Chia Sẻ Phân tích bức chân dung người lính Tây Tiến trong khổ 3 của bài thơ Tây Tiến Của Quang Dũng

Bút Nghiên

ButNghien.com
Tây Tiến là một sáng tác có giá trị về tư tưởng, về nghệ thuật. Bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mỹ phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở, và vẻ đẹp bình dị nên thơ của cuộc sống nơi bản làng quê hương, có cảm hứng mạnh mẽ hòa hợp với chất trữ tình nhẹ nhàng mềm mại trong thơ. Đặc biệt Tây Tiến là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang một nhạc điệu riêng vừa mạnh mẽ, vừa uyển chuyển khi đưa người đọc về với những kỉ niệm xa nên thơ và gợi cảm. Nhà thơ Xuân Diệu có lần đã cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến như ngậm âm nhạc trong miệng

bài thơ tây tiến.jpg


Phân tích bức chân dung người lính Tây Tiến trong khổ 3 của bài thơ

“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
……………………………………..
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

I.Mở bài .

- Quang Dũng (1921-1988 ) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình.

- Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông.

- Bài thơ bằng bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ, mĩ lệ . Có thể nói, nỗi nhớ da diết những người đồng đội Tây Tiến của Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc hoạ bức chân dung người lính Tây Tiến :

“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”



II. Thân bài .

1.Giới thiệu

Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ “ Mây đầu ô” ( xuất bản năm 1986 ) nhưng trước đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ này từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quânTây Tiến khá rộng; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn cào, tha thiết.

Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội , hoang sơ. Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến . Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa , lãng mạn , phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ , dữ dội, mĩ lệ .

2.Phân tích chân dung người lính Tây Tiến .

Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng đội cùng trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã hồi tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân.

Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu thốn nên :

“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người lính thường mắc phải . Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn bệnh này : “ Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” . Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính tây tiến , nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, nhữnh cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng .

Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực tình yêu thương :

“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức “trừng” lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành, những người em, những người bạn gái thân thương quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc hoạ chân dung người lính không chỉ ở dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được thế giới nội tâm, tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ .

Trong chiến tranh, mất mát hi sinh là không tránh khỏi.Quang Dũng đã nêu lên hiện thực này không che giấu theo cách riêng của ông :

“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “ biên cương” , “ mồ” , “viễn xứ” , “ chiến trường” kết hợp với từ láy “ rải rác” đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương vì mất mát lắng xuống. Điều nổi bật lên là vẻ đẹp lãng mạn của lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Cách nói “ chẳng tiếc đời xanh” vang lên khảng khái khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến.

Hai câu thơ :

“ Áo bào thay chiếu anh về đát
Sông Mã gầm lên khúc độc hành” .

Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân chiến đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “ anh về đất” làm vợi đi cái bi thương, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã . Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội , vừa hào hùng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ có nhịp điệu chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng. Quang Dũng và cả đoàn quân Tây Tiến nguyện thề “ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện quyết tâm gắn bó máu thịt với những ngày những nơi mà đoàn quân đã đi qua. Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy .

III. Kết bài

Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn thơ với, cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung tập thể những người lính Tây tiến đậm chất bi tráng. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền tây.

(Sưu tầm)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được thiên nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và cường điệu đã đẩy chất bi tráng lên đến đỉnh cao, kì diệu của nó.

Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng miêu tả chân dung người lính Tây Tiến. Những cặp hình ảnh đối lập giữa ngoại hình tiều tụy với phong thái “dữ oai hùm”; giữa “mắt trừng” và “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”; và nhất là sự đối lập giữa gian khổ, hi sinh với lí tưởng vì nước quên thân khiến sự hi sinh của người lính Tây Tiến trở nên cao đẹp bi hùng. Chiến trường Tây Tiến ác liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong... Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên con đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã không né tránh cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Cái tráng này là của Quang Dũng và của cả một lớp trai trẻ sống với bầu máu nóng: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cái tráng ấy lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại anh hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
 
Phân tích về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau và từ đó nhận xét về phong cách thơ của Quang Dũng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
(Trích “Tây Tiến” - Quang Dũng)


Bài làm

Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy”. Thật vậy, cái “nhụy sống” ấy đã nảy nở trong thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng để rồi dâng hiến cho cuộc đời một bài ca thật đẹp về người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng, thể hiện rõ nhất phong cách thơ độc đáo của tác giả này:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Ở phương diện thơ ca, Quang Dũng mang trong mình hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu của đời thơ Quang Dũng, in trong tập “Mây đầu ô”, được viết vào một buổi chiều mưa lại Phù Lưu Chanh khi Quang Dũng rời đơn vị cũ chưa lâu. Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, nhà thơ xứ Đoài đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn nhưng lại đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài với bạn đọc nhiều thế hệ.

Chiến tranh đã qua đi, tấm áo hòa bình ấp ôm mảnh đất hình chữ S đã được nhiều thập kỉ, đã hàn gắn được phần nào bao vết thương đớn đau, bao mất mát hi sinh của một thời lửa đạn. Nhưng ngày hôm nay, trong nền hòa bình này, ta đọc lại “Tây Tiến” để một lần nữa nhớ về thế hệ các anh, những người lính trẻ trung và dũng cảm, trong mạch nguồn nỗi nhớ khi xưa của nhà thơ Quang Dũng. Bức tượng đài bằng thơ về các anh vẫn luôn sừng sững, sống mãi những vẻ đẹp hào hùng của một thời trai trẻ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Nhà thơ dùng từ “đoàn binh” để khẳng định một lực lượng đông đảo, “đoàn binh” Tây Tiến là đội quân mạnh và hừng hực khí thế. Đầy hiên ngang và tự tin, nhịp thơ như nhịp bước chân hành quân của người lính, đưa ta đến gần hơn với bức chân dung về các anh, từ ngoại hình bên ngoài đến cảm xúc, ý chí nung nấu trong tâm can. Đó là những người lính đầu “không mọc tóc”, da “xanh màu lá”. Ấy là sự ngụy trang đề phòng quân địch. Nhưng chân thực hơn, ấy là sự tàn phá của bệnh tật, của hoàn cảnh sống thiếu thốn trăm bề. Nơi rừng thiêng nước độc, nơi chiến trường xa xôi, binh đoàn Tây Tiến làm sao tránh khỏi những cơn sốt rét rừng, những lần thiếu thuốc men, lương thực, khó khăn cứ nối tiếp khó khăn, sự khắc nghiệt vẫn luôn thử thách ý chí người lính trẻ như thế:

“Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!”
(“Lên Cấm Sơn” - Thôi Hữu)

Nhưng ở đây, giọng thơ “Tây Tiến” lại sục sôi khí thế, căng tràn ý chí, viết về gian khổ, khó khăn nhưng nhà thơ Quang Dũng vẫn luôn song hành đem đến những vần thơ đầy quyết tâm: “dữ oai hùm”. Nét hào hùng được nhấn mạnh giữa một hiện thực nhiều gian khổ, đậm tô những hình ảnh chân thực nhưng đó cũng là cách nói dí dỏm hóa, vui tươi hóa của Quang Dũng về những người đồng đội của mình. “Dữ oai hùm” là hình ảnh khẳng định tinh thần vượt lên trên khó khăn vì mục tiêu chiến đấu phía trước, bệnh tật, thiếu thốn không thể đánh bại được ý chí quyết tâm của những người lính Tây Tiến. Những chi tiết tả thực đã khắc họa một diện mạo rất độc đáo về người lính đang chiến đấu nơi biên cương Tổ quốc, đồng thời phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Mượn hình ảnh ẩn dụ để gợi tả chất kiêu hùng, cách viết đối lập giữa cái yếu đuối về thể chất, xanh xao tiều tụy, đầu “không mọc tóc”, da “xanh màu lá” với sức mạnh của tinh thần, ý chí, ngang tàng, lẫm liệt, sức mạnh “dữ oai hùm”, Quang Dũng đã đem đến những nét phác họa đầu tiên về người lính Tây Tiến rất hào hùng, dũng cảm và lạc quan.

Khắc họa về đồng đội mình, Quang Dũng tiếp tục đem đến những hình ảnh chân thực, không chỉ về đời sống mà còn về tâm hồn hào hoa, lãng mạn của các anh:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Là đôi mắt mở to, đầy cảnh giác, ánh mắt “trừng” của người lính Tây Tiến vẫn luôn hướng về bên kia biên giới, ánh mắt của sự căm thù, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù:

“Quân thù kia ơi! Một bầy man rợ
Bay đừng hòng khuất phục đời ta
Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy
Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa”
(“Bài ca chim Chơrao” - Thu Bồn)

Quả thực ánh mắt trừng mà Quang Dũng khắc họa có sức mạnh như lời tuyên chiến trước quân thù, rất oai phong, hào hùng. Và gửi theo ánh mắt của quyết tâm và lòng kiên trì ấy là giấc mộng chinh phu, giấc mộng lập công danh, đền nợ nước trả thù nhà. Những chàng trai tuổi đời còn rất trẻ đã không do dự xếp bút nghiên lên đường ra mặt trận, sẵn sàng gánh trên vai “món nợ” núi sông. Chỉ với một hình ảnh thôi mà nhà thơ Quang Dũng đã khiến ta yêu nhiều và khâm phục nhiều tinh thần của người lính Tây Tiến. Những năm tháng ấy, các anh khi cảnh giác trước quân địch, khi cũng ấp ôm nỗi nhớ niềm thương về thị thành quê hương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Mơ về Hà Nội với “dáng kiều thơm”, với hình ảnh những thiếu nữ Hà thành duyên dáng trong tà áo dài thướt tha, một giấc mơ lãng mạn và hào hoa mà ta chỉ có thể bắt gặp ở tâm hồn người lính trẻ với xuất thân chủ yếu là thanh niên trí thức thủ đô, ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Giấc mơ của họ không phải sự bi lụy, tầm thường mà là động lực để họ vững tin hơn trong những tháng ngày gian khổ. Không những vậy “dáng kiều thơm” ấy còn một lần nữa đem đến màu sắc hiện thực cho câu thơ, Quang Dũng đã đem những gì thật chất, đúng nhất về người lính Tây Tiến lên những trang thơ của mình. Ta cảm nhận và trân trọng vẻ đẹp chân thực nhưng cũng rất đỗi hào hoa, lãng mạn ấy.

Khép lại đoạn thơ, Quang Dũng đưa ta vào nơi biên cương hẻo lánh rải rác những ngôi mộ không bia. Sự lạnh lẽo, hoang vắng tràn vào từng câu chữ cho thấy sự khốc liệt và hơn hết là những đau thương, mất mát của cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Trên nền hiện thực ấy, những người lính bước qua con đường đầy máu và mộ phần để tiếp ra chiến trường giành lại tự do cho dân tộc mà không hề nao núng. Chính vì thế, Quang Dũng sử dụng một loạt những từ Hán Việt như “biên cương”, “viễn xứ” làm cho câu thơ trở nên trang trọng, mang trong mình không khí cổ kính, như đang kể lại những trận chiến lừng danh thuở xưa của cha ông ta. Lồng ghép vào trong đó là lý tưởng của một thời đại mới “chẳng tiếc đời xanh” – “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Chúng ta nhận thấy rõ sự đối lập khốc liệt giữa những sự vật: “chiến trường” - là mưa bom bão đạn, là cái chết cận kề, “đời xanh” - là tuổi trẻ, là ước vọng, là tương lai. Quang Dũng đã thay đồng đội mình, những anh hùng Tây Tiến, tuyên ngôn đầy ngạo nghễ, thể hiện sự lạc quan và tràn đầy chất lính: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Bên cạnh sự hào hùng là bi tráng. Với Quang Dũng, chết không bao giờ là hết. Bằng việc sử dụng hình ảnh “áo bào thay chiếu”, ông đã bi tráng hóa cái chết của con người, tráng lệ hóa sự hi sinh của người lính, “anh về đất” biến cái chết trở thành một sự nghỉ ngơi sau những quãng đường xông pha chiến trận làm không khí cả bài thơ bi nhưng không hề lụy. Cái chết của các anh, sự hi sinh của các anh luôn là sự nhắc nhớ trong trái tim đồng đội, đồng bào, sự hi sinh ấy lặng lẽ, âm thầm nhưng luôn cao cả và đáng trọng:

“Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh
Trọn đời làm chiến sĩ vô danh”
(Thu Bồn)

Trở lại với những vần thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng không trốn tránh hiện thực mà đã khắc họa sự hi sinh của người lính một cách thanh thản, thầm lặng và cao cả, gây xúc động lòng người, lay động thiên nhiên. Và “Sông Mã” được nâng tầm như một chứng nhân lịch sử, chứng kiến hết tất cả tội ác của kẻ thù và cả những chiến công hiển hách của binh đoàn Tây Tiến: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Tiếng gầm cuối cùng ấy là khúc tráng ca, là khúc nhạc thiêng tiễn đưa anh linh của những người chiến sĩ về với cha ông, về với đất mẹ. Vẻ đẹp bi tráng về những người lính Tây Tiến từ đó mà cứ vang vọng mãi trong tâm khản bạn đọc.

Một khổ thơ có thể được coi là đặc sắc nhất của thi phẩm “Tây Tiến” đã thể hiện rõ vẻ đẹp phong cách thơ Quang Dũng. Đó là hồn thơ hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa. Thơ Quang Dũng hồn hậu, chân thực ở chỗ nhà thơ không né tránh những hiện thực tàn khốc, đau thương của chiến tranh. Ngòi bút ấy cũng rất đỗi lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa, đặc biệt khi viết về hình ảnh những người lính Tây Tiến với sự trẻ trung, tinh thần bất khuất, sung sức và bền lòng trước tiếng gọi của Tổ quốc. Với giọng thơ trang trọng, cảm xúc dạt dào, đôi lúc lắng đọng, khắc khoải, bút pháp tả thực kết hợp với những hình ảnh bay bổng, lãng mạn, nhà thơ Quang Dũng đã xây dựng thành công bức tượng đài người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng. Bức tượng đài ấy sẽ còn sống mãi trong văn chương nghệ thuật, trong tấm lòng người yêu thơ và trong trái tim của lớp lớp thế hệ thanh niên sau này.

Với tài năng văn học của mình, Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa, thương cảm. Những vần thơ sáng ngời vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng của người lính cũng đã góp phần khẳng định chất riêng trong phong cách thơ của tác giả. Quang Dũng đã làm sống lại trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Từ đó giúp ta thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính trong thời chiến, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình ngày hôm nay, để ta trân trọng hơn những cống hiến không màng danh lợi, những hi sinh không kể đáp đền. Đọc lại “Tây Tiến” ấy, trong những ngày hòa bình này, ta thực sự thấm thía và cảm phục:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”.
(Giang Nam)
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top