời bể dâu kia , Tố Như cũng chỉ như cánh bèo chìm nổi, từng đau đớn trước bi kịch "sống hay không sống" và sống như nào giữa đen tối và tội ác, giữa dòng trong đục kia? Nguyễn Du cũng đã từng đứng trước sự lựa chọn giữa nghĩa và tình . Người hiểu xã hội phong kiến đã đến hồi cáo chung, hiểu được sự mọt rỗng của triều Lê nhưng tình với nhà Lê, tư tưởng phù Lê của tôi trung không thờ hai chủ nên người đã từng chống lại Tây Sơn. Thế nhưng trong đêm đen cuộc đời, người đâu đã thoát được bi kịch. Người thấy triều đại Tây Sơn tài hoa trong Long Thành cầm giả ca nhưng cuối cùng lại theo Nguyễn Ánh, làm quan cho triều Nguyễn. Bi kịch không giải thoát được, người đành như thân gái sóng xao Tiền Đường phó mặc cho số phận. Tố Hữu đã nhận thấy Thuý Kiều là hiện thân của Nguyễn Du. Nguyễn Du viết Truyện Kiều để kí thác tâm sự của chính mình. Đó thật sự là tấm lòng tri âm sâu sắc.
Không chỉ hiểu bi kịch của Nguyễn Du, Tố Hữu còn chia sẻ, cảm thông với bi kịch tình đời của người :
Nỗi niềm xua, nghĩ mà thương:
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng...
Nhân tình, nhắm mắt, chưa xong
Biết ai hậu thế, khóc cùng Tố Như ?
Mai sau dù có bao giờ...
Câu thơ thuở trước, đâu ngờ hôm nay!
Phải thương cảm Tố Như sâu sắc lắm, Tố Hữu mới có thể nhận thấy bi kịch ẩn sâu này. Nguyễn Du cả một đời yêu thương con người. Cả đến khi nhắm mắt suôi tay vẫn chưa nguôi nỗi đau đời ấy. Thế nhưng đau đời có cứu được đời đâu. Cho nên ông đau đáu hỏi người ba trăm năm sau : Ai người khóc Tố Như ? Tố Hữu sử dụng ý thơ ấy thật linh hoạt. Khóc cùng không chỉ là khóc cho Tố Như mà cùng Tố Như khóc cho nỗi đau của con người . Đó phải chăng cũng là điều Tố Như tìm kiếm, trăn trối trước lúc đi xa ?
Nếu như Nguyễn Du chủ yếu tri âm với cuộc đời Tiểu Thanh thì Tố Hữu còn tri âm với cả thế giới nhân vật của tác phẩm Nguyễn Du và với cả thơ Nguyễn Du. Hoài Thanh nhận xét, sau cách mạng, chưa ai đánh giá Tố Như cao như Tố Hữu:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày .
Tiếng thơ ai nghe trìu mến, vừa thân thương, vừa ngưỡng phục. Tiếng thơ của Nguyễn Du thấu lòng người, thấu cả trời xanh. Dường như cả trời xanh cũng rung động bởi những vần thơ ấy. Thật là một tầm vóc lớn lao, vĩ đại! Không những vậy, Tố Hữu còn nghe trong tiếng thơ ấy hồn của dân tộc lời của nước non:
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Tố Hữu đã từng ví tiếng nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh như lời non nước:
Con nghe Bác, tưởng nghe lời non nước
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau...
Lần thứ hai, ông lại dùng hình ảnh so sánh này để ca ngợi sự vĩ đại của nhà thơ - Một danh nhân văn hoá lỗi lạc của cả dân tộc và thế giới. Tiếng thơ của Nguyễn Du từ tiếng nói của cá nhân đã trở thành lời của non nước. Non nước mượn thơ người để vọng lời. Tiếng thơ ấy có cả tiếng lòng của dân tộc, của non nước. Cho nên nó có tầm vóc ngang với vũ trụ, sông núi và với cả thời gian. Từ ngàn thu đâu chỉ gợi thời gian dằn dặt mà còn gợi không gian mênh mông cho tiếng thơ cụ Tiên Điền vang vọng, chảy trôi, hôm nay, mai sau , thậm chí nghìn năm sau người Việt Nam vẫn không quên được tiếng thơ ấy vì : Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày .
Thơ của Nguyễn Du được ví với tiếng thơ, lời non nước, lời ngàn thu, tiếng thương rồi là tiếng mẹ ru. Đó là những cấp bậc đánh giá hay chăng chính là con đường đi vào bất tử của thơ Nguyễn Du? Cái đích cuối cùng của thơ là "chảy đến lòng người" nên hình ảnh tiếng mẹ ru chính là cách đánh giá cao cao nhất giành cho một tiếng thơ. Tiếng thơ ấy đã nhập vào nguồn mạch văn hoá, vào đời sống tâm hồn, tình cảm của người dân Việt Nam, trở thành dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng bao thế hệ . Tiếng thơ ấy là tình thương của mẹ dành cho con, là hiện thân của tình mẹ mênh mông. "Thương" là nội dung, bản chất, là cội nguồn hay là phương tiện của tiếng thơ ? Và hiểu theo cách nào, đó cũng là sự tri âm tuyệt đối của Tố Hữu với Tố Như rồi. Bởi lẽ Nguyễn Du là "nhân đạo lỗi lạc", là trái tim lớn suốt đời mang nặng nỗi nỗi thương đời.
Đau đớn thay phận đàn bà
Không chỉ thấu hiểu, sẽ chia với cuộc đời, ngợi ca thơ Nguyễn Du, Tố Hữu còn tìm cách lý giải nỗi đau của Nguyễn Du. Ông cho rằng nỗi đau ấy không phải do trời mà chính là do xã hội vạn ác thời Nguyễn Du gây nên:
Gớm quân Ưng Khuyển, ghê bầy Sở Khanh
Cũng loài hổ báo, ruồi xanh
Cũng phường gian ác hôi tanh hại người !
Chính thằng bán tơ, bè lũ Mã Giám Sinh, Tú Bà, Ưng Khuyển, Sở khanh mới là những kẻ gieo mầm đau khổ cho Nguyễn Du, Tiểu Thanh, Thuý Kiều. Cho nên muốn thay đổi số phận, phải tiêu diệt xã hội vạn ác ấy đi. Và tiếng trống ba hồi gọi quân kết thúc bài thơ là sự giải quyết ấy. Xã hội nay vẫn còn những kẻ ác nhưng cả dân tộc ra trận để tiêu diệt kẻ thù, để cuộc đời nhiều hạnh phúc và tình yêu hơn . Tố Hữu không sa vào tư tưởng bia quan như Nguyễn Du bởi ông là nhà thơ cách mạng, được luồng gió mới của thời đại thổi mát. Nguyễn Du ơi xin người hãy yên lòng. Những nàng Kiều, cô Cầm, người mẹ ăn xin, ...của người sẽ không còn đau khổ nữa đâu.
Chính sự khác nhau về tiếng nói tri âm ấy đã chuyển hoá thành hình thức nghệ thuật khác nhau, bài "Độc Tiểu Thanh kí" của Tố Như viết theo thể đường luật cô đúc, hàm súc nhưng phảng phất giọng điệu bi phẫn do rất nhiều thanh trắc, dấu nặng gợi cảm giác trĩu nặng, ngưng đọng. Còn Tố Hữu sử dụng thành công thể lục bát nhẹ nhàng, đằm thắm, trang trọng; hình thức tập kiều, lẩy Kiều để chuyển tải giọng điệu lạc quan, hào hứng say mê.
Như vậy tiếng nói tri âm giữa người đọc và người viết là điều văn học dân tộc nào, thời đại nào cũng hướng tới. Điều đó đặt ra yêu cầu với nghệ sĩ phải sáng tác từ những cảm xúc chân thành nhất, da diết nhất. Và người đọc hãy sống hết mình với tác phẩm để hiểu được thông điệp thẩm mĩ của tác giả, để chia sẻ cảm thông với tác giả. Mỗi người hãy rung lên khúc Bá Nha Như Tử Kì để văn chương mãi tươi đẹp kì diệu.
Tôi muốn đến với Nguyễn Du như thế với một con người suốt đời khắt khoải, da diết với với thân phận con người. Nguyễn Du đã từng rõ biết bao nước mắt khóc thương cho những con người đau khổ ấy, lẽ nào ta lại chẳng một lần khóc cho Nguyễn Du để bi kịch của của người sẽ tan như bóng hình Trương Chi trong chén nước của Mị Nương xưa?
---------------
NGUYỄN THỊ HẢI HẬU ( Trường THPT chuyên Hùng Vương - Phú Thọ )*