• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Phân tích bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu

bichngoc

Moderator
Phân tích bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu


Đồng chí là tiếng gọi thân thương tha thiết, biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội của anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng Pháp. Cảm nhận được tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ - chiến sĩ đã xúc động viết bài thơ Đồng chí. Với lời thơ chân chất, tràn đầy tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc.

Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ. Họ là những người xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen việc "cuốc cày" ở những vùng quê nghèo khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ xa lạ bỗng trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người ấy bằng lời thơ thật xúc động :

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau


Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khổ "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá". Từ "xa lạ" gặp nhau. Thật là thú vị, nhà thơ không nói hai người xa lạ mà là "đôi người xa lạ", vì thế ý thơ được nhấn mạnh, mở rộng thêm. "Hai người" cụ thể quá. Đôi người là từng "đôi" một - nhiều người. Trong đơn vị quân đội ấy, ai cũng thế. Hình ảnh những con người chẳng hẹn quen nhau nói lên một sự xa lạ trong không gian và tình cảm. Nhưng khi tham gia kháng chiến, những con người ấy cùng nhau chiến đấu, cùng nhau chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì thế họ trở thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là "đồng chí".

"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí"


Tình cảm ấy thật thân thương, thật tha thiết. Giọng thơ đang liền mạch nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình, bỗng ngắt nhịp đột ngột. Từ Đồng chí lại được tách ra làm câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường ấy tác giả đã làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ Đồng chí - một tiếng nói thiêng liêng. Đồng chí một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong quan hệ tình cảm. Thế là thành đồng chí.

Tình cảm ấy lại đựơc biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. Những lúc kề bên nhau, họ lại kể cho nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện "Ruộng nương anh gửi bạn thân cày", "Gian nhà không mặc kệ gió lung lay" cả chuyện "Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"... Từ những lời tâm tình ấy cho ta hiểu rằng : Các anh chiến sĩ mỗi người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và khi ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong họ. Các anh lại cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả họ lại tìm được niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những lúc ướt mồ hôi, cùng chịu với nhau từng cơn ớn lạnh. Cuộc sống bộ đội nghèo vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá... dẫu trời có buốt giá thì miệng vẫn cười tươi. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả bằng lời mà lại thể hiện bằng cách nắm lấy bàn tay. Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất của cải, không phải là những lời hoa mĩ phô trương. Những người chiến sĩ biểu hiện tình đồng chí là bàn tay nắm lấy bàn tay. Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên tất cả những ý nghĩ thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng chí :

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo


Câu thơ vừa tả cảnh thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính phục kích chờ giặc trong đêm sương muối. Súng hướng mũi lên trời có ánh trăng lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời "Đầu súng trăng treo" còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn Vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính chiến đấu vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thật độc đáo gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu và mối tình đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.

Bằng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sự khái quát cao, Chính Hữu đã cho ta thấy rõ quá trình phát triển của một tình cảm cách mạng trong quân đội. Ở đây nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực của cuộc sống thực trong đời thường của người chiến sĩ, không phô trương, không lãng mạn hóa, thi vị hóa, chính những nét thực đó tạo nên sự thành công của tác phẩm. Bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác và cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong thơ thời kì chống Pháp.

(Sưu tầm)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ

Chính Hữu là một trong những nhà thơ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ. ông viết thơ không nhiều và chủ yếu là viết về đề tài người lính trong cuộc kháng chiến với một cảm xúc dồn nén và ngôn ngữ cô đúc, chọn lọc. Đồng chí được viết vào năm 1948 rút trong tập "Đầu súng trăng treo" là một trong những bài thơ tiêu biểu về người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Hai dòng thơ đầu tiên tác giả giới thiệu hoàn cảnh xuất thân của người lính

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá


" Anh" và "tôi" được tác giả đặt ở hai câu thơ tạo ra một sự sóng đôi trong cấu trúc với những lời thơ mộc mạc chân tình như chính hoàn cảnh xuất thân của họ. Anh ra đi từ vùng "nước mặn đồng chua" còn tôi vào lính từ một vùng "đất cày lên sỏi đá". Đó là những mảnh đất bạc màu, nhiễm mặn cằn cỗi, khô cằn. ở họ đều giống nhau ở cái nghèo khó, vất vã, giống nhau ở cái chất nông dân chất phác. Anh và tôi từ xa xôi thành gần gũi, từ lạ trở thành thân quen. Và cũng từ đây họ trở thành "đồng đội" và "tri kỉ" của nhau. Cách sử dụng hai thành ngữ rất sáng tạo khiến câu thơ trở nên gần gũi và giàu hình ảnh.

Tình đồng chí không những bắt nguồn từ cảnh ngộ mà hơn thế nữa, tình đồng chí còn được hình thành từ cùng chung nhiệm vụ, chung lí tưởng, sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu.

Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ


Hai hình ảnh hoán dụ "súng" và "đầu" được tác giả đặt gần nhau khẳng định sự thống nhất trong lí trí và tình cảm của người chiến sĩ. "Súng" biểu tượng cho chiến tranh, cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, "đầu" biểu tượng cho lí trí và tình cảm. Từ cái khó khăn, thiếu thốn khiến cho người lính hiểu và cảm thông cho nhau hơn và chính điều đó đã khiến họ trở thành "tri kỉ". Thật cảm động biết bao khi đọc câu thơ "đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ". Đúng là "trong khó khăn, hoạn nạn mới hiểu lòng nhau" như câu ngạn ngữ đã nói. Sự nghiệp giải phóng dân tộc đã xoá bỏ mọi khoảng cách xa lạ về không gian nơi sinh sống của mỗi người. ""Súng bên súng" là chung chiến đấu, "đầu sát bên đầu" thì chung rất nhiều: không chỉ là gần nhau về không gian mà còn chung nhau ý nghĩ, lí tưởng" . Đến khi đắp chung chăn trong đêm giá rét thì họ đã thực sự là anh em một nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: "Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" để thể hiện tình kháng chiến gắn bó, bền chặt. Để nói về sự gần gũi, sẻ chia, về cái thân tình ấm áp không gì hơn là hình ảnh đắp chăn chung. Như thế, tình đồng chí đã bắt nguồn từ cơ sở một tình tri kỉ sâu sắc, từ những cái chung giữa "anh" và "tôi". Tri kỉ là hiểu bạn như hiểu mình, sẵn sàng chia sẻ ngọt bùi, đắng cay với bạn. Tại sao tác giả dùng từ “đôi” mà không dùng từ “hai”? đôi là gắn bó chặt chẽ với nhau, không tách ròi nhau như đôi bát , đôi đũa ..Đó là cách độc đáo trong cách dùng từ của nhà thơ.

Hai tiếng "đồng chí" được tá giả cố ý tách thành một câu thơ như một dụng ý nghệ thuật vừa tạo ra sự hài hoà, cân đối của bài thơ vừa tạo ra ra điểm nhấn như khẳng định sự thiêng liêng cao đẹp của tình cảm đồng chí, đồng đội đồng thời nó khép lại một ý thơ.

Câu thơ chỉ vẻn vẹn có hai chữ như chất chứa, dồn nén bao cảm xúc sâu xa từ sau câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo. Đó chính là cái làm nên chất hàm súc trong ngôn từ của Chính Hữu.

Những câu thơ tiếp theo là những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí và đồng đội.

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ giáo lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Hình ảnh ruộng nương, gian nhà không, giếng nước, gốc đa hiện lên thật bình dị mà gần nũi biết bao. Đó là những hình ảnh rất thân quen của những người nông dân. Ruộng vườn và căn nhà lung lay trước gió đang chờ đợi những bàn tay của người chồng, người cha sửa chữa thế nhưng người lính vẫn tạm gác lại tất cả lo toan và tính toán nơi quê nhà để ra trận. Người lính ở đây đã hi sinh tất cả những gì là riêng tư là cá thể để đi làm nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả hơn, họ đã đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân . Họ ra đi mang theo trên vai mình cả trọng trách của cả Tổ quốc, từ "mặc kệ" vừa dứt khoát vừa quyết tâm. Có người cho rằng người lính ở đây thật vô tình vì còn có gì sâu nặng hơn gia đình quê hương vậy mà họ không chút bận tâm khi ra đi. Nhưng đó mới là cái làm nên sự cao đẹp không gì sánh nổi trong tình cảm của người lính. Là con người - nhất là người Việt Nam thường sống nặng về tình cảm chắc không ai "mặc kệ" quê hương, gia đình nhưng ở người lính còn một thứ tình cảm còn to lớn hơn rất nhiều, đó là tình cảm với Tổ quốc dân tộc. Họ sẵn sàng hi sinh tình cảm quê hương, làng xóm, gia đình để phục vụ cho Tổ quốc cho lí tưởng cách mạng. Chúng ta càng phải cảm động và cảm thông cho những mất mát và thiệt thòi cho họ. Hình ảnh nhân hoá "giếng nươc gốc đa" khiến ta nghĩ đến những người thân, làng xóm đang ngóng trông họ trở về trong khúc khải hoàn ca chiến thắng. Chắc rằng đó cũng là nỗi nhớ của người lính với quê hương, gia đình.

Khi trở thành đồng chí, đồng đội của nhau người lính phải chịu rất nhiều thử thách. Thử thách trong thiếu thốn, trong bệnh tật và trong chiến đấu.

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá..
Chân không giày


Lại là những câu thơ rất chân thật về hoàn cảnh của anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu cuộc kháng chiến chông Pháp. Người lính không chỉ thiếu ăn, thiếu mặc và hơn hết là họ luôn phải đối mặt với những cơn bệnh sốt rét khủng khiếp vì những đêm dài hành quân trong rừng Trường Sơn. Chắc hẳn chúng ta không ai quên những câu thơ của Quang Dũng đã viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm


Đó là những người lính bị bệnh sốt rét đến mức tóc rụng hết nhưng không vì thế mà họ nhụt chí, yếu đuối ngược lại ở họ vẫn giữ được khí phách oai nghiêm, kiên cường đạp lên mọi chông gai thử thách để chiến thắng mọi khó khăn, mọi kẻ thù. Nếu như Quang Dũng nói đến sốt rét để tô đậm vẻ đẹp bi tráng của những người chiến sĩ thì Chính Hữu nói về cái rét, cái ác nghiệt của sốt rét là để nói về tình đồng đội, đồng chí trong gian khổ, là sự thấu hiểu, cảm thông giữa những người lính. Trong bất cứ sự gian khổ nào cũng thấy họ sát cánh bên nhau, san sẻ cho nhau: "Anh với tôi biết...", "áo anh... - Quần tôi...", "tay nắm lấy bàn tay". Cái "Miệng cười buốt giá" kia là cái cười lạc quan ngay cả trong gian khổ để vượt lên gian khổ, cười trong buốt giá để lòng ấm lên, cũng là cái cười đầy cảm thông giữa những người đồng đội. Giá buốt mà không lạnh lẽo cũng là vì thế.

Đọc những câu thơ này ta vừa không khỏi chạnh lòng khi thấu hiểu những gian nan, vất vả khi thế hệ cha ông đã từng tãi qua và dâng trào một niềm khâm phục ý chi và bản lĩnh vững vàng của nhữngngwời dân vệ quốc. Người lính càng chịu đựng nhiều gian khổ thì tình đồng chí, đồng đội càng gắn bó hơn càng bền chặt hơn.

Tình cảm của họ vẫn bền chặt không gì tách rời "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay" . Đó là cái nắm tay truyền cho nhau sức mạnh để chiến đấu, truyền cho nhau tình yêu thương và sự cổ vũ, động viên. Cái nắm tay tuy âm thầm, lặng lẽ trong đêm sương giá buốt nhưng hơi ấm của nó có sức lan toả đến tận trái tim, thấm cả vào lòng người. Hơi ấm đó đủ để xoá tan đi cái nhợt nhạt, lạnh cóng của đêm sương, để sưởi ấm tình đồng chí. Nhà thơ đã phát hiện ra sức mạnh tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính.

Người đọc nhận thấy các hình ảnh thơ, ngôn từ thật giản dị nhưng lại có sưc truyền cảm rất lớn.

Cả bài thơ không có một hình thức nghệ thuật nào cao siêu xa lạ mà với những hình ảnh chân thực, giọng điệu chân thực, bút pháp hiện thực và đặc biệt là ngôn ngữ rất cô đúc, giản dị giống như người nông dân Chính Hữu đã tái hiện lại một quá khứ chiến tranh đầy gian khổ mà hào hùng, khó khăn thiếu thốn mà gắn bó keo sơn của những người lính Cụ Hồ trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ Đồng chí đã thể hiện rất rõ vẻ đẹp của những con người sống và chiến đấu vì hạnh phúc, tự do.

(Sưu tầm)
 
PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ CỦA CHÍNH HỮU

Lịch sử nước ta đã đi qua biết bao thăng trầm biến cố. Mỗi lần biến động là mỗi lần dân ta sít gần lại nhau hơn, cùng nhau vì mục đích cao cả chung. Đó là những năm tháng hào hùng, khí thế của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu tranh chống Pháp, chống Mĩ vĩ đại. Giữa những đau thương chiến đấu, cuộc chiến còn góp phần đắp xây nên mối quan hệ giữa những người lính với nhau. Cho nên không có gì khó hiểu khi vào năm 1948, tác phẩm “ Đồng Chí” của nhà thơ Chính Hữu lại tạo nên một sự bùng nổ, lan truyền rộng khắp trong giới quân đội. Bài thơ “Đồng chí” ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong nhữg năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Chính bài thơ đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ.

Đồng chí

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sòi đá
Anh với tôi vốn người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đên rét chung chăn, thành đôi tri kỷ
Đồng chí!

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới
Đầu súng trăng treo.

Trong bài thơ “Đồng Chí”, Chính Hữu đã khắc hoạ thành công cái chất hiền lành, tình nghĩa mộc mạc mà dung dị cũng như tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng cao cả của những người lính nông dân áo vải. Từ moi miền quê trên dải đất quê hương, những con người xa lạ bỗng đứng lên theo tiếng gọi của Tổ Quốc, cùng họp lại với nhau, trở thành một con người mới: Người Lính. Họ là những người nông dân từ những vùng quê lam lũ đói nghèo, quanh năm chỉ biết đến con trâu mảnh ruộng, các anh giã từ quê hương lên đừơng chiến đấu:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Không hẹn mà nên, các anh đã gặp nhau tại một điểm là tình yêu quê hương đất nước. Từ những người “xa lạ” rồi thành “đôi tri kỉ”, về sau thành “đồng chí”.Câu thơ biến hoá 7,8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại.Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì:”Anh với tôi đôi người xa lạ-Tự phương trời chẳng hen quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”


Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu vai kề vai, súng bên súng, chia nhau gian khổ, nguy hiểm, đêm đắp chung một chiếc chăn chịu rét. Đắp chung chăn trỏ thành biểu tượng của tình thân hữu, ấm cúng ruột thịt. Những cái chung đã biến những con người xa lại thành đôi tri kỉ. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc để làm nên tình bạn, tình đồng chí.
Tấm lòng của họ đối với đất nước thật càm động khi giặc đến các anh đã gửi lại người bạn thân mảnh ruộng chưa cày , mặc kệ những gian nhà bị gió cuốn lung lay để ra đi kháng chiến . Bình thường vậy thôi , nhưng nếu không có một tình yêu đất nước sâu nặng không thể có một thái độ ra đi như vậy.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay “


Họ đứng lên chiến đấu chỉ vì một lẽ giản dị: yêu nuớc Tình yêu đất nước, ý thức dân tộc là máu thịt, là cuộc đời họ, bởi vậy, nông dân hay trí thức chỉ mới nghe tiếng đau thương của quê hương, họ sẽ bỏ lại tất cả, cả ruộng nương, xóm làng. Chỉ đến khi ở nơi kháng chiến người lính nông dân áo vải lại trở mình, lòng lại bận tâm lo lắng về mảnh ruộng chưa cày, với căn nhà bị gió lung lay. Nỗi nhớ của các anh là thế: cụ thể nhưng cảm động biết bao. Người lính luôn hiểu rằng nơi quê nhà người mẹ già, ngừơi vợ trẻ cùng đám con thơ đang trông ngóng anh trở về:

“Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính.”


Trong những tâm hồn ấy, hẳn sự ra đi cũng đơn giản như cuộc đời thường nhật, nhưng thực sự hành động ấy là cả một sự hy sinh cao cả. Cả cuộc đời ông cha gắn với quê hương ruộng vườn, nay lại ra đi cũng như dứt bỏ đi nửa cuộc đời mìn.

Sống tình nghĩa, nhân hậu, hay lo toan cũng là phẩm chất cao đẹp của người lính nông dân. Với họ vượt qua gian khổ thiếu thốn của cuộc sống là điều giản dị bình thường, không có gì phi thừơng cả.

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!"


Chính Hữu đã khắc hoạ hiện thực khó khăn mà người lính gặp phải. Đối mặt với những khó khăn đó, những người lính không hề một chút sợ hãi, những thử thách giữa nơi rừng thiêng nước độc cứ kéo đến liên miên nhưng người lính vẫn đứng vững, vẫn nở “miệng cười buốt giá”. Đó là hình của sự lạc quan, yêu cuộc sống hay cũng là sự động viên giản dị của những người lính với nhau. Những câu thơ hầu như rất giản dị nhưng lại có sức lay động sâu xa trong lòng người đọc chúng ta.Tuy nhiên từ trong sự bình thường, hình ảnh người lính của Chính Hữu vẫn ánh lên vẻ đẹp rực rỡ của lí tưởng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ Quốc, dũng cảm lạc quan trước hiểm nguy kẻ thù rình rập:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới
Đầu súng trăng treo.”


Thật là bức tranh đơn sơ, thi vị về người lính trong một đêm chờ giặc tới giữa nơi rừng hoang sương muối. Những người lính kề vai, sát cánh cùng hứơng mũi súng vào kẻ thù . Trong cái vắng lặng bát ngát của rừng khuya, trăng bất ngờ xuất hiện chơi vơi lơ lửng nơi đầu súng. Những ngừơi lính nông dân giờ đây hiện ra với một tư thế khác hẳn, như những người nghệ sĩ đầy chất thơ, bình dị nhưng vẫn đẹp lạ lùng.

Sẽ là một thiếu sót rất lớn khi lại đề cập quá nhiều đến hình tượng người lính mà lại không nói về tình đồng chí, tình đồng đội của người chiến sĩ trong bài thơ. Tìm hiểu nhau, những người lính hiểu ra họ có cùng chung quê hương vất vả khó nghèo, chung tình giai cấp, chung lí tưởng và mục đích chiến đấu. Chính cái chung ấy như một thứ keo sơn bền vững nối cuộc đời ngững người lính với nhau để làm nên hai tiếng “ đồng chí " xúc động và thiêng liêng.

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”


Vẻ đẹp tâm hồn nơi người lính không chỉ phát ra từ những hiện thực khó khăn hiểm nguy mà còn phát ra từ vừng ánh sang lung lính, chính là tình đồng đội. Vượt rừng đâu phải chuyện dễ dàng! Những căn bệnh quái ác, những đêm tối lạnh buốt xương, những thiếu thốn vật chất của đoàn quân mới được gầy dựng vội vã. Nhưng những người lính đã cùng nhau vượt qua. Họ lo cho nhau từng cơn sốt, từng míếng áo rách, quần vá. Với họ quan tâm tới những người đồng đội giờ đây cũng như là quan tâm chăm sóc cho chính mình. Ôi ấm áp biết mấy là cái xiết tay của đồng đội lúc gian khó. Cái xiết tay truyền đi hơi ấm, sức mạnh cho ý chí con người. Và cùng nhau, giúp đỡ nhau, những người lính vượt qua với tư thế ngẩng cao đầu trước mọi thử thách, gian nan .

"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!"


Cái khốn khó, gian truân hãy còn dài trên bước đừơng kháng chiến dân tộc. Nhưng dường như trước mắt những con người này, mọi thứ không còn hiểm nguy. Trong đêm trăng váng lặn, bát ngát giữa rừng hoang sương muối, những người lính vẫn kề vai, sát cánh cùng hướng mũi súng về phía kẻ thù.

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới"


Sức mạnh của sự tin tưởng lẫn nhau, của sự quan tâm tới nhau giữa những người lính đã làm vững chắc thêm tình đồng đội trong họ. Bởi họ biết rằng khi cùng nhau thắp lên tình đồng chí vững bền, sức mạnh chung nhất sẽ là sức mạnh mạnh nhất. Mục đích chiến đấu vì quê hương, vì Tổ Quốc của họ sẽ càng mau chóng đạt được. Khi ý chí và mục đích hợp chung con đường, thì tình cảm giữa họ càng thắm thiết, sâu đậm. Đó là tình đồng chí giữa những người lính …

Không chỉ dừng ở cung bật tình cảm giữa những người lính, bài thơ “Đồng Chí” còn mang ta đến chi tiết lãng mạn cao hơn ở cuối bài:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới
Đầu súng trăng treo.”


Người lính không cô đơn lạnh lẽo vì bên anh đã có đồng đội và cây súng, là những người bạn tin cậy nhất, tình đồng chí đã sưởi ấm lòng anh. Người chiến sĩ toàn tâm toàn ý hường theo mủi sung. Chính lúc ấy, các anh bắt gặp một hiện tưỡng kì lạ.
“Đầu súng trăng treo.”

Nét sáng tạo độc đáo thể hiện bản lĩnh nghệ thuật của của Chính Hữu qua bài thơ chính là hình ảnh này. Từ tình đồng chí, trải qua những thử thách khác nhau, Chình Hữu đã tạo nên cái nhìn đầy chất thơ. Nếu hai câu thơ trên không kết hợp với hình ảnh “ đầu súng trăng treo” thì nó khó có những giá trị đặc sắc. Ngược lại, nếu không có sự nâng đỡ của của hai câu thơ đó thì hình ảnh sẽ bị coi là thi vị hoá cuộc sống chiến đấu người lính. Sự quyện nhuần nhuyễn giữa hiện thực và chất thơ lãng mạn, bay bổng đã làm cho “ đầu súng trăng treo" trở thành một trong những hình ảnh đẹp nhất thơ ca kháng chiến chống Pháp. Câu thơ chỉ vỏn vẹn bốn từ nhưng nó bao hàm cả cái tình, cái ý và đặc biệt là sự càm nhận tinh tế của Chính Hữu. Nhờ sự lien tưởng thong minh tài tình, tâm hồn giàu cảm xúc, Chính Hữu đã gợi lên một không gian bát ngát giữa vũ trụ bao la, nó có cái gì đó rất bồng bềnh, huyền bí , khó tả .Hình ảnh đó gây được ấn tượng thẩm mĩ sâu sắc với người đọc . đồng thời, nó trở thành hình tượng đa nghĩa độc đáo của thi ca. “ Đầu súng trăng treo “ được xây dựng bằng bút pháp siêu thực, đầy chất thơ. Tại sao vậy ? Chúng ta thực sự đánh giá cao không gian nghệ thuật hiện thực của “ nuớc mặn đồng chua", “ đất cày lên sỏi đá” và đặc biệt là không gian “ rừng hoang sương muối"; nó đã góp phần tô đẹp thêm hình tượng vầng trăng, cây súng. Hai hình ảnh này đối lập nhau rất rõ. Một bên là vầng trăng muôn thưở hấp dẫn và kì la, thanh bình với thi ca. Nó biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, hoà bình, hạnh phúc của nhân loại, đồng thời cũng là ước mơ cuộc sống tượi đẹp hoà bình hạnh phúc. Nhưng trăng ở đây lại được đặt trong mối quan hệ với súng . Một bên là súng, súng biểu tượng cho chiến tranh và cái chết nhưng súng cũng trở thành lí tưởng cao đẹp , tinh thần chếin đấu vì cuộc sống hoà bình dân tộc của ngừơi chiến sĩ. Trăng là vẻ đẹp lãng mạn, súng là hiện thực . Tuy đối lập , nhưng hai hình tượng này đã tôn thêm vẻ đep cho nhau, tạo nên vẻ đẹp hoàn mĩ nhất. Không phải ngẫu nhiên khi Chính Hữu đưa hai hình ảnh ngược nhau trong một câu thơ . Qua đó ông muốn khẳng định cái khát vọng về một cuộc sống yên lành đầy chất thơ: để cho vầng trăng kia sang mãi, trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, mọi người phải cầm súng chiến đấu. Có thể nói, hình ảnh “ Đầu súng trăng treo" là một phát hiện thú vị, mới lạ độc đáo của Chính Hữu. Chính hữu đã sử dụng bút pháp hiện thực để tạo nên hình ảnh thơ vừa hiện thực vừa lãng mạn. Trăng và súng kết thành một không gian thơ trữ tình, là biểu tượng cho tình thần dũng cảm, hào hoa muôn thưở của dân tộc nói chung và ngừơi lính nói riêng.

Bài thơ đã kết thúc nhưng nó sẽ còn sống mãi chừng nào con người chưa mất đi bản năng của chính mình: sự rung động. Quả thật văn chương đã tạo ra cho mình một thế đứng riêng còn mạnh hơn lịch sử. Cùng tái hiện lại một thời đau thương nhưng vĩ đại và hình tượng người chiến sĩ nhưng văn chương đã đến với người đọc theo con đường của trái tim, gây nên những xung động thẫm mĩ trong tâm hồn con người, làm thành sự xúc cảm tận đáy tâm hồn và những ấn tượng không thể nào quên. Đó là những năm đau thương chứng kiến những con người cao cả kiên cường, những người lính dũng cảm bất khuất. Họ không khô khan mà bầu nhiệt huyết nung nấu, tràn đầy lòng hy sinh , với tình đồng đội trong sáng, thân ái. Chính những điều đó làm bài thơ “Đồng Chí ” trên những trang giấy vẫn có lúc được lật lại, vẫn nhỏ từng giọt ngân vang, tưởng đến những con người thần kì mà bình dị với niềm tự hào kiêu hãnh, cho nay và mai sau mãi nhớ về.

ST
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Phân tích bài thơ : Đồng chí của Chính Hữu

PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ CỦA CHÍNH HỮU

giúp sherlockcoc phân tick bài thơ này với . :dispirited: Thank you trước nha. càng hay càng tốt .Mình dốt lắm .
 
Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể có sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ " Đồng chí" với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui ,với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hy vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng. Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc? Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên,hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc.

Mở đầu bài thơ"Đồng chí", Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:


"Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"


Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. Đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. "Anh" và "tôi", hai người bạn mới quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họp tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu,họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:

"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"


Họ đến với Cách mạng cũng vì lý tưởng muốn dâng hiến cho đời. "Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình". Chung một khát vọng, chung một lý tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào....

Dường như tình đồng đội cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn,câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:
"Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí !..." Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ dưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc.

Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất. Nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng như mảnh mai hơn.. Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu.
Hồi ức của những người lính, những kỷ niệm riêng tư quả là bất tận:

"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay"


Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao ! Đối với những người nông dân, ruộng nương, nhà cửa là những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng,họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ.Họ lơn lên trong những "gian nhà không mặc kẹ gió lung lay". Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc....Nhưng...họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả nhưng bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính.

Dẫu răng" mặc kệ" nhưng trong lòng họp vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn,nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay đọng hồn thơ, hồn người:


"Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"


Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa"giêng nước gốc đa" cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chòng và những đôi trai gái yêu nhau....

Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:


"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần anh có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày"


Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn, vất vả, thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người lính còn thiếu thốn quân trang, quân dụng,phải đối mặt với sốt rét rừng,cái lạnh giá của màn
đêm.....Chỉ đôi mảnh quần vá,cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng,nó gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa....Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất cả những người lính.

Tình đồng chí:


"Là hớp nước uống chung, năm cơm bẻ nửa
Là chia nhâu một trưa nắng, một chiều mưa

Chia khắp anh em một mẩu tin nhà

Chia nhau đứng trong chiến hào chặt hẹp

Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết"
( Nhớ- hồng Nguyên)


Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tổ quốc, một nụ cười ngạo nghễ, yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng...

"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giác tới''


Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trog gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết. Vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả bài thơ,câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:


" Đầu súng trăng treo"

Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:
" Hồi chiến tranh ở rừng Vầng trăng thành tri kỉ" ( Ánh trăng- nguyễn Duy)

Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời gian,ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. người chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau " kề vai sát cánh" cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.


Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình.
Bài thơ " Đồng chí" với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.....
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.

Bài làm

“Đồng chí” là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ, làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.

Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.

Bài thơ “đồng chí” ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).
Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt” người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:

Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi “nước mặn đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.

Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến : từ “đôi người xa lạ” rồi “thành đôi tri kỉ” , về sau kết thành “đồng chí”. Câu thơ biến hóa, bảy, tám từ rồi rút lại, nén xuống hai từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì : “Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ
Đồng Chí !

“Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng : cùng chung lí tưởng chiến đấu ; “anh với tôi” cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập , tự do và sự sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là một câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới “thành đôi tri kỉ”. Đôi tri kỉ là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ bảy , tám từ đột ngột rút ngắn lại hai từ “đồng chí” diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ : bên, sát, chung,thành – đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, không bao giờ có thể quên:

Ôi núi thẳm rừng sâu
Trung đội cũ về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
Nơi đây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét ban đầu
Thấm mối tình Việt Bắc…
(Chiều mưa đường số 5 – Thâm Tâm)

Ba câu thơ tiếp theo nói lên hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ : nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính.

Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: “Cây đa cũ, bến đò xưa…Gốc đa, giếng nước ,sân đình…” , được Chính Hữu vận dụng đưa vào thơ rất đậm đà , nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận? Hay “người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương? Có cả hai nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời. Tình yêu quê hương đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa. CŨng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ “ Bao giờ trở lại”, Hoàng Trung Thông viết :

Bấm tay tính tuổi anh đi
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê
Anh đi là để giữ quê quán mình.
Cây đa bến nước sân đình,
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.
Hoa cau thơm ngát đầu nương
Anh đi là giữ tình thương dạt dào.
(…) Anh đi chín đợi mười chờ
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?

Bảy câu thơ nối tiếp ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu. Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác…nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn : thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men…Người lính ra trận “áo vải chân không đi lùng giặc đánh”, áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày….

Chữ “biết” trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ “anh với tôi”, ‘áo anh…quần tôi’ xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao đẹp. Câu thơ bốn tiếng cấu trúc tương phản: “Miệng cười buốt giá” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên : “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình thương đồng đội, đồng chí được biểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương : “tay nắm lấy bàn tay”. Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, “đi tới và làm nên thắng trận”.

Phần cuối bài thơ ghi lại hình ảnh hai người chiến sĩ – hai đồng chí trong chiến đấu. Họ cùng “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Cảnh tượng chiến trường là ‘rừng hoang sương muối’, một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng ‘chờ giặc tới’ , hai chiến sĩ vẫn ‘đứng cạnh bên nhau’ , vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm trăng trên chiến khu. Một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:

Đầu súng trăng treo

Người chiến trên đường ra trận thì ‘ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan’. Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông ‘rừng hoang sương muối’ thì có ‘đầu súng trăng treo’. Cảnh vừa thực vừa mộng. Về khuya trăng tà, trăng lơ lửng biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hy sinh. “Đầu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ – đóa hoa đầu mùa – của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu, trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh ‘chờ giặc tới’. Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh (sẽ diễn ra?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.

Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng , thơ mộng khi nói về dời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.
Ngôn ngữ thơ hàm súc , mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tình. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.

Đồng Chí là bài thơ độc đáo viết về anh bộ đội cụ Hồ - người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, cao cả và thiêng liêng.

Theo 100 bài văn hay lớp 9*
 
Em hãy phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.


Ðồng chí là một bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Chính Hữu và của thơ ca Việt Nam hiện đại. Hễ nói tới thơ Chính Hữu là người ta không thể không nghĩ đến Ðồng chí.

Bài thơ được sáng tác vào năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, đánh dấu sự xuất hiện cuả một nhà thơ mới trong thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ lúc đầu dán ở báo tường đơn vị, sau in vào báo Sự thật, rồi được chép vào sổ tay các cán bộ, chiến sĩ, được phổ nhạc, trở thành tải sản chung của mọi người.

Ðồng chí là bài thơ ca ngợi một tình cảm mới, quan hệ mới giữa người và người trong cách mạng và kháng chiến. "Ðồng chí" trong ngôn ngữ sinh hoạt chính trị và đời thường đã thành tiếng xưng hô quen thuộc, khi lý tưởng cách mạng đoàn kết, gắn bó mọi người đã bắt rễ sâu vào đời sống. Nhưng mấy ai đã cảm nhận được nội dung tình cảm phong phú mới mẻ chứa đựng trong hai tiếng ấy?

Ðể làm hiện lên nội dung mới lạ trong những từ ngữ quen thuộc, nhà thơ phải dùng phép "lạ hóa". Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ bắt đầu từ những cái khác biệt và xa lạ. Ðây là lời của những người đồng chí tự thấy cái mới lạ của mình:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi hai người xa la
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

Mỗi người một quê, đất đai canh tác khác nhau, tập quán, phong tục hẳn là cũng khác. Miền biển nước mặn, đất phèn. Vùng đồi trung du đất ít hơn sỏi đá. Những con người tự nhận là xa lạ, cách nhau cả một phương trời và chẳng hẹn hò quen nhau. ấy thế mà có một sức mạnh vô song, vô hình biến họ thành đôi tri kỷ:

Súng bên súng đầu gác bên đầu
Ðêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ.

Ðó là cuộc sống và chiến đấu chung đã làm thay đổi tất cả. Hai dòng thơ chỉ có một chữ "chung": "Ðêm rét chung chăn", nhưng cái chung đã bao trùm tất cả. "Súng bên súng" là chung chiến đấu, "đầu sát bên đầu" thì chung rất nhiều: không chỉ là gần nhau về không gian mà còn chung nhau ý nghĩ, lý tưởng. "Ðêm rét chung chăn" là một hình ảnh thật cảm động và đầy ắp kỷ niệm. Những người từng kháng chiến ở Việt Bắc hẳn không ai quên cái rét Việt Bắc và của vùng rừng núi nói chung. Hồi ấy nhà thơ Tố Hữu từng viết: "Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế, Gió qua rừng Ðèo Khế gió sang". Cũng không ai quên được cuộc sống chung gắn bó mọi người: "Bát cơm sẻ nữa, chăn sui đắp cùng". Ðắp chăn chung trở thành biểu tượng của tình thân hữu, ấm cúng, ruột thịt. Những cái chung ấy đã biến những con người xa lạ "thành đôi tri kỷ"

Hai chữ "Ðồng chí" đứng riêng thành một dòng thơ là điều rất có ý nghĩa. Nhà thơ hoàn toàn có thể viết thế này: "Ðêm rét chung chăn thành đôi đồng chí". "Ðồng chí" và "tri kỷ" đều cùng một vần bằng, vần trắc, hai chữ hoàn toàn có thể thay thế nhau mà không làm sai vận luật, mà bài thơ có thể rút ngắn được một dòng. Nhưng nếu viết như thế thì hỏng. Ðêm rét chung chăn có nghĩa hai chữ "Ðồng chí" rộng lớn vô cùng. "Tri kỷ" là biết mình và suy rộng ra là biết về nhau. "Ðồng chí" thì không phải chỉ biết nhau, mà còn phải biết được cái chung rộng lớn gắn bó con người trên mọi mặt.

Hai chữ "Ðồng chí" đứng thành một dòng thơ đầy sức nặng suy nghĩ. Nó nâng cao ý thơ đoạn trước và mở ra ý thơ các đoạn sau. "Ðồng chí" là cái có thể cảm nhận mà không dễ nói hết.

Phần hai bài thơ nói đến tình cảm chung của những người đồng chí. Những câu thơ chia thành "anh, tôi", nhưng giữa họ đều là chung cả. Ðoạn hai của bài thơ được mở đầu bằng những dòng tâm sự nhớ nhà. Bây giờ họ chia sẻ với nhau những tình cảm quê hương và gia đình. Ðối với các chàng trai áo nâu ra trận lần đầu nhớ nhà là nỗi niềm thường trực:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay.

Ðối với người nông dân, làm ruộng là quan trọng nhất, những việc ấy đành nhờ bạn thân làm hộ. Gian nhà tổ ấm cũng đành chịu hy sinh: "mặc kệ gió lung lay". Câu thơ ngang tàng, đượm chất lãng mạn như muốn nâng đỡ con người vượt lên cái bất đắc dĩ của hoàn cảnh. Thẻ hỏi ai có thể "mặc kệ" để cho gió làm xiêu đổ nhà mình? Ðó là một thoáng tếu nhộn làm se lòng người. Hai dòng thơ đầy ắp nỗi nhớ, mặc dù tới dòng thứ ba thì chữ "nhớ" mới xuất hiện"

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Người lính trong thơ Chính Hữu đã rất nhớ nhà, nhớ quê nhưng họ thương nhất vẫn là người ở nhà nhớ họ, dõi theo tn tức của họ, những người ở nơi nguy hiểm. Hình ảnh "giếng nước" là nơi dân làng gặp gỡ sáng sáng, chiều chiều. "Gốc đa" là nơi dân làng nghỉ ngơi những khi trưa nắng. Những lúc ấy họ sẽ hỏi thăm những người trai ra trận. Nhưng "giếng nước, gốc đa" cũng là nơi hò hẹn, tình tự lứa đôi: "Trăm năm dầu lỗi hẹn hò, Cây đa bến cũa con đò khác đưa". Biết bao là nhớ nhung. Nhưng người lính không nói là mình nhớ, chỉ nói ai khác nhớ. Ðó cũng là cảnh mình tự vượt lên mình, những dòng thơ nén tình riêng vì sự nghiệp chung, bằng những lời ý nhị, không một chút ồn ào.

Bảy dòng cuối của đoạn thơ dành nói riêng về nỗi gian khổ. Cái gian khỏ của bộ đội trong buổi đầu kháng chiến đã được nói đến rất nhiều. Thôi Hữu trong bài “Lên Cấm Sơn” có những câu thật cảm động về những người lính.

Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Ðợt rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Ðâu còn tươi nữa những ngày hoa!
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhoà
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Ðem thân xơ xác giữ sơn hà”
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.

Trong kháng chiến, ở chiến khu, bệnh sốt rét cơn là phổ biến nhất. Hai câu thơ nêu đủ các triệu chứng của bệnh sốt rét cơn. Những ai nhiễm bệnh, thoạt đầu cảm thấy ớn lạnh, sau đó liền cảm thấy lạnh tới lúc người run cầm cập, đắp bao nhiêu chăn cũng không hết rét, trong khi đó thì thân nhiệt lại lên cao tới 40, 41 độ người vã cả mồ hôi, vã vì nóng và vì yếu. Phải trải qua bệnh này thì mới hiểu hết cái thật của câu thơ. Sau cơn sốt đó là da xanh, da vàng, viêm gan, viêm lá lách…

Ngoài khổ về bệnh tật là khổ về trang bị. Những ngày đầu kháng chiến, chưa có đủ áo quần đồng phục phát cho bộ đội. Người lính mang theo áo quần ở nhà đi chiến đấu, khi rách thì và víu, có người còn không có kim chỉ để vá, lấy dây mà buộc túm chỗ rách lại, người ta gọi đùa là "Vệ túm", ở đây "anh rách, anh vá" thông cảm nhau.

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

"Miệng cười buốt giá" hẳn là cười trong buốt giá, vì áo quần không chống được rét, mà cũng là nụ cười vượt lên trên buốt giá, mặc dù trời lạnh hẳn nụ cười cũng khó mà tươi. Cũng có thể là nụ cười coi thường gian khổ. Nhà thơ không viết "nụ cười buốt giá" mà viết "Miệng cười buốt giá" hẳn là vì từ "nụ cười" quá trừu tượng, vả lại, nụ cười ở đây không buốt giá, mà nhà thơ thì muốn nói một cách cụ thể đến cái miệng với đôi môi nhợt nhạt ấy.

"Chân không giày" cũng là một thực tế phổ biến, và cái nổi lên là tình thương yêu đồng đội: "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay", một hình ảnh hết sức ấm áp. Chỉ có năm dòng thơ, tác giả đã vẽ lên chân dung "anh bộ đội Cụ Hồ" buổi đầu kháng chiến, nghèo khổ, thiếu thốn nhưng tình đồng chí sưởi ấm lòng họ.

Nếu đoạn một nói về sự hình thành đồng chí, đoạn hai nói về tình cảm hiện đại, thì đoạn ba nói về hành động chiến đấu của họ:
Ðêm nay rừng hoang sương muối
Ðứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Ðầu súng trăng treo.

Từ nhận thức chung, tình cảm chung, bài thơ kết vào hành động. Thời gian, không gian trở nên cụ thể, công việc cũng cụ thể, nhưng không vì thế mà sự việc thay thế chất thơ. Câu kết bài thơ là một hình ảnh nổi tiếng cô đọng, giàu ý vị: đầu súng trăng treo.

Một hình ảnh bất ngờ. "Súng" và "trăng" là hai vật cách xa nhau trong không gian, lại chẳng có gì chung để liên tưởng. Hình ảnh này chỉ có thể là phát hiện của người lính, súng lăm lăm trong tay chờ giặc, và bất ngờ thấy mặt trăng treo lửng lơ trên đầu súng. Người không cầm súng không thể cảm thấy được. Rừng hoang sương muối là rất buốt, những người lính rách rưới đứng cạnh bên nhau và trăng như cũng đứng chung với người. Trăng là biểu trưng của trong sáng và mộng mơ. "Ðầu súng" chiến đấu của người đồng chí có thêm mặt trăng đã mở ra biết bao liên tưởng phong phú. Ðồng thời câu thơ bốn tiếng như cũng nén lại, dồn vào bên trong, tạo thành cái kết không lời. Ðoạn một và hai toàn những lời tâm sự. Ðoạn cuối lại là bức tranh cổ điển, hàm súc.

Ðồng chí là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách cô đọng, kiệm lời của nhà thơ Chính Hữu.

SƯU TẦM
 

I. Tác giả: (1926 – 2007)
- Tên thật Trần Đình Đắc, bút danh: Chính Hữu
- Là nhà thơ – chiến sĩ trong suốt thời gian chống Pháp – Mĩ
- Sáng tác chủ yếu tập trung vào hình ảnh người lính trong hai cuộc kháng chiến. Đặc biệt là tình cảm đồng chí, đồng đội, sự gắn bó của tiền tuyến với hậu phương
- Phong cách thơ: Bình dị, cảm xúc dồn nén, vừa thiết tha, trầm hùng lại vừa sâu lắng, hàm súc

II. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác
- Sáng tác đầu năm 1948, sau khi tác giả vừa cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947, thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Được in trong tác phẩm “Đầu súng trăng treo”
-> Bài thơ được đánh giá là tiêu biểu của thơ ca kháng chiến giai đoạn 1946 – 1954, nó đã làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu
b. Nội dung chính:
- Tình đồng chí của những người lính dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu được thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh, nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của những người lính cách mạng
Nghệ thuật: Chi tiết hình ảnh, ngôn ngữ, cô đọng, giàu sức biểu cảm
c. Giải nghĩa từ
- Đồng chí: Người có cùng chí hướng, lí tưởng (đồng: cùng; chí: chí hướng). Người cùng trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mạng thường gọi nhau là “đồng chí”. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 “đồng chí” thành xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội
- Tri kỉ: Biết mình (tri: biết; kỉ: mình), đôi tri kỉ là đôi bạn thân thiết (hiểu bạn như hiểu chính mình)
- Sương muối: Sương giá đọng thành những hạt nhỏ trắng xóa như muối trên cây cỏ hay mặt đất. Ở miền Bắc nước ta về mùa đông những ngày có sương muối trời rât rét
- Bếp Hoàng Cầm: Kiểu bếp dã chiến của bộ đội ta đặt dưới lòng đất, khi đun khỏi tản ra để địch không phát hiện được. Bếp này mang tên người sáng tạo ra nó trong thời kì kháng chiến chống Pháp: Anh hùng nuôi quân Hoàng Cầm
d. Nhan đề: (đồng là cùng; chí là cùng chí hướng). Đồng chí là chung chí hướng, chung lí tưởng. Người cùng trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mạng thường gọi nhau là “đồng chí”. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 “đồng chí” thành xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội. Vì vậy, tình đồng chí là bản chất cách mạng của tình đồng đội và thể hiện sâu sắc tình đồng đội
e. Mạch cảm xúc và bố cục
* Mạch cảm xúc: Bài thơ theo thể tự do, 20 dòng chia làm 2 đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn sức nặng của tư tưởng và cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm (các dòng 7, 17 và 20)
Sáu dòng đầu có thể xem là sự lí giải về cơ sơ tình đồng chí. Dòng 7 có cấu trúc đặc biệt (chỉ một từ với dấu chấm than) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa những người lính
Mười dòng tiếp theo, mạch cảm xúc sau khi dồn tụ ở dòng 7 lại tiếp tục khơi mở trong những hình ảnh, chi tiết biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó
Ba dòng thơ cuối được tác giả tác ra thành một đoạn kết, đọng lại và ngân rung với hình ảnh đặc sắc “Đầu súng treo trăng” như là một biểu tượng giàu chất thơ về người lính

* Bố cục

Đoạn 1: 7 câu thơ đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí của người lính.
Đoạn 2: 10 câu tiếp: Những biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.
Đoạn 3: 3 câu kết: Biểu tượng đẹp về tình đồng chí

II. Phân tích

Cuộc kháng chiến chống pháp điểm gặp gỡ của bao người dân yêu nước . Chính họ mới đây thôi đã " rù bùn đứng dậy sáng lòa " Bằng cuộc cách mạng tháng 8 . Giờ đây hjọ lại sát cánh bên nhau thề quyết tử cho tổ quốc , quyến sinh . Hòan cảnh lịch sử mới đã khai sinh một tình cảnh mới . mội quan hệ mới mà trước đo họ chưa hề được biết " tình đồng chí " Chính Hữu đã ghi lại tình cảm cao quý và mới mẻ ấy b ằng những dòng thơ mộc mạc chân thành . Bài thơ mở ra bằng những câu thơ mang vẻ tâm tình

"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tựa phương trời chẳng hẹn quen nhau

Đúng vậy nếu không có cuộc chiến tranh này nhữung người lính làm gì có thể gặp dược nhau . Mỗi người mỗi cảnh mỗi vùng quê khác nhau họ là nhưng người xa lạ . Ấy thế mà dẫu chẳng hẹn nhưng họ lại gặp nhau cùng một đội ngũ , cùng một chiến hào . Họ đến với nhau bằng những lời giơiứ thiệu về quê hương minh . Đối với người việt kiểu thăm hỏi giới thiệu này giúp ta tự nhiên hơn gần gũi nhau hơn . tác giả tuy giới thiệu rõ địa danh nơi cư ngụ của tunừg ngu ười nhưng hình ảnh " nước mặt đồng chua " gọi đến một vùng đất ven biển ngập rừng quanh năm ., còn lòng tôi" đất cày lên sỏi đá " là vùng trung dung khô cằn đất đai thiếu màu mỡ . Tuy nhiên dù là miền xuôi hay miên ngu ược thì những người nông dân mặc áo linh náy đe èu có chung 1 cái nghèo . Chính vì cũng nghèo cùng cơ cực mà họ dễ cảm thông mà chia sẻ buồn vui cho nhau song việc họ có mật đòan vệ quốc dân không phải do cái nghèo mà do tình yêu nước sâu sắc . Ông cha ta đã mang trong mình dòng máu yêu nước đến lượt họ . Tổ quốc có xâm lăng tình thần yêu nước lại nồng nàn mạnh mẽ hơn bao giờ hết .Khiến học đến bên nhau ghép thành một sức mạnh nhấn chìm bọn cưới nước và bán nước . Hòan cảnh sinh hoạt và chiến đấu đã làm cho tình bản của họ nảy sinh

Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!

Hình ảnh đêm rét chung chăn làm ta nhớ đến một bài ca dao vui về người chiến sĩ trong những ngày đấu chống pháp . " 3 thằng 1 cái chăn bông ... " " đêm Việt Bắc thì quá rét mà chăn bông thì quá nhỏ nên 3 chàng cứ loay hoay mà mà chã đủ ấm . Đắp được chân thì hơ đầu đặp được bên này thì hở bên kìa . Cuối cùng " cái khó ló cái khôn" " 3 thằng quặt chặt gió lùa vào đầu " chính trong những nàgy thiếu thốn khó khăn ấy , từ " xa lạ " họ đa trỏ thành chiến hữ của nhau . Tri kỹ thật tự nhiên thật cảm đồng . Từ trong tâm cảm của hộ bỗng bật thôts lên 2 từ " đồng chí " . Ai mà chã biết đồng chí là cùng chung chi hướng cùng mục đích . CÙng lí tưởng nhưng tình cảm ấy một khi có được thì cái cốt lõi là tình " tri kỷ " lại được thử thách . được rèn luyện trong khó khăn thì mới thật sự bền vững . Phía sau những câu thơ nói về gió , về rét , lặng lẽ chảy một ngọn lửa ấm nóng của tình đồng chí đồng đội . Nói rộng ra 2 tiếng " đồng chí " còn có ý nghĩa của 1 tiếng liên thàm vi trong tận cùng gian khổ ý nghĩa đích thức của tình cảm này mới được bộc lộ một cách đầy đủ nhất . Có thể liệu từ " đồng chí " đứng tác ra như 1 khổ thơ riêng . Nó là sự kết tinh của cảm xúc dâng trào của những câu thơ thước và khởi đầu cho những câu thơ tiếp theo

Ruộng đồng nương tôi gửi bạn thân cày
Gian nhà riêng mặt kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người đi lính
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sót run người vầng tráng ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miền cười buồn giá
Thân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay


Đọc bài thơ là sự sống đôi của hình tượng " anh và tôi " cái tình tri kỷ cái hứoi âm đồng chí được bắt qua sự sống đôi có ý nghĩa bổ sung ấy . Từ những câu thơ nói về gia cảnh về cảnh ngộ đến đây ta lại bắt gặp motọ sự thay đổi lớn lao trong quan niệm của người chiên sĩ . Họ để lại sau lưng mảnh đời quê hương với những băn khoăn trăn chở để cùng " ra lính " " ruộng nương " đã tạm gởi cho bạn thân cày " gian nhà không " tài sản nghèo đơn sơ ấy để mặc cho " gió lung lay " siêu vẹo . Lên đuờng đi chiến đấu , người lính chấp nhận sự hi sinh , tam gác sang 1 bên những tính toán riêng tư là đứa con của quê hương , thời bình các anh cầm cuốc cầm cày xây dựng cuộc sống , còn thời chiến thì cầm súng để bảo vệ tuổi quốc quê hương . Hay theo mùa xuân nho nhỏ của tố hữu thì đó chính là lộc của họ . Cho nên không phải ngẫu nhiên mà " giếng nước gốc đa nhớ người ra lính " Làng xóm quê hương hậu phưuơng nhứo các anh là truyền thêm sức mạnh để các anh " chân cứng đã mềm " Đây là câu thơ liền nổi bật 2 chiếu " tiền tuyến nhớ hậu phương . hậu phương phó tiền tuyến " Như vậy tình đồng chsi đã được tiếp thêm sức mạnh với tình yêu đất nước . Còn trong hiên tại đang có chung kỷ niệm còn sốt rét nơu rừng sâu . Cùng chịu chung sự thiếu thốn " áo anh rác vai " " quần tôi có vài mảnh vá " " chân không giày .. " Tất cả những khso khăn gian khổ được tái hiện bằng nhữung chi tiết hết sức chân thật không một chút tô vẻ . Ngày đầu của cuộc kháng chiến quân đội cụ hộ mới được thành lập nên còn thiếu thôn trăm bề . Hìn hảnh người lính của Chính Hữu trong một bài thơ khác "
Ngày về " làm ta nao lòng
" Rach ta tới rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trưởng dinh phai bạc áo hào hoa
Tẩm lăng kề mãi đến khi già
Phơi gió vui với muôn ngàn cơ hội

Có thời có người đã cho những người coi như câu trên là ủy mị nhưng thực ra nó mang vẻ đẹp lãng mạn chân thật về những người lính dám xả thân vì nghĩa lớn Thế nhưng nó lại không có sức lay động người đọc bằng cái thật trog baì đồng chí . Cùng hướng về 1 lí tưởng cùng nếm sự khắc nghiệt của chiến tranh , người lính chia sẻ cho nhau tình thưonưg yêu ở mức tột cùng " thương nhau tay nắm lấy bàn tay " những bàn tay đã tìm đến nhau truyền thêm sức mạnh vào niềm tin cho nhau đã làm rạng rỡ lên nụ cười lạc quan dẫu rằng gió buốt lạng . Nhà thơ đã phát hiện rất tinh tế các nội lực tinh thần ấy trên cơ sở cảm thông và thấu hiểu sâu sắc lẫn nhau để tạo nên chiều sâu và sự bền vững của thứ tình cảm thầm lặng nhưng rất dỗi thiêng liêng này

Những câu thơ cuối bài đã hoàn chỉnh 1 cách xuất sắc bức chân dung người chiến sĩ mộc mạc giản dị mà khỏe khoắn , can trường
" Đêm nay rừng hoàng sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo"

Đó là những câu thơ có giá trị tạo hình rất cao vẫn là " rừng hoang sương muối cái gió rét cứ đeo đủôi người chiên sĩ nhunưg không cản dược họ đứng cạnh bên nhau . Tư thế chờ giặc tới " là tư thế hòan tòan chủ động . Trong khung cảnh ấy đột nhiên một từ thơ lạ độc đáo hiện lên " đầu súng trăng treo " trong bài thơ xưa đã từng có cảnh trăng treo đầu nuối

" Non kỳ quanh quê trăng treo
Bến phì gío thổi đìu hiu mấy gò "
( Chinh phụ ngâm )

Trăng đầy núi đầy nhưng sao mà thê lương ảm đảm đén mức " quạnh quê " " đìu hiu " Thơ chính hữu hòan toàn khác Biểu tượng " đầu súng trăng treo " là một biểu tượng đậm chất lãng mạn và khỏe khoắn . Cái ảo và cái thực hòa ghép với nhau tạo nên một liên tưởng bất ngờ kỳ thú . Câu thơ kiểu 4 chữ nhưng hết sức lay động . Cây súng trong tay người chiến sĩ tượng trung cho hòa bình ngừơi lính cầm súng là bảo vệ cho quê hương " cho giếng nước gốc đa " của tổ quốc và cho cả vầng trăng thơ mộng kia nữa. Từ 2 hình ảnh " trăng " và " súng" tưởng như đối lập nhau nhưng qua cái ảo để ở bên nhau 1 cách hợp lí không hề viễn tưởng . Vẻ đẹp của tình thana chiến đất , chất thơ của chính hữu hội tù hài hòa trong 1 biểu tượng thật đẹp đẽ . có lẽ đó là lý do mà nhà thơ đã đặt tên cho nhân đề tập thơ đầu tiên của mình là " Đầu súng trăng treo "

IV. Cảm nhận về hình ảnh anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp

- Bài thơ “Đồng chí” làm hiện lên hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ buổi đầu kháng chiến bình dị mà cao cả
- Đó là những người lính xuất thân từ nông dân: “Quê hương anh nước mặn đồng chua – Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá”
- Họ đã sẵn sàng bỏ lại những gì thân thiết quý giá của cuộc sống nơi đồng quê để ra đi vì nghĩa lớn, nhưng vẫn nặng lòng gắn bó với làng quê thân yêu. Họ không chỉ nhớ quê mà còn cẩm nhận được nỗi nhớ nhung của của quê hương: “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày – Gian nhà không mặc kệ gió lung lay – Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
- Những người lính cách mạng đã trải qua những gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn “sốt run người”, trang phục phong phanh giữa mùa đông giá lạnh. Họ vẫn “cười trong buốt giá”, vẫn nhìn thấy cái nên thơ, lãng mạn của thiên nhiên, rừng núi giữa cuộc chiến đấu gian khổ, ác liệt. Những gian lao, thiếu thốn càng làm sáng lên vể đẹp người lính, sáng lên nụ cười của họ
- Vẻ đẹp nhất ở họ là tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, thắm thiết xuất phát từ tình yêu nước: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đó là cội nguồn sức mạnh giúp họ vượt lên tất cả và chiến thắng. Kết tinh vẻ đẹp của người lính và tình đồng chí của họ là bức tranh đặc sắc trong 3 câu cuối bài
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top