Hai Trieu Kr
Moderator
- Xu
- 28,899
"Bài ca phong cảnh Hương Sơn” (Hương Sơn phong cảnh ca) là một trong những tác phẩm hay nhất viết về đề tài cảnh sắc thiên nhiên. Bài thơ thể hiện lòng yêu thiên nhiên của Chu Mạnh Trinh. Để tìm hiểu hơn về tác phẩm, sau đây là phân tích bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn mời bạn đọc tham khảo.
Dàn ý phân tích Bài ca phong cảnh Hương Sơn
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Chu Mạnh Trinh và bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca, một trong những tác phẩm có giá trị nhất miêu tả vẻ đẹp của dãy núi Hương Sơn.
2. Thân bài
- 4 câu thơ đầu: Bầu trời cảnh Bụt.
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây,
"Đệ nhất động" hỏi là đây có phải?
+ Vẻ đẹp chốn bồng lai tiên cảnh, núi non hùng vĩ, mây trời bảng lảng, sông nước mênh mông, một vẻ đẹp siêu thực mà con người ao ước bấy lâu được diện kiến.
+ Câu thơ hỏi khẳng định vẻ đẹp "đệ nhất động", hang động đẹp nhất
- 12 câu thơ tiếp theo: Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh.
Vẳng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngủ sác long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây,
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt.
+ Từng khung cảnh, từng sự vật đều mang không khí thần tiên mà không kém phần hùng vĩ. Suối dẫn tới chùa, hang nối tiếp động, hệ thống núi nước được thiên nhiên ban tặng có một không hai.
+ Trong cảm xúc choáng ngợp về khung cảnh Hương Sơn, tác giả bày tỏ tình yêu và lòng ngưỡng mộ đối với quê hương, đất nước.
- 3 câu thơ cuối: Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật;
Cửa từ bi công đức biết là bao!
Càng trông phong cảnh càng yêu.
+ Màu sắc linh thiêng và kì bí của Phật pháp
→ Người đọc cảm nhận được sự giao thoa và hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, không chỉ có núi non nước ngự trị mà còn có cả đình chùa do con người xây dựng, lòng hướng Phật do con người truyền bá.
3. Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, vẻ đẹp nước non phong cảnh hữu tình của cảnh sắc Hương Sơn.
Bài văn mẫu số 1
Thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho những nhà văn, nhà thơ thể hiện tài năng và bày tỏ cảm xúc. Đứng trước một khung cảnh đẹp, con người khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp, say đắm, để rồi xuất khẩu thành thơ. Đối với Chu Mạnh Trinh, cảm xúc ấy được đẩy tới đỉnh điểm khi có dịp thăm thú Hương Sơn, một dãy núi với hệ thống núi nước trùng điệp, phức tạp, được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhất động". Trong ba tác phẩm viết về cảnh non nước hữu tình nơi đây, "Hương Sơn phong cảnh ca" là bài thơ nổi bật và giàu tính miêu tả nhất.
Bài thơ nằm trong bộ tác phẩm viết về Hương Sơn, bao gồm Hương Sơn phong cảnh ca, Hương Sơn Nhật Trình và Hương Sơn hành trình. Điểm độc đáo của Hương Sơn phong cảnh ca là tác giả sử dụng thể thơ nói tự do, không bị bó hẹp trong khuôn khổ lục bát hay Đường luật thông thường.
Với tinh thần sảng khoái và sự choáng ngợp trước cảnh thiên nhiên quá đỗi mộng mơ, tác giả thể hiện sự thích thú, đồng thời là sự tôn trọng thiên nhiên và tình yêu tổ quốc thiết tha, dạt dào. Mở đầu bài thơ là hình ảnh bầu trời trong trẻo, mảng vẻ đẹp chốn thần tiên khiến lòng người xốn xang:
Bầu trời cảnh Bụt.
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây,
"Đệ nhất động" hỏi là đây có phải?
"Cảnh Bụt", một cách miêu tả rất độc, lạ và sáng tạo. Miêu tả vẻ đẹp đến mức siêu thực của Hương Sơn, tác giả không dùng quá nhiều những từ ngữ mĩ miều. "Cảnh Bụt", một cảnh đẹp chỉ có ở chốn thiên đình, lại phảng phất sự duy tâm, linh thiêng, tĩnh lặng. Đây chính là Hương Sơn trong truyền thuyết, Hương Sơn mà chúa Trịnh Sâm năm xưa phải trầm trồ tán thưởng, là "ao ước bấy lâu nay" được diện kiến.
Bầu trời cao rộng đưa hồn thơ cất cánh bay bổng, người đọc có thể hình dung sự rộng mở của không gian khiến ta cảm giác như đang bồng bềnh giữa những đám mây. Hòa cùng với cảnh trời ấy là non, là nước, là mây trời. "Kìa non non, nước nước, mây mây", nước thiếp núi, núi tiếp mây, tất cả sự vật như hòa thành một tổng thể bức tranh, hòa quyện vào nhau như bất tận.
Chốn sơn thủy hữu tình tưởng như chỉ có trong tưởng tượng nay đã hiện rõ trước mắt nhà thơ, Hương Sơn đẹp không chỉ bởi phong cảnh hùng vĩ, không chỉ bởi hệ thống núi nước độc lạ mà còn là không khí "Bụt", thoát tục, thanh thuần. Đẹp là thế, để tác giả với tâm hồn nhạy cảm, sau sự bỡ ngỡ phút ban đầu đã phải bật thốt lên rằng: "Đệ nhất động" hỏi là đây có phải? Một câu hỏi không cần trả lời, câu hỏi chỉ để một lần nữa khẳng định lại vẻ đẹp chốn bồng lai tiên cảnh này.
Vẻ đẹp khiến con người ngỡ ngàng, nét đẹp mang màu sắc tiên giới, phảng phất hương khói chốn linh thiêng. Thiên nhiên chào đón khách tham quan bằng nét đẹp thanh khiết, sạch sẽ, mời gọi những tâm hồn trong sạch và hướng thiện tới với đất Phật, nơi thiên nhiên và con người giao hòa trong một khung cảnh không thể diễn tả bằng lời. Mười hai câu thơ tiếp theo là mười hai câu thơ tả cảnh dọc theo điểm nhìn quan sát của tác giả. Từng cảnh vật dần hiện lên theo chiếc thuyền xuôi dòng nước:
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh.
Vẳng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quỳnh.
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây,
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt
Tác giả khéo léo sử dụng những thủ pháp nghệ thuật như nhân hóa, đảo ngữ,... nhằm làm khung cảnh trở nên có tình, có hồn. Sống trong đất Phật, ngay cả động vật cũng một lòng hướng thiện. Chim, cá, những con vật thường được dùng để phóng sinh trong những dịp cúng bái tụ hội lại nơi đây, những tính từ "thỏ thẻ, lững lờ" thể hiện sự an nhàn, ung dung. "Chim cúng trái, cá nghe kinh", loài vật sống ở đây được nuôi dưỡng và bồi đắp bằng những lời hay, ý đẹp của Phật tổ, sống hiền hòa và tự tại giống như người đi tu.
Khung cảnh yên ả, thơ mộng dường như là điều hiển nhiên ở Hương Sơn, để "một tiếng chày kình" loáng thoáng từ xa vọng lại cũng khiến con người ta "giật mình trong giấc mộng". "Khách tang hải" ở đây được dùng để chỉ những người trần tục, khách vãng lai đến đây tham quan, thưởng ngoạn.
Khách phương xa tới đây, gặp cảnh tượng yên bình, tâm hồn nhạy cảm rung động cùng thiên nhiên, bao vấn vương bụi trần đều được gột rửa sạch sẽ, tưởng như đang trong giấc mộng thần tiên. Một tiếng chày kình đánh thức giấc mộng ấy cốt cho thi sĩ nhận ra rằng, cảnh đẹp này không phải trong mơ, cảnh sắc Hương Sơn đang hiển hiện ngay trước mắt.
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quỳnh.
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây,
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt.
Suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, hang Phật Tích, động Tuyết Quỳnh, hàng loạt những danh lam thắng cảnh nằm trong quần thể Hương Sơn được tác giả liệt kê lần lượt. Người ta thấy có sự giao hòa của con người và thiên nhiên, nếu tự nhiên ban tặng cho suối, cho hang, cho động thì con người đã biết cách tận dụng cảnh đẹp có một không hai ấy để xây dựng chùa, nơi thờ tự và tu luyện nghiêm trang, thanh khiết.
Từng chi tiết hiện ra thật kì vĩ và sinh động, "đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt", "thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt", "gập ghềnh mấy lối uốn thang mây", cả một hệ thống non nước sơn thủy hữu tình trải qua hàng vạn năm hình thành, phát triển. Cái hoang sơ của Hương Sơn được bảo tồn trọn vẹn, lấp lánh của mẹ thiên nhiên, thăm thẳm hun hút những hang động huyền bí, giống như một bức họa trữ tình vẽ cảnh thiên giới hào nhoáng, lộng lẫy.
Hàng loạt từ láy đứng ở đầu câu khiến người đọc hình dung được độ sâu, độ cao và cả sự khó khăn, trắc trở của những vách đá. Dường như, tạo hóa ưu ái Hương Sơn, ban cho Hương Sơn một vẻ đẹp mĩ miều cốt để con người không thể kiềm lòng khi vãn cảnh nơi đây. "Tạo hóa khéo ra tay xếp đặt", vẻ đẹp siêu thức ấy, không có một vị kiến trúc sư hay cỗ máy nào có thể tái tạo được.
Ngưỡng mộ Hương Sơn, tác giả cũng bày tỏ tình cảm với quê hương, đất nước một cách tế nhị, khéo léo. "Chừng giang sơn còn đợi ai đây", giang sơn gấm vóc tươi đẹp nhường ấy cần những người hiền tài bảo vệ và phát triển. Đứng trước cảnh sắc mĩ lệ như vậy, trong không gian ấy, văng vẳng tiếng niệm "Nam mô Phật" của những vị thiền sư đức hạnh, độ lượng.
Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao!
Càng trông phong cảnh càng yêu.
Không khí thần tiên là nơi để tu tập, để giũ bỏ tham sân si của cuộc sống trần gian, thả trôi tâm hồn về miền cực lạc. Đất Phật, đất tổ, nơi con người và thiên nhiên giao hòa, một hình ảnh trữ tình, nên thơ. Con người và thiên nhiên cùng nhau tồn tại, trao cho nhau tình yêu thương và sự tôn trọng. "Càng trông phong cảnh lại càng yêu", một câu thơ thể hiện tâm trạng trực tiếp, câu thơ mang nặng cảm xúc tình tự, xốn xang.
Màu sắc linh thiêng và kì bí của Phật pháp, người đọc cảm nhận được sự giao thoa và hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, không chỉ có núi non nước ngự trị mà còn có cả đình chùa do con người xây dựng, lòng hướng Phật do con người truyền bá, làm thiên nhiên càng thanh tịnh hơn, yên bình hơn.
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện cùng với tâm hồn lãng đãng, bồng bềnh, tác giả đã để lại một thi phẩm mang chiều sâu cả về khía cạnh miêu tả cũng như biểu cảm. Phong cảnh Hương Sơn hiện lên vừa kì vĩ, lý thú lại vừa gần gũi, yên bình, mang đến cho con người cảm giác khoáng đạt, thoát ly trần tục. Cảnh đẹp là thế, nhưng viết ra được, truyền tải được cảnh đẹp đến người đọc hay không, đó là cái tài hơn người của Chu Mạnh Trinh.
Bài văn mẫu số 2
Chu Mạnh Chinh là một nhà nho tài tử sống ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, đây cũng là thời kì mà xã hội Việt Nam có rất nhiều biến loạn, tang thương. Mặt khác, ông thuộc dòng dõi có truyền thống về văn chương nên những chiêm nghiệm thực tiễn, những điều mắt thấy tai nghe cùng với tài năng văn chương thiên phú đã để lại trong thơ văn của Chu Mạnh Chinh nhiều dấu ấn mang đặc trưng, cá tính riêng biệt của nhà thơ. Chu Mạnh Chinh có rất nhiều sáng tác hay và độc đáo, nhưng do thất lạc nên số lượng thơ văn hiện thời còn lại rất ít. Trong số những tác phẩm thơ của Chu Mạnh Chinh không thể không kể đến bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca”, đây là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ của tác giả.
Bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” là một trong những tác phẩm thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Chu Mạnh Chinh, bài thơ thể hiện được cảnh sắc tươi đẹp của một địa danh nổi tiếng- Hương Sơn, đây cũng là địa danh gắn liền với loại hình tôn giáo- Phật giáo. Vì vậy qua bài thơ này, nhà thơ vừa thể hiện được sự tự hào trước cảnh đẹp của non sông, gấm vóc mà còn thể hiện được một cảm xúc trào dâng khi có dịp đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng, tươi đẹp mà mình luôn muốn đến đấy.
"Bầu trời, cảnh bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?”
Ngay trong khổ thơ đầu tiên, nhà thơ Chu Mạnh Chinh đã vẽ ra một khung cảnh rộng lớn, tươi đẹp của địa danh Hương Sơn, đồng thời nhà thơ cũng thể hiện được sự choáng ngợp trong cảm giác và tâm trạng náo nức, hân hoan của mình khi đến được địa danh mà mình hằng ngưỡng mộ, mong muốn một lần có thể đặt chân đến. “Bầu trời, cảnh bụt”, câu thơ vô cùng ngắn gọn nhưng lại diễn đạt được cái dạt dào của cảm xúc. Khung cảnh Hương Sơn mở ra trước mắt, nhà thơ như nghẹn ngào, không nói lên lời mà chỉ thể hiện qua sự cảm thán, tuy nhiên qua sự cảm than đó người đọc cũng bước đầu có những hình dung đầu tiên về địa danh này.
Bầu trời như cao, như rộng hơn làm tôn lên vẻ đẹp nên thơ của vùng đất Hương Sơn, điều đặc biệt là trong cảm nhận của nhà thơ thì nét lôi cuốn, hấp dẫn của địa danh này không chỉ ở cảnh sắc của đất trời mà còn ở sự thiêng liêng “cảnh bụt”, đây là địa danh nổi tiếng của Việt Nam với tín ngưỡng Phật giáo phát triển, nên đến với địa danh này là đến với mảnh đất của thần tiên, cảnh sắc của Hương Sơn cũng được nhà thơ liên tưởng đến tiên cảnh của thế giới thần thánh. Đây là địa danh mà nhà thơ luôn muốn một lần đặt chân đến, nên nó cũng là một mong muốn đầy tha thiết “Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay”, tức nguyện ước được đến Hương Sơn không phải là những mong ước nhất thời, cũng không phải là sự xúc động trước cảnh sắc mà nhà thơ đã nghe đến địa danh này và mong ước được đến từ rất lâu.
Trước cảnh sắc của Hương Sơn, Chu Mạnh Chinh dâng lên cảm xúc choáng ngợp, xúc động, nhà thơ xúc động trước cái đẹp của non sông, cái đẹp của tạo hóa đã ban tặng cho địa danh này “Kìa non non, nước nước, mây mây”, đó là khung cảnh rộng lớn của non nước, trời mây. Và trong cách đánh giá của nhà thơ thì Hương Sơn chính là “đệ nhất động”, Việt Nam là đất nước nhiều đồi núi nên những hang động đẹp không thiếu nhưng Hương Sơn là động đẹp nhất, sự cảm than của nhà thơ đầy chân thành, tha thiết, đó chính là sự rung cảm trước cái đẹp, cảnh đẹp.
“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lửng lơ khe yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”
Từ cái nhìn bao quát, khách quan của nhà thơ về địa danh Hương Sơn thì đến những khổ thơ tiếp theo nhà thơ trình bày một cách cụ thể những cảnh sắc khiến cho nhà thơ xao xuyến, xúc động. Đó chính là không gian của rừng mai “Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái”, câu thơ vừa gợi ra hình ảnh, đối tượng cụ thể là rừng mai, chim mà còn gợi ra âm thanh phát ra từ khu rừng ấy, là tiếng chim thỏ thẻ. Từ “thỏ thẻ” này thật độc đáo, vừa gợi ra những âm thanh nhỏ nhẹ, như thì thầm bên tai của những tiếng chim rừng. Tuy nhỏ nhẹ, thì thầm nhưng trong không gian rộng lớn của núi rừng thì âm thanh ấy vẫn theo gió mà hòa vào không gian, tạo nên một bản nhạc nguyên sơ của núi rừng.
Ta có thể nhận thấy một điều, đó chính là nhà thơ Chu Mạnh Chinh sử dụng những động từ để làm cho bức tranh thơ thêm sinh động, nếu như những chú chim thỏ thẻ hót nơi rừng mai thì bên khe núi kia, sự xuất hiện của những chú cá nhỏ làm cho bức tranh ấy thêm cụ thể, màu sắc “Lửng lơ khe yến cá nghe kinh”, điều đặc biệt là những con cá nơi đây như bị hấp dẫn, như tò mò về những bài giảng kinh phát ra từ những ngôi chùa trên núi. Và trong không gian đầy màu sắc, âm thanh đó, tiếng chày kình vang lên làm ấp áp bức tranh thơ, bởi đó chính là hơi thở của cuộc sống, chính là âm thanh của cuộc sống sinh hoạt đầy bình dị “Thoảng bên tai một tiếng chày kinh”, dù âm thanh ấy chỉ thoảng qua thôi nhưng cũng khiến cho người du hành giật mình trong giấc mộng, giấc mộng ở đây là sự đắm say trước vẻ đẹp.
“Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quỳnh
Nhác trông lên, ai khéo vẽ hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”
Từ những cảnh sắc của tự nhiên, đất trời, nhà thơ Chu Mạnh Chinh đã liệt kê những địa điểm nổi tiếng của địa danh Hương Sơn, đó chính là suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, am Phật Tích, động Tuyết Quỳnh, đó đều là những địa điểm đẹp, hấp dẫn tạo nên nét đẹp của Hương Sơn. Nhà thơ đã điệp ngữ từ “này” vừa thể hiện được cảm xúc nồng nhiệt đồng thời cũng thể hiện được sự tự hào trước những địa điểm ấy. Trong các hang động, tạo hóa đã tạo cho Hương Sơn một vẻ đẹp hiếm thấy “Nhác trông lên, ai khéo vẽ hình”, đó là những hình thù độc đáo do bàn tay của tạo hóa chế tác lên, những viên đá thạch nhũ trong những hang động ấy cũng mang vẻ dẹp độc đáo, khác thường “Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”.
“Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Chập chờn mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt??
Hang đá Hương Sơn không chỉ đẹp bởi sự điểm xuyết của những viên đá ngũ sắc, không chỉ ở những hình thù độc đáo, kì dị mà còn có sự giao lưu với thế giới bên ngoài, tuy là hang nhưng sự thông thoáng của mặt hang còn làm cho ánh trăng chiếu rọi “Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt”, và dưới ánh trăng ấy, cảnh vật không tồn tại độc lập mà nó đan lồng với ánh trăng, tạo nên một vẻ đẹp độc đáo. Những lỗi vào, đường đi vào vào hang cũng không phải những con đường thẳng tắp mà là những lối đi uốn khúc, mà trong cảm nhận của nhà thơ thì nó như một lối uốn thang mây “Chập chờn mấy lối uốn thang mây”.
“Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao
Càng trông phong cảnh càng yêu”
Câu thơ đã chuyển đổi cảm nhận của nhà thơ từ sự cảm nhận vẻ đẹp của non sông gấm vóc sang sự chiêm nghiệm sự màu nghiệm của Phật Pháp “Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật”, câu thơ gợi cho chúng ta liên tưởng về hình ảnh của chính nhà thơ khi thành tâm cầu khấn, với chuỗi hạt và miệng thì niệm Nam mô Phật đầy thành kính, gợi ra không khí thật linh thiêng. Và xuất hiện nơi đây không chỉ có nhà thơ, những con người đam mê với vẻ đẹp của non sông gấm vóc mà còn là những tín đồ của Phật giáo ở khắp nơi đổ về thể hiện lòng thành kính, thiện nguyện, cầu mong những điều kì diệu đến với cuộc sống của mình, vì vậy những từ bi, công đức không sao kể xiết “Cửa từ bi công đức biết là bao”. Vẻ đẹp của tự nhiên hòa quyện cùng với vẻ đẹp của văn hóa, tín ngưỡng đã làm cho Hương Sơn mang vẻ đẹp độc đáo, đặc trưng riêng biệt.
Như vậy, bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” của nhà thơ Chu Mạnh Chinh đã phác họa ra một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp về địa danh Hương Sơn, bức tranh ấy không chỉ sống động về màu sắc mà còn chân thực về âm thanh, và điều đặc biệt nữa là tràn đầy cảm xúc thiết tha, say đắm của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đây là niềm đam mê đầy chất nghệ sĩ của một hồn thơ đa cảm. Và trong bức tranh này không chỉ có cảnh sắc mà còn thiêng liêng hơn nữa đó chính là văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng được duy trì từ bao đời nay trên địa danh này.
Sưu tầm
(Nguồn ảnh: Internet)
Dàn ý phân tích Bài ca phong cảnh Hương Sơn
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Chu Mạnh Trinh và bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca, một trong những tác phẩm có giá trị nhất miêu tả vẻ đẹp của dãy núi Hương Sơn.
2. Thân bài
- 4 câu thơ đầu: Bầu trời cảnh Bụt.
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây,
"Đệ nhất động" hỏi là đây có phải?
+ Vẻ đẹp chốn bồng lai tiên cảnh, núi non hùng vĩ, mây trời bảng lảng, sông nước mênh mông, một vẻ đẹp siêu thực mà con người ao ước bấy lâu được diện kiến.
+ Câu thơ hỏi khẳng định vẻ đẹp "đệ nhất động", hang động đẹp nhất
- 12 câu thơ tiếp theo: Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh.
Vẳng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngủ sác long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây,
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt.
+ Từng khung cảnh, từng sự vật đều mang không khí thần tiên mà không kém phần hùng vĩ. Suối dẫn tới chùa, hang nối tiếp động, hệ thống núi nước được thiên nhiên ban tặng có một không hai.
+ Trong cảm xúc choáng ngợp về khung cảnh Hương Sơn, tác giả bày tỏ tình yêu và lòng ngưỡng mộ đối với quê hương, đất nước.
- 3 câu thơ cuối: Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật;
Cửa từ bi công đức biết là bao!
Càng trông phong cảnh càng yêu.
+ Màu sắc linh thiêng và kì bí của Phật pháp
→ Người đọc cảm nhận được sự giao thoa và hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, không chỉ có núi non nước ngự trị mà còn có cả đình chùa do con người xây dựng, lòng hướng Phật do con người truyền bá.
3. Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, vẻ đẹp nước non phong cảnh hữu tình của cảnh sắc Hương Sơn.
Bài văn mẫu số 1
Thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho những nhà văn, nhà thơ thể hiện tài năng và bày tỏ cảm xúc. Đứng trước một khung cảnh đẹp, con người khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp, say đắm, để rồi xuất khẩu thành thơ. Đối với Chu Mạnh Trinh, cảm xúc ấy được đẩy tới đỉnh điểm khi có dịp thăm thú Hương Sơn, một dãy núi với hệ thống núi nước trùng điệp, phức tạp, được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhất động". Trong ba tác phẩm viết về cảnh non nước hữu tình nơi đây, "Hương Sơn phong cảnh ca" là bài thơ nổi bật và giàu tính miêu tả nhất.
Bài thơ nằm trong bộ tác phẩm viết về Hương Sơn, bao gồm Hương Sơn phong cảnh ca, Hương Sơn Nhật Trình và Hương Sơn hành trình. Điểm độc đáo của Hương Sơn phong cảnh ca là tác giả sử dụng thể thơ nói tự do, không bị bó hẹp trong khuôn khổ lục bát hay Đường luật thông thường.
Với tinh thần sảng khoái và sự choáng ngợp trước cảnh thiên nhiên quá đỗi mộng mơ, tác giả thể hiện sự thích thú, đồng thời là sự tôn trọng thiên nhiên và tình yêu tổ quốc thiết tha, dạt dào. Mở đầu bài thơ là hình ảnh bầu trời trong trẻo, mảng vẻ đẹp chốn thần tiên khiến lòng người xốn xang:
Bầu trời cảnh Bụt.
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây,
"Đệ nhất động" hỏi là đây có phải?
"Cảnh Bụt", một cách miêu tả rất độc, lạ và sáng tạo. Miêu tả vẻ đẹp đến mức siêu thực của Hương Sơn, tác giả không dùng quá nhiều những từ ngữ mĩ miều. "Cảnh Bụt", một cảnh đẹp chỉ có ở chốn thiên đình, lại phảng phất sự duy tâm, linh thiêng, tĩnh lặng. Đây chính là Hương Sơn trong truyền thuyết, Hương Sơn mà chúa Trịnh Sâm năm xưa phải trầm trồ tán thưởng, là "ao ước bấy lâu nay" được diện kiến.
Bầu trời cao rộng đưa hồn thơ cất cánh bay bổng, người đọc có thể hình dung sự rộng mở của không gian khiến ta cảm giác như đang bồng bềnh giữa những đám mây. Hòa cùng với cảnh trời ấy là non, là nước, là mây trời. "Kìa non non, nước nước, mây mây", nước thiếp núi, núi tiếp mây, tất cả sự vật như hòa thành một tổng thể bức tranh, hòa quyện vào nhau như bất tận.
Chốn sơn thủy hữu tình tưởng như chỉ có trong tưởng tượng nay đã hiện rõ trước mắt nhà thơ, Hương Sơn đẹp không chỉ bởi phong cảnh hùng vĩ, không chỉ bởi hệ thống núi nước độc lạ mà còn là không khí "Bụt", thoát tục, thanh thuần. Đẹp là thế, để tác giả với tâm hồn nhạy cảm, sau sự bỡ ngỡ phút ban đầu đã phải bật thốt lên rằng: "Đệ nhất động" hỏi là đây có phải? Một câu hỏi không cần trả lời, câu hỏi chỉ để một lần nữa khẳng định lại vẻ đẹp chốn bồng lai tiên cảnh này.
Vẻ đẹp khiến con người ngỡ ngàng, nét đẹp mang màu sắc tiên giới, phảng phất hương khói chốn linh thiêng. Thiên nhiên chào đón khách tham quan bằng nét đẹp thanh khiết, sạch sẽ, mời gọi những tâm hồn trong sạch và hướng thiện tới với đất Phật, nơi thiên nhiên và con người giao hòa trong một khung cảnh không thể diễn tả bằng lời. Mười hai câu thơ tiếp theo là mười hai câu thơ tả cảnh dọc theo điểm nhìn quan sát của tác giả. Từng cảnh vật dần hiện lên theo chiếc thuyền xuôi dòng nước:
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh.
Vẳng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quỳnh.
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây,
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt
Tác giả khéo léo sử dụng những thủ pháp nghệ thuật như nhân hóa, đảo ngữ,... nhằm làm khung cảnh trở nên có tình, có hồn. Sống trong đất Phật, ngay cả động vật cũng một lòng hướng thiện. Chim, cá, những con vật thường được dùng để phóng sinh trong những dịp cúng bái tụ hội lại nơi đây, những tính từ "thỏ thẻ, lững lờ" thể hiện sự an nhàn, ung dung. "Chim cúng trái, cá nghe kinh", loài vật sống ở đây được nuôi dưỡng và bồi đắp bằng những lời hay, ý đẹp của Phật tổ, sống hiền hòa và tự tại giống như người đi tu.
Khung cảnh yên ả, thơ mộng dường như là điều hiển nhiên ở Hương Sơn, để "một tiếng chày kình" loáng thoáng từ xa vọng lại cũng khiến con người ta "giật mình trong giấc mộng". "Khách tang hải" ở đây được dùng để chỉ những người trần tục, khách vãng lai đến đây tham quan, thưởng ngoạn.
Khách phương xa tới đây, gặp cảnh tượng yên bình, tâm hồn nhạy cảm rung động cùng thiên nhiên, bao vấn vương bụi trần đều được gột rửa sạch sẽ, tưởng như đang trong giấc mộng thần tiên. Một tiếng chày kình đánh thức giấc mộng ấy cốt cho thi sĩ nhận ra rằng, cảnh đẹp này không phải trong mơ, cảnh sắc Hương Sơn đang hiển hiện ngay trước mắt.
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quỳnh.
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây,
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt.
Suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, hang Phật Tích, động Tuyết Quỳnh, hàng loạt những danh lam thắng cảnh nằm trong quần thể Hương Sơn được tác giả liệt kê lần lượt. Người ta thấy có sự giao hòa của con người và thiên nhiên, nếu tự nhiên ban tặng cho suối, cho hang, cho động thì con người đã biết cách tận dụng cảnh đẹp có một không hai ấy để xây dựng chùa, nơi thờ tự và tu luyện nghiêm trang, thanh khiết.
Từng chi tiết hiện ra thật kì vĩ và sinh động, "đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt", "thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt", "gập ghềnh mấy lối uốn thang mây", cả một hệ thống non nước sơn thủy hữu tình trải qua hàng vạn năm hình thành, phát triển. Cái hoang sơ của Hương Sơn được bảo tồn trọn vẹn, lấp lánh của mẹ thiên nhiên, thăm thẳm hun hút những hang động huyền bí, giống như một bức họa trữ tình vẽ cảnh thiên giới hào nhoáng, lộng lẫy.
Hàng loạt từ láy đứng ở đầu câu khiến người đọc hình dung được độ sâu, độ cao và cả sự khó khăn, trắc trở của những vách đá. Dường như, tạo hóa ưu ái Hương Sơn, ban cho Hương Sơn một vẻ đẹp mĩ miều cốt để con người không thể kiềm lòng khi vãn cảnh nơi đây. "Tạo hóa khéo ra tay xếp đặt", vẻ đẹp siêu thức ấy, không có một vị kiến trúc sư hay cỗ máy nào có thể tái tạo được.
Ngưỡng mộ Hương Sơn, tác giả cũng bày tỏ tình cảm với quê hương, đất nước một cách tế nhị, khéo léo. "Chừng giang sơn còn đợi ai đây", giang sơn gấm vóc tươi đẹp nhường ấy cần những người hiền tài bảo vệ và phát triển. Đứng trước cảnh sắc mĩ lệ như vậy, trong không gian ấy, văng vẳng tiếng niệm "Nam mô Phật" của những vị thiền sư đức hạnh, độ lượng.
Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao!
Càng trông phong cảnh càng yêu.
Không khí thần tiên là nơi để tu tập, để giũ bỏ tham sân si của cuộc sống trần gian, thả trôi tâm hồn về miền cực lạc. Đất Phật, đất tổ, nơi con người và thiên nhiên giao hòa, một hình ảnh trữ tình, nên thơ. Con người và thiên nhiên cùng nhau tồn tại, trao cho nhau tình yêu thương và sự tôn trọng. "Càng trông phong cảnh lại càng yêu", một câu thơ thể hiện tâm trạng trực tiếp, câu thơ mang nặng cảm xúc tình tự, xốn xang.
Màu sắc linh thiêng và kì bí của Phật pháp, người đọc cảm nhận được sự giao thoa và hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, không chỉ có núi non nước ngự trị mà còn có cả đình chùa do con người xây dựng, lòng hướng Phật do con người truyền bá, làm thiên nhiên càng thanh tịnh hơn, yên bình hơn.
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện cùng với tâm hồn lãng đãng, bồng bềnh, tác giả đã để lại một thi phẩm mang chiều sâu cả về khía cạnh miêu tả cũng như biểu cảm. Phong cảnh Hương Sơn hiện lên vừa kì vĩ, lý thú lại vừa gần gũi, yên bình, mang đến cho con người cảm giác khoáng đạt, thoát ly trần tục. Cảnh đẹp là thế, nhưng viết ra được, truyền tải được cảnh đẹp đến người đọc hay không, đó là cái tài hơn người của Chu Mạnh Trinh.
Bài văn mẫu số 2
Chu Mạnh Chinh là một nhà nho tài tử sống ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, đây cũng là thời kì mà xã hội Việt Nam có rất nhiều biến loạn, tang thương. Mặt khác, ông thuộc dòng dõi có truyền thống về văn chương nên những chiêm nghiệm thực tiễn, những điều mắt thấy tai nghe cùng với tài năng văn chương thiên phú đã để lại trong thơ văn của Chu Mạnh Chinh nhiều dấu ấn mang đặc trưng, cá tính riêng biệt của nhà thơ. Chu Mạnh Chinh có rất nhiều sáng tác hay và độc đáo, nhưng do thất lạc nên số lượng thơ văn hiện thời còn lại rất ít. Trong số những tác phẩm thơ của Chu Mạnh Chinh không thể không kể đến bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca”, đây là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ của tác giả.
Bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” là một trong những tác phẩm thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Chu Mạnh Chinh, bài thơ thể hiện được cảnh sắc tươi đẹp của một địa danh nổi tiếng- Hương Sơn, đây cũng là địa danh gắn liền với loại hình tôn giáo- Phật giáo. Vì vậy qua bài thơ này, nhà thơ vừa thể hiện được sự tự hào trước cảnh đẹp của non sông, gấm vóc mà còn thể hiện được một cảm xúc trào dâng khi có dịp đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng, tươi đẹp mà mình luôn muốn đến đấy.
"Bầu trời, cảnh bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?”
Ngay trong khổ thơ đầu tiên, nhà thơ Chu Mạnh Chinh đã vẽ ra một khung cảnh rộng lớn, tươi đẹp của địa danh Hương Sơn, đồng thời nhà thơ cũng thể hiện được sự choáng ngợp trong cảm giác và tâm trạng náo nức, hân hoan của mình khi đến được địa danh mà mình hằng ngưỡng mộ, mong muốn một lần có thể đặt chân đến. “Bầu trời, cảnh bụt”, câu thơ vô cùng ngắn gọn nhưng lại diễn đạt được cái dạt dào của cảm xúc. Khung cảnh Hương Sơn mở ra trước mắt, nhà thơ như nghẹn ngào, không nói lên lời mà chỉ thể hiện qua sự cảm thán, tuy nhiên qua sự cảm than đó người đọc cũng bước đầu có những hình dung đầu tiên về địa danh này.
Bầu trời như cao, như rộng hơn làm tôn lên vẻ đẹp nên thơ của vùng đất Hương Sơn, điều đặc biệt là trong cảm nhận của nhà thơ thì nét lôi cuốn, hấp dẫn của địa danh này không chỉ ở cảnh sắc của đất trời mà còn ở sự thiêng liêng “cảnh bụt”, đây là địa danh nổi tiếng của Việt Nam với tín ngưỡng Phật giáo phát triển, nên đến với địa danh này là đến với mảnh đất của thần tiên, cảnh sắc của Hương Sơn cũng được nhà thơ liên tưởng đến tiên cảnh của thế giới thần thánh. Đây là địa danh mà nhà thơ luôn muốn một lần đặt chân đến, nên nó cũng là một mong muốn đầy tha thiết “Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay”, tức nguyện ước được đến Hương Sơn không phải là những mong ước nhất thời, cũng không phải là sự xúc động trước cảnh sắc mà nhà thơ đã nghe đến địa danh này và mong ước được đến từ rất lâu.
Trước cảnh sắc của Hương Sơn, Chu Mạnh Chinh dâng lên cảm xúc choáng ngợp, xúc động, nhà thơ xúc động trước cái đẹp của non sông, cái đẹp của tạo hóa đã ban tặng cho địa danh này “Kìa non non, nước nước, mây mây”, đó là khung cảnh rộng lớn của non nước, trời mây. Và trong cách đánh giá của nhà thơ thì Hương Sơn chính là “đệ nhất động”, Việt Nam là đất nước nhiều đồi núi nên những hang động đẹp không thiếu nhưng Hương Sơn là động đẹp nhất, sự cảm than của nhà thơ đầy chân thành, tha thiết, đó chính là sự rung cảm trước cái đẹp, cảnh đẹp.
“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lửng lơ khe yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”
Từ cái nhìn bao quát, khách quan của nhà thơ về địa danh Hương Sơn thì đến những khổ thơ tiếp theo nhà thơ trình bày một cách cụ thể những cảnh sắc khiến cho nhà thơ xao xuyến, xúc động. Đó chính là không gian của rừng mai “Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái”, câu thơ vừa gợi ra hình ảnh, đối tượng cụ thể là rừng mai, chim mà còn gợi ra âm thanh phát ra từ khu rừng ấy, là tiếng chim thỏ thẻ. Từ “thỏ thẻ” này thật độc đáo, vừa gợi ra những âm thanh nhỏ nhẹ, như thì thầm bên tai của những tiếng chim rừng. Tuy nhỏ nhẹ, thì thầm nhưng trong không gian rộng lớn của núi rừng thì âm thanh ấy vẫn theo gió mà hòa vào không gian, tạo nên một bản nhạc nguyên sơ của núi rừng.
Ta có thể nhận thấy một điều, đó chính là nhà thơ Chu Mạnh Chinh sử dụng những động từ để làm cho bức tranh thơ thêm sinh động, nếu như những chú chim thỏ thẻ hót nơi rừng mai thì bên khe núi kia, sự xuất hiện của những chú cá nhỏ làm cho bức tranh ấy thêm cụ thể, màu sắc “Lửng lơ khe yến cá nghe kinh”, điều đặc biệt là những con cá nơi đây như bị hấp dẫn, như tò mò về những bài giảng kinh phát ra từ những ngôi chùa trên núi. Và trong không gian đầy màu sắc, âm thanh đó, tiếng chày kình vang lên làm ấp áp bức tranh thơ, bởi đó chính là hơi thở của cuộc sống, chính là âm thanh của cuộc sống sinh hoạt đầy bình dị “Thoảng bên tai một tiếng chày kinh”, dù âm thanh ấy chỉ thoảng qua thôi nhưng cũng khiến cho người du hành giật mình trong giấc mộng, giấc mộng ở đây là sự đắm say trước vẻ đẹp.
“Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quỳnh
Nhác trông lên, ai khéo vẽ hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”
Từ những cảnh sắc của tự nhiên, đất trời, nhà thơ Chu Mạnh Chinh đã liệt kê những địa điểm nổi tiếng của địa danh Hương Sơn, đó chính là suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, am Phật Tích, động Tuyết Quỳnh, đó đều là những địa điểm đẹp, hấp dẫn tạo nên nét đẹp của Hương Sơn. Nhà thơ đã điệp ngữ từ “này” vừa thể hiện được cảm xúc nồng nhiệt đồng thời cũng thể hiện được sự tự hào trước những địa điểm ấy. Trong các hang động, tạo hóa đã tạo cho Hương Sơn một vẻ đẹp hiếm thấy “Nhác trông lên, ai khéo vẽ hình”, đó là những hình thù độc đáo do bàn tay của tạo hóa chế tác lên, những viên đá thạch nhũ trong những hang động ấy cũng mang vẻ dẹp độc đáo, khác thường “Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”.
“Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Chập chờn mấy lối uốn thang mây
Chừng giang sơn còn đợi ai đây
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt??
Hang đá Hương Sơn không chỉ đẹp bởi sự điểm xuyết của những viên đá ngũ sắc, không chỉ ở những hình thù độc đáo, kì dị mà còn có sự giao lưu với thế giới bên ngoài, tuy là hang nhưng sự thông thoáng của mặt hang còn làm cho ánh trăng chiếu rọi “Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt”, và dưới ánh trăng ấy, cảnh vật không tồn tại độc lập mà nó đan lồng với ánh trăng, tạo nên một vẻ đẹp độc đáo. Những lỗi vào, đường đi vào vào hang cũng không phải những con đường thẳng tắp mà là những lối đi uốn khúc, mà trong cảm nhận của nhà thơ thì nó như một lối uốn thang mây “Chập chờn mấy lối uốn thang mây”.
“Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao
Càng trông phong cảnh càng yêu”
Câu thơ đã chuyển đổi cảm nhận của nhà thơ từ sự cảm nhận vẻ đẹp của non sông gấm vóc sang sự chiêm nghiệm sự màu nghiệm của Phật Pháp “Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật”, câu thơ gợi cho chúng ta liên tưởng về hình ảnh của chính nhà thơ khi thành tâm cầu khấn, với chuỗi hạt và miệng thì niệm Nam mô Phật đầy thành kính, gợi ra không khí thật linh thiêng. Và xuất hiện nơi đây không chỉ có nhà thơ, những con người đam mê với vẻ đẹp của non sông gấm vóc mà còn là những tín đồ của Phật giáo ở khắp nơi đổ về thể hiện lòng thành kính, thiện nguyện, cầu mong những điều kì diệu đến với cuộc sống của mình, vì vậy những từ bi, công đức không sao kể xiết “Cửa từ bi công đức biết là bao”. Vẻ đẹp của tự nhiên hòa quyện cùng với vẻ đẹp của văn hóa, tín ngưỡng đã làm cho Hương Sơn mang vẻ đẹp độc đáo, đặc trưng riêng biệt.
Như vậy, bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” của nhà thơ Chu Mạnh Chinh đã phác họa ra một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp về địa danh Hương Sơn, bức tranh ấy không chỉ sống động về màu sắc mà còn chân thực về âm thanh, và điều đặc biệt nữa là tràn đầy cảm xúc thiết tha, say đắm của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đây là niềm đam mê đầy chất nghệ sĩ của một hồn thơ đa cảm. Và trong bức tranh này không chỉ có cảnh sắc mà còn thiêng liêng hơn nữa đó chính là văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng được duy trì từ bao đời nay trên địa danh này.
Sưu tầm