Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
NỘI DUNG CỦA TUYÊN NGÔN ĐẢNG CỘNG SẢN 1848
Trong những năm 1847 – 1848, Mác, Angghen vừa tích cực tham gia các phong trào công nhân, đặc biệt quan tâm việc xây dựng tổ chức của phong trào công nhân quốc tế và cưỡng lĩnh hoạt động của phong trào công nhân.
Năm 1836, Đồng minh những người chính nghĩa được thành lập ở Pari và đến tháng 6 năm 1847, Hội nghị thống nhất đổi tên Đồng minh những người chính nghĩa thành Đồng minh những người cộng sản. Tại đại hội lần thứ hai của Đồng minh những người cộng sản, họp ở Luân Đôn vào cuối tháng 11- đầu tháng 12 năm 1847 với sự tham gia của Mác và Angghen. Đại hội đã giao cho Mác và Angghen soạn thảo ra “ cương lĩnh của Đồng minh dưới hình thức một bản tuyên ngôn .
Đứng trước yêu cầu cảu phong trào cộng sản quốc tế cần thiết phải có một cương lĩnh cách mạng là kim chỉ nam hành động, tạo điều kiện cho sự phát triển đi lên của phong trào, tháng 2 năm 1848, Mác và Angghen đã tuyên bố tuyên ngôn của Đảng cộng sản. đay là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn , soi sáng cho giai cấp công nhân con đường đấu tranh để xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột đưa cách mạng vô sản đi đến thắng lợi.
Gửi gắm trong nội dung của Tuyên ngôn đảng của đảng cộng sản là hệ thống tư tưởng, lý luận của Mác; ở đó toát lên tinh thần của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Thư nhất: Tuyên ngôn khẳng dịnh sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu khách quan.
Xã hội tư bản đến giữa thế kỷ XIX đã dần xác lập được địa vị thống trị của mình trên phạm vi toàn thế giới, đang chuẩn bị chuyển sang giai đoạn coa nhất của chủ nghĩa tư bản nhưng lại vừa đang tích tụ những mâu thuẫn gay gắt giữa hai giai cấp đối kháng: Tư sản và vô sản. Đây là biểu hiện về một xã hội của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Mác và Ăngghen nhận rõ sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa như một tất yếu từ trong lòng xã hội phong kiến đã tan rã. Bằng sự phân tích khách quan, khoa học, Mác và Ăngghen đã khẳng định tính cách mạng, tiến bộ, hợp quy luật của sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, mà sự khởi đầu là từ sự phát triển của đại công nghiệp. Nhờ sử dụng máy móc hiện đại, cải tiến kỹ thuật và tổ chức sản xuất, thúc đẩy cạnh tranh tự do, mở rộng thị trường... xã hội tư bản đã tạo ra một khối lượng tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt khổng lồ. Guồng máy sản xuất và trao đổi vì mục tiêu lợi nhuận không ngừng tăng lên, vận hành gần như hết công suất. Nhưng, chính cuộc chạy đua săn tìm lợi nhuận trong môi trường cạnh tranh tự do ấy đã dẫn đến tình trạng quá thừa sản xuất, trao đổi và hàng hóa. Hậu quả là, nền sản xuất xã hội lâm vào khủng hoảng mà sự nghiêm trang của nó tới mức đe doạ sự sống còn của chế độ sở hữu tư bản - nền tảng xây dựng nên chế độ tư bản chủ nghĩa.
Cội nguồn sâu xa của vấn đề như Tuyên ngôn đã chỉ rõ - nằm chính ngay trong mâu thuẫn giữa nền tảng tạo nên chủ nghĩa tư bản - chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa - với sản phẩm mà nó tạo ra - lực lượng sản xuất công nghiệp hóa. Sự chật hẹp của quan hệ sản xuất tư bản đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa rộng lớn là nguyên nhân cơ bản dẫn chế độ kinh tế tư bản đến chỗ sẽ phải sụp đổ. Giai cấp các nhà tư bản tất yếu phải bảo vệ lợi ích và quyền lực của mình, tìm ra những thủ đoạn và cách thức để duy trì chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mặc dù vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa rộng lớn tất yếu mâu thuẫn, không dung hợp với sự chật hẹp của chế độ tư hữu. Vì thế, lối thoát của lịch sử chỉ có thể là thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ xã hội mới dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Quy luật khách quan của lịch sử là quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Chỉ có chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mới là hình thức xã hội hóa của quan hệ sản xuất mới đủ sức dung nạp lực lượng sản xuất đang ngày càng lớn lên. Chính điều đó cho thấy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tất yếu phải bị thay đổi bởi phương thức sản cuất cộng sản chủ nghĩa và chủ nghĩa tư bản tất yếu phải bị Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa cộng sản phủ định. Kết luận và dự báo khoa học của Mác và Ăngghen nêu ra trong Tuyên ngôn là: Thất bại của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là một tất yếu lịch sử như nhau. Đây là một trong những luận điểm nền tảng và mãi mãi còn giá trị của Tuyên ngôn.
Thứ hai: Tuyên ngôn chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản - người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới không có sự bóc lột.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, những mâu thuẫn gay gắt về kinh tế, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất và sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Để giai quyết được mâu thuẫn trên phải có một lực lượng xã hội đủ sức thực hiện. Và trong xã hội tư bản, lực lượng xã hội này không ai khác ngoài giai cấp công nhân hiện đại - con đẻ của nền đại công nghiệp do chủ nghĩa tư bản sinh ra, người đại biểu cho phương thức và lực lượng sản xuất mới đã hình thành, giai cấp bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong chế độ làm thuê tư bản chủ nghĩa. “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”. Nền công nghiệp hiện đại đã sản sinh ra, nuôi dưỡng một giai cấp vô sản với những đặc trưng cơ bản: là giai cấp tiên tiến, có tổ chức, cách mạng và cách mạng triệt để nhất. Tư tưởng căn bản về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản được Mác – Ăngghen thể hiện trong Tuyên ngôn là ở chỗ, các ông đã làm sáng tỏ rằng, giai cấp vô sản là một giai cấp cách mạng và duy nhất chỉ có giai cấp mới có tính triệt để cách mạng. Đó là lực lượng xã hội tiêu biểu cho sức sản xuất xã hội đang lớn lên, là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của lịch sử.
Cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, các giai cấp khác sẽ suy tàn, duy nhất chỉ có giai cấp vô sản mới thực sự là một giai cấp cách mạng, bởi chỉ giai cấp đó mới là đại biểu cho tương lai, cho triển vọng của lịch sử
Giai cấp vô sản theo Mác-Ăngghen là lực lượng xã hội mà rốt cuộc lịch sử đã tìm thấy để trao vào tay nó sứ mệnh tự giải phóng cho mình và đồng thời giải phóng cho cả xã hội loài người. Nó không có lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu. Nó là đại biểu chân chính duy nhất cho lợi ích của toàn xã hội. Cách mạng và triệt để cách mạng là ở đó.
Thứ ba: Tuyên ngôn vạch ra con đường giải phóng giai cấp vô sản và mô hình xã hội không bóc lột - chủ nghĩa xã hội.
Cùng với việc tuyên cáo về sự diệt vong của chế độ tư bản, Tuyên ngôn đưa ra lời tuyên bố về sự tất yếu của xã hội cộng sản thay thế cho xã hội tư bản. Trước hết, theo Mác và Ăngghen, những người vô sản phải tự tổ chức thành giai cấp và chính đảng, tiến hành cách mạng vô sản lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, “thông qua con đường cách mạng mà trở thành giai cấp thống trị” và với tư cách là giai cấp thống trị tiến hành tổ chức, xây dựng xã hội mới. Nhưng ngay từ hồi đó, Mác và Ăngghen cũng đã ý thức được rằng: “Những biện pháp ấy về mặt kinh tế thì hình như không được đầy đủ và không có hiệu lực”, đó chỉ là những thủ đoạn không thể thiếu để đảo lộn toàn bộ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành khá hoàn thiện. Hơn nữa, “trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều”. Trong Lời tựa cho lần xuất bản năm 1872, các ông đã khẳng định: Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác đi. Song Tuyên ngôn là một văn kiện lịch sử, cần phải tôn trọng nó. Các ông đã bổ sung những quan niệm, tư tưởng mới ở ngay các lời tựa, đặc biệt từ thực tiễn lịch sử sau Công xã Pari 1871. Nên nhớ rằng, từ 1872 đến 1893 trong hơn 20 năm, Mác-Ăngghen đã 7 lần viết lời tựa cho những lần tái bản Tuyên ngôn. Ở đó, nội dung Tuyên ngôn trở nên phong phú, sâu sắc hơn rất nhiều. Như thế đủ thấy, các ông vừa khẳng định tính tất yếu phải tiến hành cách mạng vô sản, vừa làm rõ những hình thức, biện pháp khác nhau để thực hiện cách mạng vô sản, không bắt buộc nhất thiết phải sử dụng các biện pháp cứng rắn, nhất loạt ở tất cả các nước. Đây là biện chứng giữa cái phổ biến với cái đặc thù trong tiến trình cách mạng vô sản.
Tuyên ngôn đã phác họa ra những nét cơ bản nhất của mô hình xã hội cộng sản trong tương lai. Về kinh tế, xã hội cộng sản là xã hội trong đó chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ. Từ việc phân tích tính chất kìm hãm của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đối với nền sản xuất xã hội, mà quyết định nhất là do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, Mác và Ăngghen đã đi tới kết luận lô gích là phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Ngay chủ trương xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản - cũng như luận điểm “chủ nghĩa cộng sản phải xóa bỏ buôn bán” - mà các ông nói về xã hội tương lai cùng với giả định là cách mạng vô sản nổ ra và thắng lợi ở các nước tư bản đã đạt tới trình độ phát triển cao nhất. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và các nước xã hội chủ nghĩa sau này cho thấy, đối với những nước chưa qua chủ nghĩa tư bản, thậm chí đã trải qua nhưng mới đạt trình độ phát triển trung bình của chủ nghĩa tư bản vẫn còn sản xuất hàng hóa, buôn bán thì phải thừa nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân tư bản ở phạm vi nhất định dưới sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước vô sản. Điều này chỉ làm phong phú thêm, chứ không phải là sở cứ để bác bỏ luận đề nêu trên của Mác và Ăngghen trong Tuyên ngôn.
Mác và Ăngghen đã phê phán luận điểm - mà ngày nay vẫn có không ít người đưa ra để cổ vũ cho việc tư hữu hóa triệt để - cho rằng nếu xóa bỏ chế độ tư hữu thì mọi người sẽ trở nên lười biếng, làm ngưng trệ mọi hoạt động. Mác và Ăngghen viết: “Nếu quả như vậy thì xã hội tư sản phải sụp đổ từ lâu rồi do tình trạng lười biếng, vì trong xã hội ấy, những người lao động thì không được hưởng, mà những kẻ được hưởng lại không lao động”.
Về đời sống chính trị, trong Tuyên ngôn cũng chỉ rõ: Nhà nước của xã hội cộng sản tương lai (tức là xã hội XHCN - một giai đoạn đầu của Cộng sản chủ nghĩa– chính là hình thức giai cấp vô sản tự tổ chức thành giai cấp thống trị, nắm quyền thống trị trong xã hội thông qua nhà nước. Tuyên ngôn khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc với nguyên lý nổi tiếng: Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ. Tư bản là một lực lượng quốc tế, toàn bộ giai cấp tư sản các nước cấu kết với nhau bóc lột toàn bộ giai cấp vô sản toàn thế giới, vì vậy khẩu hiệu hành động của giai cấp vô sản là “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!”.
Trong lĩnh vực ý thức xã hội, đạo đức và đời sống tinh thần của xã hội, cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa “đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng cổ truyền”. Tuy nhiên, không thể hiểu luận điểm này của Tuyên ngôn một cách máy móc, thô thiển. Những tư tưởng của quá khứ phải xóa bỏ mà Mác và Ăngghen muốn nói đến ở đây là hệ tư tưởng của giai cấp tư sản, kể cả các tư tưởng pháp quyền, đạo đức và quan niệm tôn giáo tư sản như con đẻ của sở hữu tư nhân và chế độ bóc lột, cũng như những tư tưởng, ý thức của giai cấp phong kiến, của chế độ phong kiến chuyên chế, giai cấp đã quá thời về mặt lịch sử.
Những nguyên lý C.Mác và Ph.Ăng ghen trình bày trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, đặt nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về Đảng và xây dựng Đảng.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã vạch rõ : “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lí tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề đang tồn tại”.
Và Ăng-ghen lưu ý thêm rằng: “Để tránh rơi vào không tưởng, chủ nghĩa xã hội phải xuất phát từ mảnh đất hiện thực”. Đó chính là phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, do giai cấp công nhân lãnh đạo, với tư cách là lực lượng vật chất tiền phong của cách mạng xã hội, là “trái tim của thế giới”, là phong trào “có tính chủ động lịch sử vĩ đại”.
Giữa thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đạt tới trình độ phát triển; đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã phát triển ở một số nước châu Âu. Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp vô sản hiện đại ra đời và sớm bước lên vũ đài đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Trong những năm 30 và 40 của thế kỷ XIX, ở một số nước tư bản phát triển, giai cấp vô sản đã vùng lên đấu tranh chống lại giai cấp tư sản đòi thực hiện những yêu sách của mình cả về kinh tế lẫn chính trị. Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đòi hỏi bức thiết phải có một hệ thống lý luận soi đường và một cương lĩnh chính trị làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Cuối tháng 11-1847, Đại hội lần thứ hai Liên đoàn những người Cộng sản đã thảo luận và thông qua những nguyên lý của chủ nghĩa Cộng sản do Mác và Ăng ghen trình bày. Trên cơ sở sự nhất trí ấy, Mác và Ăng ghen được Đại hội uỷ nhiệm thảo ra bản tuyên ngôn chính thức. Việc công bố Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là thông báo về sự ra đời của một học thuyết cách mạng, một thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác.
Lý luận về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản khẳng định rằng: Giai cấp vô sản không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng toàn xã hội. Song giai cấp vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử nếu không tổ chức thành chính đảng của giai cấp. Đảng được hình thành và phát triển, xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Những vấn đề quan điểm cơ bản về chủ nghĩa duy vật lịch sử; về đấu tranh giai cấp; về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản; về xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân được Mác và Ăng ghen trình bày rõ trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
Một trong những vấn đề lý luận cơ bản về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và sự ra đời của Đảng Cộng sản, Mác và Ăng ghen đã chỉ rõ : Giai cấp vô sản hiện đại là người có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp hơn. Sứ mệnh lịch sử đó do vị trí kinh tế-xã hội của giai cấp vô sản trong lịch sử quy định. Giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, các giai cấp khác đều dần dần bị phân hoá, suy tàn và tiêu vong. Chỉ có giai cấp vô sản là lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp. Giai cấp vô sản không có tài sản, phải bán sức lao động cho tư sản, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh và sự lên xuống của thị trường. Những người vô sản chẳng có cái gì là của mình để bảo vệ, họ phải phá huỷ hết thảy những cái gì từ trước tới nay vẫn bảo đảm và bảo vệ cho chế độ tư hữu.
Giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Đoàn kết thống nhất là một thuộc tính cơ bản của giai cấp vô sản để đấu tranh chống giai cấp tư sản. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu. Song để bảo đảm cho sự thắng lợi đó giai cấp vô sản phải có những điều kiện đảm bảo cho công cuộc tự giải phóng mình. Điều kiện đó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cho nên sự ra đời của Đảng Cộng sản là tất yếu để đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử. Trong cuộc đấu tranh này Đảng Cộng sản không chỉ tập hợp trong hàng ngũ của mình giai cấp vô ssản mà cả các tầng lớp trung gian, những nhà tiểu công nghiêp, tiểu thương, thợ thủ công, nông dân. Đứng trong hàng ngũ vô sản họ đã tự nguyện từ bỏ quan điểm của chính họ để đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản, bảo vệ lợi ích tương lai của họ. Khi cuộc đấu tranh giai cấp tiến gần đến giờ quyết định, giai cấp thống trị bị phân hoá, một bộ phận nhỏ tách ra khỏi giai cấp này đi theo giai cấp vô sản. Thực tiễn đó đã khẳng định rằng, các tầng lớp trung gian và cả một bộ phận giai cấp thống trị xã hội cũng có thể từ bỏ lập trường giai cấp của mình để tham gia vào hàng ngũ của giai cấp vô sản.
Sự trưởng thành của giai cấp vô sản được đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng Cộng sản. Song, Đảng Cộng sản khác với toàn bộ giai cấp vô sản ở tính tiên phong. Tính tiên phong của Đảng thể hiện: Tiên phong trong hành động thực tiễn; tiên phong về lý luận. Mác, Ăng ghen đã chỉ rõ trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: Những người Cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản. Vai trò tiên phong và sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử toàn thế giới. Đảng Cộng sản là một bộ phận gắn liền với giai cấp. Lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích giai cấp. Đảng tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản. Mục đích của Đảng là mục đích của giai cấp, Đảng là đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: