Các hiện tượng tâm lí-thế giới nội tâm của con người, mặc dù là sự phản ánh thế giớ bên ngoài song nó là các hiện tượng tinh thần. Thế giới tinh thần này cũng có những cơ chế, quy luật hoạt động cho riêng mình. Bản thân nó có cấu trúc phức tạp. Để có thể nghiên cứu sâu hơn các hiện tượng tâm lí, người ta phân chia chúng thành các lớp hiện tượng khác nhau.
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Hiện tượng tâm lí là gì?
Khi ta nhìn, quan sát thấy một sự vật hiện tượng, biểu tượng đó xuất hiện trong đầu của chúng ta. Đó chính là biểu tượng tâm lí.
Khi chúng ta vui hoặc buồn, trạng thái vui hay buồn đó cũng là tâm lí.
Khi chúng ta suy nghĩ và đưa ra một nhận định, đánh giá nào đó, những nhận định đánh giá của chúng ta cũng là các hiện tượng tâm lí.
Lại nữa, có những cái không diễn ra tức thời như quá trình suy nghĩ hay như trạng thái vui, buồn mà nó chỉ là những cái khái quát từ các hiện tượng tâm lí khác. Ví dụ, khi ta nói yêu lao động thì chúng ta đã đề cập đến một nét tính cách của con người. Đối với một con người như vậy họ rất trân trọng, quý trọng sản phẩm của lao động.
Trong ngôn ngữ Việt, bên cạnh thuật ngữ tâm lí còn có thuật ngữ tâm hồn. Đôi khi người ta tách chữ tâm riêng, chữ hồn riêng. Trong Từ điển tiếng Việt (1988), tâm hồn được định nghĩa là ý nghĩ và tình cảm, làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của mỗi con người.
Các hiện tượng tâm lí, tâm hồn của con người đều có nguồn gốc từ bên ngoài, là sự phản ánh thế giới khách quan. Thế giới vật chất được chuyển vào não, dưới các dạng biểu tượng, hình ảnh đó không dừng lại ở mức độ xơ cứng, bất biến. Nhờ có các giác quan, chúng ta có được những biểu tượng về các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Từ vô số các hình ảnh, biểu tượng về những ngôi nhà có thực, trong óc con người dần khái quát hoá, thu gọn tất cả những biểu tượng đó vào một khái niệm: nhà. Chính ngôn ngữ đã giúp cho khả năng nhận biết của con người về thế giới bên ngoài tăng lên một cách đột phá.
Cũng nhờ có ngôn ngữ, tư duy của con người đã chuyển sang một bước ngoặt vĩ đại: từ tư duy bằng tay con người chuyển sang tư duy bằng khái niệm. Nhờ có tư duy bằng khái niệm, con người đã có khả năng “nhìn” sâu vào những cái mà bằng mắt thường không thể nhìn thấy. Bằng mắt, con người không thể nào nhìn thấy đường đi của hạt ánh sáng song bằng tư duy thì có thể.
Như vậy có thế nhận thấy các hiện tượng tâm lí-thế giới nội tâm của con người, mặc dù là sự phản ánh thế giớ bên ngoài song nó là các hiện tượng tinh thần. Thế giới tinh thần này cũng có những cơ chế, quy luật hoạt động cho riêng mình. Bản thân nó có cấu trúc phức tạp. Để có thể nghiên cứu sâu hơn các hiện tượng tâm lí, người ta phân chia chúng thành các lớp hiện tượng khác nhau.
1.2. Các cách phân loại
– Phân chia thành ý thức và vô thức
– Căn cứ vào thờ gián tồn tại:
+ Quá trình
+ Trạng thái
+ Thuộc tính
2. CÁC QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC
2.1. Nhận thức cảm tính
2.1.1. Khái niệm
Mỗi sự vật, hiện tượng quanh ta đều được thể hiện ra bên ngoài hàng loạt các đặc điểm như màu sắc(xanh, đỏ…), trọng lượng (nặng, nhẹ…), khối lượng (to, nhỏ…). Chúng ta biết được những thuộc tính đó là nhờ bộ não. Biểu tượng của những thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào ta được gọi là các biểu tượng nhận thức cảm tính. Quá trình chúng ta nhận biết được các thuộc tính đó là quá trình nhận thức cảm tính.
Ví dụ: khi ta nhắm mắt, người bạn đặt vào lòng bàn tay ta một vật gì đó. Nếu không sờ mó, nắm ,bóp, ta chỉ có thể cảm nhận được vật đó nặng hay nhẹ, nóng hay lạnh.
Chúng ta đang quan sát ngôi nhà. Trong đầu chúng ta khi đó xuất hiện hình ảnh ngôi nhà.
Chúng ta có cảm giác nóng, lạnh, trong đầu có hình ảnh ngôi nhà…đó chính là biểu tượng nhận thức cảm tính. Khi chúng ta đang cảm thấy nóng hoặc khi chúng ta đang nhìn ngôi nhà thì đó là quá trình nhận thức cảm tính.
Đặc điểm chung nhất của nhận thức cảm tính là chỉ phản ánh được những thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng khi sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan chúng ta.
Nhận thức cảm tính bao gồm 2 quá trình chính là cảm giác và tri giác.
2.1.2. Cảm giác
2.1.2.1. Khái niệm
Cảm giác là quá trình tâm lí phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
Cảm giác là hình thức phản ánh tâm lí, sơ đẳng, đơn giản nhất. Biểu tượng của nó chỉ là những thuộc tính riêng rẽ của sự vật. Tuy nhiên nó lại đóng vai trò khởi đầu cho các quá trình tâm lí khác như tưởng tượng, tư duy, trí nhớ…Cảm giác cũng là khâu đầu tiên trong sự nhận thức hiện thực khách quan của con người.
2.1.2.2. Các loại cảm giác.
Cảm giác bên ngoài
– Cảm giác nhìn (thị giác) cho chúng ta biết thuộc tính ánh sáng, mầu sắc, kích thước của đối tượng.
– Cảm giác nghe (thính giác) cho chúng ta biết những thuộc tính của âm thanh.
– Cảm giác ngửi (khứu giác) giúp con người nhận biết được mùi
– Cảm giác nếm (vị giác) giúp chúng ta nhận biết các loại vị: mặn, nhạt, đắng, cay…
– Cảm giác da: (mạc giác) cho ta biết về nhiệt độ, va chạm.
Cảm giác bên trong:
– Cảm giác vận động
– Cảm giác thăng bằng
– Cảm giác nội tạng.
2.1.2.3. Các quy luật cơ bản của cảm giác.
● Quy luật ngưỡng cảm giác (Quy luật về tính nhạy cảm)
Muốn có cảm giác thì phải có kích thích. Tuy nhiên cường độ kích thích phải đạt đến độ nhất định mới có thể gây ra được cảm giác. Mức độ đó được gọi là ngưỡng cảm giác.
Ngưỡng cảm giác là cường độ tối thiểu của kích thích để có thể gây ra được cảm giác.
Quy luật này còn gọi là quy luật về tính nhạy cảm bởi lẽ khi nói đến tính nhạy cảm cao thì điều đó có nghĩa là chỉ cần cường độ kích thích nhỏ nhưng đã có thể có cảm giác. Ví dụ, người ta nói một người nào đó có đôi tai rất thính có nghĩa là với âm thanh khá nhỏ, trong khi người khác chưa nghe thấy thì người đó đã nghe thấy. Như vậy độ nhạy cảm càng cao thì có nghĩa là ngưỡng cảm giác càng thấp.
Điểm đáng lưu ý ở đây là khi chúng ta nói đến ngưỡng cảm giác là chúng ta đề cập đến đại lượng vật lí, ví dụ như cường độ âm thanh, trọng lượng…còn khi ta nói độ nhạy cảm thì đó lại là “đại lượng” tâm lí. Do không đo được trực tiếp độ nhạy cảm của giác quan nên người ta phải đo nó một cách gián tiếp, thông qua việc đo các kích thích vật lí bên ngoài.
● Quy luật thích ứng cảm giác
Để phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh, cảm giác của con người có khả năng thích ứng với kích thích.
Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích : khi cường độ kích thích tăng thì độ nhạy cảm giảm và ngược lại, độ nhạy cảm tăng khi cường độ kích thích giảm. Ví dụ, khi đang ở chỗ sáng (cường độ kích thích mạnh), di vào chỗ tối (cường độ kích thích yếu) thì lúc đầu ta không nhìn thấy gì, sau đó dần dần mới nhìn rõ mọi vật. Điều này là do độ nhạy cảm tăng dần.
Tất cả các giác quan đều tuân theo quy luật thích ứng. Tuy nhiên mức độ khác nhau. Cảm giác thị giác có khả năng thích ứng cao. Trong bóng tối tuyệt đối, độ nhạy cảm với ánh sáng tăng gần 200.000 lần sau 40 phút. Bên cạnh đó, cảm giác đau hầu như không thích ứng.
Khả năng thích ứng của cảm giác cũng có thể được phát triển do rèn luyện. Ví dụ, công nhân luyện kim có thể chịu đựng được nhiệt độ cao tới 500 – 600C trong hàng giờ đồng hồ.
● Quy luật tác động lẫn nhau của cảm giác
Các cảm giác không tồn tại độc lập mà luôn tác động qua lại lẫn nhau. Do sự tác động qua lại như vậy, tính nhạy cảm của cảm giác bị thay đổi. Kích thích yếu lên cơ quan phân tích này lại làm tăng độ nhạy cảm của giác quan kia. Ngược lại, tác động mạnh lên giác quan này làm giảm độ nhạy cảm của cơ quan phân tích khác.
Ví dụ, khi nghe nhạc, có ánh sáng mầu kèm theo thì các bản nhạc cũng được cảm nhận rõ nét hơn.
2.1.3. Tri giác
2.1.3.1. Khái niệm
Tri giác là một quá trình tâm lí nhận thức cảm tính, phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan ta.
Cũng giống với cảm giác, tri giác là một quá trình nhận thức cảm tính.
– Là một quá trình vì có khởi đầu, diễn biến và kết thúc.
– Là quá trình nhận thức vì biểu tượng tri giác giúp cho con người nhận biết được hiện thực khách quan bên ngoài.
– Là cảm tính vì chỉ gọi là biểu tượng tri giác khi sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan.
Tuy nhiên biểu tượng tri giác là là một hình ảnh trọn vẹn về sự vật, hiện tượng. Biểu tượng này được cấu thành từ các cảm giác. Ví dụ hình ảnh ngôi nhà mà chúng ta đang nhìn thấy bao gồm những cảm giác khác nhau về mầu sắc, kích thước. Lẽ đương nhiên đó không phải là một tổng số học mà là một tổng thể các cảm giác.
2.1.3.2. Các loại tri giác
– Tri giác không gian: tri giác không gian giúp chúng ta nhận biết được kích thước, hình dạng, khoảng cách, phương hướng của đối tượng.
– Tri giác thời gian: tri giác thời gian là sự phản ánh độ lâu, vân tốc và tính kế tục của các hiện tượng.
– Tri giác vận động: phản ánh những thay đổi về vị trí của các sự vật trong không gian.
Ngoài cách phân loại theo đối tượng tri giác như trên còn có cách phân loại theo giác quan. Theo cách phân loại này, chúng ta có các loại tri giác: thị giác, thính giác, khức giác…
2.1.3.3. Các quy luật cơ bản của tri giác
● Quy luật về tính đối tượng của tri giác
Hình ảnh mà tri giác đem lại bao giờ cũng là biểu tượng của một sự vật, hiện tượng nhất định của thế giới bên ngoài. Tính đối tượng của tri giác nói lên cái mà tri giác đem lại. Trong quy luật này đã hàm chứa tính chân thực của tri giác.
1.3.3.2. Quy luật về tính lựa chọn của tri giác:
Tri giác không thể phản ánh được toàn bộ những kích thích đang tác động lên giác quan của con người ở tại một thời điểm. Do vậy để tri giác, con người phải tách đối tượng ra khỏi bối cảnh.
Sự lựa chọn của tri giác cũng không mang tính cố định. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài cũng như bên trong của chủ thể.
Quy luật về tính lựa chọn của tri giác được ứng dụng nhiều trong thực tiễn: kiến trúc, quảng cáo, quân sự (nguỵ trang), trong giáo dục và dạy học.
● Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác:
Tri giác của con người gắn chặt với tư duy, với bản chất của sự vật, hiện tượng. Chính vì lẽ đó, biểu tượng tri giác cho phép chúng ta gọi tên được sự vật hiện tượng, có thể xắp xếp chúng vào một nhóm, lớp nhất định.
● Quy luật về tính ổn định của tri giác:
Tính ổn định của tri giác thể hiện ở chỗ trong các điều kiện khác nhau nhưng nội dung của biểu tượng tri giác vẫn không thay đổi. Ngôi nhà, dù có cách xa chúng ta hàng ngàn mét và hình ảnh của nó trên võng mạc nhỏ hơn hình ảnh của một người
đang đứng trước mặt chúng ta thì ngôi nhà vẫn được tiếp nhận to hơn so với con người. Sự ổn định tri giác còn thể hiện ở cả về mầu sắc, kích thước…
● Quy luật tổng giác:
Quy luật này thể hiện ở chỗ nội dung các biểu tượng tri giác còn phụ thuộc vào nội dung đời sống tâm lí của chủ thể: thái độ, nhu cầu, cảm xúc, động cơ…(Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ – Nguyễn Du).
●Tri giác nhầm
Trong một số trường hợp, hình ảnh của tri giác không phù hợp với thực tại. Cần phân biệt tri giác nhầm với ảo giác. Tri giác nhầm là quá trình chúng ta vẫn đang tri giác (sự vật, hiện tượng vẫn đang tác động vào giác quan) song biểu tượng tri giác không tương xứng với thực tiễn. Ví dụ, khi ta nhìn cái thìa đang để trong nửa cốc nước, ta thấy như cái thìa bị gãy ở chỗ mặt nước. Hoặc các ví dụ trong hình…ảo giác là hiện tượng con người vẫn “nhìn” thấy, ví dụ, nhìn thấy rắn rết bò đầy trên giường nhưng thực tế không có, nghe thấy tiếng nói nhưng xung quanh không có ai. Tri giác nhầm là hiện tượng bình thường còn ảo giác là hiện tượng bệnh lí.
Cảm giác và tri giác đều là quá trình nhận thức cảm tính. Trong thực tế, khi chúng ta quan sát sự vật hiện tượng thì sự xuất hiện của cảm giác và tri giác là đan xen nhau, có thể cái này xuất hiện trước cái kia. Ví dụ, “bắt mắt” là mầu đỏ, sau đó chúng ta mới quan sát tổng thể ngôi nhà. Cũng có thể hình ảnh ngôi nhà xuất hiện trước, sau đó với xuất hiện các cảm giác.
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Hiện tượng tâm lí là gì?
Khi ta nhìn, quan sát thấy một sự vật hiện tượng, biểu tượng đó xuất hiện trong đầu của chúng ta. Đó chính là biểu tượng tâm lí.
Khi chúng ta vui hoặc buồn, trạng thái vui hay buồn đó cũng là tâm lí.
Khi chúng ta suy nghĩ và đưa ra một nhận định, đánh giá nào đó, những nhận định đánh giá của chúng ta cũng là các hiện tượng tâm lí.
Lại nữa, có những cái không diễn ra tức thời như quá trình suy nghĩ hay như trạng thái vui, buồn mà nó chỉ là những cái khái quát từ các hiện tượng tâm lí khác. Ví dụ, khi ta nói yêu lao động thì chúng ta đã đề cập đến một nét tính cách của con người. Đối với một con người như vậy họ rất trân trọng, quý trọng sản phẩm của lao động.
Trong ngôn ngữ Việt, bên cạnh thuật ngữ tâm lí còn có thuật ngữ tâm hồn. Đôi khi người ta tách chữ tâm riêng, chữ hồn riêng. Trong Từ điển tiếng Việt (1988), tâm hồn được định nghĩa là ý nghĩ và tình cảm, làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của mỗi con người.
Các hiện tượng tâm lí, tâm hồn của con người đều có nguồn gốc từ bên ngoài, là sự phản ánh thế giới khách quan. Thế giới vật chất được chuyển vào não, dưới các dạng biểu tượng, hình ảnh đó không dừng lại ở mức độ xơ cứng, bất biến. Nhờ có các giác quan, chúng ta có được những biểu tượng về các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Từ vô số các hình ảnh, biểu tượng về những ngôi nhà có thực, trong óc con người dần khái quát hoá, thu gọn tất cả những biểu tượng đó vào một khái niệm: nhà. Chính ngôn ngữ đã giúp cho khả năng nhận biết của con người về thế giới bên ngoài tăng lên một cách đột phá.
Cũng nhờ có ngôn ngữ, tư duy của con người đã chuyển sang một bước ngoặt vĩ đại: từ tư duy bằng tay con người chuyển sang tư duy bằng khái niệm. Nhờ có tư duy bằng khái niệm, con người đã có khả năng “nhìn” sâu vào những cái mà bằng mắt thường không thể nhìn thấy. Bằng mắt, con người không thể nào nhìn thấy đường đi của hạt ánh sáng song bằng tư duy thì có thể.
Như vậy có thế nhận thấy các hiện tượng tâm lí-thế giới nội tâm của con người, mặc dù là sự phản ánh thế giớ bên ngoài song nó là các hiện tượng tinh thần. Thế giới tinh thần này cũng có những cơ chế, quy luật hoạt động cho riêng mình. Bản thân nó có cấu trúc phức tạp. Để có thể nghiên cứu sâu hơn các hiện tượng tâm lí, người ta phân chia chúng thành các lớp hiện tượng khác nhau.
1.2. Các cách phân loại
– Phân chia thành ý thức và vô thức
– Căn cứ vào thờ gián tồn tại:
+ Quá trình
+ Trạng thái
+ Thuộc tính
2. CÁC QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC
2.1. Nhận thức cảm tính
2.1.1. Khái niệm
Mỗi sự vật, hiện tượng quanh ta đều được thể hiện ra bên ngoài hàng loạt các đặc điểm như màu sắc(xanh, đỏ…), trọng lượng (nặng, nhẹ…), khối lượng (to, nhỏ…). Chúng ta biết được những thuộc tính đó là nhờ bộ não. Biểu tượng của những thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào ta được gọi là các biểu tượng nhận thức cảm tính. Quá trình chúng ta nhận biết được các thuộc tính đó là quá trình nhận thức cảm tính.
Ví dụ: khi ta nhắm mắt, người bạn đặt vào lòng bàn tay ta một vật gì đó. Nếu không sờ mó, nắm ,bóp, ta chỉ có thể cảm nhận được vật đó nặng hay nhẹ, nóng hay lạnh.
Chúng ta đang quan sát ngôi nhà. Trong đầu chúng ta khi đó xuất hiện hình ảnh ngôi nhà.
Chúng ta có cảm giác nóng, lạnh, trong đầu có hình ảnh ngôi nhà…đó chính là biểu tượng nhận thức cảm tính. Khi chúng ta đang cảm thấy nóng hoặc khi chúng ta đang nhìn ngôi nhà thì đó là quá trình nhận thức cảm tính.
Đặc điểm chung nhất của nhận thức cảm tính là chỉ phản ánh được những thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng khi sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan chúng ta.
Nhận thức cảm tính bao gồm 2 quá trình chính là cảm giác và tri giác.
2.1.2. Cảm giác
2.1.2.1. Khái niệm
Cảm giác là quá trình tâm lí phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
Cảm giác là hình thức phản ánh tâm lí, sơ đẳng, đơn giản nhất. Biểu tượng của nó chỉ là những thuộc tính riêng rẽ của sự vật. Tuy nhiên nó lại đóng vai trò khởi đầu cho các quá trình tâm lí khác như tưởng tượng, tư duy, trí nhớ…Cảm giác cũng là khâu đầu tiên trong sự nhận thức hiện thực khách quan của con người.
2.1.2.2. Các loại cảm giác.
Cảm giác bên ngoài
– Cảm giác nhìn (thị giác) cho chúng ta biết thuộc tính ánh sáng, mầu sắc, kích thước của đối tượng.
– Cảm giác nghe (thính giác) cho chúng ta biết những thuộc tính của âm thanh.
– Cảm giác ngửi (khứu giác) giúp con người nhận biết được mùi
– Cảm giác nếm (vị giác) giúp chúng ta nhận biết các loại vị: mặn, nhạt, đắng, cay…
– Cảm giác da: (mạc giác) cho ta biết về nhiệt độ, va chạm.
Cảm giác bên trong:
– Cảm giác vận động
– Cảm giác thăng bằng
– Cảm giác nội tạng.
2.1.2.3. Các quy luật cơ bản của cảm giác.
● Quy luật ngưỡng cảm giác (Quy luật về tính nhạy cảm)
Muốn có cảm giác thì phải có kích thích. Tuy nhiên cường độ kích thích phải đạt đến độ nhất định mới có thể gây ra được cảm giác. Mức độ đó được gọi là ngưỡng cảm giác.
Ngưỡng cảm giác là cường độ tối thiểu của kích thích để có thể gây ra được cảm giác.
Quy luật này còn gọi là quy luật về tính nhạy cảm bởi lẽ khi nói đến tính nhạy cảm cao thì điều đó có nghĩa là chỉ cần cường độ kích thích nhỏ nhưng đã có thể có cảm giác. Ví dụ, người ta nói một người nào đó có đôi tai rất thính có nghĩa là với âm thanh khá nhỏ, trong khi người khác chưa nghe thấy thì người đó đã nghe thấy. Như vậy độ nhạy cảm càng cao thì có nghĩa là ngưỡng cảm giác càng thấp.
Điểm đáng lưu ý ở đây là khi chúng ta nói đến ngưỡng cảm giác là chúng ta đề cập đến đại lượng vật lí, ví dụ như cường độ âm thanh, trọng lượng…còn khi ta nói độ nhạy cảm thì đó lại là “đại lượng” tâm lí. Do không đo được trực tiếp độ nhạy cảm của giác quan nên người ta phải đo nó một cách gián tiếp, thông qua việc đo các kích thích vật lí bên ngoài.
● Quy luật thích ứng cảm giác
Để phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh, cảm giác của con người có khả năng thích ứng với kích thích.
Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích : khi cường độ kích thích tăng thì độ nhạy cảm giảm và ngược lại, độ nhạy cảm tăng khi cường độ kích thích giảm. Ví dụ, khi đang ở chỗ sáng (cường độ kích thích mạnh), di vào chỗ tối (cường độ kích thích yếu) thì lúc đầu ta không nhìn thấy gì, sau đó dần dần mới nhìn rõ mọi vật. Điều này là do độ nhạy cảm tăng dần.
Tất cả các giác quan đều tuân theo quy luật thích ứng. Tuy nhiên mức độ khác nhau. Cảm giác thị giác có khả năng thích ứng cao. Trong bóng tối tuyệt đối, độ nhạy cảm với ánh sáng tăng gần 200.000 lần sau 40 phút. Bên cạnh đó, cảm giác đau hầu như không thích ứng.
Khả năng thích ứng của cảm giác cũng có thể được phát triển do rèn luyện. Ví dụ, công nhân luyện kim có thể chịu đựng được nhiệt độ cao tới 500 – 600C trong hàng giờ đồng hồ.
● Quy luật tác động lẫn nhau của cảm giác
Các cảm giác không tồn tại độc lập mà luôn tác động qua lại lẫn nhau. Do sự tác động qua lại như vậy, tính nhạy cảm của cảm giác bị thay đổi. Kích thích yếu lên cơ quan phân tích này lại làm tăng độ nhạy cảm của giác quan kia. Ngược lại, tác động mạnh lên giác quan này làm giảm độ nhạy cảm của cơ quan phân tích khác.
Ví dụ, khi nghe nhạc, có ánh sáng mầu kèm theo thì các bản nhạc cũng được cảm nhận rõ nét hơn.
2.1.3. Tri giác
2.1.3.1. Khái niệm
Tri giác là một quá trình tâm lí nhận thức cảm tính, phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan ta.
Cũng giống với cảm giác, tri giác là một quá trình nhận thức cảm tính.
– Là một quá trình vì có khởi đầu, diễn biến và kết thúc.
– Là quá trình nhận thức vì biểu tượng tri giác giúp cho con người nhận biết được hiện thực khách quan bên ngoài.
– Là cảm tính vì chỉ gọi là biểu tượng tri giác khi sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan.
Tuy nhiên biểu tượng tri giác là là một hình ảnh trọn vẹn về sự vật, hiện tượng. Biểu tượng này được cấu thành từ các cảm giác. Ví dụ hình ảnh ngôi nhà mà chúng ta đang nhìn thấy bao gồm những cảm giác khác nhau về mầu sắc, kích thước. Lẽ đương nhiên đó không phải là một tổng số học mà là một tổng thể các cảm giác.
2.1.3.2. Các loại tri giác
– Tri giác không gian: tri giác không gian giúp chúng ta nhận biết được kích thước, hình dạng, khoảng cách, phương hướng của đối tượng.
– Tri giác thời gian: tri giác thời gian là sự phản ánh độ lâu, vân tốc và tính kế tục của các hiện tượng.
– Tri giác vận động: phản ánh những thay đổi về vị trí của các sự vật trong không gian.
Ngoài cách phân loại theo đối tượng tri giác như trên còn có cách phân loại theo giác quan. Theo cách phân loại này, chúng ta có các loại tri giác: thị giác, thính giác, khức giác…
2.1.3.3. Các quy luật cơ bản của tri giác
● Quy luật về tính đối tượng của tri giác
Hình ảnh mà tri giác đem lại bao giờ cũng là biểu tượng của một sự vật, hiện tượng nhất định của thế giới bên ngoài. Tính đối tượng của tri giác nói lên cái mà tri giác đem lại. Trong quy luật này đã hàm chứa tính chân thực của tri giác.
1.3.3.2. Quy luật về tính lựa chọn của tri giác:
Tri giác không thể phản ánh được toàn bộ những kích thích đang tác động lên giác quan của con người ở tại một thời điểm. Do vậy để tri giác, con người phải tách đối tượng ra khỏi bối cảnh.
Sự lựa chọn của tri giác cũng không mang tính cố định. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài cũng như bên trong của chủ thể.
Quy luật về tính lựa chọn của tri giác được ứng dụng nhiều trong thực tiễn: kiến trúc, quảng cáo, quân sự (nguỵ trang), trong giáo dục và dạy học.
● Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác:
Tri giác của con người gắn chặt với tư duy, với bản chất của sự vật, hiện tượng. Chính vì lẽ đó, biểu tượng tri giác cho phép chúng ta gọi tên được sự vật hiện tượng, có thể xắp xếp chúng vào một nhóm, lớp nhất định.
● Quy luật về tính ổn định của tri giác:
Tính ổn định của tri giác thể hiện ở chỗ trong các điều kiện khác nhau nhưng nội dung của biểu tượng tri giác vẫn không thay đổi. Ngôi nhà, dù có cách xa chúng ta hàng ngàn mét và hình ảnh của nó trên võng mạc nhỏ hơn hình ảnh của một người
đang đứng trước mặt chúng ta thì ngôi nhà vẫn được tiếp nhận to hơn so với con người. Sự ổn định tri giác còn thể hiện ở cả về mầu sắc, kích thước…
● Quy luật tổng giác:
Quy luật này thể hiện ở chỗ nội dung các biểu tượng tri giác còn phụ thuộc vào nội dung đời sống tâm lí của chủ thể: thái độ, nhu cầu, cảm xúc, động cơ…(Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ – Nguyễn Du).
●Tri giác nhầm
Trong một số trường hợp, hình ảnh của tri giác không phù hợp với thực tại. Cần phân biệt tri giác nhầm với ảo giác. Tri giác nhầm là quá trình chúng ta vẫn đang tri giác (sự vật, hiện tượng vẫn đang tác động vào giác quan) song biểu tượng tri giác không tương xứng với thực tiễn. Ví dụ, khi ta nhìn cái thìa đang để trong nửa cốc nước, ta thấy như cái thìa bị gãy ở chỗ mặt nước. Hoặc các ví dụ trong hình…ảo giác là hiện tượng con người vẫn “nhìn” thấy, ví dụ, nhìn thấy rắn rết bò đầy trên giường nhưng thực tế không có, nghe thấy tiếng nói nhưng xung quanh không có ai. Tri giác nhầm là hiện tượng bình thường còn ảo giác là hiện tượng bệnh lí.
Cảm giác và tri giác đều là quá trình nhận thức cảm tính. Trong thực tế, khi chúng ta quan sát sự vật hiện tượng thì sự xuất hiện của cảm giác và tri giác là đan xen nhau, có thể cái này xuất hiện trước cái kia. Ví dụ, “bắt mắt” là mầu đỏ, sau đó chúng ta mới quan sát tổng thể ngôi nhà. Cũng có thể hình ảnh ngôi nhà xuất hiện trước, sau đó với xuất hiện các cảm giác.