bichngoc

Moderator
Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tây tiến quang dũng.jpg


Nhà thơ Trần Lê Văn, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung với Quang Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Tiến như sau: Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu; ngồi ở Phù Lưu Chanh (Hà đông) anh viết bài thơ Tây Tiến.

Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào, đánh tiêu hao quân đội Pháp ớ Thượng Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh từ Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, miền tây Thành Hoá sang tận Sầm Nưa (Lào) rồi vòng về qua miền tây Thành Hoà. Những nơi này, lúc đó, còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng rậm, có nhiều thú dữ.

Những người lính Tây Tiến phần đông là thành niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc vào số này). Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ dẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thành lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.

Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.

Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và tuyệt mĩ.

Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người miền Tây càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc.

Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi Lụy. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng.

Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.

Ngay từ khi ra đời, Tây Tiến đã được lưu truyền rộng rãi trong bộ đội và những người yêu thơ. Nhưng sau đó, do quan niệm có phần đơn giản và ấu trĩ nên bài thơ này bị coi là mộng rớt, có những rơi rớt của tư tưởng lãng mạn ành hùng kiểu cũ. Vì vậy, trong một thời gian khá dài, Tây Tiến ít được nhắc đến. Mãi tới thời kì Đổi mới, trong xu hướng nhìn nhận lại các giá trị văn học, bài thơ Tây Tiến mới được khôi phục lại vị trí của nó trong lịch sử văn học.

Bài thơ gồm bốn đoạn thơ :

Đoạn l: Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ và dữ dội.
Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
Đoạn: Chân dung của người lính Tây Tiến.
Đoạn 4: Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.

Mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc. tâm trạng của nhà thơ. Bài thơ được viết trong một nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, đầy thơ mộng. Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng về Tây Tiến; những kí ức, những kí niệm được tái hiện lại một cách tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tinh tế và tài hoa của Quang Dũng đã làm cho những kí ức ấy trở nên sổng động và người đọc có cảm tưởng đang sống cùng với nhà thơ trong những hồi tưởng ấy.

Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ (2) da diết, bao trùm lên cả không gian và thới gian:

“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ; khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày,... liên tiếp xuất hiện những câu thơ sau:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm .
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Khổ thơ này là một bằng chứng trong thơ có hoạ (thi trung hữu hoạ)(3). Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây - địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã điền tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo miền Tây. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Đọc câu thứ tư, có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.

Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại (câu thứ tư toàn thành bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gang màu lạnh làm dịu lại như xoa mát cả khổ thơ.

Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong bài thơ Tây Tiến làm gợi nhớ đến mấy câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi gần xa, - Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu và hiểm trở của nó lại gợi nhớ tới câu thơ trong bài Thục đạo nan câu Lí Bạch: “Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh” (Thục đạo chi nan, nan ư thướng thành thiên!).

Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền Tây được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe doạ khủng khiếp đối với con người:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ,... Những tên đất lạ (Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch), những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ớ cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình nên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng miễn tây tổ quốc.

Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:

“Nhớ ôi Tây Tiến thơ lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm đừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói còn nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc buồi sang đoạn thơ thứ hai.

Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây. Cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền Tây. Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này.

Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một khoảng thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang.

Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:

“Doành trại bừng lên hội đuốc hoa .
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên,vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy “xiêm áo tự bao giờ”, vừa e thẹn, vừa tình tứ “nàng e ấp” trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ “man điệu” đã thu hút cả hồn vía những chàng trai Tây Tiến.

Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất, thì cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên được cảm giác mênh mang, mờ ảo:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hoà hợp với con người, những bông hoa rừng cũng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ.

Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây “có thấy hồn lau nẻo bến bờ”. Ông không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật.

Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cải đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc (4). Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự tân hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hoà quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Với ý nghĩa đó, Xuân Diệu có lí khi cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng.


Trên cái nên hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (ở đoạn một) và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ của miền Tây (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuất hiện vời một vẽ đẹp đầy chất bi tráng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xành màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hoà quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bí tráng - thần thái chung của cả bức tượng đài.

Thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài Cá nước với những hình ảnh thật cụ thể: “Giọt giọt mồ hôi rơi, - Trên má anh vàng nghệ” cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao cửa người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của những người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kì, giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng xa rời thực tế của nhà thơ mà chứa dựng một sự thực nghiệt ngã. Những người línhTây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cả với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên về oai phong, dữ dằn của những còn hổ nơi rừng thiêng. Sự oai phong lẫn liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng, không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khát khao yêu đương “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc hoạ dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.

Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của hình tượng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt, đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính; trang trọng: “Rải rác bên cương mồ viễn xứ”; mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ có vẻ tiều tụy, tàn tạ trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ như lông hồng. Sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng (5). Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về đất), và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:

“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.

Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.

Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của một thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người línhTây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thắm một chia phôi .
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả, đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt vời những ngày, những nơi mà Tây Tiến đã đi qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại.

Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.

( Sưu tầm )
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Phân tích bài thơ TÂY TIẾN của Quang Dũng

TÂY TIẾN
(Quang Dũng)


I . ĐẶT VẤN ĐỀ .

Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu của hồn thơ Quang Dũng. Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp gian khổ, Tây Tiến là một hồi tưởng rất đẹp, những kỉ niệm đầy sống động về người chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến. Cho nên khác với vẻ đẹp của các bài thơ cùng thời, vẻ đẹp của Tây Tiến là vẻ đẹp hài hòa, hào hoa, bi tráng.

II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .

Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng bao trùm lên cả không gian và thời gian:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mương Lát hoa về trong đêm hơi”

Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ chơi vơi như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hóa nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày… liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Khổ thơ là một bằng chứng “thi trung hữu họa”. Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng Tây Bắc, địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Những từ ngữ giàu giá trị tạo hình: Khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngút ngàn của núi đèo Tây Bắc. Hai chữ ngửi trời được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, có phần ngộ nghĩnh, tinh nghịch của người lính.

Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn heo hút. Người lính bước đi trên đỉnh núi như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thơ thứ ba như bẻ đôi, diễn tả đốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng. Cái nhìn của Quang Dũng đang hướng lên, nhìn xuống theo chiều cao và sâu của dốc đèo, bất ngờ được phóng ngang xa qua một không gian mịt mùng sương núi mưa rừng, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.

Cái vẻ hoang dại, dữ dội ẩn chứa nhiều bí ẩn ghê gớm của núi rừng tiếp tục được nhà thơ khai thác . Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian , luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người :

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Vậy là cảnh núi rừng hiểm trở qua ngòi bút của Quang Dũng hiện lên có đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ …. Những địa danh xa lạ: Mường Lát, Sài Khao, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh giầu giá trị tạo hình được hiện lên qua những câu thơ vần trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn, được xoa dịu bằng những câu thơ vần bằng ở cuối khổ thơ , làm hiện lên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng Tây Bắc .
Và đoạn đầu kết thúc bằng một hình ảnh đột ngột:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao chặng đường hành quân gian khổ, những người lính được nghỉ ngơi, được quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Nó xua tan đi những mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn. Hai câu thơ tạo cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ hai.

Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của Tây Bắc. Cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở dần xa khuất nhường chỗ cho vẻ mĩ lệ, thơ mộng duyên dáng. Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở đoạn đầu được thay thế bằng những đường nớt mềm mại, uyển chuyển, tinh tế.

Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước vẻ đẹp mang vẻ bí ẩn của con người và cảng vật nơi xứ lạ. Cảnh ấy, người ấy hiện lên trong một thời gian làm nổi lên rõ nhất sự lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan văn nghệ giữa lửa đuốc bập bùng và cảnh một cuộc vượt thác.

Cảnh đêm liên hoan văn nghệ có sự góp mặt của những người dân địa phương được miêu tả bằng những chi tiết vừa thực mà cũng rất ảo:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Cả danh trại bừng sáng, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đem văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm
thanh réo rắt của tiếng khèn, tiếng sáo, tất cả như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây rạo rực . Nhân vật trung tâm của đêm hội là những cô gái địa phương vừa tình tứ, vừa e thẹn trong những bộ áo xiêm lộng lẫy đã hút cả hồn vía các chàng trai Tây Tiến.

Nếu cảnh đêm liên hoan đem đến cảm giác tươi vui thì cảnh vượt sông lại gợi lên cảm giác mênh mông, mờ ảo:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Không gian dòng sông trong một buổi chiều bao phủ một màn sương huyền thoại. Trên dòng sông ấy nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của người con gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hòa hợp với con người, những bông hoa rừng cũng cố làm duyên trên dòng nước lũ.


Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng đó của Tây Bắc, hình tượng người lính xuất hiện với một vẻ đẹp đầy chất bi tráng:



“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Quang Dũng đã chắt lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hòa quyện vào nhau, thâm nhập vào nhau, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bi tráng.

Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với dáng vẻ xanh xao bề ngoài, với đầu không mọc tóc. Đây không phải là cách gây ấn tượng bằng hình ảnh cho người đọc mà phản ánh một thực tế khi người lính đối diện với căn bệnh sốt rét hiểm nghèo Ta bắt gặp trong thơ kháng chiến những hình ảnh quen thuộc đó: “Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu hay cái mầu da vàng nghệ trong Cá nước của Tố Hữu: “Giọt giọt mồ hôi rơi, Trên trán anh vàng nghệ”. Quang Dũng cũng từ sự thật đấy nhưng nhà thơ đã nhìn bằng cảm hứng lãng mạn. Hay nói cách khác nhà thơ đã lãng mạn hoá hiện thực. “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”, câu thơ không gợi cảm giác bi luỵ mà hiện lên sau đó là vẻ đẹp dữ dội, lẫm liệt khác thường. Âm hưởng câu thơ gợi lên hoành tráng từ những từ ngữ mang thanh trắc: Tây Tiến, không mọc tóc làm câu thơ như vút lên. Hai chữ “đoàn binh”, một từ Hán Việt rất trang trọng đã góp phần tô đậm cái hùng dũng của binh đoàn Tây Tiến đang tiến về phía trước. Sự thật thiếu ăn và bệnh sốt rét làm người lính xanh xao, nhưng với cái nhìn lãng mạn, màu xanh ấy lại được liên tưởng tới màu xanh của lá rừng đại ngàn. Quân xanh vì đói khát, sốt rét nhưng vẫn toát lên cái oai phong dữ đằn của những con hổ nơi rừng thiêng. Ba chữ “dữ oai hùm” không chỉ đơn thuần là một phép so sánh mà còn thể hiện sự tiếp thu truyền thống thẩm mĩ phương Đông của tác giả . Một quan niệm về vẻ đẹp người anh hùng trên nền của sức mạnh thiên nhiên, của hổ báo: “Râu hùm, hàm én, mày ngài” (Từ Hải – Truyện Kiều) hay “Sĩ tốt kén tay tì hổ, Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh”để nói đến sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn trong Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, hay trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Cho nên ba chữ “dữ oai hùm” có sự chất chứa hội tụ, kết tinh hào khí của người lính Tây Tiến. Cái vẻ oai phong đó còn được thể hiện qua ánh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. Mắt trừng gợi khát vọng chiến đấu đến lạnh lùng, người línhTây Tiến mộng chiến đấu, mộng lập công, mộng truy kích giặc qua biên giới Việt Lào. Đó cũng là cái mộng chung của người lính một thời thanh gươm lưng ngựa.

Đọc những hình ảnh “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “dữ oai hùm” ta cứ ngỡ những ý chí căm hờn và khát vọng chiến đấu đã tôi luyện trái tim thành sắt đá. Vậy mà đọt ngột hiện ra câu thơ: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ miêu tả rất đúng, rất chân thực đời sống của người lính Tây Tiến, vốn xuất thân từ học sinh, sinh viên trí thức. Họ ra đi từ trường xưa phố cũ, nhiều người xuất thân từ thủ đô Hà Nội, cho nên giữa cuộc sống kham khổ thiếu thốn, thậm chí đối diện với cái chết họ vẫn giữ được vẻ hào hoa lãng mạn. Họ mơ về Hà Nội của một thời cắp sách tới trường, mơ về một dáng yêu kiều thướt tha tà áo dài, đôi mắt biếc ... Nếu như chàng trai cày đi vào cuộc chiến đấu nhớ về làng quê yêu dấu, nhớ giếng nước, gốc đa, nhớ gian nhà không mặc kệ gió lung lay, hoặc nhớ về:

“Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya”
(Nhớ – Hồng Nguyên)

thì những người lính Tây Tiến lại thắp sáng tâm hồn mình bằng những giấc mơ, những giấc mơ như những hành trang không thể nào thiếu được trong trái tim của họ, để họ có thể vượt qua mọi thử thách. Ở đây tình yêu lứa đôi đã hoà quện cùng tình yêu quê hương đất nước .

Như vậy người lính trong cảm nhận của Quang Dũng không chỉ có những đường nét khắc họa bên ngoài mà còn có cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.

Nếu như đôi cánh của lí tưởng được Quang Dũng sử dụng như những gam mầu cơ bản để dựng lên bức chân dung người lính Tây Tiếnbi hùng, thì cũng chính cái nhìn lí tưởng đó kết hợp cùng đôi mắt lãng mạn, tác giả không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương bi lụy của những mất mát hi sinh. Chính cảm hứng lãng mạn đã nâng cánh cho cho những sáng tạo khi ông nhìn nhận cái bi thương. Cùng với nghệ thuật nói giảm (Áo bào thay chiếu anh về đất), cách dùng từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: biên cương, mồ viễn xứ đã biến những nấm mồ của người lính nơi rừng hoang biên giới trở thành hồn nhiên vĩnh hằng , sống mãi cùng thời gian.

Đặc biệt cái bi thương vơi hẳn đi ở tư thế ra đi vì vì lí tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Hai chữ chẳng tiếc đặt ở giữa dòng thơ nói lên sự tự nguyện, thanh thản của những người cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh. Hai chữ đời xanh gợi tuổi trẻ với bao ước mơ hi vọng. Đẹp là thế, đáng yêu là thế nhưng họ vẫn tự nguyện hiến dâng cho dáng hình xứ sở bởi có sự hi sinh nào lớn lao và đẹp hơn. Quang Dũng đã lãng mạn hóa sự hi sinh, những người lính mang dáng vẻ những tráng sĩ thuở xưa coi cái chết nhẹ như lông hồng, sống chiến đấu vì lí tưởng.

Trước cái chết của người lính Tây Tiến, không một tiếng khóc, không một vòng hoa, dòng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” như khúc nhạc bi tráng tiễn đưa người lính về nơi an nghỉ cuối cùng , và như thể ru giấc nhủ ngàn thu của họ.

Cái âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy , cái chết , sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi lụy mà thẫm đẫm tinh thần bi tráng.

Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ , như nói lên bức chân dung tinh thần của người lính Tây Tiến, đó là vẻ đẹp ra đi tìm lí tưởng không hẹn ngày gặp lại (Tây Tiến người đi không hẹn ước). Đó cũng là dáng dấp của người li khách trong “Tống biệt hành” của Thâm Tâm:
“Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại .”

Đó cũng chính là hình ảnh người ra đi trong Đất nước của Nguyễn Đình Thi :


“Người ra di đầu không ngoảnh lại.”

Tất cả như một lần nữa tô đậm không khí thời Tây Tiến, khẳng định lí tưởng chiến đấu vì độc lập Tổ quốc luôn bừng cháy trong tim người lính.

III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ .

Tây Tiến là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ Quang Dũng, nó không chỉ thâu tóm được không khí náo nức ra trận của một thời oanh liệt mà còn thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của những người con ưu tú sẵn sàng xả thân vì lí tưởng. Đó là bức tranh hoành tráng khắc hoạ cái dữ dội, hào hùng nhưng sâu lắng, tang thương mà không hề bi lụy. Một thành công của văn chương chống Pháp khi xây dựng hình tượng người lính.


Nguồn: Sưu tầm
.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Phân tích bài thơ TÂY TIẾN của Quang Dũng

Thật dữ dằn và thật thi vị, thật dễ sợ cũng thật dễ quyến, đanh sắc đến gay gắt lại dịu dàng đến "mềm lòng". Đó là hai cực cảm giác khi đọc "Tây Tiến". Đối chọi mà không xung khắc, nó là hai hiện thực của cuộc "vạn lý trường chinh" Tây Tiến đựơc cảm nhận bởi một hồn thơ mạnh mẽ và tài hoa. Nó song hành trong bài thơ tựa như hai "bè" không tách nhau được, như hai mặt trong cốt cách người Tây Tiến: Hào hùng và Hào hoa.

1. "TÂY TIẾN', MỘT CUỘC "VẠN LÝ TRƯỜNG CHINH"

Qui mô không lớn, nhưng tính chất đúng là như vậy.

Quả là cảm nhận "Tây Tiến" chẳng nên tách rời thời đại của những "Tống biệt hành", "Can trường hành" (Thâm Tâm), của những "Ngày về" (Chính Hữu). Ra đời không cùng năm cùng tháng, nhưng hoài thai cùng lúc, cùng tạng - Cái tạng của chí "trai thời loạn" của "những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng", và cái quan niệm "gian nan là nợ anh hùng phải vay" (nó không hoàn toàn là cái "yêng hùng rớt" từng bị coi thường một thời). Nếu "Tống biệt hành" là chuyện vượt lên những cản trở, vướng bận gia đình, thì "Tây Tiến" là chí anh hùng đương đầu với những gian nan trong hành binh trận mạc.

Một cuộc hành binh dài ngày vào nơi rừng rú núi non hiểm trở để lại trong Quang Dũng biết bao ấn tượng. Hiện lên trước tiên khi Nhớ Tây Tiến là hình ảnh rừng núi chơi vơi, ẩn hiện sau sương dày, rừng rậm núi cao là một đoàn quân mỏi, nhưng tâm hồn vẫn tươi, vẫn tình tứ. Khổ thơ đầu có thể coi là cái nhìn toàn cảnh, là ấn tượng bao trùm, ít nhiều có màu sắc điện ảnh trong các hình ảnh thơ.

"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"


Rồi biết bao những gian nan thử thách đang đón chờ binh đoàn Tây Tiến bất cứ lúc nào cũng có thể làm họ nản chí. Đó là cái hiểm trở của lộ trình - "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm". Đó là oai linh của rừng thiêng nước độc - "Chiều chiều oai linh thác gầm théc". Đó là sự rình mò của thú dữ - "Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.".Đó là sự dãi dầu thân xác - "Anh bạn dãi dầu không bước nữa." Đó là bệnh tật, bệnh nơi lam sơn chướng khí - "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" (Vì ngã nước, sốt rét rừng). Đó là cái chết - "Rải rác biên cương mồ viễn xứ". Đó là sự đánh đổi quãng đời xuân trẻ không bao giờ có lại. - "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"..v..v.. Nếu không có một chí anh hùng đủ mạnh, đoàn quân này sẽ dễ dàng tan ra, con người sẽ ngã lòng, sẽ bỏ cuộc. Chiến sĩ Tây Tiến đương đầu, đối mặt với mọi thử thách và coi thường tất cả. Thực tế ấy, chí khí ấy tạo nên tính bi tráng rất chân thực của "Tây Tiến":

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"


Quyết tâm sắt đá không bị lay chuyển, người Tây Tiến chỉ một con đường một hướng đi tới, ai nấy toàn tâm, toàn ý, đặt cả tâm hồn vào nhiệm vụ - "Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy - Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi."

2."TÂY TIẾN" - HÀO HÙNG VÀ HÀO HOA

Hai "bè" ấy phối nhau ăn ý, khăng khít, nhuần nhị suốt dọc bài thơ. Thật mệt mỏi (Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi), cũng thật nhẹ nhõm (Mường Lát hoa về trong đêm hơi). Núi non hùng vĩ chất ngất (Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm - Heo hút cồn mây súng ngửi trời - Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống). Tầm nhìn mở rộng muôn xa (Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi). Dữ dằn (Chiều chiều oai linh thác gầm théc...) lại cũng tình tứ (Mai Châu mùa em thơm nếp xôi). Bên cạnh những ngày hành quân cực nhọc, gian khổ là những đêm văn nghệ vui nhộn, lãng mạn. Có những hoạt động đó là bởi các chàng trai Tây Tiến là sự gặp gỡ, dung hợp giữa hai “chất” ấy: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” thật dễ sợ, và cứ “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật đa tình, đa cảm.

Nét hào hoa nghệ sĩ của quân Tây Tiến còn ở sự hiện diện của hoa. Trên hành trình gian nan, bao giờ học cũng dành tâm trí cho hoa: "Hoa về trong đêm hơi", "hội đuốc hoa", "trôi dòng nước lũ hoa đong đưa". (Đây cũng là đặc điểm của rất nhiều bài thơ Quang Dũng)

Trên cấp độ từ ngữ hình ảnh cũng thấy hai "bè" phối nhau như vậy: dữ dằn hào hùng và lãng mạn hào hoa. Song song với những "đoàn quân mỏi", "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút", "gầm thét", "cọp trêu", "không mọc tóc", "dữ oai hùm", "mồ viễn xứ", "gầm lên khúc độc hành"... là những "đêm hơi", "mưa xa khơi", "cơm lên khói", "thơm nếp xôi", "hồn lau nẻo bến bờ", nhất là những em: "Mùa em thơm nếp xôi", "em xiêm áo", "nàng e ấp", "dáng kiều thơm"...

Kết tụ thật tuyệt vời cho hai "bè" ấy trong bài thơ này phải kể đến một đoạn thơ tả núi:

"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"


Và đoạn tả sông suối:

"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"


Người đọc có cái thú vị là giữa những ngày nặng nề, khổ ải ấy con người Tây Tiến lại đang an nhiên trong hồn trí mà thưởng thức những bức tranh sơn thuỷ. Trong một bài khác - bài "Pha đin", khi tả cn dốc hùng vĩ ấy với cảnh đá "như từng đợt sóng bủa lên trời", "bên dốc chon von ngàn thước vực", y như cảnh trí "Tây Tiến", chính Quang Dũng đã thốt lên: "Đẹp như sơn thuỷ tranh đời Tống".

Một trong những nét "ma quái" đầy hấp dẫn của "Tây Tiến" là nhạc thường là sự chuyển hoá khi thì bất ngờ, đột ngột, khi thì mềm mại, uyển chuyển giữa một thứ nhạc đậm đặc âm trắc, những cách bẻ đôi câu thơ, sang một nét nhạc thật nhẹ nhàng, chơi vơi, lâng lâng. Theo nhạc thơ, người đọc vừa từ chỗ ngợp thở, tức thở, từ cảm giác bị bưng bít sang một hơi thở phào nhẹ nhõm, mở ra một tầm nhìn toàn cảnh, khoáng hoạt xa khơi

***
*****​


ĐỀ: PHÂN TÍCH CẢ BÀI

Có một bài ca không bao giờ quên…”

Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến chốngn Pháp, khi toàn dân tộc ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược. Dấu ấn của nạn đói năm 1945 vẫn còn, rất đậm trong mỗi người dân Việt Nam. Tự do hay trở về với cuộc đời cũ? Đấy là câu hỏi day dứt bao người. Theo tiếng gọi của tự do, những người nông dân, công dân, học sinh, những người mẹ, người chị… tham gia kháng chiến, tạo nên hào khí dân tộc của một thời đại.

Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí của một thời với hình ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là người chiến sĩ cụ Hồ. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng ra đời trong hoàn cảnh chung đó.

Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển đơn vị. Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở đoàn quân Tây Tiến chưa lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác giả. Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến.

Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng trở thành người lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để ghi nhớ lại, tác giả phải bật lên:

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!"

Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng âm hưởng của vần ơi, tạo nên sức mạnh lớn. Hình ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng đến đoàn quân Tây Tíên? Không ! Đó là tiếng lòng của tác giả “xa rồi Tây Tiến ơi!” nhưng tấm lòng thì vẫn tha thiết lắm ! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng của Quang Dũng như xoáy vào tâm hồn người đọc rung theo những xúc cảm do câu đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến:

"Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"

Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? “Nhớ chơi vơi” ! Hình như trong ca dao ta cũng từng bắt gặp:

"Ra về nhớ bạn chơi vơi"

Nỗi nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình khó nắm bắt đã diễn tả bằng lời. Nỗi nhớ ấy vừa bao la, bát ngát lại vừa có chiều sâu. Nó muốn tràn ra không gian để xoáy vào lòng người. Một người ngoài cuộc hẳn không thể có nỗi nhớ ấy. Chỉ có Quang Dũng với nỗi lòng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi. Với tấm lòng tha thiết thì hẳn nổi “nhớ chơi vơi” là điều hoàn toàn có lí. Cùng vẫn sử dụng vần “ơi”, câu thơ có sức lan toả rộng. Vần “ơi” lan ra theo nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả.

Thông thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến những kỉ niệm để lại dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên là nhớ về rừng núi

"Nhớ về rừng núi…"

Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng chiến đấu Rừng núi in đậm bao nỗi khổ, bao nhiềm vui nỗi buồn của những người chiến sĩ. Hơn ai hết, tác giả là người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những khó khăn gian khổ mà mình đã từng nếm trải:

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."


Mặc dù cuộc sống gian khổ không phải là điều nhà thơ chú trọng phác hoạ nhưng trước mắt ta vẫn hiện ra cái khắc nghiệt của rừng núi. Nhà thơ Tố Hữu đã từng có những câu thơ:

"Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn !"


Tố Hữu mô tả thẳng cảnh sống người lính. Quang Dũng không làm thế, Quang Dũng chỉ mô tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua cảnh đó ai cũng hiểu rằng đời lính là như thế đó. Họ sống giữa thiên nhiên như vậy đó. Với những địa danh xa lạ “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, rừng núi như càng trở nên xa ngái, hoang vu hơn. Hơn thế, cần phải nhớ rằng đoàn quân Tây Tiến hầu như toàn là những chàng trai trẻ Hà Nội theo tiếng gọi kháng chiến ra đi, nhiều người còn là học sinh nên cảnh núi rừng càng xa lạ, đáng sợ hơn. Quang Dũng là người trong cuộc sống hiểu tâm lý ấy rất rõ.

Nỗi nhớ rừng núi bắt đầu bằng những cuộc hành quân.

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi."

Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng cũng như rừng sương “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” sẽ in mãi dấu ấn, câu thơ chùng xuống, đều đều gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải làm ta tưởng chừng như đoàn quân Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại vút lên bởi một câu vần bằng:

“Mường lát hoa về trong đêm hơi”

Câu thơ ấy đã xoá đi cái mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến, để đoàn quân tiếp bước. Những khó khăn lại cứ rải trên đường người lính đi qua:

"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"


Hình ảnh “khúc khuỷu” làm nên cảm giác hình như con đường đi khó khăn quá ! “Dốc thăm thẳm” lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn, dài ra theo tính chất “thăm thẳm” của con dốc và trên những đường dốc ấy, “súng ngửi trời”. Chỉ riêng “heo hút cồn mây” đã gợi một không khí vắng vẻ, hoang sơ của núi rừng, súng ngửi trời cộng vào cái vẻ đơn độc của những người lính khi đứng giữa đèo cao.

Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi vần bằng tiếp sau:

"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."

Cứ như thế, với những câu vần bằng xen vào giữa những câu vần trắc, âm hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp hơn, âm điệu ấy cứ theo suốt bài thơ, cùng với cách dùng từ cổ kính củaQuang Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà hào hùng cho bài thơ.

Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của vùng rừng núi thiên nhiên hoang sơ. Đứng trước bức tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ: vậy người lính sống thế nào nhỉ?

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."


Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn quân Tây Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà chỉ để ca ngợi người lính. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với người lính cũng bằng ngòi bút rất thực ấy. Trước gian khổ, trên đường hành quân, nhiều người đã nằm lại mảnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa"

Nhưng anh hùng làm sao, những con người đã ngã xuống ấy! Người lính không chịu nỗi gian khổ đã hi sinh nhưng cũng tìm được cho mình một tư thế chết của người chiến sĩ:

"Gục lên súng mũ bỏ quên đời"

“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính từ trần. Nhưng hình ảnh sử dụng, rất đắt là hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:

"Anh ngã xuống torng khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng"


Dáng đứng của anh giải phóng quân đi mãi vào lòng những người dân trong kháng chiến chống Mĩ thì dáng ngã gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.

Những khó khăn lại đến:

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."


Hình như có ai đó đã nói về cách sử dụng từ “Mường Hịch” của Quang Dũng. Địa danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn, nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình.

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."


Quang Dũng lại nhớ về những kỉ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp điệu câu thơ hình như có cái gì nao nức, rộn rã:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Châu xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa."


Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đầu như biến mất đi sau những kỉ niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Nét nghịch ngợm, vui tươi của những chàng thanh niên Hà Nội xúng xính trong xiêm áo giả làm con gái, cùng tiếng nhạc và vẻ e ấp giả vờ. Câu thơ với hai chữ “kìa em” vừa mang vẻ ngạc nhiên vừa mang nụ cười thoải mái của người chiến sĩ. Những kỉ niệm vui đó hẳn sẽ không quên trong lòng người cũng như vẫn còn nguyên vẹn trong lòngQuang Dũng vậy. Cùng với sự vui tươi, người lính Tây Tiến còn sống với bản lĩnh lãng mạn, với tâm hồn giàu chất thơ, giàu cảm xúc của mình. Một dáng người trên độc mộc vào buổi chiều sương, một khóm hoa đong đưa trên dòng nước lũ… tất cả đi vào nhẹ nhàng cho cả đoạn thơ.

Quang Dũng xa Tây Tiến nhưng khoảng thời gian ấy chưa lâu nên kỉ niệm Tây Tiến vẫn như nguyên vẹn. Nỗi nhớ “chơi vơi” trải khắp bài thơ nhưng cô đọng vẫn là ở nỗi nhớ về người línhTây Tiến. Có lẽ người lính Tây Tiến, hình ảnh của họ đã ăn sâu tận trong máu thịt tác giả:

“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”


Câu thơ đầu hoàn toàn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng bởi tên gọi “Vệ trọc”. Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là nạn mà người lính thường mắc phải. Sốt rét đến nỗi trọc cả đầu chỉ còn một vài sợi tóc lưa thưa đến nỗi da xanh xao “màu lá”.

Bệnh sốt rét ác nghiệt như Chính Hữu đã từng mô tả:

"Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi."

Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người lính khi Quang Dũng nói về điều này, tác giả còn muốn cho ta biết, người lính Tây Tiến sống như thế đấy! Họ s61ng đ46 chiến đấu với quân thù nhưng lại phải chiến đấu với cả gian khổ, bệnh tật nữa. Giữa bao nhiêu khó khăn người lính vẫn

"Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

Nét dữ tợn của người chiến sĩ Tây Tiến ở đây không làm nhạt đi tí nào hình ảnh người lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật, yếu đau tưởng chừng làm người chiến sĩ yếu đuối nhưng ta bất ngờ vì dáng vẻ “dữ oai hùm” của anh lính. “Dữ oai hùm” làm mất đi sự yếu đuối của “đoàn quân không mọc tóc” và của “quân xanh màu lá”, câu thơ trên giúp cho câu thơ sau tiếp tục:

"Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"


Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính Tây Tiến và cũng là hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ. Người lính Tây Tiến sống với hình ảnh của quê hương Hà Nội, chiến đấu với tương lai trước mặt. Hai câu thơ vừa mang nét lãng mạn của người chiến sĩ vừa có nét hào hùng. Mắt người lính “trừng” nhưng không hề mang nét dữ tợn, đấy chỉ là quyết tâm của họ. Họ quyết tâm chiến đấu cho Tổ Quốc, đất nước, điều này là điều tâm niệm của mỗi người. Hai câu thơ trên đã có thời bị đưa ra chỉ trích cùng với bài thơ là buồn rớt, là bi quan, là tiểu tư sản. Đành rằng buồn; nhưng cái buồn ở đây không làm mất đi quyết tâm củangười lính Tây Tiến. Quyết tâm đánh giặc và lãng mãn phãi kết hợp hài hoà mới có thể taạ nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ một cách sâu sắc. Đây là điểm mà đã có một thời vì hoàn cảnh lịch sử, vì một lý do nào đó người ta đã quên đi hay cố tình quên đi. Người lính Tây Tiếnchiến đấu cho ai? Mục đích của họ hướng tới là gì nếu không phải quê hương mà cụ thể là Hà Nội. Người lính mơ về Hà Nội, về người thiếu nữ Hà Nội thì chính những mộng mơ ấy đã tiếp sức mạnh cho người chiến sĩ sống và chiến đấu. Hai câu thơ chính vì thế lãng mạn mà rất hào hùng !

Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân bao người đã ngã xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của rừng núi, vì đau ốm bệnh tật và họ ngã xuống vì chiến đấu.

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ."

Câu thơ đọc lên nghe sao mà bi thảm quá. Bao người nằm lại nơi xa lạ không người qua lại, chẳng bao giờ về. Từ “rải rác” làm ta cảm giác người lính Tây Tiến ngã xuống, ngã xuống nhiều trong cuộc chiến đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái lạnh khi những con người phải từ giã cuộc đời. Từ “viễn xứ” tạo nên sự xa xôi, lạnh lẽo của rừngnúi, gợi sự cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm xuống xoáy vào lòng ta nỗi buồn không thể thốt nên lời, ta tưởng chừng câu thơ sau sẽ không cất nổi mình, nhưng ngược lại:

"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

Câu thơ lại nhẹ nhàng như không hề mang chút bi thảm của những nấm mồ viễn xứ. Câu thơ trước tạo nên cái “bi”, câu thơ sau tạo nên nét “tráng”. Cái không khí bi quan bíên mất, chỉ còn lại nét ngang tàng, chút thanh thản của người lính Tây Tiến. Bảo “chẳng tíêc đời xanh” là cách nói của người thanh niên tri thức Hà Nội nhưng cũng mang cả quan niệm về lí tưởng chiến đấu. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ. Không phải “tuổi trẻ là mùa xuân” đó sao! Nhưng cao hơn cả tuổi trẻ họ còn có tự do, quê hương. Còn người hậu phương gởi gấm cả nỗi lòng cho họ. Đó là lí do tại sao người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ nhàng:

“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”


Cách dùng từ “áo bào” làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi mãi mãi nhưng anh ra đi là cho lẽ sống của mình sống mãi nên cái chết của anh nhẹ nhàng như “về đất”. Hơn thế, có chăng Quang Dũng có lí khi dùng từ “về đất” ngoài ý giảm nhẹ sự đau thương ? Quang Dũngkhông muốn có bất cứ giọt nước mắt nào rơi trên thi hài người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến sống lãng mạn, hào hùng thì chết cũng phải như vậy. Đấy chính là lí do tác giả có ý sử dụng từ cổ kính và nói theo lối nói của người lính Tây Tiến. Quang Dũng muốn rằng người línhTây Tiến chiến đấu là cho quê hương thì sữ ra đi của họ là nhẹ nhàng, thanh thản: họ về với đất. Đất như người mẹ giang tay ôm đứa con yêu vào lòng và người chiến sĩ ngụ trong vòng tay mẹ. Như vậy anh hi sinh ở nơi xa nhưng linh hồn anh vẫn về bên đất mẹ. Câu thơ vì thế mất đi nét bi thảm vốn có. Anh chiến sĩ chết đi, quê hương ôm anh vào lòng, sông núi hát lên tiễn đưa anh:

"Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Không hề có tiếng khóc giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sông, đất mẹ chứng kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hoà vào núi sông, hoà vào đất mẹ.

Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ mờ phai trong tâm trí congười. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm đậm mãi trong lòng Quang Dũng và mỗi chúng ta.

"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về sầm nứa chẳng về xuôi."


Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta. Nhịp điệu trùng điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn trong ta. Có những tác phẩm đã gặp nhiều mà ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm chỉ bắt gặp một lần lại sống mãi. Ấy là Tây Tiến!
Hình ảnh người lính Tây Tiến lung lnh ngời sáng với cả hào khí dân tộc!







TÂY TIẾN – SỰ THĂNG HOA CỦA MỘT TÂM HỒN LÃNG MẠN




ĐINH MINH HẰNG
LỚP CLC – K54 – KHOA NGỮ VĂN - ĐHSP HÀ NỘI



Những thi phẩm viết về người lính trong kháng chiến thường ngân lên trong lòng người nhiều dung động. Khó có thể quyên một Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu, bức thi hoạ Đồng chí của Chính Hữu, hay chỉ là một hình ảnh thật cảm động: Quò chân tìm hơi ấm đêm mưa trong nhớ của Hồng Nguyên. Nhưng thi phẩm mà bóng dáng của nó và về hơn năm mươi lăm năm, gần gũi và kiêu hùng trong lòng độc giả phải là Tây Tiến. Nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài ngững cảm quan ban đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với đại ngàn thi hứng. Nơi ấy, cuồn cuộn dòng chảy của lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng. Một Tây Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong niềm nhớ.

Người độc như lạc vào chốn Tây Bắc hiểm chở và hùng tráng được dàn trải trong không gian nhớ mênh mang. Không gian mà thi nhân nhất định phải đặt trong xúc cảm tha thiết và cao vợi: “Tây Tiến ơi”, “nhớ chơi vơi”, “nhớ ôi”. Tiếng gọi và nỗi nhớ làm cho Tây Tiến như một sinh thể, như có linh hồn. Trong sinh thể ấy, người ta thấy những địa danh mà ngay âm thanh cũng gợi đến vẻ đẹp xa xôi của núi rừng, khiến con người thêm mộng mơ, khao khát kiếm tìm. Đó là cái mù mịt của một đêm sương Sài Khao, cái ẩn hiện của hoa Mường Lát, mưa xa khơi ở Pha Luông. Tất cả đều gợi ấn tượng của sự “lạ hoá”, của những vẻ đẹp kỳ ảo khó gợi tên. Những hình ảnh đẹp ngay từ cách đặt câu:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”


Những câu thơ mà đọc lên nghe đã thấy sự gập ghềnh, hiểm trở. Dường như độ cao và chiều sâu cư nối tiếp nhau trên con đường của người lính Tây Tiến. Nhưng khó khăn cũng không ngăn trở được con người đến với dỉnh cao: “súng ngửi trời”. Dường như câu thơ đã được phủ lên màn sương lãng mạn của những vần thơ biên tái xưa, man mác một chút “thục đạo nam” xa xăm.

Nhưng Quang Dũng dường như còn muốn đẩy rộng hơn ranh giới của dữ dội và êm dịu, gồ gề và bằng phẳng, kéo dài khoảmg không gian bằng những câu thơ thật đẹp và lạ:

“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”


Nét bút hào phóng vẽ bằng ngôn từ tao nên những ấn tượng đậm và sâu: nhà thơ đã đưa lên rất mạnh và hạ xuống đầy sức lực để rồi sau đó, bất ngờ mở ra trước mắt người đọc một Pha Luông. Một Pha Luông mênh mang của vùng cao nguyên xa mờ trong màn mưa.

Nhưng Tây Bắc không chỉ có núi rừng, phong cảnh của một miền Tây xa xôi sẽ còn in dấu rất lâu trong người đọc. Đó là “thác” và “thép” trong cách sắp xếp trái thanh làm nổi bật nhưũng ấn tượng về sự linh thiêng. Đó là “Mường Hịch” được đặt giữa câu gợi bước chân của loài mãnh thú. Và nỗi nhớ bật lên như đã ngầm chảy suốt dọc những dòng thơ: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói” để ngợi về môt Mai Châu trong một câu thơ không cần đến các trợ từ quan hệ. Mai Châu – mùa – em – thơm nếp sôi: tất cả như lẫn, như hoà vào nhau, người con gái ở Mai Châu mang vẻ đẹp nồng nàn lẩ khuất trong hương lúa nếp. Những vần thơ được viết nên từ một tâm hồn còn vẹn nguyên sự trẻ trung và lãng mạn của một thanh niên vửa rời ghế nhà trườn, hứng thú được phiêu du trong thế giới của riêng mình. Một thế giớ Tây Bắc bay bổng và kỳ diệu khiến người đọc lại bâng khuâng nhớ về một thi nhân từng được coi là lãng mạn bậc nhất với những vần thơ tài hoa – Tản Đà:

“Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương”


Nhưng Tây Tiến không chỉ đọng lại cùng cảm giác hoang sơ và đơn độc cái đơn độc đầy ngạo nghễ của con người. Nơi ấy, tình người luôn ấm áp và thân thiết. Buổi liên hoan thắm tình quân dân vào thơ dường như đã nhuốm nhiều lắm cảm giác lâng lâng ngây ngất trong tâm hồn thi nhân. vì thế phải là chữ “bừng” và “đuốc” trong cảm giác về buổi liên hoan rộn rã, đầy ánh sáng. Nhưng khi kết hợp “đuốc” với “hoa” thì lại mang tới cảm giác lãng mạn của một đêm hội hoa đăng xa xưa. Cảm giác mơ mộng đưa con người vượt lên trên thực tại đơn thuần, ngỡ ngàng trước “em”. Người con gái của núi rừng với “xiêm áo” – gợi vẻ đẹp của thủơ xa xưa, trong âm thanh của tiếng khèn và trong điệu nhạc được gọi là “man điệu” như một nàng tiên trong điệu múa nghê thường, vừa e lệ, vừa cuồng nhiệt. Trong xúc cảm đắm đuối ấy, tự bao giờ, “em” đã chuyển thành “nàng”. Không gian và thời gian cũng xa xôi hơn, mơ hồ hơn tạo đà cho sóng nhạc cứ lan mãi, tận miền Viên Chăn để con người đầy mộng xây nên một nguồn thi hứng tình tứ và lãng mạn.

Và cao nguyên Mộc Châu dường như được tô điểm trong cảm hứng đầy chất thơ ấy. Mộc Châu không có được cái hùng vĩ của núi non, càng không có cái đẹp rạng rỡ và cuồng nhiệt mà Quang Dũng từng đắm chìm trong những câu thơ trước. Những câu thơ về Mộc Châu gieo vào lòng người ấn tượng của một vẻ đẹp man mác, lẩn khuất và xa xăm. Không phải ngẫu nhiên mà thi nhân nhớ đến Mộc Châu trong hoài niệm về một chiều sương. Không gian mơ màng ấy len khắp câu thơ, phủ lên Mộc Châu sự tĩnh lặng và khoác lên người đi vốn đã là một đại từ phiếm chỉ: cái mênh mang của sự vật. Một chữ “ấy” khiến người đọc hoài nghi. Phải chăng đã có một chiều sươmh trước đó? Trong thực hay trong mơ? Chỉ biết rằng: một người đi vô định, một chiều sương vô hình đã khiến không gian và thời gian cứ lặng lẽ trôi xa, nhường lại khung cảnh đẹp đến nao lòng:

“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc”


Hai câu thơ tựa hồ như câu hỏi, khe khẽ và bâng quơ. Âm điệu nhẹ nhàng như hơi thở, cố tìm kiếm trong ký ức để xuất hiện hai lần “có thấy”, “có nhớ”. Không phải những bông lau, hoa lau, cách thể hiện tinh tế nhất đã tựa vào hai chữ “hồn lau”. Để lưu lại một vẻ đẹp duyên dáng kỳ lạ của một loài cây nơi cao nguyên hoang dã, vương trên một “nẻo bến bờ” vừa xa xăm, vừa gần gụi, như thực lại như mơ. Một hồn lau ngợi dáng lau nghiêng nghiêng tha thướt, một dáng người gợi vẻ đẹp cổ điển kì lạ. Những đường nét chấm phá mảnh mai hội tụ những nét tinh tuý của Á Đông đủ để hoà nà không lẫn vào cái bâng khuâng của một vùng sơn thuỷ. Nhưng khung cảnh không vì thế mà chở nên hiu hắt bởi sự xuất hiện sinh động của hình ảnh:

“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Hoa và lũ, hai sự vật tưởng chừng trái ngược nhau mà nay lại năng đỡ nhau theo một dòng chung của thế giới, trong một chuyển động đầy lãng mạn và tình tứ: “đong đưa”. Nhẹ nhàng kết thúc bằng ba thanh không, những câu thơ như còn dìu dặt níu bước chân thi sĩ về một Mộc Châu đẹp đến ngỡ ngàng, mộng mơ đến ngây ngất.

Nhưng hình ảnh là trung tâm, đem lại nét hùng tráng cho miền Tây xa xôi kia phải và chỉ có thể là đoàn binh Tây Tiến. Những con người không nề hà trước khó khăn và thử thách của cuộc chiến chinh ác liệt. Quang Dũng không né tránh căn bệnh sốt rét rừng. Nhưng đoàn binh Tây Tiến, hơn lúc nào hết hiện ra đầy ngạo nghễ, cái ngạo nghễ của những con người nhìn đời qua lăng kính lãng mạn. Vì thế, phải là đoàn binh chứ không phải đoàn quân, không mọc tóc chứ nào phải tóc không mọc, đầy bất cần, hiên ngang. Và màu da xanh kia hiến cho hình ảnh đoàn quân như hoà vào lá rừng, đầy oai hùng, dữ dội: “dữ oai hùm”. Những câu thơ sau đưa người đọc đến với thế giớ bên trong những người lính Tây Tiến, thế giới mà người đọc sẽ bắt gặp dày đặc mộng và mơ. Chỉ có điều đó là hai thái cực, hai ước muốn bổ sung và bồi đắp nhau khiến tâm hồn con người thêm đẹp và phong phú:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà nội dáng kiều thơm”


Ở câu thơ trên, đó là giấc mộng chiến chinh, thoả chí tang bồng của người làm trai: “Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng”. Và như thế, nhất thiết phải được thể hiện qua đôi mắt trừng. Nhưng Quang Dũng còn muốn bay cao và xa hơn nữa khi muốn mang lí tưởng anh hùng vượt qua biên giới, thể hiện một hoài bão tung hoành bốn phương. Câu thơ sau lại mang đến một mơ ước khác, đẹp một vẻ đẹp bình dị và êm dịu hơn vì bản thân đối tượng mà “những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng” kia hướng đến rất khác. đó là Hà Thành hoa lệ, là những nàng Kiều, những người con gái đẹp, mang đến xúc cảm đầy chất lãng mạn và nhân văn, góp phần tạo nên sức mạnh tinh thần cho người đi chinh chiến.

Nhưng không thể và quyết không trốn tránh hiện thực, Quang Dũng đã nhìn thẳng vào nỗi đau của cuộc chiến đấu: sự hi sinh. Sự hi sinh mà thi nhân từng nhắc đến đầy cao ngạo, bất cần ở đoạn thơ trước:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Nhưng lần này dữ dội và khốc liệt hơn:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”


Sự thực nghiệt ngã ấy vẫn nhuốm màu sắc lãng mạn. Xen lẫn những nấm mồ “rải rác” là “biên cương” và “viễn xứ”, những từ Hán Việt ít gặp gợi cảm giác trang nghiêm. Phù hợp với khí phác của người anh hùng Tây Tiến: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Con người chẳng tiếc khoảng thời gian đẹp nhất của cuộc đời và hơn thế: tìm được cho mình một ý nghĩa còn lớn hơn tuổi trẻ: đấy là sự hi sinh. Câu thơ cứ không nguôi gợi âm hưởng của “tráng sĩ nhất khứ bất phục hoàn” vang dội bên bờ Dịch Thuỷ. Và vì thế, người đọc sẽ còn bắt gặp một hình ảnh rất đẹp của sự hi sinh quên mình: “áo bào thay chiếu anh về đất”. Không phải ngẫu nhiên, trong một bối cảnh hiện đại, những câu thơ cứ man mác gợi đến phong vị cổ điển. Bởi hồn thơQuang Dũng là thế, cái lãng mạn của một con người, của một tâm hồn nhìn đời qua xúc cảm bay bổng là thế. Chính vì vậy mà những câu thơ mới có vẻ đẹp riêng: một chút cổ thi, một chút thơ mộng, ngay cả sự hi sinh cũng là hi sinh lí tưởng của chiến binh: “da ngựa bọc thây”. Mặt khác, “anh về đất” là về với mẹ, về với cuộc sống vĩnh hằng, con người chói ngời trong ánh sáng vinh quang của sự bất tử. Câu thơ vì thế đẹp và hào hoa hơn. Anh ra đi nhưng nỗi đau thì vẫn còn lại, thấm vào đất rừng Tây Bắc, vào sông Mã thân thuộc. Con sông chung thuỷ gầm lên tiếng cuối cùng bi thiết, tiếng gầm của một khúc độc hành, trong nỗi đau lẻ bạn, tự thấy mình trơ trọi trở về xuôi. Nhưng đó là tiếng gầm đầy sức mạnh gợi cảm giác trầm hùng. Tượng đài người chiến sĩ Tây Tiến vì thế càng thêm cao cả.

Bài thơ kết thúc như đã từng mở đầu: bằng nỗi nhớ. Nỗi nhớ da diết khắp câu chữ và giờ lắng đọng trong tâm tư của nhân vật trữ tình. Xúc cảm lâng lâng, cao hơn và bâng khuâng hơn trong “ người đi - không hẹn ước - thăm thẳm - chia phôi”. Miền Tây Bắc vì thế càng xa xăm hơn trong không gian và thời gian, trong tâm tưởng của con người. Chỉ còn lại một giai điệu nhung nhớ không cùng:

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Xầm Nứa chẳng về xuôi”


Câu thơ như một khúc nhạc, một lời nhắn gửi tha thiết của tâm hồn: con người có thể xa nhưng núi rừng Tây Tiến, con người Tây Tiến vẫn mãi là niềm nhớ, niềm thương tha thiết trong tâm hồn.

Cuốn theo hồn thơ Quang Dũng, Tay Tiến đối với người đọc đã không chỉ còn là sự lưu giữ những sự kiện, những địa danh có thể đã chìm vào quên lãng. Tây Tiến còn đó và mãi mãi còn đó như là minh chứng cho một quá khứ hào hùng gắn liền với một miền đất, một đoàn quân; cho một hồn thơ bi tráng và lãng mạn đến tận cùng.

(sưu tầm) .
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Đoạn 1 (Từ câu 1 đến câu 14) Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ - thơ mộng

· Quang Dũng là một nghệ sĩ tài hoa nhiều mặt: viết văn xuôi, làm thơ và cả hội họa. Thơ ông viết ít nhưng lưu được ấn tượng sâu trong lòng người đọc vì vẻ đẹp lãng mạn, tài hoa. Viết về đề tài người lính Quang Dũng khá thành công ở bài thơ “Tây Tiến”

· “Tây Tiến” thể hiện lối cảm nghĩ riêng đó chính là tấm lòng Quang Dũng đối với một thời lịch sử đã qua. Cả bài thơ là một nỗi nhớ dài: Nhớ những miền đất mà tác giả đã từng qua, nhớ những đồng đội thân yêu, nhớ những kỷ niệm ấm áp tình quân dân kháng chiến. Tất cả những điều ấy được thể hiện bằng cái nhìn đầy lãng mạn của người lính. Đoạn thơ đầu gồm 14 câu như những thước phim quay chậm tái hiện địa bàn chiến đấu của người lính Tây Tiến. Đó là thiên nhiên Tây Tiến, là những người lính Tây Tiến cùng những kỷ niệm ấm tình quân dân.

· Mở đầu đoạn thơ Quang Dũng nhớ ngay đến dòng sông Mã. Dòng sông ấy hiện lên trong bài thơ như một nhân vật, chứng kiến mọi gian khổ, nỗi buồn, niềm vui, mọi chiến công và mọi hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Sông Mã gắn liền với miền đất đã từng qua, những kỷ niệm từng trải của đoàn quân Tây Tiến. Nhắc tới sông Mã cũng là nhắc tới núi rừng thiên nhiên Tây Bắc. Nhà thơ nhớ về những miền đất trong nỗi nhớ “chơi vơi”. “Chơi vơi” là nỗi nhớ không có hình, không có lượng, không ai cân đong đo đếm được nó lửng lơ mà đầy ắp ám ảnh tâm trí con người, khiến con người như sống trong cõi mộng. Chữ “chơi vơi” hiệp vần với chữ “ơi” ở câu thơ trên khiến cho lời thơ thêm vang vọng.

· Trong nỗi nhớ “chơi vơi” ấy hiện lên cả một không gian xa xôi hiểm trở. Tính chất “xa xôi” thể hiện rõ ở một số địa danh: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu. Nghe tên đất đã lạ vì đó là những vùng sâu, vùng xa của các dân tộc ít người từ Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình. Những địa danh này đi vào nỗi nhớ của nhà thơ bởi vậy nhớ về Tây Tiến thì cũng chính là nhớ về những vùng đất heo hút, hiểm trở đầu tiên. Điều này cũng dễ hiểu. Bởi những người lính Tây Tiến vừa mới ra đi kháng chiến từ một mái trường, một góc phố nào đó của thủ đô Hà Nội thì ấn tượng sâu đậm nhất về Tây Tiến trong họ lẽ đương nhiên là những gian khổ, những địa danh nêu trên càng trở nên xa hơn khi nó gắn liền với hình ảnh “sương lấp”, “đoàn quân mỏi” hiện về “trong đêm hơi”.

· Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” với điệp từ “dốc” gối lên nhau cộng với tính từ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” làm sống dậy con đường hành quân hiểm trở, gập ghềnh, dài vô tận. Âm điệu câu thơ như cũng khúc khuỷu như bị cắt đoạn như đường núi khúc khuỷu, có đoạn lên cao chót vót có đoạn xuống thăm thẳm. Con đường mà người lính Tây Tiến phải trải qua cao tới mức bóng người in trên những cồn mây, đến mức “súng ngửi trời”

· Đây là cách nói thậm xưng thể hiện sự độc đáo của Quang Dũng. Nếu chỉ thấy súng chạm trời thì ta mới chỉ thấy được cái thế cao của dốc còn hình ảnh “Súng ngửi trời” hàm chứa một ý nghĩa khác. Đó là vẻ tinh nghịch, chất lính ngang tàng như thách thức cùng gian khổ của người lính Tây Tiến. Điều này khiến cho hình ảnh người lính Tây Tiến được nâng cao rõ nét trong một không gian rộng lớn vời vợi, và đây cũng chính là chất lãng mạn bay bổng của tâm hồn người lính Tây Tiến, của Quang Dũng. Câu thơ còn gợi cho ta cảm giác về độ cao, độ sâu không cùng của dốc. Ta bắt gặp ý thơ này ở câu thơ: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Cả hai câu đều ngắt nhịp 4/4. Thực ra ý của câu sau điệp lại ý của câu trước nhưng lối điệp vô cùng sáng tạo, khiến cho người đọc khó phát hiện ra. ý thơ gấp khúc giữa hai chiều cao thăm thẳm, sâu vòi vọi, dốc tiếp dốc, vực tiếp vực nhấn mạnh địa bàn hoạt động của những người lính vô cùng khó khăn, hiểm trở, vượt qua những khó khăn, hiểm trở đó đã là một kỳ tích của những người lính.

· Tổng hợp những chi tiết đã phân tích ở trên ta có được một phần chính về bức tranh của thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại, hiểm trở mà đầy sức hút. Những câu thơ phần lớn là thanh trắc càng gợi cái trúc trắc, trục trặc, tạo cảm giác cho độc giả về hơi thở nặng nhọc, mệt mỏi của người lính trên đường hành quân. Giữa những âm tiết toàn thanh trắc ấy chen vào câu thơ gần cuối đoạn thơ dài man mác toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đây chính là hình ảnh thơ mộng mà hoang dã về thiên nhiên Tây Tiến. Thiết nghĩ nếu câu thơ này vì lí do nào đó mà không có thì sức hấp dẫn của đoạn thơ sẽ giảm đi rất nhiều bởi lẽ chính câu thơ tạo nên nét thứ hai cho bức tranh về thiên nhiên Tây bắc. Thiên nhiên Tây bắc hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở nhưng đầy thơ mộng. Chất tài hoa của Quang Dũng được thể hiện khá trọn vẹn ở chỗ nhà thơ nhắc đến mưa rừng mà tạo cảm giác đứng trước biển lại người lên vẻ đẹp của người lính chân đứng trên dốc cao đầu gội trong mưa lớn. Cứ một nét bút gân guốc lại xen vào một nét bút mềm mại, trữ tình tạo cho bức tranh về thiên nhiên Tây Tiến cân đối hài hòa.

· Nhắc lại những thử thách khắc nghiệt cũng là để nói đến sức chịu đựng bền bỉ của con người. Từ đây Quang Dũng vụt nhớ đến hình ảnh những đồng đội, dù can trường trong dãi dầu nhưng có khi gian khổ đã vượt quá sức chịu đựng khiến cho người lính đã gục ngã, nhưng gục ngã trên tư thế hành quân.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời”
· Nói đến cái chết mà lời thơ cứ nhẹ như không. Dường như người lính Tây Tiến chỉ bỏ quên đời một lát rồi lại bừng tỉnh và bước tiếp. Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách biểu hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa trương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nhưng sống và chiến đấu trong một địa bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.

· Vùng đất xa xôi hiểm trở với những nét dữ dội hoang dã:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

· Cảnh hiểm trở cheo leo nhưng đâu có tĩnh lặng thanh bình... Với những từ “oai linh”, “gầm thét” thác nước như một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và những con hổ đi lang thang hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ.

· Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già nhà thơ bỗng nhớ lại một kỷ niệm ấm áp tình quân dân.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

· Trong gian khổ thiếu thốn người ta càng nâng niu càng quí trọng nghĩa tình. Hình ảnh những nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu tượng cho người dân Tây Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế. Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng. Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm xúc ấm nóng. Cái ấm nóng của tình người. Đây chính là chất lãng mạn bay bổng của đoạn thơ và nó như một nét vẽ tươi sáng của bức tranh.
· Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn thơ như một bức tranh thủy mặc cổ điển được phác thảo theo lối tạo hình phương đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật. Quang Dũng đã xây một đài kỷ niệm trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và người lính Tây Tiến.

· Đoạn 2. Con người Tây Bắc duyên dáng và tài hoa

· Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người. Cảnh trí miền Tây ở khổ thơ dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng thi vị giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này được xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng. Câu mở đầu đoạn tạo cảm giác đột ngột bừng sáng:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

· “Bừng lên” vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ “bừng lên” “hội đuốc hoa” thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn. “Bừng lên” vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh.
· “Hội đuốc hoa” đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện.”Em” xuất hiện lập tức trở thành trung điểm của mọi điểm nhìn.

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

· “Kìa em” lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.

Khèn lên man điệu nàng e ấp.

· Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với người lính Tây Tiến vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Ngời đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu là “em” tiếp đến là “nàng” rồi sau lại là “em”. Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh.

· Sẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta dừng lại ở đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ mới thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

· Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
· Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. “Hồn lau” những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang dăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện:

Có nhớ dáng ngời trên độc mộc

· Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất đắm say trước cảnh và người. ở đây cảnh như làm duyên với người.

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

· Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
· Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.

Đoạn 3: Người lính Tây Tiến hào hùng và hào hoa

· Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ ba có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.

· Chân dung đoàn binh Tây Tiến được chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói ngời, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

· Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân ấy thôi nhưng khi dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.

· Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

· “Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này mà chân dung người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc nhưng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trớc, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa. ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
· Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành.

· “Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đường hành quân, nhưng không thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

· Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu:

“Áo bào thay chiếu anh về đất”

· Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.
· Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

· Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng.

· Bốn câu kết:

· Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng chữ ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ Vệ quốc quân.
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”

· “Mùa xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
· Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường hành quân .“Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm hửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
 
Phân tích bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng

Bài viết

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Ở phương diện thơ ca, Quang Dũng mang trong mình hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu của đời thơ Quang Dũng, in trong tập “Mây đầu ô”, được viết vào một buổi chiều mưa lại Phù Lưu Chanh khi Quang Dũng rời đơn vị cũ chưa lâu. Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, nhà thơ xứ Đoài đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ. Bài thơ miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên Tây Tiến và ngợi ca người chiến sĩ với tinh thần anh dũng, bi tráng.

Mở đầu bài thơ là vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Tiến với một tiếng gọi từ hiện tại về đến quá khứ rất thân thương:

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi."

Thán từ ơi được ngân dài tha thiết với thanh bằng gợi sự dịu êm. Nhớ chơi vơi chính là nỗi nhớ không thể định hình mà lại bâng khuâng bao trùm cả không gian, thời gian. Hai câu đầu của bài thơ tác giả nhớ lại về những gì thân thuộc trong trí nhớ về Tây Tiến. Một hành trình gian khó, nhọc nhằn, khó khăn hiện ra. Vùng núi Tây Bắc với nhiều địa danh nổi tiếng: Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu gợi lên những miền rừng núi hùng vĩ đầy hoang sơ. Nhà thơ ngắt nhịp 3/4 tạo nên sự phân định rạch ròi hai hướng lên xuống trên con đường hành quân Tây Tiến. Những từ ghép, từ láy giàu được sử dụng để đặc tả sự gian nan.

"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời."

Khi chinh phục được tưởng chừng như con người đang bồng bềnh đứng giữa biển mây. Độ cao bầu trời chỉ còn trong tầm mũi súng. Độ rộng rãi thoáng đạt của không gian ùa tới. Ý thơ của Quang Dũng không chỉ tả cảnh mà còn tả ý chí tâm hồn của người lính. Người lính Tây Tiến không bị chìm đi trước thiên nhiên khắc nghiệt mà lại như trỗi dậy đầy thử thách.

"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."

Chinh phục được đỉnh núi rồi ta lại phát hiện về độ cao “heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Cồn mây cho thấy mây núi chồng chất dựng lên thành cồn thành dốc, dốc núi cao đến mức con đường lẫn vào mây khiến con đường hành quân của càng cheo leo, phức tạp. Ngửi trời là cách nói vui đùa của người lính qua đó nhà thơ cho thấy tâm hồn trẻ trung không sợ khó khăn, vất vả của người lính. Giữa mạch thơ với cái dữ dội của thiên nhiên là một ánh nhìn bay bổng: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi, đây là một phép liên tưởng thú vị. Giữa núi rừng trùng điệp, ngôi nhà ấm áp hiện lên làm xao xuyến lòng người xa quê.

Giữa phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ ấy là sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."

Núi rừng Tây Tiến đầy thử thách khiến chúng ta nghe thấy rõ ràng hơi thở nặng nhọc của người lính trên mỗi chặng hành quân. Họ là những gương mặt dãi dầu sương gió rồi cuối cùng “gục lên súng mà bỏ quên đời”. Từ láy “dãi dầu” diễn tả tất cả sự vất vả của các anh lính trên chặng đường chiến đấu. Người lính không thể tiếp tục bước đi cùng đồng đội. Bên cạnh đó Quang Dũng còn tả về sự ngang tàng, anh dũng của những người chiến sĩ không sợ quân thù.

"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."

Kết thúc hành trình gian khổ là hình ảnh cuộc sống thanh bình, êm đềm. Làn khói lam và mùi hương nếp xôi quyến rũ gợi về một cuộc sống yên bình đáng mơ ước. Mai Châu bỗng trở nên thân thuộc biết bao nhờ câu thơ và cách diễn đạt nỗi nhớ không thể của Quang Dũng: nhớ ôi Tây Tiến...

Tây Tiến thơ mộng, trữ tình dưới ngòi bút Quang Dũng:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."

Buổi liên hoan văn nghệ thật vui vẻ với ánh sáng rực rỡ của đêm hội đuốc hoa và bừng lên tỏa sáng trong cái nhìn ngạc nhiên của người chiến sĩ. Man điệu bí ẩn, say đắm, ngọt ngào làm mê hoặc lòng người. Vẻ đẹp của cô gái mềm mại, e ấp bên cạnh tiếng khèn rộn ràng. Người lính Tây Tiến chiêm ngưỡng say đắm vẻ đẹp của đêm văn nghệ với tâm hồn trẻ trung, vui vẻ.

"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?"

Nhà thơ đang hướng cảm xúc của mình về miền tây sông nước. Dòng người mềm mại, duyên dáng băng băng trên độc mộc thể hiện sự lãng mạn trong hồn thơ Quang Dũng và vẽ được cái hư ảo của hoài niệm, sự tinh tế của tình cảm.

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm."

Đoàn binh Tây Tiến xuất hiện với tư thế oai phong "dữ oai hùm”. Tuy nhiên sự thật là người lính đang phải hứng chịu những trận sốt rét khủng khiếp trong hoàn cảnh thiếu thốn thuốc men, vật chất. Đoàn quân ấy đang phải đối mặt với bao khó khăn, gian nguy, thiếu thốn.

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."

Giữa khung cảnh khắc nghiệt, người lính vẫn giữ tâm hồn lãng mạn đã mơ về hình ảnh yêu kiều của người con gái Hà Nội. Giấc mơ về Hà Nội yên bình vô cùng bay bổng lãng mạn và cũng là động lực tinh thần cho đoàn quân Tây Tiến.
Khát vọng chiến thắng, sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến được thể hiện qua câu thơ:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."

Khát vọng của họ là được ra đi và xả thân. Đó cũng là lý tưởng cao cả nhất trong cuộc hành trình gian khổ của người chiến sĩ. “Áo bào thay chiếu anh về đất” chỉ sự hy sinh cao cả của người lính. Con sông Mã gắn với tiếng gầm thể hiện cái chết oai hùng mang tầm sử thi.

"Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi."

Bài thơ kết thúc đầy xúc cảm. Đường lên Tây Tiến, đường đến với chiến thắng quả thật rất gian nan, thăm thẳm, xa cách và chẳng có một lời hứa hẹn chắc chắn nào. Nhưng với tinh thần, ý chí chiến đấu của người lính chắc chắn sẽ đập tan quân thù. Bài thơ sử dụng bút pháp lãng mạn để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và hiện thực khốc liệt nơi chiến trường qua đó cho thấy vẻ đẹp tâm hồn, ý chí cao cả của người lính Tây Tiến.

Quang Dũng đã làm sống lại trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Từ đó giúp ta thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính trong thời chiến, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình ngày hôm nay, để ta trân trọng hơn những cống hiến không màng danh lợi, những hi sinh không kể đáp đền.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top