• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Phạm Quỳnh - Tuyển tập du ký

Phong Cầm

Yêu!
Thành viên BQT
Kỷ niệm 120 năm sinh học giả Phạm Quỳnh (1893-2013)
LỜI GIỚI THIỆU
PHẠM QUỲNH – TUYỂN TẬP DU KÝ
(NXB Tri thức, H., 2013, 512 trang)

Nguyễn Hữu Sơn

Công trình Phạm Quỳnh – Tuyển tập du ký sưu tập các bài viết của học giả Phạm Quỳnh thuộc phạm vi thể tài du ký… Giới hạn phạm vi sưu tập, tuyển chọn là các bài viết của Phạm Quỳnh trên Nam phong Tạp chí qua suốt 17 năm tồn tại (1917-1934)…
Học giả Phạm Quỳnh (30.1.1893 – 7.9.1945), còn có các bút danh Thượng Chi, Hoa Đường, Hồng Nhân; sinh tại Hà Nội; quê quán ở làng Lương Ngọc, tổng Ngọc Cục, phủ Bình Giang (nay thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Tên tuổi nhà văn hóa Phạm Quỳnh đã được khẳng định trong nhiều bộ từ điển danh nhân văn hóa, từ điển văn học, công trình nghiên cứu, chuyên khảo, luận văn; đặc biệt từ giai đoạn Đổi mới (1986) đến nay, nhiều tác phẩm quan trọng của ông đã lần lượt được sưu tập, công bố trở lại và được nghiên cứu ngày một sâu sắc hơn: Mười ngày ở Huế (2001), Luận giải văn học và triết học (2003), Pháp du hành trình nhật ký (2004), Du ký Việt Nam – Tạp chí Nam phong (1917-1934), ba tập (2007), Thượng Chi văn tập (2007), Phạm Quỳnh - Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp (2007), Hoa Đường tùy bút và 51 bản dịch thơ Đỗ Phủ (2011), Phạm Quỳnh – một góc nhìn, Tập I (2011), Tập II (2012), Phạm Quỳnh trong dòng chảy văn hóa dân tộc (2012), v.v…

Một cách khái quát, các nhà lý luận xác định: “DU KÝ - Một thể loại văn học thuộc loại hình ký mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân người đi du lịch, ngoạn cảnh về những điều mắt thấy tai nghe của chính mình tại những xứ sở xa lạ hay những nơi ít người có dịp đi đến. Hình thức của du ký rất đa dạng, có thể là ghi chép, ký sự, nhật ký, thư tín, hồi tưởng, miễn là mang lại những thông tin, tri thức và cảm xúc mới lạ về phong cảnh, phong tục, dân tình của xứ sở ít người biết đến [...]. Dạng đặc biệt của du ký phát huy cái chất ghi chép về miền xa lạ của nó là du ký về các xứ sở tưởng tượng, có tính chất không tưởng hay viễn tưởng khoa học [...]. Dạng du ký khác đậm đà phong vị phương Đông là ghi chép cảm tưởng, nhận xét về những nơi danh lam thắng cảnh đất nước [...]. Thể loại du ký có vai trò quan trọng đối với văn học thế kỷ XVIII - XIX trong việc mở rộng tầm nhìn và tưởng tượng của nhà văn. Sang thế kỷ XX, du ký mang nhiều tính chất tư liệu khoa học do các nhà địa chất, nhà dân tộc học viết. Loại du ký khoa học cũng rất thịnh hành” (Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, H., 1992)... Định nghĩa trên đây đã khái quát được những đặc điểm cơ bản nhất của du ký - mà chúng tôi duy danh là thể tài du ký. Tuy nhiên, thể tài du ký là một bộ phận văn học còn chưa được chú ý đúng mức. Khi nói đến “thể tài du ký” cần được hiểu nhấn mạnh hơn ở phía đề tài, phía nội dung và cảm hứng nghệ thuật nơi người viết, chứ không phải ở phía thể loại (du ký mang tính quan phương, công vụ; du ký viễn du - những chuyến du hành đến với các nước khác; du ký thiên về khảo cứu danh nhân lịch sử, truyền thuyết và sự tích liên quan tới một địa điểm cụ thể; du ký hướng tới khảo sát, giới thiệu cả một vùng văn hoá rộng lớn; du ký mà yếu tố “vị nghệ thuật” chiếm phần quan trọng, ở đó người viết chấm phá một vài nét phong cảnh thiên nhiên, cuộc sống đời thường bình dị hay thoáng qua niềm vui liên quan đến hoạt động văn hoá, tôn giáo, phong tục, truyền thống lễ hội, lễ nghi, lễ nhạc)… Thu hút vào địa hạt du ký có các sáng tác bằng thơ, phú, tụng và các bài văn xuôi theo phong cách ký, ký sự, phóng sự, ghi chép, khảo cứu, hồi ức về các chuyến đi, các điểm du lịch, các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, sinh thái, kiến trúc, mỹ thuật; thậm chí có thể liên quan tới nhiều phương diện của xã hội học, văn hoá học, khảo cổ học, dân tộc học và văn hoá - văn nghệ dân gian khác nữa… Do đó đã xuất hiện thực tế có tác phẩm nằm ở trung tâm thể tài du ký và nhiều trang viết khác lại nằm ở đường biên hoặc hỗn hợp, pha tạp với những sắc độ đậm nhạt khác nhau, cả về đối tượng, phạm vi đề tài, nội dung hiện thực lẫn phong cách thể loại.

Bước sang thế kỷ XX, thể tài du ký có bước phát triển mạnh mẽ. Khi thực hiện công trình Mục lục phân tích Tạp chí Nam phong, 1917-1934 (Trung tâm Học liệu ấn hành, Sài Gòn, 1968. Tái bản. NXB Thuận Hoá - Trung tâm Văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, Huế, 2002), nhà thư mục Nguyễn Khắc Xuyên xác định du ký là một trong 14 bộ môn và nêu nhận xét về thể tài du ký - còn được ông gọi là du hành: “Nhiều khi chúng ta tự cảm thấy, sống trong đất nước với giang sơn gấm vóc mà không được biết tới những cảnh gấm vóc giang sơn. Thì đây, theo tờ Nam phong, chúng ta có thể một phần nào làm lại cuộc hành trình qua tất cả những phong cảnh hùng vĩ nhất, đẹp đẽ nhất của đất nước chúng ta từ Bắc chí Nam, từ Cao Bằng, Lạng Sơn đến đảo Phú Quốc, từ núi Tiên Du đến cảnh Hà Tiên và Ngũ Hành Sơn, từ Cổ Loa, Hạ Long đến Huế thơ mộng... Với thời gian, hẳn những tài liệu này càng ngày càng trở nên quý hoá đối với chúng ta... Trong mục Du ký này, phải kể bài Hạn mạn du ký của Nguyễn Bá Trác, Lại tới Thần kinh của Nguyễn Tiến Lãng; Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ, và nhất là Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh”…

Thực tế cho thấy các tác phẩm du ký của Phạm Quỳnh khá đa dạng về hành trình, mục đích chuyến đi và mức độ thể hiện tiếng nói trữ tình ngoại đề của chủ thể tác giả. Mặc dù có sự đan xen, giao thoa các sắc thái khác nhau nhưng vẫn có thể chỉ ra những tâm thế, những điểm nhấn, những bảng màu khác nhau trong du ký của ông chủ bút, ký giả, nhà văn hóa, nhà chính trị Phạm Quỳnh. Ở đây có một dòng du ký mang tính quan phương, sự vụ, công vụ. Kiểu du ký này thường do các trí thức, ký giả quan lại ghi chép. Mặt khác, vì Nam phong Tạp chí chịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của chính quyền đương thời nên buộc phải phát ngôn tiếng nói quan phương cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, các trang du ký này vẫn thể hiện được niềm tự hào dân tộc và cảm xúc chân thành trước vẻ đẹp non sông đất nước. Hơn nữa, từ quan điểm lịch sử mà đánh giá sẽ thấy nhiều trang du ký của Phạm Quỳnh như Cùng các phái viên Nam kỳ (Thượng Chi); Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ, Pháp du hành trình nhật ký, Du lịch xứ Lào... lại thực sự có giá trị sử liệu để xem xét nhiều sự kiện văn hoá - xã hội và định vị hoạt động tổ chức hành chính của giai tầng công chức thượng lưu dưới thời thực dân phong kiến. Từ rất sớm, Phạm Quỳnh đã viết du ký vừa thể hiện sự hiếu kỳ, niềm vui khi khám phá một điểm di tích danh lam thắng cảnh in đậm sắc màu “vị nghệ thuật”, vừa sớm có những ý kiến đề xuất về cách thức thức tổ chức, điều hành hoạt động văn hoá lễ hội, du lịch như bài Trảy chùa Hương (ký Thượng Chi, in số 23, tháng 5-1919)… Lại có một dòng du ký viễn du - những chuyến du hành vượt biên giới, đòi hỏi cả nguồn kinh phí, yêu cầu công việc và ý chí của người ham hoạt động, ham xê dịch. Đặt trong bối cảnh văn hoá - xã hội đương thời thì các du ký này quả đã mở ra những chân trời nhận thức mới, đưa lại niềm phấn khích bởi những trang ghi chép, miêu tả sống động của người trong cuộc, người trải nghiệm, chứng nghiệm. Vượt ra ngoài biên giới, Phạm Quỳnh có Pháp du hành trình nhật ký và Thuật chuyện du lịch ở Paris, sau này có thêm Du lịch xứ Lào… Trên thực tế việc phân chia các phương thức, kiểu loại, nội dung du ký của Phạm Quỳnh như trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Song dù có khác nhau thế nào thì các tác phẩm du ký của ông vẫn hướng tâm ở phương thức ĐI và XEM, đặt cược vào tính tích cực chủ thể là người trực tiếp Chứng Nghiệm - Trải Nghiệm và vươn tới phẩm chất “vị nghệ thuật” chân - thiện - mỹ cao đẹp, ít nhiều gián cách với thế tục lầm than.

Trong số các du ký viết về Huế hồi đầu thế kỷ thì tiểu loại khảo cứu có ý nghĩa cung cấp thêm tư liệu lịch sử, ghi lại được chính xác nhiều chi tiết, cảnh quan văn hoá xưa mà nhiều mảng màu ngày nay đã phôi pha hoặc không còn nữa. Vào hồi đầu thế kỷ, do chữ Quốc ngữ phát triển và nhu cầu thông tin, giao lưu văn hoá tăng mạnh khiến cho loại du ký phong tục, ghi chép về lễ hội, tường thuật các cuộc triển lãm - đấu xảo - chợ phiên có dịp nảy nở… Khác với Hà Nội và Sài Gòn có dân số đông, nền kinh tế phát đạt thì xứ Huế vẫn trang trọng như là một nơi bảo lưu được vẻ cổ kính, truyền thống xưa cũ, xứng đáng là nơi đế đô, đất "thần kinh". Học giả Phạm Quỳnh trong bài Mười ngày ở Huế (Nam phong Tạp chí, số 10, tháng 4-1918) đã không chỉ phác thảo cảnh quan xứ Huế mà còn cảm nhận lại được cái "cữ thời gian" hợp lý nhất để đi du lãm lăng miếu, thắng cảnh: "Có người Pháp rất mến cái cảnh những nơi lăng tẩm của ta đã từng nói, muốn đi xem lăng phải đi vào những ngày gió thu hiu hắt, giời đông u ám thì mới cảm được hết cái thú thâm trầm"; hoặc cả chiều sâu kinh nghiệm trong cách lựa chọn kiểu cách và phương tiện đi du lịch: "Đi xem lăng có thể đi xe tay từ Huế, ước mất bốn năm giờ đồng hồ. Nhưng đi xe không bằng đi thuyền, tuy mất nhiều thì giờ hơn mà thú hơn nhiều. Thuyền chèo từ nửa đêm, ước tám giờ sớm mai tới nơi, đi xem suốt một ngày, chiều tối chèo về, nửa đêm đến Huế, cả thảy không đầy hai đêm một ngày mà được nằm nghỉ thảnh thơi ngắm cảnh sông Hương, không mỏi mệt như ngồi trên xe"... Ấy là nói cái thú và tốc độ sinh hoạt của người sống cách hôm nay dư tám chục năm rồi, chứ chuyện tầu xe bây giờ chắc đơn giản lắm! Trong thiên du ký Mười ngày ở Huế, tác giả không chỉ xem cảnh ngắm đền, miêu tả tỉ mỉ ngày lễ Tế giao đích nhật đêm 12 rạng 13 tháng 2 năm Mậu Dần, tức 24 và 25-3-1918 (cũng có đủ cả múa bát dật, hát Võ thiên uy, Văn thiên đức) mà gắng tìm hiểu chiều sâu phong hoá xứ Huế - những con người vốn là chủ nhân ông của Huế: "Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca cho con trẻ hát, ấy mới rõ tính tình của người xứ Huế. Cho nên ở Huế, phong cảnh đã xinh, những nơi lăng tẩm đã đẹp, mà dễ quí nhất là những nhân vật của xứ Huế vậy. Tôi tiếc vì không ở được bao lâu, trong khoảng mười ngày lấy đâu mà biết cho khắp những bậc danh sĩ cao nhân, thường là người ẩn dật, không phải hằng ngày mà gặp được "… Rồi tác giả dành hơn một trang dẫn chứng về Nữ sử Đạm Phương và dòng văn Nguyễn Khoa, lại đặc cách giới thiệu hai bài thơ Nhớ cảnh núi và thêm bài Nhớ bạn theo lối liên hoàn của bà. Vào khoảng cuối xuân năm 1918, Phạm Quỳnh từng gặp bà Đạm Phương ở Huế đã hết lời ngợi ca bà là bậc “Nữ sử”, “hay thơ”, “Có lắm bài làm theo lối liên hoàn, lối hồi văn khéo lắm. Phu nhân lại có làm thơ Nôm và biết chữ Pháp nữa, hiện đương tập lược dịch một bộ tiểu thuyết Tây”, “Đức ông không được người con giai nào, nhưng được người con gái như phu nhân tưởng cũng là xứng đáng lắm vậy”, “Chính phu nhân cũng có hai cô con gái học Pháp văn đã thông lắm”…

Vào cuối thập niên thứ hai của thế kỷ XX, học giả Phạm Quỳnh cũng đã đến Sài Gòn - Gia Định và để lại những trang du ký sinh động qua tác phẩm Một tháng ở Nam Kỳ (Nam phong Tạp chí, số 17, tháng 11-1918 và số 19+ 20, tháng 1+2-1919). Chuyến đi của ông nhằm ngày 22-8-1918 theo đường tàu biển Hải Phòng, đến ngày thứ tư cập cảng sông Sài Gòn. Qua suốt hai tuần lễ đầu "chỉ chơi quanh ở Sài Gòn, Gia Định", ông Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Tạp chí Nam phong ở tuổi 26 đã ghi lại cảm xúc và nhận xét sâu sắc về thiên nhiên, con người và cuộc sống, từ con đường đến dinh thự, công sở, từ tác phong làm việc đến hoạt động kinh tế và văn hóa, đặc biệt nhấn mạnh sự phát triển mạnh mẽ của báo chí Nam Kỳ. Trên mỗi lĩnh vực cụ thể, Phạm Quỳnh thường có những so sánh kỹ lưỡng với thực trạng ở Hà Nội và Bắc Kỳ.
Vừa bước chân đến Sài Gòn, Phạm Quỳnh đã có nhận xét đầy thiện cảm về phong cách nghiêm túc của những người phụ việc: "Quan cảnh sát lên kiểm giấy thông hành, ước một khắc đồng hồ thì cu ly mỗi đứa cái thẻ đồng ở tay ồ vào tranh nhau khiêng đồ hành lý. Tuy vậy coi còn nghiêm hơn cu ly Hải Phòng, vì bọn đó chừng có pháp luật riêng phải theo, không dám làm nhũng"... Chính nhờ có điều kiện đi nhiều nên Phạm Quỳnh có điều kiện so sánh, thấy rõ những sự tương đồng và cái khác biệt, nhấn mạnh cái mới ở vùng đất mới: "Người ta thường gọi Sài Gòn là cái "hạt báu của Á Đông" (la perle de l'Extrême Orient)". Ông so sánh đường phố, công sở và kiến trúc hai phủ Toàn quyền Sài Gòn - Hà Nội: "Đẹp nhất, coi trang nghiêm nhất là con đường đi thẳng vào phủ Toàn quyền (người Sài Gòn thường gọi là tòa Chánh soái). Hai bên có hai khu vườn trồng những cây lớn, tối trông như hai đám rừng nhỏ, ở giữa một con đường rộng chạy thẳng băng tự đầu tỉnh đằng kia cho tới ngang cửa phủ. Coi thật là có bề thế, có vẻ tôn nghiêm, xứng đáng với một nơi tướng phủ. Mà phủ Toàn quyền ở đây, qui mô cũng đẹp hơn ở Hà Nội. Phủ Toàn quyền Hà Nội tựa hồ như một đống gạch xếp vuông, trông có vững vàng bền chặt mà nặng nề biết bao nhiêu! Ở Sài Gòn thì như hình chữ đinh, nét ngang trên là chính dinh, nét sổ dưới là các tơ tào. Mặt trước ở gian giữa có bậc lên, hai bên hai con đường dốc quanh lại như hình bán nguyệt, trông ra cái vườn rộng thênh thang, giữa có bãi cỏ phẳng lì như một tấm thảm xanh, trên chỉ trồng hai khóm trúc in nhau như hệt"; so sánh hai dinh Đốc lý: "Nhưng đẹp nhất là nhà Thị Sảnh Sài Gòn... Kiểu đại khái cũng giống như các nhà thị sảnh bên Tây, trên có cái chòi vuông mấy từng cao chót vót... Chẳng bì với nhà Đốc lý Hà Nội ta, thật so sánh mà thẹn thay. Mà Hà Nội lại là nơi thủ đô của Đông Dương... Xin các ông hội viên phải lưu tâm đến sự đó, thật là có quan hệ cho danh dự Hà Thành ta"...; so sánh hai nhà thờ: "Nhà thờ Sài Gòn tuy không có cái nền đá cao như nhà thờ Hà Nội mà có hai cái tháp nhọn cao ngất trời, những khi trời sáng sủa đi tự ngoài Vũng Tàu (Cap Saint Jacques) cũng trông rõ"...; so sánh hai khu chợ: "Còn Chợ Mới Sài Gòn cũng có cái nhà chòi ở cửa giữa thật là vĩ đại, vừa cao vừa vững vàng lực lưỡng, coi như một cái pháo đài vậy. Mà trong chợ thì rộng mênh mông, chợ Đồng Xuân Hà Nội chẳng thấm vào đâu"... Rồi Phạm Quỳnh hào hứng so sánh trên tổng thể: "Nói tóm lại, cái hình thức của thành phố Sài Gòn sánh với thành phố Hà Nội còn hơn nhiều. Từ cách đặt đường phố cho đến cách dựng cửa nhà, từ cách thắp đèn điện cho đến cách đặt máy nước ở các nhà, cho đến cách tuần phòng vệ sinh trong phố xá, nhất nhất đều có tiến bộ hơn Hà Thành ta cả. Ở Sài Gòn thật là có cái cảm giác một nơi đô hội mới, nghĩa là một nơi đô hội theo lối Tây. Vào đến Chợ Lớn thì lại ra cái cảm giác một nơi đô hội theo lối Tàu. Còn các châu thành khác ở lục tỉnh thì những nơi quan sở là Tây mà chốn phố phường là Tàu, phần An Nam thật ít lắm. Xét về phương diện đó thì những đô hội Bắc Kỳ tuy coi cũ kỹ mà còn có cái vẻ An Nam hơn. Người khách ngoại quốc nào sang du lịch đây, nếu không có cái chủ ý quan sát phong tục người dân thì ở Sài Gòn sướng tiện hơn, nếu muốn biết cái chân tướng sự sinh hoạt dân An Nam thì cứ đi chơi qua phố phường Hà Nội cũng đủ làm một cái kho khảo cứu không cùng. Tuy vậy, các tỉnh thành khác không nói làm gì, mà Hà Nội đã là nơi thủ đô của Đông Dương thì về phần hình thức mới cũng không nên kém Sài Gòn mới là phải. Nếu cái hình thức mới cũng đủ mà cái đặc sắc cũ vẫn còn thì mới thật là xứng đáng vậy"...

Đi sâu khảo sát thực địa và kiểm lại vốn tri thức lịch sử, Phạm Quỳnh lược tả địa giới Sài Gòn - Gia Định: "Gần Sài Gòn có tỉnh lỵ Gia Định cách đô thành một cây lô mét. Có con đường lớn đi vòng quanh... Nay có con đường xe lửa nhỏ, qua Gia Định, Gò Vấp, tới Hóc Môn. Đất Gia Định là đất cổ nhất ở Nam Bộ, có quan hệ lịch sử bản triều nhiều lắm. Khi bản triều mới khai thác xứ Nam dựng cơ sở ở đấy. Rồi sau Đức Cao Hoàng ta hưng đế nghiệp, đánh Tây Sơn, đặt Nam trấn cũng ở đó. Cho nên trước kia cái tên Gia Định thường dùng để chỉ chung cả đất Nam Kỳ vậy"... Đồng thời ông miêu tả kỹ lưỡng vị trí và đặc điểm "hai cái cổ tích có tiếng" là Lăng Ông (tức mộ và đền thờ Tả quân Lê Văn Duyệt) và Lăng Cha Cả (chỉ kiến trúc lăng mộ và bài văn bia Giám mục người Pháp Bá - đa - lộc, nguyên tên là Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine, thường viết Pigneau de Behaine, 1741-1799 )...

Trong những ngày ở Sài Gòn, Phạm Quỳnh cảm thấy phấn chấn, tin tưởng: "Cho nên cái cảm giác của người mới bước chân tới đây là cái cảm giác vui, vui mà tin cậy ở cái tương lai, chớ không phải buồn mà thương tiếc cho sự ký vãng"... Trước hết là niềm vui và sự tin cậy nơi con người, những bậc trí giả đầy năng lực, những đồng nghiệp cần mẫn, năng động, những người cùng chí hướng mới lần đầu gặp mặt mà như quen thân tự bao giờ. Trong khoảng một tháng, Phạm Quỳnh đã gặp các ông chủ bút Nam Kỳ tân báo (Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phú Khai), gặp cha con chính khách Diệp Văn Cương - Diệp Văn Kỳ và nhiều vị quan chức khác. Nhân thăm các bạn nhà báo, Phạm Quỳnh nêu rõ quan niệm và chức phận nghề làm báo cùng tình bằng hữu Bắc Nam: "Mấy bữa sau đi thăm các bạn "đồng nghiệp", tức là các anh em làm báo ở Sài Gòn. Gặp ông nào cũng được chuyện trò vui vẻ lắm, mới biết kẻ Nam người Bắc tuy ít dịp gần nhau thân nhau, mà mỗi lần biết nhau, thật là dễ nên cái tình thân ái vậy. Cho hay người một nước một nhà, dẫu xa cách mà cũng là anh em, miễn là đối với nhau lấy lòng thành thực, đừng có cái thói ghẻ lạnh người thường, thì khó gì mà chẳng nên thân mật được? Huống bọn mình lại cùng theo đuổi một nghề, tức là cái nghề khua chuông gõ mõ trong quốc dân, đem những lời hay lẽ phải mà bàn bạc với bạn đồng bào, mong gây lấy một mối tư tưởng cảm tình chung, mưu cho nước nhà giống nhà sau này được cường mạnh vẻ vang, có ngày được mở mặt mở mày với thế giới, thì cái mục đích cao xa ấy há lại không đủ khiến cho ta đồng tâm hiệp lực mà cùng nhau đạt cho tới ru?"... Quan sát hoạt động báo chí, Phạm Quỳnh xác định: "Báo giới trong Nam Kỳ thạnh lắm, phát đạt hơn ngoài Bắc nhiều. Hiện có đến mười tờ báo bằng quốc ngữ... Cứ lấy cái "lượng" (quantité) mà xét thì thật đủ khiến cho Bắc Kỳ, Trung Kỳ phải thẹn với Nam Kỳ rằng về đường ngôn luận còn chậm kém xa quá"... Tiến thêm một bước, Phạm Quỳnh lý giải những khác biệt và ưu thế của vùng đất sách báo Nam Kỳ từ chiều sâu đặc điểm cơ sở kinh tế - văn hóa và tâm lý xã hội: "Ta vừa nói nghề làm sách: nghề làm sách ở Nam Kỳ cũng thịnh lắm, có phần lại thịnh hơn nghề làm báo nhiều. Tuy vài năm gần đây đã bớt đi nhiều mà trong khoảng năm năm mười năm về trước, cái số những sách quốc ngữ xuất bản ở Sài Gòn không biết bao nhiêu mà kể... Song có một điều nên chú ý, là báo nhiều như thế, sách nhiều như thế, mà bán được chạy, có nhiều người mua, thời cũng là một cái chứng rằng dân Nam Kỳ có tính ham đọc sách và có tiền thừa mua sách. Như vậy là nếu có những báo thiệt tốt, sách thiệt hay cho mà đọc thì ích lợi biết bao nhiêu. Chẳng bù với dân Bắc Kỳ, Trung Kỳ, trăm người chưa được một người đọc thông chữ quốc ngữ, mười người đọc thông chữ quốc ngữ chưa được một người thích xem văn quốc ngữ, lại thêm dân nghèo, bỏ ra mấy đồng bạc mua báo một năm đã lấy làm một món tiền nặng; đến những bậc sĩ phu thì phần nhiều những quẩn quanh trong vòng danh lợi mà sao nhãng những việc văn chương; nghề làm báo làm sách thật không được đủ điều tiện lợi như Nam Kỳ. Cho nên khá tiếc thay cho những bậc trí thức trong Lục châu không biết khéo lợi dụng cái cơ hội tốt ấy mà đặt để ra những sách vở hay có ích cho phong hóa, nỡ để cho cái lòng ham đọc sách của người dân ấy ngập vào những sách vở hoặc vô vị, hoặc tầm bậy không ra gì, thật uổng quá"...
Không chỉ ở Sài Gòn - Gia Định, Phạm Quỳnh còn hăng hái đi thăm mấy tỉnh miền tây, trải khắp Mỹ Tho, Cái Bè, Vĩnh Long, Sa Đéc, Long Xuyên, Cần Thơ và thức nhận biết bao điều mới mẻ về đời sống xã hội, cảnh quan, cư dân, ngôn ngữ, phong tục, tập quán con người nơi đây... Sau cuộc du ngoạn, sau tất cả những điều tai nghe mắt thấy và trở về xứ Bắc, nhà văn hóa Phạm Quỳnh đi đến đoạn kết như một lời ước nguyện: "Tôi càng đi du lịch trong Nam Kỳ lại càng thấy cái cảm giác rõ ràng rằng người Nam người Bắc thật là con một nhà, nếu biết đồng tâm hiệp lực thì cái tiền đồ của nước Nam ta không thể nào hạn lượng cho được. Tôi xin đốt lửa thắp hương mà cầu nguyện cho cái mối đồng tâm ấy ngày một bền chặt, thật là may mắn cho nước nhà lắm lắm"...

Theo dòng du ký tuyến biên ải phía Bắc, Phạm Quỳnh có thiên du ký Chơi Lạng Sơn, Cao Bằng (số 96, tháng 6-1925). Mở đầu bài viết, tác giả dẫn giải kỹ lưỡng phương thức lựa chọn tư liệu và cách thức viết du ký... Sau khi kể chuyện đoạn đường xe lửa từ Lạng Sơn qua Đồng Đăng, tới Na Sầm (còn gọi là Na Cham), tác giả thuật tiếp chuyến đi bằng ô tô đến Thất Khê và Cao Bằng: “Phong cảnh tự Thất Khê trông mới kỳ thú thay! Chỗ thời những núi đá cao hiểm trở, chồng chất nối tiếp nhau không dứt, cây rậm như rừng; cây lớn, cây nhỏ, cây giây leo chằng chịt quấn quít, rối rít như mớ bòng bong, thật không đâu có núi đá sầm uất đến thế. Thường bên đường có khe nước chảy, chỗ thời róc rách, chỗ thời đào dào như tiếng thác nhỏ, nhưng nhiều khi cũng cây cối um tùm che lấp cả. Có lẽ bởi có nhiều suối nhiều khe tẩm tưới mát mẻ nên loài thực vật mới phồn thịnh đến thế. Chỗ nào khe rộng nước nhiều, cây cao bóng mát thời bọn phu tải ngựa tải xuống bì bõm tắm giặt; coi các cái trạng thái con ngựa khi cúi đầu uống nước, khi ngửng cổ rống lên, khi xoay xỏa vẫy vùng, khi thung thăng bước một, thật đáng một bức tranh Hàn Cán nhà Đường. Chỗ thời hết núi đá cây rậm đến đồi đất cỏ xanh, ngổn ngang bát ngát, coi xa rập rờn như sóng bể. Lại chỗ thời đột ngột những ngọn cô phong, cách nhau bằng những thung lũng nhỏ, có ngòi nước chảy, có ruộng cấy cày. Những xem các phong cảnh này cũng đáng đi Cao Bằng một chuyến”... Đồng thời với việc thuật lại cảnh đón tiếp, diễn thuyết trong hội Trí Tri; việc đi thăm sở nuôi ngựa lai giống Phi châu bên phủ lỵ Hòa An, đi thăm miếu vua Lê ở địa hạt làng Na Lữ, học giả Phạm Quỳnh mô tả chi tiết và đánh giá cao hình thức sinh hoạt hát Then cùng ngày trở về: “Quan châu Hà thời đặt ở nhà một cuộc tiêu khiển riêng của xứ này là cuộc phụ tiên, đây gọi là Then hay Bụt (Tiên, Phật). Then hay Bụt thường là những đàn bà con gái óng ả lắm, đã học thuộc nhiều các bài văn cúng, nhà nào muốn làm lễ kỳ yên thời mời đến gẩy đàn đọc văn, cầu nguyện cho trong nhà được bình yên mạnh khỏe. Trên giường bày lễ vật hương hoa, cô Then ngồi bên cạnh, tay cắp cây đàn, chân đeo tràng nhạc, miệng hát, tay gẩy, chân rung, dịp dàng lắm. Giọng hát tỉ tê thánh thót, nghe rất là buồn, như giọng gọi hồn vậy. Tưởng giá nghe chỗ vắng vẻ thời rùng mình như tiếng vong hồn nhắn người dương thế vậy. Nhưng cũng có một cái thú âm thầm não nuột. Không trách đàn bà con gái có người mê lắm, quyến luyến Then, sắm sửa chăm chút cho Then như đối với người có tình vậy. Cô Then ngồi đọc văn gẩy đàn như thế thường là suốt đêm, có khi cả đêm cả ngày không sịch chỗ, không đứng dậy mà không đổi giọng, không đứt tiếng, hình như người nào đọc được nhiều, giọng được tốt là người có tài vậy”... Có thể nói nhờ những trang du ký của học giả Phạm Quỳnh như thế mà chúng ta hiểu rõ thêm phần nào tình hình đời sống xã hội, mức độ phát triển giao thông, vài nét phong tục tập quán và những thắng cảnh tiêu biểu ở vùng núi Lạng Sơn - Cao Bằng vào thập kỷ hai mươi của thế kỷ trước, cách ngày nay đã gần một thế kỷ. Những trang du ký này vừa có ý nghĩa văn chương vừa là những tư liệu khảo sát, điền dã về địa lý, lịch sử, phong tục tập quán, góp phần nâng cao nhận thức cho độc giả về thực tế miền sơn cước - nhất là trong điều kiện thông tin báo chí hồi đầu thế kỷ còn rất hạn chế. Đây cũng là những trang tư liệu cụ thể, sinh động, ngày càng trở nên có ý nghĩa.

Với Pháp du hành trình nhật ký (in 27 kỳ, 1922-1925), Thuật chuyện du lịch ở Paris (số 64, tháng 10-1922), Phạm Quỳnh đã có những đóng góp đặc biệt quan trọng ở thể tài du ký viết về nước Pháp và mối quan hệ Việt - Pháp hồi đầu thế kỷ XX. Trên thực tế Thuật truyện du lịch ở Pais chính là bản tóm tắt trên nền tảng nội dung ghi chép Pháp du hành trình nhật ký và được Phạm Quỳnh trình bày trong buổi diễn thuyết tại ở Nhạc hội Tây Hà Nội, do Hội Khai Trí Tiến Đức tổ chức vào ngày 15-10-1922… Theo ghi chép của Phạm Quỳnh trong Pháp du hành trình nhật ký, chuyến đi khởi hành từ ngày 9-3-1922 tại cảng Hải Phòng và trở về vào ngày 11-9, vừa đủ sáu tháng. Năm ấy Phạm Quỳnh tròn ba mươi tuổi. Trong nửa năm ở Pháp, ông chủ ý đi - xem - nghe càng nhiều càng tốt, từ đó suy nghĩ, so sánh, đối sánh văn minh và thế cuộc xứ sở Việt Nam với nước Pháp. Tại nước Pháp, ông đã trở đi trở lại Marseille, qua Lyon, Versailles, Verdun và thăm thú khắp các công sở, di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh ở Paris... Đến đâu ông cũng ghi chép, bình luận, liên hệ, so sánh với cuộc sống bên nước nhà và phát biểu cảm tưởng về những điều tai nghe mắt thấy.

Tới nước Pháp, Phạm Quỳnh ngỡ ngàng bởi nền khoa học, kỹ thuật và đời sống vật chất vượt trội của chính quốc. Ông khâm phục trước cung điện Le Louvre tráng lệ, tháp Eiffel có thang máy, những tòa nhà cao rộng, những khách sạn, nhà hàng tiện nghi, những cây cầu bắc qua sông Seine uy nghiêm, những công viên, đường phố, biệt thự sang trọng... Hiện đại và ấn tượng thêm nữa là dòng xe ô tô tấp nập qua lại, những chuyến tắc xi cơ động và đường xe điện ngầm có lúc chạy trên cầu, có lúc đi dưới đất, có lúc chạy ngầm dưới lòng sông, "nghe nói lạ lắm", "đi đâu cũng tiện lắm", "chạy mau vùn vụt như tên bắn vậy"... Phạm Quỳnh chịu khó mua sách, đọc sách, nghe giảng và trực tiếp tham gia diễn thuyết tại nhiều trung tâm văn hóa, khoa học, viện nghiên cứu, trường đại học. Trên tư cách nhà trí thức, qua thăm bảo tàng dân tộc học, ông nhận xét: "Ấy cách học vấn của người Tây, bất cứ về môn nào cũng là kỹ càng trọn vẹn, đến chốn đến nơi như thế, không trách sự học của người ta dễ sâu xa và mau tấn tới vậy"... Soi nhìn lại các hội học xứ nhà, ông viết: "Ở Hà Nội ta có hội quán Hội Trí Tri và Hội Khai Trí cũng hơi có cái tính cách ấy, nhưng phải chỉnh đốn cho hơn nữa mới được, và hiện nay chỉ hiềm hãy còn ít những cuộc họp tập có ích, bất quá thỉnh thoảng có mấy hội "ái hữu" mượn để họp bàn, mấy ông trị sự hay bàn mấy vấn đề suông, cũng có lúc nói năng to tiếng, cãi cọ rậm lời, nhưng vẫn chưa khỏi cái lối "việc làng", nghĩa là ồn ào lộn xộn mà chẳng nên câu chuyện gì"... Từ góc độ nhà hoạt động xã hội, nhà văn hóa, nhà chính trị, ngay khi ở Marseille, Phạm Quỳnh đã tới nghe một nữ bác sĩ diễn thuyết về "cái phong trào cách mệnh và cái chủ nghĩa quá khích ở nước Nga". Điều này cho thấy không khí tương đối tự do, dân chủ trong sinh hoạt chính trị, học thuật ở nước Pháp bấy giờ và được Phạm Quỳnh tán đồng, thậm chí còn liên hệ trở lại với tư tưởng xã hội phương Đông: "Ta thường đọc sách đọc báo chỉ thấy công kích cái phong trào quá khích ở nước Nga; cũng nên nghe có người tán dương cổ đãng cái phong trào ấy, mới có thể chiết trung mà phán đoán cho đúng được. Ở đời này muốn quan niệm về một sự gì cho chánh đáng, thật là khó quá; tỉ như một cái chủ nghĩa quá khích đó, người nói xấu biết bao nhiêu mà kể, mà người nói tốt cũng nói tốt quá; nghe bọn trên thời tưởng nước Nga bây giờ là nơi âm ty địa ngục gì, chớ không phải cõi nhân thế trần gian nữa; nghe bọn dưới thời ngờ là chốn bồng lai lạc địa. Đến khi mối lợi quyền đã mâu thuẫn, lòng tham dục đã xung đột nhau, thời công lý, công nghĩa không biết đâu mà dò nữa. Gặp những khi như thế mà lại càng tiếc cái đạo "trung dung" của đấng Thánh nhân phương Đông ta đời xưa. Nhưng đạo ấy đời nay có dùng được nữa không? Ngoài sự lý tưởng, đạo ấy có thể đem ra thực dụng ở cái thế giới cạnh tranh này không? Tưởng cũng khó quá"... Tham dự một buổi thảo luận về chính sách giáo dục, Phạm Quỳnh rút ra kết luận: "Ở một nước tự do có khác, bất cứ việc gì cũng có thể đem ra công chúng mà nghị luận được. Kẻ nói đi người nói lại, quốc dân đứng giữa mà phán đoán, Chính phủ ở trên mà chiết trung, tưởng còn hơn là cái chính sách "bịt bung", rút lại chẳng có lợi cho ai hết"... Ông từng tham dự diễn thuyết, từng "vào xem" một cuộc thảo luận, nghe các ông nghị viên chất vấn Chính phủ ở Thượng viện và đi đến suy xét: "Nghe người ta diễn thuyết mà hồi tưởng đến người mình, không những nghề diễn thuyết chưa biết, mà đến nói câu chuyện cho có đầu đuôi manh mối, cũng ít người nói được... Người mình cần tập nói lắm"... Đồng thời, trong bài Thuật chuyện du lịch ở Paris, Phạm Quỳnh tiếp tục chỉ rõ sự lợi hại của các cuộc phản biện, trao đổi, tranh luận công khai, dân chủ và hài hước nhấn mạnh: "Hoặc giả nói: Nếu như thế thì làm việc chính trị chẳng là chán lắm ru? Và nơi nghị trường chẳng là giống như chợ hàng rau ư? Nếu như thế thì các ông nghị ta mỗi năm về Hà Nội chơi mấy ngày, xin Chánh phủ cho đi xem hát chèo chớp bóng, há lại chẳng có tư cách hơn các ông nghị Tây kia cứ ngày ngày đem nhau ra chỗ công đồng mà cãi nhau như mổ bò ru?... Đã có nghị viện phải có chính đảng, đã có chính đảng tất phải có cạnh tranh, có cạnh tranh mới hoạt động; cái phép tiến hóa của các dân tộc như thế. Dân tộc mình còn chưa tới trình độ đó, ta nên đáng mừng hay là đáng tiếc? Điều đó xin chất vấn ở quốc dân"...

Với sở học và nếp nghĩ truyền thống, học giả Phạm Quỳnh thấy mỗi ngày ở nước Pháp đều có thể hiểu biết, học hỏi thêm nhiều điều mới lạ. Ông cảm nhận sự mới lạ ngay từ tài năng diễn thuyết của người nữ bác sĩ đến ấn tượng khi thăm nhà bà F. có chân trong hội Đông phương Ái hữu: "Thật là một bà chủ sa lông theo như lịch sử phong nhã của nước Pháp. Bao giờ cho xã hội An Nam ta cũng có những bậc đàn bà nhã thú như thế?"... Phạm Quỳnh còn hiếu kỳ dành cả thời gian đến xóm bình khang "Mông Mạc" được coi như phía khuất lấp của Paris hoa lệ. Rồi khi đến xem điểm binh ở nhà đua ngựa, ông thức nhận ra sự thật đời thường: "Người dân ở đây kể cũng không khác gì người dân bên mình, mà có lẽ người dân ở đâu đại suất cũng thế, cũng thích hội hè đình đám... Lại len lỏi trong đám đông cũng có các trạng ăn cắp, chực lần lưng móc túi. Thật dưới gầm trời, người ta đâu cũng như đâu. Kẻ bình dân vẫn có tính háo hức mà bọn láu cá thì khéo lợi dụng; trò đời chỉ có thế mà thôi"... Ngòi bút Phạm Quỳnh cũng khá tự do khi viết về đức vua: "Gần bốn giờ thì Hoàng thượng xuống tầu, kèn trống thổi mừng, quân quan đứng tiễn. Ngài đi Tây chuyến này sắm được vô số đồ, chở xuống tầu từ hai giờ đến bốn giờ, hết kiện ấy đến kiện khác, cái cần máy trục cứ giơ lên hạ xuống hoài mà không dứt"...

Điều quan trọng hơn, Phạm Quỳnh đi đến những nhận xét tổng quan, bày tỏ chính kiến về xã hội, về mối quan hệ Việt - Pháp, về tương quan Đông - Tây và xác định con đường tiến hóa, tiến bộ xã hội: "Những đường phố sang trọng xem ra lại không vui bằng những xóm bình dân, người thượng lưu vẫn không muốn dự, cho mới biết dẫu ở nước dân chủ bình đẳng, các giai cấp vẫn có ý muốn đặc biệt nhau, và sự bình đẳng hoàn toàn, có lẽ không bao giờ có được"; "Cho hay cái tên Đông phương đối với những nhà lãng mạn Tây phương vẫn còn có một cái thanh hưởng réo rắt ly kỳ. Nhưng những nhà lãng mạn này không phải số nhiều, còn đối với những tay doanh lợi thì Đông phương chẳng qua là một cái thị trường để tiêu thụ đồ hàng của Tây phương mà thôi"; "Duy cái văn minh của Tây phương nó phồn tạp quá, các "phương diện" nhiều quá, muốn bao quát cho được hết mà thu gồm lấy cái toàn thể, toàn bức, thật là khó lắm. Phải có một cái sức học, một cái trí khôn, một con mắt sáng khác thường, mới có thể xét không sai mà đoán không lầm được. Cho nên còn lâu năm nữa, cái văn minh Tây phương vẫn còn ngộ hoặc người đời nhiều lắm"; "Nghĩ trong các vấn đề thiết yếu cho người mình không gì bằng vấn đề giáo dục... Đại khái nói rằng nước Việt Nam là một nước cổ, vốn đã có một cái văn hóa cũ, nhưng cái văn hóa cũ ấy ngày nay không thích hợp với thời thế nữa, cần phải có cái văn hóa mới đời nay thì mới có thể sinh tồn được trong thế giới bây giờ. Cái văn hóa mới ấy dân chúng ta nhờ quí Đại Pháp truyền bá cho... Nhưng trong sự truyền bá cái học mới ấy, có nhiều nông nỗi khó khăn, quí Chính phủ vẫn chưa giải quyết được ổn thỏa. Nếu dân Việt Nam là một dân mới có, chưa có nền nếp, chưa có lịch sử gì, thì quí quốc cứ việc hóa theo tây cả, dạy cho học chữ tây hết cả, đồng hóa được đến đâu hay đến đó. Nhưng ngặt thay, dân Việt Nam không phải là một tờ giấy trắng muốn vẽ gì vào cũng được; tức là một tập giấy đã có chữ sẵn từ đời nào đến giờ rồi. Nếu bây giờ viết đè một thứ chữ mới nữa lên trên, thì e thành giấy lộn mất"... Trên tất cả, Phạm Quỳnh ngợi ca Paris và nước Pháp: "Mình cũng phân vân chửa định về ở thế nào. Cứ kể ở bên này thì ở mãi cũng được. Cảnh Paris là một cái cảnh rất mến người. Ai đã đến đây không nỡ dứt tình mà đi cho được. Vả mình đến đây đã được quen thân một vài nơi, giao tiếp với nhiều người, càng ở thời lại càng thêm biết rộng ra, có ích lợi cho sự kiến văn nhiều lắm. Tưởng học nhà mấy năm không bằng qua ở đấy một tháng. Cái không khí Paris là cái không khí rất bổ cho tinh thần trí não. Ở đây tựa hồ như thấy trong óc thêm sáng suốt, trong lòng thêm rộng rãi ra. Thật thế, không phải nói ngoa. Tưởng giá mình ở đây vài ba năm thì tính tình tư tưởng nở nang ra hơn bây giờ nhiều"... Rồi ký giả tự gián cách, hóa thân vào những tượng đá danh nhân Rousseau, Corneille mà khuyên bảo, phản biện, tự vấn, tỏ bày quan điểm: "Ớ, anh con trai Nam Việt kia! Anh chớ có tự phụ mang cái quốc gia chủ nghĩa của anh mà mong tránh khỏi cái cám dỗ của chốn danh đô này. Những tay khôn ngoan tài giỏi hơn anh nhiều cũng còn không tránh được nổi, huống nữa là anh. Anh chớ nên đem bụng hẹp hòi. Anh thương yêu nước anh là phải, nhưng anh yêu mến chốn này cũng nên. Cái quả tim thế giới, cái khối óc văn minh là đây. Người Pháp tuy có công gây dựng ra chốn này, nhưng ngày nay là của chung thiên hạ rồi, khách Đông phương, khách Tây phương, ai ai đến đây cũng phải cảm. Dẫu Đông Kinh, Yên Kinh, Kim Lăng, Thuận Hóa của Á Đông anh cũng không đâu thu gồm được lắm cái vẻ tinh hoa của văn hóa bằng ở đây"...

Không có gì phải nghi ngờ việc Phạm Quỳnh thực sự bị thuyết phục bởi nước Pháp "quả tim thế giới", "khối óc văn minh", "tinh hoa của văn hóa"... Nhìn về nước Pháp, ông thấy đây là mối quan hệ tòng thuộc, cần hướng theo nền kỹ nghệ và cơ cấu chính trị - văn hóa kiểu Pháp. Ông mong muốn dân tộc mình tiến hóa nhưng cũng thấy rõ những hạn chế, thiếu hụt bởi một nền kinh tế tiểu nông, lạc hậu, trì trệ. Có một điều cần chú ý là Phạm Quỳnh không dập khuôn máy móc một chiều mà luôn cố gắng tìm ra phương hướng canh tân thích hợp, coi trọng nền văn hóa Pháp nhưng vẫn bảo tồn truyền thống dân tộc, đề cao việc học tiếng Pháp nhưng vẫn đề xuất việc học thành thục tiếng An Nam "nhiên hậu có thì giờ sẽ học đến tiếng ngoài"... Trước sau ông vẫn nhận mình thuộc hàng trí thức, chú trọng rung lên tiếng chuông trước quốc dân đồng bào và trước các nhà chức trách. Tất cả những điều đó cho thấy học giả Phạm Quỳnh thực sự xứng đáng là một nhà văn hóa, nhà hoạt động truyền bá văn hóa xuất sắc nửa đầu thế kỷ XX.

Cuối cùng, trong thiên du ký Du lịch xứ Lào (in hai kỳ, số 159+159, tháng 1+2-1931), Phạm Quỳnh xác định: “Đi Lào hiện có hai đường chính: đường Vinh – Thakhek và đường Đông Hà – Savannakhet. Chúng tôi định đi một đường, về một đường, cho biết cả hai. Vậy bữa đi đi đường Quảng Trị, bữa về về đường Nghệ An”. Chuyến đi khởi từ Đông Hà - Lao Bảo, nhập vào đất Lào qua Sê Pôn, qua tỉnh lỵ Savannakhet – Khăm Muộn – Thà Khẹt đến thủ đô Viêng Chăn… Nhân kể về chuyến đi, học giả Phạm Quỳnh giới thiệu đủ các vấn đề về địa lý tự nhiên, chính trị, xã hội, tình hình dân số, tổ chức chính quyền, dân tộc học, ngôn ngữ học và đặc biệt là chủ trương di dân. Từ quan điểm lịch sử có thể nhận ra những suy nghĩ khá bình dị, đơn giản và thật sự chân thành của Phạm Quỳnh liên quan đến lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, dân tộc. Tất nhiên, trước sự thật “Ai Lao hiện nay là một xứ trong năm xứ họp lại thành ra cõi Đông Dương thuộc Pháp. Bờ cõi rất rộng mà dân số thì ít ỏi lắm” đang là nhận thức phổ biến thì việc Phạm Quỳnh có những quan niệm, suy tính và đề xuất in đậm tính chủ quan, mơ mộng, xuôi chiều cũng là điều dễ hiểu.
Cùng với sự phát triển của chữ Quốc ngữ, báo chí và chính cơ sở kinh tế xã hội đã cho phép thể tài du ký trên Nam phong Tạp chí có điều kiện hưng khởi. Học giả Phạm Quỳnh viết du ký vừa nhằm thoả mãn hứng thú nội tâm, trình bày những cảm xúc riêng tư vừa hướng tới giới thiệu những điều trải nghiệm tai nghe mắt thấy liên quan tới mỗi thắng cảnh, di tích lịch sử và đời sống xã hội nơi phương xa. Đó cũng là nhu cầu tự nhiên kết nối giữa chủ thể sáng tác và phía tiếp nhận, nghĩa là bạn đọc cũng sẽ được hướng dẫn đi tham quan, du lịch, hành hương về Xứ Đẹp và cội nguồn lịch sử dân tộc nhờ chính các trang du ký. Du ký của Phạm Quỳnh chính là một nhà bảo tàng du lịch bằng ngôn từ nghệ thuật, giúp người đọc bốn phương “ngồi một chỗ mà thấy ngoài muôn dặm”... Về phong cách nghệ thuật, du ký của Phạm Quỳnh hòa quyện được phẩm chất, tư thế học giả, nhà khảo cứu, bản lĩnh trí thức, nhà văn và nhà nghệ sĩ. Trong mỗi trang viết, ông thường mở rộng liên hệ, so sánh, đối sánh các mối quan hệ kinh tế - chính trị - văn hóa giữa truyền thống với hiện đại, cá nhân và cộng đồng, dân tộc và thời đại, Đông và Tây, thủ cựu và tiến bộ xã hội… Nhìn chung trên địa hạt du ký, có thể khẳng định Phạm Quỳnh không chỉ đứng đầu Nam phong Tạp chí mà cũng là nhà viết du ký xuất sắc trong suốt cả thế kỷ XX.

Trong quá trình thực hiện công trình sưu tập, biên soạn Phạm Quỳnh – Tuyển tập du ký lần này, chúng tôi chọn in 7 tác phẩm tiêu biểu và sắp xếp các mục bài theo trật tự thời gian (Mười ngày ở Huế - Một tháng ở Nam kỳ - Trảy chùa Hương - Pháp du hành trình nhật ký - Thuật chuyện du lịch ở Paris ­- Chơi Lạng Sơn, Cao Bằng - Du lịch xứ Lào), còn lại một số tác phẩm khác nằm ở lằn gianh, có sự giao thoa với thể tài du ký (Cùng các phái viên Nam Kỳ, số 32, tháng 2-1920; Tổng thuật về phái bộ Bắc Kỳ đi quan sát đường xe lửa Vinh – Đông Hà, số 56, tháng 2-1922; Ngự giá Âu du tổng thuật, số 62, tháng 8-1922; Cuộc đấu xảo mỹ thuật của Hội Khai trí, số 78, tháng 12-19234; Ngự giá Bắc hành, số 178, tháng 11-1932; Ngự giá Nam tuần, số 180, tháng 1-1933…), sẽ đợi thẩm định và bổ sung trong một dịp khác. Về cơ bản, các tác phẩm đều căn cứ theo nguyên bản đã in trên Nam phong Tạp chí (1917-1934). Với từng mục bài cụ thể, người biên soạn có chỉnh lý lại một số câu chữ, chủ yếu về qui cách ngữ pháp, chính tả, cách ghi tên người, địa danh, trước sau nhằm tạo nên tính thống nhất tương đối cho bộ sách. Trong một số trường hợp, bên cạnh các nguyên chú, chúng tôi có thêm chú dẫn và đều ghi rõ Người biên soạn (NHS chú)…

Nhân dịp này chúng tôi trân trọng cảm ơn Nhà xuất bản Tri thức và Nhạc sĩ Phạm Tuyên, con trai học giả Phạm Quỳnh, đã khuyến khích, tạo điều kiện cho công trình biên soạn Phạm Quỳnh – Tuyển tập du ký sớm đến tay bạn đọc.

Rất mong nhận được được sự chỉ giáo của bạn đọc gần xa.
Bài viết của TS Nguyễn Hữu Sơn​
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top