Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
Phan Châu Trinh và xu hướng cải cách
Trong lúc phong trào Đông Du và những hoạt động của Duy Tân hội diễn ra sôi nổi thì Phan Châu Trinh và một số sĩ phu yêu nước khác như Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp… chủ trương tiến hành một phong trào Duy Tân nhằm vận động cải cách kinh tế, văn hoá, xã hội và gắn liền với việc động viên lòng yêu nước, căm thù giặc, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của ngoại xâm. Người đại diện tiêu biểu nhất cho xu hướng này là Phan Châu Trinh.
Phan Châu Trinh hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã, sinh năm 1872 ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kì, tỉnh Quảng Nam. Cha ông là Phan Văn Bình – một võ quan nhỏ, đã từng tham gia phong trào Cần Vương Quảng Nam với chức chuyển vận sứ, phục trách việc quân lương. Phan Châu Trinh theo cha tập võ nghệ. Năm 1887, Phan Văn Bình bị kẻ xấu sát hại.
Năm 1892, Phan Châu Trinh bắt đầu đi học. Ông nổi tiếng học giỏi. Năm 1900, Phan Châu Trinh đỗ cử nhân, năm sau (1901), đỗ Phó bảng. Năm 1902, ông học trường Hậu bổ rồi ra làm quan với chức Thừa biện bộ Lễ, nhưng tâm trạng chán nản cảnh quan trường ô nhục. Tại kinh đô Huế, ông giao du với nhiều người có tư tưởng canh tân, như Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ, Vũ Trọng Hàm… được đọc “Thiên hạ đại thế luận” của Nguyễn Lộ Trạch, các “tân thư” giới thiệu tư tưởng duy tân của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, các học thuyết về dân quyền của Rút xô, Môngtexkiơ , phong trào Duy Tân ở Nhật Bản, cách mạng ở Pháp, Mỹ.
Tháng 7/1904, Phan Châu Trinh gặp Phan Bội Châu và hai người trở thành đôi bạn tâm phúc. Cuối năm này, Phan Châu Trinh lấy cớ phải về chăm lo việc thờ phụng tổ tiên thay cho anh cả đã mất, ông đã từ quan về quê. Từ đó, ông dốc lòng vào công cuộc cứu nước.
Về đường lối cứu nước, Phan Châu Trinh thẳng thắn và kiên trì bảo vệ quan điểm của mình là chưa đặt việc khôi phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc thành một nhiệm vụ trước mắt, mặc dù ông rất đau xót cảnh người Pháp ngược đãi người Việt Nam. Mặt khác, Phan Châu Trinh còn phản đối việc dùng vũ lực để giành độc lập dân tộc quốc như cầu viện bên ngoài “Bất bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, vọng ngoại giả ngu).
Theo Phan Châu Trinh, nhiệm vụ cấp bách của dân tộc ta là:
- Chấn dân khí: Thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, làm cho mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, xoá bỏ nọc độc chuyên chế. Vì vậy, ông chủ trương: “Không cần hô hào đánh Pháp, chỉ nên đề xướng dân quyền, dân đã giác ngộ quyền lợi của mình, bấy giờ mới có thể dần dần mưu tính đến việc khác.
- Khai dân trí: Bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thiết khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục, xa hoa, tuyên truyền lối sống tiết kiệm, văn minh.
- Hậu dân sinh: Chăm lo đời sống cho nhân dân bằng việc phát triển kinh tế, chỉ con đường làm ăn cho dân, như khẩn hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hoá.
Đây chính là tiền đề để tiến đến giải phóng dân tộc.
Để thực hiện các mục tiêu trên, Phan Châu Trinh yêu cầu chính quyền thuộc địa sửa đổi chính sách cai trị hiện hành để có thể giúp nhân dân Việt Nam từng bước tiến đến văn minh (ỷ Pháp cầu tiến bộ). Tuy vậy, ông đề cao phương châm “Tự lực khai hoá”, vận động những người cùng chí hướng thức tỉnh dân chúng, tuyên truyền tư tưởng dân quyền, vận động mở trường học theo lối mới, hô hào phát triển công, nông, thương nghiệp, cải cách phong tục, chống lề thói phong kiến cổ hủ.
Với phương châm đã xác định, Phan Châu Trinh cùng với Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam, vào các tỉnh phía nam (đến Phan Thiết) để hô hào duy tân cải cách. Ông lại ra Bắc, đến căn cứ Phồn Xương, Yên Thế tìm gặp Hoàng Hoa Thám.
Năm 1906, nghe tin Phan Bội Châu cùng Cường Để xuất dương sang Nhật, Phan Châu Trinh cũng định ra nước ngoài để tìm gặp Phan Bội Châu, nhưng khi đến nhà Lưu Vĩnh Phúc ở Quảng Đông, ông đã gặp Phan Bội Châu ở đây. Hơn 10 ngày ở Quảng Đông, hai ông đã cùng bàn bạc việc nước. Phan Châu Trinh tán thưởng bài Khuyến quốc dân tự trợ du học văn của Phan Bội Châu và xem chương trình hoạt động của Duy Tân hội, ông không nói gì. Ông chỉ “… cực lực đả kích vua quan, gọi họ là “độc phu dân tặc”, hại nước hại dân, hình như không đập tan được nền quân chủ thì dù có khôi phục được nước cũng không phải là hạnh phúc của dân.
Trung tuần tháng 3 năm 1906, Phan Châu Trinh cũng sang Nhật với Phan Bội Châu và Cường Để, trọ tại “Bính Ngọ hiên”. Thượng tuần tháng 4, Phan Châu Trinh cùng đi Đông Kinh với Phan Bội Châu, nhờ Phan Bội Châu giới thiệu, Phan Châu Trinh đã tiếp xúc với nhiều chính khách Nhật Bản, tham quan các trường học, khảo cứu tình hình giáo dục, chính trị Nhật Bản.
Giữa tháng 5/1906, Phan Châu Trinh về nước. Ngày 15/8/1906, ông gửi cho Toàn quyền Bô (Beau) một bức thư bằng chữ Hán thường được gọi là “Đầu Pháp Chính phủ thư” (Thư gửi Chính phủ Pháp). Trong thư, Phan Châu Trinh cực lực lên án bọn quan trường, hủ bại, hà hiếp, tham nhũng, bóc lột nhân dân, tố cáo thực dân Pháp dung dưỡng bọn quan lại, quy trách nhiệm cho thực dân Pháp về sự lạc hậu, bế tắc của Việt Nam lúc bấy giờ. Ông yêu cầu Chính phủ Pháp phải “Đổi chính sách đi, kén chọn người hiền tài trao cho quyền bính, lấy lễ mà tiếp, lấy thành mà đãi, cùng nhau lo toan việc dấy lợi, trừ hại ở trong nước, mở đường sinh nhai cho dân nghèo, rộng đường ăn nói cho thân sĩ, báo quan cho mở rộng để thông đạt tình dân, phạt cho nghiêm minh để khuyên răn quan lại, còn đến những việc đổi pháp luật, bỏ khoa cử, mở trường học, đặt toà tu thư, dạy lớp sư phạm cho đến học công thương, học kĩ nghệ và các ngạch sưu thuế đều cải lương dần dần”
Cùng với việc gửi thư cho Toàn quyền Bô, Phan Châu Trinh đẩy mạnh việc “Tự lực khai hoá”. Ông đã gặp các sĩ phu ở Hà Nội (Lương Văn Can, Nguyễn Quyền…) bàn việc mở tại Hà Nội một trường học theo gương “Khánh Ứng nghĩa thục” của Nhật Bản.
Tháng 7/1907, Phan Châu Trinh tham gia giảng dạy ở Đông Kinh Nghĩa Thục.
Trong tư tưởng cách mạng Phan Châu Trinh, ông thường đề cao hiến pháp, coi đó là công cụ pháp lý để hạn chế quân quyền độc tôn và hà lạm của chế độ quần chủ chuyên chế phương Đông. Ông nói: "lấy theo ý riêng một người hay một triều đình mà trị một nước, thì cái nước ấy không khác gì một đoàn chiên, được ấm no vui vẻ hay là phải đói lạnh khổ sở, là tuỳ theo lòng rộng hay hẹp của người chăn chiên. Còn như theo cái chủ nghĩa dân trị, thì tự quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo chung cho mọi người..."
Lấy mẫu mực là nền dân chủ ở nước Pháp lúc bấy giờ, ông phân tích quan hệ giữa Tổng thống và Nghị viện đặt trên cơ sở Hiến pháp.
Chính Hiến pháp xây dựng và bảo vệ sự ổn định của chế độ dân chủ pháp trị: "Khi Tổng thống đã được bầu cử rồi, thì phải thề trước hai viện ấy: "Cứ giữ theo hiến pháp dân chủ, không phản bạn, không theo đảng này chống đảng kia, cứ giữ công bình, nếu có làm bậy, thì dân nó truất ngay. Trước thì có Macmahon, sau thì có Mil1erand bị cách chức cũng vì vi phạm hiến pháp".
Phan Châu Trinh là một nhà yêu nước lớn, đồng thời với Phan Bội Châu nhưng biện pháp cứu nước của hai ông không giống nhau, nhất là con đường thực hiện giành lại chủ quyền cho quốc gia, giải phóng dân tộc...
Nếu Phan Bội Châu yêu nước bằng chủ trương bạo động để giành độc lập, thì Phan Chu Trinh trái lại, ông phản đối chủ trương bạo động cách mạng và đi cầu viện nước ngoài để giành độc lập. ông muốn nhờ vào chính quyền thực dân Pháp mà làm chính trị công khai để “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh", để từ đó giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Chủ trương cơ bản của Phan Chu Trinh là: "ỷ Pháp cầu tiến bộ" tức là dựa vào thực dân Pháp mà cầu tiến bộ để từ đó tranh đấu với Pháp về các mặt kinh tế, văn hoá, chính trị. Chủ trương ấy gọi là "Pháp - Việt đề huề". Nhận xét về tư tưởng của Phan Chu Trinh, trong Phan Bội Châu niêu biểu, Phan Bội Châu đã viết: "Cụ thì muốn đánh đổ quân chủ, mà cốt vun trồng lấy nền tảng dân quyền, dựa vàn Pháp mà đánh đổ quân chủ. Còn ý tôi thì trước muốn đánh đổ người Pháp, chờ nước mình độc lập rồi, mới bàn đến việc khác. Vì thế mà đương lúc đánh với Pháp, phải lợi dụng quân chủ (...) Cụ thì muốn đi theo lối dựa Pháp đánh đổ vua, tôi ưng đi theo lối bài Pháp phục Việt, sở dĩ mâu thuẫn với nhau là vì thể”
Phan Chu Trinh đề xướng và lãnh đạo phong trào Duy Tân. Ông có ý định thiết lập ở Việt Nam một chế độ dân chủ tự trị. Tự trị nghĩa là tách khỏi sự cai trị của thực dân Pháp. Trong Pháp - Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam, Phan Chu Trinh viết: 'Tôi đã chủ trương tự trị, tin cậy Pháp. Đã muôn cậy Pháp ắt không lợi dung lòng dân oán Pháp (…). Tôi đã chủ trương cậy Pháp thì thủ đoạn không thể do tự trị mà ra. Tự trị cũng chẳng là việc dễ lắm đâu, việc hỏng ắt cũng chết…”.
Như vậy, chủ trương của Phan Chu Trinh là dựa vào Pháp để tự trị, còn Phan Bội Châu thì bài Pháp để độc lập. Mặc dù Phan Chu Trinh chưa có lần nào giải thích rõ ý nghĩa của chế độ "tự trị" ấy, nhưng qua con đường tranh đấu của ông cũng cho phép xác định được nội dung "tự trị" ấy là tự cai trị mình, tách khỏi sự thống trị của thực dân Pháp, tự trị cũng nguy hiểm như độc lập. Cho nên một tài liệu của Phủ Toàn quyền Đông Dương đã viết: "Mặc dầu khuynh hướng có vẻ khác nhau ở bên ngoài như thế, người ta vẫn phải công nhận rằng các hoạt động kia khớp với nhau chặt chẽ và đều nhằm mục đích cuối cùng là đánh đuổi người nước ngoài đi".
Phan Chu Trinh kịch liệt phản đối chế độ quân chủ mà ông gọi là "quân trị" và đòi thực hiện chế độ cộng hoà tư sản mà ông gọi là "dân trị".
Ông giải thích "Quân trị chủ nghĩa tuy có pháp luật mặc lòng, nhưng cứ tự tay ông vua lập ra, chứ còn dân thì chẳng biết gì hết. Vậy cho nên khi nào gặp một ông vua thông minh, anh hùng, hiểu rõ cái sự quan hệ dân với nước là thế nào mà trừng trị những cái lũ tham quan, lại nhũng để dân được yên lặng làm ăn, thì dân giàu nước mạnh...”6 . Ông cũng nói: "Nhân trị nghĩa là cái phép luật thi hành rộng rãi hay là nghiêm ngặt là tuỳ theo cái lòng vui, buồn, thương ghét của một ông vua mà thôi, còn pháp luật tuy có cũng như không"7. Phan Chu Trinh cho rằng bên Châu Âu, người ta đã thực hành từ lâu rồi chính thể "Quân dân cộng trị mà Tàu dịch là quân chủ lập hiến", tức như chính thể "nước Anh, nước Bỉ, nước Nhật đang theo hiện nay".
So sánh, ông khẳng định: "... cái chủ nghĩa dân trị hơn cái chủ nghĩa quân trị nhiều”, bởi vì "theo cái chủ nghĩa dân trị, thì tự quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc chung mọi người. Lòng quốc dân muốn thế nào thì được thế ấy...”. Năm 1922, khi vua Khải Định sang Pháp, Phan Châu Trinh đã viết “Thất điều thư" công kích trực diện chế độ quân chủ, định tội của Khải Định và hầu như kêu gọi quốc dân tuyên chiến để "nhổ đến tận gốc, lấp
Về chủ nghĩa dân chủ, ông lại lấy câu của Mạnh Tử: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh", nghĩa là dân quý hơn hết, lãnh thổ thứ nhì, vua là nhẹ rồi ông lại nói: "Đạo Khổng - Mạnh đã mất rồi, nay ta muốn nước ta có một nền đạo đức, luân lý vững vàng, thì có gì hay bằng ta hết sức đem cái chủ nghĩa dân chủ Châu Âu về. Chủ nghĩa dân chủ chính là một vị thuốc tất thần hiệu dùng để chữa bệnh chuyên chế của nước ta vậy. Đem văn minh Âu Châu về, tức đem đạo Khổng - Mạnh về”. Nếu chỉ đọc đoạn này thì có thể nghĩ đây là một cách nói để dễ thuyết phục tầng lớp nho học. Nhưng, gắn liền vào lời nói của Mạnh Tử về "dân vi quý”, ông đã viết: "Ngày nay, bên Đức, bên Pháp, bên Nga, tuy chính thể của họ có khác nhau chút đỉnh nhưng đều thực hành cái chủ nghĩa dân chủ cả".
Phan Châu Trinh là người yêu nước lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng dân chủ tư sản qua tân thư. Con đường cứu nước của ông khác với Phan Bội Châu ở điểm cơ bản là ông chủ trương bãi bỏ chế độ quân chủ phong kiến, thực hiện dân chủ, khai thông dân trí, mở mang công thương nghiệp. Không bạo động, không nhờ ngoại viện, mà nhờ vào chính quyền thực dân, vin vào những lời hứa hẹn của nhà cầm quyền để làm chính trị công khai, mưu dân quyền, dân chủ và hạnh phúc cho nhân dân. Cho nên, có thể nói lý tưởng dân quyền là tư tưởng căn bản quyết định hành động cách mạng của Phan Châu Trinh.
Chủ trương xuyên suốt của ông là dựa vào "nước Pháp là một nước làm tiền đạo văn minh của hoàn cầu, nay hiện bảo hộ nước ta, mình nhân đó mà học theo, chuyên tâm về mặt khai tự trị sinh, các việc thực dụng, dân trí đã mở rộng, trình độ ngày sẽ một cao, tức là cái nền độc lập ngày sau ở đây".
Thứ văn Phan Châu Trinh tràn ngập tình thương yêu người dân bị áp chế, nghèo khổ và cực lực chống lại mọi kẻ quyền thế, giàu có, tàn ác…
Trong thư gửi Toàn quyền Paul Beau (Đầu Pháp Chính phủ thư) tố cáo trước công luận trong và ngoài nước về tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam Phan Chu Trinh đã kết luận theo hướng "Pháp - Việt đề huề" của ông như sau: "Nếu Chính phủ quả thật sẵn lòng đồi hết chính sách đi, kén chọn người hiền tài trao quyền bính cho, lấy lễ mà tiếp, lấy thành mà đãi, cùng nhau lo toan việc dấy lợi trừ hại ở trong nước, mở đường sinh nhai cho dân nghèo, rộng quyền ăn nói cho thân sỹ, báo quán cho mở rộng để thông đạt tình dân, thưởng phạt cho nghiêm minh để khuyên răn quan lại, còn dấn những việc đổi pháp luật, bó khoa cử, mở trường học, đặt toà tu thư, dạy lớp sư phạm, cho đến học công thương, học kỹ nghệ và các ngạch giúp việc cho Chính phủ, chỉ sợ người Pháp bỏ nước Nam mà đi, còn ai toan mưu việc chống cự nữa?".
Trong “Thất điều thư” gửi vua Khải Định (1922), Phan Chu Trinh cực lực công kích Khải Định và qua đó lên án chế độ quân quyền độc tôn, quân chủ chuyên chế, áp bức nhân dân.
Với tư tưởng ấy và hành động ấy, khi Phan Chu Trinh qua đời, Huỳnh Thúc Kháng đã đọc trong buổi tang lễ lời nhận xét: "Chủ nghĩa tiên sinh là đánh đổ chuyên chế, là dân quyền tự do ...".
Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa, là bài diễn thuyết cuối cùng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Phan Châu Trinh nói ở Sài Gòn vào năm 1925, trước khi ông qua đời (1926). Trong bài diễn thuyết này, ông đã tập trung trình bày về cái mẫu nhà nước lý tưởng cho Việt Nam tương lai khi công cuộc duy tân hoàn thành.
Mô hình lý tưởng theo Phan Châu Trinh là tổ chức nhà nước của các nước phát triển ở Châu Âu lúc bấy giờ (như Anh, Pháp... ). Tổng quát, nhà nước ấy được tổ chức và điều hanh theo nguyên tắc cơ bản là “tam quyền phân lập", với cơ chế 3 quyền độc lập với nhau: lập pháp giao cho Nghị viện, hành pháp đứng đầu là Giám quốc (Tổng thống) do Nghị viện bầu ra, và tư pháp giao cho các cơ quan xét xử độc lập đối với hai ngành ha. "Đó là theo cái lẽ ba quyền là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp đều riêng ra, không hiệp lại trong tay một người nào”.
Đầu tháng 3/1908, nhân cuộc đấu tranh chống sưu thuế nổ ra ở Quảng Nam, thực dân Pháp đã bắt Phan Châu Trinh với tội danh xúi giục dân làm loạn, kết án “trảm giam hậu, lưu tam thiên lí, ngộ xá bất nguyên” và bị đày đi Côn Đảo vào cuối tháng 4/1908.
Nhờ sự đấu tranh của Liên minh nhân quyền Pháp, tháng 8/1910, Phan Châu Trinh được ân xá và đưa về giam lỏng ở Mĩ Tho. Ông đã đấu tranh đòi tự do thật sự. Tháng 3/1911, ông được đưa sang Pháp. Tại đây, ông tiếp tục hoạt động đến cuối năm 1925 trở về nước.
Mặc dù chủ trương cứu nước của Phan Châu Trinh có những hạn chế, song ông vẫn là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ XX. Phan Châu Trinh là một người yêu nước nhiệt thành, đã có những đóng góp tích cực vào việc khơi dậy tư tưởng dân chủ, mở ra cách nhìn mới về vấn đề dân tộc, dân chủ. Trong hoàn cảnh một xứ thuộc địa, xu hướng cải cách khi có điều kiện thâm nhập vào quần chúng cũng nhanh chóng biến thành bạo động. Phong trào chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908 là một điển hình.
Sự thực, chủ nghĩa cải lương của Phan Châu Trinh là một hiện tượng nổi bật trong xã hội Việt nam vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Nó chứng tỏ Phan Châu Trinh rất quan tâm đến sự tiến bộ và tương lai của nước nhà. Chính vì vậy mà ông muốn cải tạo xã hội Việt Nam lúc đương thời theo con đường cải lương, nghĩa là dựa vào chính phủ Bảo hộ và nước Đại Pháp văn minh để tiến hành cải cách nhằm đưa xã hội Việt Nam tiến lên phía trước. Nhưng chủ trương dựa vào Pháp để thực hành cải lương của ông đã thể hiện một sự nhận thức không đúng về chủ nghĩa tư bản đế quốc và nền văn minh tư bản chủ nghĩa. Ông không lý giải được tại sao các nước tư bản tiên tiến gắn với nền dân chủ tự do và văn minh tư bản chủ nghĩa như nước Pháp lại có thể câu kết với những thế lực phong kiến lỗi thời và phản động để nô dịch và áp bức nhân dân thuộc địa. Vì thế chủ trương dựa vào Pháp để thực hành cải lương chỉ là ảo tưởng và không thể nào đạt được mục đích. trong cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch tác giả Trần Dân Tiên viết: "Cụ Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, đó là sai lầm chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương".
Nhưng muốn hiểu đúng chủ nghĩa cải lương của Phan Châu Trinh chúng ta phải thấy rằng, các sĩ phu yêu nước ở Việt nam hồi đầu thế kỷ XX không thể vượt khỏi giới hạn của lịch sử, nghĩa là các ông đang vươn tới ý thưc hệ tư sản và chưa vượt khỏi ranh giới của ý thức hệ. Vì thế các ông không thể giải thích được chủ nghĩa tư bản đế quốc một cách khoa học theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và không thể có được một quan điểm cách mạng triệt để của giai cấp vô sản. Cũng do những giới hạn đó của lịch sử mà nhà yêu nước Phan Bội Châu, đại biểu cho khuynh hướng cách mạng bạo lực là một khuynh hướng thể hiện được ý chí chống ngoại xâm của dân tộc cũng không thấy được bản chất của chủ nghĩa tư bản đế quốc và lực lượng đông đảo của quần chúng. Phan Bội Châu đã nhìn nhận mâu thuẫn giữa dân tộc ta và thực dân Pháp là mâu thuẫn giữa hai chủng tộc da trắng và da vàng. Và ông cũng đã hy vọng nhờ vào sự giúp đỡ của nước Nhật tư bản chủ nghĩa để chống Pháp. Với sự nhận thức không chính xác như vậy về đối tượng và động lực cách mạng nên Phan Bội Châu đã không tránh khỏi những thất bại liên tiếp. Chính vì thế mà khi viết Tự phê phán, Phan Bội Châu đã phải thốt lên: "Than ôi! Lịch sử của tôi là lịch sử một trăm thất bại mà không một thành công" . Và cuối cùng một người kiên trì cách mạng bạo lực trong mấy thập kỷ rút cuộc lại rơi vào thuyết "Pháp - Việt đề huề". Điều này chứng tỏ rằng trong khuôn khổ của ý thức hệ tư sản và tiểu tư sản thì một người kiên trì chủ trương cách mạng bạo lực như Phan Bội Châu cũng không khỏi có lúc rơi vào chủ nghĩa cải lương. Nếu chúng ta nhìn thẳng vào những giới hạn đối với Phan Bội Châu như vậy, thì chúng ta càng thông cảm và hiểu rõ hơn chủ nghĩa cải lương của Phan Châu Trinh.
Chính vì thế mà trong hai thập kỷ của thế kỷ XX, trên đất nước Việt Nam cùng với ngọn cờ chống Pháp bằng lực lượng vũ trang, đã xuất hiện phong trào Duy Tân hô hào đổi mới và cải cách khắp trong Nam và ngoài Bắc nhằm đưa xã hội Việt Nam tiến lên một bước. Phong trào này đã lôi cuốn được đông đảo nhân dân tham gia, nổi nhất là trường Đông kinh Nghĩa thục ở Hà Nội và phong trào Duy tân ở các tỉnh miền Trung. Những hoạt động của phong trào này nhằm cổ vũ ý thức tự cường dân tộc, thúc đẩy những cải cách văn hóa và xã hội trước hết là cải cách giáo dục và thi cử. Trọng tâm của phong trào đặt vào sự đổi mới đầu óc của mọi người, đổi mới tri thức, từ bỏ cái học cũ và những tri thức lỗi thời cổ xưa để hướng tới nền học vấn Âu Tây trong khoa học kỹ thuật. Những nhân vật đại biểu cho phong trào này cũng đã từng kêu gọi các tầng lớp nhân dân cải cách phong tục hăng hái tham gia vào những hoạt động kinh doanh nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên những cố gắng của họ thường hướng vào việc nâng cao dân trí và dân khí. Họ mong muốn dân ta không còn mê ngủ, nghèo nàn, lạc hậu và khao khát một tiền đồ tươi sáng của dân tộc.
Phan Châu Trinh là nhân vật tích cực của phong trào đổi mới và cải cách nay. Ông không những có mặt ở đỉnh cao của phong trào tại mấy tỉnh miền Trung mà còn đến trường Đông kinh Nghĩa thục diễn thuyết biên soạn những áng thờ văn kêu gọi lòng yêu nước và hô hào cải cách. Trong khi phong trào này hầu như ở khắp mọi nơi chỉ đề cập đến cải cách văn hóa xã hội, đến sự đổi mới tri thức và phong tục thì Phan Châu Trinh là người đề xướng cải cách hệ thống chính trị với tất cả tính nghiêm trọng và cấp bách của vấn đề này. Ông đả kích hệ thống quan lại mục nát, tham nhũng, hủ lậu và bất lực. Ông nêu ra vấn đề chức trách, phẩm giá và cơ chế hoạt động của cả tập đoàn quan liêu từ triều đình đến những tên nha lại hào lý hằng ngày sách nhiễu đè nén những người dân lương thiện. Nhưng ông không dừng lại ở sự phê phán tầng lớp quan liêu hào lý mà còn phê phán cả quyền chuyên chế của nhà vua, nhất là "tám mươi năm trở lại đây, vua thì dốt nát ở trên, bầy tôi thì nịnh hót ở dưới; hình pháp dữ dội, luật lệ rối loạn, làm cho dân không còn biết sống theo cách nào" Ông còn chỉ rõ một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đồi bại của bộ máy quan liêu là sự "dung túng của chính phủ Bảo hộ". Duy ở đây có điều là ông không thấy chính sách sử dụng bộ máy quan liêu sâu mọt như vậy để nô dịch nhân dân là bản chất của thực dân Pháp. Vì thế ông đã cố gắng thuyết phục chính phủ Bảo hộ thay đổi chính sách và tiếp thu những đề nghị của ông về cải cách hệ thống quan lại và mở rộng dân chủ cho nhân dân. Nhưng sự thuyết phục đó không thể thành công.
Khi đề xuất những yêu cầu cải cách chính trị đối với xã hội Việt Nam lúc đương thời, Phan Châu Trinh đã nêu ra tư tưởng dân chủ như một định hướng cho cuộc cải cách này. Nội dung cơ bản của tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh là nâng cao dân quyền, là xây dựng thể chế chính trị và hệ thống pháp luật để bảo đảm cho dân quyền. Ông nhấn mạnh: "Theo cái chủ nghĩa dân trị thì từ quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc chung cả nước, lòng quốc dân thế nào thì làm thế ấy" .
Bước sang thế kỷ XX đất nước Việt Nam không những cần có độc lập dân tộc, mà phải giàu mạnh, có dân chủ và văn minh. Chính yêu cầu đó của lịch sử đã khẳng định vai trò quan trọng của phong trào Duy tân đổi mới và cải cách. Ông là người phát biểu một cách dõng dạc và rõ ràng nhất những sự hủ bại củ hệ thống quan lại và đưa ra những yêu cầu cải cách hệ thống quan lại và những quan hệ chính trị lúc đương thời. Không những thế, ông còn làm sáng tỏ vấn đề dân quyền về mặt lý thuyết và ra sức cổ vũ tuyên truyền cho sự thực hiện dân chủ và dân quyền trong thực tiễn. Tư tưởng dân chủ và dân quyền của Phan Châu Trinh là một đóng góp to lớn không những cho phong trào đổi mới và cải cách mà cả cho sự phát triển của lịch sử tư tưởng Việt nam đầu thế kỷ XX. Nếu chúng ta nhìn Phan Châu Trinh không phải chỉ thấy chủ nghĩa cải lương của ông mà còn thấy những cống hiến của ông về mặt tư tưởng và thực tiễn như trên đã nói thì chúng ta sẽ có sự đánh giá địa vị của ông trong lịch sử cách mạng Việt Nam một cách khách quan và công bằng hơn trước.
nguồn : diendankienthuc.net*