ngan trang
New member
- Xu
- 159
TÁC PHẨM
Bắt sấu rừng U Minh Hạ là một truyện ngắn đăng trên tuần báo Nhân loại (1957), sau in trong tập truyện Hương rừng Cà Mau (NXB Phù Sa, Sái Gòn, 1962). Toàn tập gồm 18 truyện, thể hiện sinh động cảnh quan, đời sống, truyền thống lịch sử và phẩm chất tính cách con người ở mảnh đất cực nam của chúng ta. Tác giả giúp người đọc hiểu và yêu Hòn Cổ Tron, sông Gành Hào, đàn ong mật, những đêm hát bội giữa rừng, cuộc đua ghe ngo,v.v… nổi bật trên bức tranh dân dã quê hương đó là những người nông dân đôn hậu, chất phác, chân thật, dũng cảm ; những người đổ mồ hôi và đổ máu để khai phá và giữ gìn từng tấc đất cho gia đình và cho Tổ Quốc.
Những nhân vật của Hương rừng cà mau cũng có những nét khác thường độc đáo. Họ là những dị nhân sống trong một thời buổi giao thời, đơn giản bình dị nhưng nhiều khi cũng có trí phán đoán sâu sắc. Nghe ông già nam xay lúa bàn chuyện thời tiết đất trờitrong chuyện “ông già xay lúa” hay nghe ông mù Vân Tiên bàn về chuyện cá ăn câu trong”người mù giăng câu”, chúng ta mới thấy được cái học trong đời sống không phải chỉ ở học đườngmà còn là kinh nghiệm từ hàng ngàythu lượm được. Và , trong từng ngôn ngữ, từng cử chỉ, vẫn bàng bạc một lòng yêu nước, yêu tự nhiên.
Về tác phẩm “bắt sấu rừng U Minh hạ”
- Những nét đặc sắc về nội dung:
Câu truyện như tái hiện lại toàn cảnh thiên nhiên vùng U Minh hạ cũng như cảnh sinh hoạt, mưu sinh của người dân nơi đây.
Thiên nhiên hiểm trở với bao nhiêu mối đe dọa tới cuộc sống của con người.
“…nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây. Ðó là vài cụ già, bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thân vì đàn sấu này. Bó nhang đang cháy kia có giải oan được cái chết của họ không chớ? ”
Hơn thế nữa, rừng rậm U Minh không chỉ nổi tiếng với vẻ hoang xơ của mình, mà còn được biết đến với nguồn động vật phong phú. Trong đó phải kể đến là loài cá sấu.
“ nơi sông rạch, cá sấu là giống hung hăng nhất. Có điều đáng chú ý là chúng không thích những chốn sông nước chảy, có sóng gió. Chúng lên tận ngọn cùng, tìm nơi yên tịnh, chật hẹp. Vùng U Minh hạ, sấu thường đi ngược sông Ông Ðốc, rạch Cái Tàu vào giữa rừng tràm…”
Nói đến đàn sấu ở rừng U Minh, trước hết ta phải nói đến số lượng.
“ – Sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng !
So sánh như vậy, không phải quá đáng ! Dân làng xúm nhau lên rừng để nhìn tận nơi. Cái ao lớn ước một công đất, bên bờ, dưới nước, toàn là lau sậy, dây cóc kèn. Sấu nổi lên, chen vào bức tranh màu xanh ấy những vệt đen chi chít …”
Không chỉ nhiều mà đàn sấu nơi đây còn to lớn , khôn lanh.
“…con thì nằm dài như chiếc xuồng lường, con thì dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như họng súng thần công đại bác. Biết có loài người đến quan sát, chúng vẫn điềm nhiên sưởi nắng, bắt cá.Duy có con sấu già trợn mắt hướng về lũ người rồi bò thối lui. Nghi ngờ gì nữa! Con sấu nọ có đốm đỏ ngay giữa tam tinh. Nó là “sấu chúa” sống lâu đời, nhiều phen kịch chiến với loài người. Khi ở trên cạn, sấu khôn nguy hiểm bàng nột con rắn hổ. Sấu chúa khôn lắm, nó toàn dụ địch thủ vào hang của no ù nơi nước sâu.”
Tuy vậy, thiên nhiên nơi đây vẫn là chỗ ở, là nơi để người dân kiếm kế sinh nhai. Cho nên, họ vẫn tiếp tục ở lại , bám giữ mảnh đất của tổ tiên và ra sức cải tạo nơi đây ngày một tốt đẹp hơn .
“… , cứ như vậy cho đến khi người Việt Nam ta đổ tràn xuống rạch Cái Tàu mà lập nghiệp. Ban đầu, họ ngỡ rằng sấu chỉ ở dưới sông, sau khi câu được chừng năm mươi con sấu ở ngọn rạch, họ dinh ninh cho là sấu đã giảm bớt…mười phần chết bảy còn ba…”
Bằng chính nghị lực của bản thân, họ đang cố tìm cách chiến đấu lại với thiên nhiên, chiến đấu với những thế lực đàn áp mình.
“Trong số những người khi nãy, có kẻ cẩn thận mang theo mác thông, lao , ná lẫy, nhưng họ dư hiểu rằng mớ khí giới ấy chỉ có hiệu lực đối với cọp, heo rừng, đằng này, sấu lại là loài ở nước, ở bùn lầy. Chống xuồng vào thì quá cạn còn đi bộ xuống thì lún ngập gối.”
Cuối cùng, nhờ sự kiên trì, lòng quyết tâm, dũng cảm và tài trí của mình, con người đã tháng được thiên nhiên và hơn thế nữa, họ đã thắng được chính mình.
“ Dưới sông, Tư Hoạch ngối trên xuồng, bơi nhè nhẹ như đi dạo mát.
Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu, con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòn như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau thúc ké trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chừng như tiếp sức với Tư hoạch để đẩy chiếc bè quái dị kia đi nhẹ nhàng…”
+ Nhân vật ông Năm Hên:
Ông Năm Hên là nhân vật được tác gia xây dựng nhằm nói lên sự dũng cảm và tài trí của con người Nam Bộ.
Hoàn cảnh của ông thật éo le.
“… Nói thiệt với bà con : cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy hồi mười hai n8m về trước. Sau được tin cho hay : ảnh bị sấu ở ngã ba Ðình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh…”
Với chút mưu mẹo của mình, ông Năm đã giúp bà con bắt được lũ sấu và được bà con quý trọng như “một bậc thánh nhân”
“-thực là bậc thánh của xứ này rồi! Mưu kế như vậy thật quá cao cường. Oång đâu rồi ? sao không thấy ổng về? Xóm mình nhất định đền ơn ổng một số tiền, nuôi ổng cho tới già, ở xóm này, bà con tính sao? “
Và khi công việc đã hoàn thành, ông vẫn không quên những người đã khuất và thắp cho họ một nén nhang. Ðiều đó cho thấy ông Năm là một người rất trọng tình nghĩa, sống với nộ tâm
“Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày một rõ:
Hồn ở đâu đây?
Hồn hỡi ! Hồn hỡi !
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Ðầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm,
Rừng tràm xanh biếc !
Ta thương ta tiếc
Lập đàn giải oan…
Tiếng như khóc lóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê rợn nhứt là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay.”
+ Cảnh bắt sấu :
Ðây là một trong những cao trào của câu truyện mà chúng ta không thể bỏ qua. Nó thể hiện đầy đủ những kinh nghiệm, vốn sống, tài trí cũng như lòng dũng cảm của ông Năm Hên.
“tới ao sấu, ông Năm hên đi vòng quanh dòn địa thế rồi ngồi xuống uống một chung rượu. Kế đó ổng với tôi lấy xuổng đào một đường nhỏ, ngày một cạn, từ bờ ao lên rừng chừng mười thước. Xong xuôi, ổng biểu tôi bứt cho ổng một nắm dây cóc kèn. Phần ổng thì lo đốn một đống cây mốp tươi, chặt ra khúc chừng ba tấc.
lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám sậy để trong ao. Chập sau, bị khói cay mắt, ngộp thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãy. Tức thời, ông Năm Hên chạy lại. Sấu há miệng hung hăng đòi táp ổng. Ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng : như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn h1 miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sấu bị khúc mốp khóa miệng, còn cái đuôi đập qua đập lại. Ôâng Năm xách cây mác nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Ðuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại, chừa hai chân trước để nó bơi tiếp với mình”
- Những nét đặc sắc về nghệ thuật:
+ những phương ngữ được dùng vừa phải, thích hợp : táp, xuổng, ăn ong…
+ cách kể chuyện gọn và sáng.
+ tính cách nhân vật được thể hiện sinh động mà chỉ bằng vài chi tiết đơn sơ
III. KẾT LUẬN :
Mỗi vùng đất của Tổ Quốc ta có những nét đặc sắc, kì thú riêng. Vốn gắn bó quen thuộc với đất rừng phương nam, qua truyện ngắn này, nhà văn Sơn Nam đã đem đến cho người đọc một bức tranh độc đáo : vùng rừng tràm xanh ngắt lau sậy, mốp, cóc kèn…Và thật lạ lùng “ sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng!”. Người nông dân rạch Cái Tàu đã phải tạo dựng cơ đồ trên vùng đất hoang vu, dữ dội đó. Chính vì thế, người đọc như được thám hiểm những vùng đất mới với biết bao điều bí ẩn của thiên nhiên và con người.
Truyện mang phong vị Nam Bộ rất đậm đà. Sắc thái độc đáo này được tạo nên bởi những yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Chính vì thế truyện này cũng như tập Hương rừng Cà Mau nói chung có dáng dấp riêng, khó lẫn.
Bắt sấu rừng U Minh Hạ là một truyện ngắn đăng trên tuần báo Nhân loại (1957), sau in trong tập truyện Hương rừng Cà Mau (NXB Phù Sa, Sái Gòn, 1962). Toàn tập gồm 18 truyện, thể hiện sinh động cảnh quan, đời sống, truyền thống lịch sử và phẩm chất tính cách con người ở mảnh đất cực nam của chúng ta. Tác giả giúp người đọc hiểu và yêu Hòn Cổ Tron, sông Gành Hào, đàn ong mật, những đêm hát bội giữa rừng, cuộc đua ghe ngo,v.v… nổi bật trên bức tranh dân dã quê hương đó là những người nông dân đôn hậu, chất phác, chân thật, dũng cảm ; những người đổ mồ hôi và đổ máu để khai phá và giữ gìn từng tấc đất cho gia đình và cho Tổ Quốc.
Những nhân vật của Hương rừng cà mau cũng có những nét khác thường độc đáo. Họ là những dị nhân sống trong một thời buổi giao thời, đơn giản bình dị nhưng nhiều khi cũng có trí phán đoán sâu sắc. Nghe ông già nam xay lúa bàn chuyện thời tiết đất trờitrong chuyện “ông già xay lúa” hay nghe ông mù Vân Tiên bàn về chuyện cá ăn câu trong”người mù giăng câu”, chúng ta mới thấy được cái học trong đời sống không phải chỉ ở học đườngmà còn là kinh nghiệm từ hàng ngàythu lượm được. Và , trong từng ngôn ngữ, từng cử chỉ, vẫn bàng bạc một lòng yêu nước, yêu tự nhiên.
Về tác phẩm “bắt sấu rừng U Minh hạ”
- Những nét đặc sắc về nội dung:
Câu truyện như tái hiện lại toàn cảnh thiên nhiên vùng U Minh hạ cũng như cảnh sinh hoạt, mưu sinh của người dân nơi đây.
Thiên nhiên hiểm trở với bao nhiêu mối đe dọa tới cuộc sống của con người.
“…nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây. Ðó là vài cụ già, bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thân vì đàn sấu này. Bó nhang đang cháy kia có giải oan được cái chết của họ không chớ? ”
Hơn thế nữa, rừng rậm U Minh không chỉ nổi tiếng với vẻ hoang xơ của mình, mà còn được biết đến với nguồn động vật phong phú. Trong đó phải kể đến là loài cá sấu.
“ nơi sông rạch, cá sấu là giống hung hăng nhất. Có điều đáng chú ý là chúng không thích những chốn sông nước chảy, có sóng gió. Chúng lên tận ngọn cùng, tìm nơi yên tịnh, chật hẹp. Vùng U Minh hạ, sấu thường đi ngược sông Ông Ðốc, rạch Cái Tàu vào giữa rừng tràm…”
Nói đến đàn sấu ở rừng U Minh, trước hết ta phải nói đến số lượng.
“ – Sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng !
So sánh như vậy, không phải quá đáng ! Dân làng xúm nhau lên rừng để nhìn tận nơi. Cái ao lớn ước một công đất, bên bờ, dưới nước, toàn là lau sậy, dây cóc kèn. Sấu nổi lên, chen vào bức tranh màu xanh ấy những vệt đen chi chít …”
Không chỉ nhiều mà đàn sấu nơi đây còn to lớn , khôn lanh.
“…con thì nằm dài như chiếc xuồng lường, con thì dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như họng súng thần công đại bác. Biết có loài người đến quan sát, chúng vẫn điềm nhiên sưởi nắng, bắt cá.Duy có con sấu già trợn mắt hướng về lũ người rồi bò thối lui. Nghi ngờ gì nữa! Con sấu nọ có đốm đỏ ngay giữa tam tinh. Nó là “sấu chúa” sống lâu đời, nhiều phen kịch chiến với loài người. Khi ở trên cạn, sấu khôn nguy hiểm bàng nột con rắn hổ. Sấu chúa khôn lắm, nó toàn dụ địch thủ vào hang của no ù nơi nước sâu.”
Tuy vậy, thiên nhiên nơi đây vẫn là chỗ ở, là nơi để người dân kiếm kế sinh nhai. Cho nên, họ vẫn tiếp tục ở lại , bám giữ mảnh đất của tổ tiên và ra sức cải tạo nơi đây ngày một tốt đẹp hơn .
“… , cứ như vậy cho đến khi người Việt Nam ta đổ tràn xuống rạch Cái Tàu mà lập nghiệp. Ban đầu, họ ngỡ rằng sấu chỉ ở dưới sông, sau khi câu được chừng năm mươi con sấu ở ngọn rạch, họ dinh ninh cho là sấu đã giảm bớt…mười phần chết bảy còn ba…”
Bằng chính nghị lực của bản thân, họ đang cố tìm cách chiến đấu lại với thiên nhiên, chiến đấu với những thế lực đàn áp mình.
“Trong số những người khi nãy, có kẻ cẩn thận mang theo mác thông, lao , ná lẫy, nhưng họ dư hiểu rằng mớ khí giới ấy chỉ có hiệu lực đối với cọp, heo rừng, đằng này, sấu lại là loài ở nước, ở bùn lầy. Chống xuồng vào thì quá cạn còn đi bộ xuống thì lún ngập gối.”
Cuối cùng, nhờ sự kiên trì, lòng quyết tâm, dũng cảm và tài trí của mình, con người đã tháng được thiên nhiên và hơn thế nữa, họ đã thắng được chính mình.
“ Dưới sông, Tư Hoạch ngối trên xuồng, bơi nhè nhẹ như đi dạo mát.
Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu, con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòn như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau thúc ké trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chừng như tiếp sức với Tư hoạch để đẩy chiếc bè quái dị kia đi nhẹ nhàng…”
+ Nhân vật ông Năm Hên:
Ông Năm Hên là nhân vật được tác gia xây dựng nhằm nói lên sự dũng cảm và tài trí của con người Nam Bộ.
Hoàn cảnh của ông thật éo le.
“… Nói thiệt với bà con : cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy hồi mười hai n8m về trước. Sau được tin cho hay : ảnh bị sấu ở ngã ba Ðình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh…”
Với chút mưu mẹo của mình, ông Năm đã giúp bà con bắt được lũ sấu và được bà con quý trọng như “một bậc thánh nhân”
“-thực là bậc thánh của xứ này rồi! Mưu kế như vậy thật quá cao cường. Oång đâu rồi ? sao không thấy ổng về? Xóm mình nhất định đền ơn ổng một số tiền, nuôi ổng cho tới già, ở xóm này, bà con tính sao? “
Và khi công việc đã hoàn thành, ông vẫn không quên những người đã khuất và thắp cho họ một nén nhang. Ðiều đó cho thấy ông Năm là một người rất trọng tình nghĩa, sống với nộ tâm
“Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày một rõ:
Hồn ở đâu đây?
Hồn hỡi ! Hồn hỡi !
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Ðầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm,
Rừng tràm xanh biếc !
Ta thương ta tiếc
Lập đàn giải oan…
Tiếng như khóc lóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê rợn nhứt là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay.”
+ Cảnh bắt sấu :
Ðây là một trong những cao trào của câu truyện mà chúng ta không thể bỏ qua. Nó thể hiện đầy đủ những kinh nghiệm, vốn sống, tài trí cũng như lòng dũng cảm của ông Năm Hên.
“tới ao sấu, ông Năm hên đi vòng quanh dòn địa thế rồi ngồi xuống uống một chung rượu. Kế đó ổng với tôi lấy xuổng đào một đường nhỏ, ngày một cạn, từ bờ ao lên rừng chừng mười thước. Xong xuôi, ổng biểu tôi bứt cho ổng một nắm dây cóc kèn. Phần ổng thì lo đốn một đống cây mốp tươi, chặt ra khúc chừng ba tấc.
lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám sậy để trong ao. Chập sau, bị khói cay mắt, ngộp thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãy. Tức thời, ông Năm Hên chạy lại. Sấu há miệng hung hăng đòi táp ổng. Ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng : như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn h1 miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sấu bị khúc mốp khóa miệng, còn cái đuôi đập qua đập lại. Ôâng Năm xách cây mác nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Ðuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại, chừa hai chân trước để nó bơi tiếp với mình”
- Những nét đặc sắc về nghệ thuật:
+ những phương ngữ được dùng vừa phải, thích hợp : táp, xuổng, ăn ong…
+ cách kể chuyện gọn và sáng.
+ tính cách nhân vật được thể hiện sinh động mà chỉ bằng vài chi tiết đơn sơ
III. KẾT LUẬN :
Mỗi vùng đất của Tổ Quốc ta có những nét đặc sắc, kì thú riêng. Vốn gắn bó quen thuộc với đất rừng phương nam, qua truyện ngắn này, nhà văn Sơn Nam đã đem đến cho người đọc một bức tranh độc đáo : vùng rừng tràm xanh ngắt lau sậy, mốp, cóc kèn…Và thật lạ lùng “ sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng!”. Người nông dân rạch Cái Tàu đã phải tạo dựng cơ đồ trên vùng đất hoang vu, dữ dội đó. Chính vì thế, người đọc như được thám hiểm những vùng đất mới với biết bao điều bí ẩn của thiên nhiên và con người.
Truyện mang phong vị Nam Bộ rất đậm đà. Sắc thái độc đáo này được tạo nên bởi những yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Chính vì thế truyện này cũng như tập Hương rừng Cà Mau nói chung có dáng dấp riêng, khó lẫn.