Niên biểu lịch sử Âm nhạc cung đình Việt Nam

  • Thread starter Thread starter liti
  • Ngày gửi Ngày gửi

liti

New member
Niên biểu lịch sử Âm nhạc cung đình Việt Nam

Thế kỉ X - Thế kỉ

Thời vua Lê Đại Hành (trị vì 980 - 1005)

982 Vua xâm nhập lãnh thổ Chămpa, chiếm kinh đô Indrapura rồi đưa về Hoa Lư 100 " cung kỹ " (ca nhi, vũ nữ) Chăm. Kể từ ấy ảnh hưởng Chăm bắt đầu thâm nhập âm nhạc cung đình Việt. (Tham khảo Toàn thư, Cương mục, Hội điển...)
Thế kỉ XI - XII: Đời Lý, triều đại quân chủ đầu tiên của Việt Nam

Trên nhiều bệ đá kê các cột chùa Vạn phúc (còn gọi là chùa Phật Tích, ở làng Phật Tích, vùng Kinh Bắc - Bắc Ninh) thấy chạm nổi một dàn nhạc 10 người chơi 8 nhạc khí: thổi tiêu, địch (ống sáo), đánh phách, trống cơm, kéo nhị, gảy đàn tam, tỳ bà, đàn cầm. Như vậy dàn nhạc có 4 nhạc khí dây, 2 nhạc khí thổi, 2 nhạc khí gõ là những nhạc khí hoặc thuần Việt hoặc gốc gác từ Ấn Độ, Chămpa, Trung Quốc. (Phát hiện khảo cổ học tại chỗ của Louis Bezacier năm 1940, nghiên cứu nhạc học của Trần Văn Khê cuối thập kỷ 50). Thời vua Lý Thái Tông (1028 - 1054)

1044 Vua đánh Chămpa, chiếm thành Phật Thệ, đưa về Thăng Long nhiều cung nữ Chăm giỏi hát múa khúc điệu Tây Thiên (khúc hát, điệu múa Chăm gốc gác từ Ấn Độ)
[sửa] Thời vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072)

1060 Là người giỏi văn, thích nhạc, vua đích thân phiên dịch một khúc nhạc Chămpa, ghi chép một điệu trống Chămpa (đất nước có một nền mỹ thuật, âm nhạc và vũ đạo phát triển lâu đời dưới ảnh hưởng văn minh Ấn Độ) rồi sai nhạc công ập luyện, biểu diễn.

1069 Vua đánh Chămpa, bắt được vua Chăm Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. Chế Củ buộc lòng nộp 3 châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh (Quảng Bình, bắc Quảng Trị) để chuộc lại tự do. Cuộc Nam tiến của người Việt bắt đầu.
Thời vua Lý Nhân Tông (1066 - 1128)

Dựa trên sử cổ, văn bia, nhà sử học - văn hóa học Trần Quốc Vượng đã " Phác họa chân dung nhạc sĩ Lý Nhân Tông (1066 - 1128) ": Đặc biệt giỏi về âm luật, vua đích thân sáng tác những bài ca, khúc nhạc cho nhạc công cung đình tập luyện. Văn bia chùa Đọi viết: " Vua ta tứ thơ thâu tóm thiên biến vạn hóa của Đất Trời, nhạc phổ hòa hợp âm thanh của Đường, Phạn " (Trung Hoa, Chămpa, Ấn Độ). Hiểu biết đến nơi đến chốn nhạc Đại Việt, Chămpa, Trung Quốc, vua đã sáng tác những khúc điệu mới tân kỳ như khúc nhạc " Tiên cưỡi mây xuống trần " véo von tiếng hát cung đàn ngợi ca công lớn của tiên vương " (dẫn trong Văn hóa Việt Nam, Tìm tòi và Suy ngẫm - 2000)
[sửa] Thời vua Lý Cao Tông (1176 - 1204)

1202 Vua sai nhạc sĩ cung đình đặt ra khúc nhạc gọi là Khúc nhạc Chăm (" Chiêm Thành âm ") tiếng trong trẻo, ai oán, não nùng, người nghe phải rỏ nước mắt.
Thế kỉ XIII - XIV: Đời Trần

1306 Công chúa Trần Huyền Trân, em vua Trần Anh ông sánh duyên với vua Chămpa Chế Mân và sính lễ là hai Châu Ô, và Ri (Nam Quảng Trị, Thừa Thiên, một phần bắc Quảng Nam) tặng về cho Đại Việt. Nhân dân Đại Việt và Chămpa xích lại gần nhau hơn.

1307 Lê Tắc trong An Nam chí lược cho biết: Nhạc cung đình đời Trần có Đại nhạc, trong dân gian có Tiểu nhạc với tổng cộng 12 loại nhạc khí: đàn gáo, đàn cầm, thất huyền, tỳ bà, tranh, tam, kèn tất lật, sáo(tiêu), địch (sáo ngang), phách, tiểu bạt và trống cơm mà Lê Tắc nói rõ là có gốc gác Chăm.

Các vua Lý, Trần đều ưa thích nhạc Chăm, múa Chăm. Qua nhiều trăm năm tiếp biến văn hóa Đại Việt - Chămpa, nhạc cung đình Việt " đã nhuộm màu chàm " (Trần Văn Khê).
Đầu thế kỉ XV - đầu thế kỉ XVI: Đời Lê sơ

(từ Lê Thái Tổ đến thời Hồng Đức)

Lê Thái Tổ (Lê Lợi, 1428 - 1433) giao cho Nguyễn Trãi định ra qui chế triều phục và nhã nhạc. Chưa kịp triển khai thì vua mất.

Lê Thái Tông (1434 - 1442) lại giao việc đó cho Nguyễn Trãi và quan hoạn Lương Đăng. Vì trình độ tầm thường và tinh thần vọng ngoại của người này, Nguyễn Trãi xin trả lại công việc được giao. Vua ưng thuận và sau đó nghe theo ý kiến của Lương Đăng bất chấp sự phản đối của Nguyễn Trãi và bốn đại thần khác.

1437 Lương Đăng trình vua hai loại nhạc cung đình mới sao chép theo qui chế nhã nhạc triều Minh:

1. Nhạc ở trên điện vua (Đường thượng chi nhạc)
2. Nhạc ở dưới điện vua (Đường hạ chi nhạc)

Nguyễn Trãi phản đối sự sao chép, tiếp thu thụ động nhạc nước ngoài và đưa ra một quan niệm nhân văn chủ nghĩa cao quí về âm nhạc: " (...) Đời loạn dùng võ, thời bình chuộng văn (...) Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc (...) Xin bệ hạ yêu nuôi muôn dân để chốn xóm thôn không còn tiếng oán hận buồn than. Như thế mới không mất cái gốc của nhạc " (Toàn thư). Vua khen ngợi ý kiến của Nguyễn Trãi, nhưng việc Lương Đăng làm là việc đã rồi. Năm năm sau đó cả nhà Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc (19.9.1442) !

1470 Lương Thế Vinh (tác giả Hí phường phả lục), Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận lại tham khảo nhã nhạc triều Minh và trình với Lê Thánh Tông (1460 - 1497) - người đã chính thức tẩy oan cho Nguyễn Trãi (1464) -, hai tổ chức nhạc cung đình mới: Đồng văn (khí nhạc) và Nhã nhạc (thanh nhạc). Chung qui, sau nhiều lần tham khảo nhã nhạc triều Minh, nhạc cung đình thời Lê (tk. XV - cuối tk. XVIII) gồm 8 loại: nhạc tế Giao, nhạc tế Miếu, nhạc tế Ngũ tự (năm vị thần), nhạc cứu Mặt trời, Mặt trăng (khi có Nhật thực, Nguyệt thực) Nhạc đại triều, Nhạc thường triều, Nhạc cử 9 lần khi đại yến, Nhạc dùng trong cung. Từ khi chịu ảnh hưởng Trung Hoa, nhạc cung đình Việt (được tôn là " nhã nhạc ") đối lập với nhạc dân gian lâu đời (bấy giờ bị gọi là " tục nhạc ", thậm chí là " dâm nhạc "), bị cấm không được biểu diễn trong triều đình nữa. Sử cổ ghi: " Bãi bỏ các trò chèo hát " (trước mặt vua quan).

Thế kỉ XVI - XVII - XVIII: thời Mạc, Lê Trung hưng, Trịnh, và Lê mạt ở Thăng Long và Đàng Ngoài (lãnh thổ phía bắc sông Gianh)

Bên cạnh Đại Việt sử ký Toàn thư (XV - XVII), Lê triều hội điển (XVII - XVIII), tài liệu phong phú nhất về âm nhạc Đại Việt (Đàng Ngoài) thời kỳ bày là những ghi chép quí báu của Phạm Đình Hổ trong Vũ Trung Tùy Bút và của Lê Quí Đôn trong Kiến văn tiểu lục và Vân đài loại ngữ.

Ở ba thế kỉ sau thời Lê sơ, ngoài các loại nhạc cung đình kể trên còn có thêm Nhạc huyền, Xúy nhạc, Quân nhạc, Nhạc Bả lệnh (dùng trong phủ chúa Trịnh), nhạc Giáo phường (vừa dùng trong dân gian, vừa được đưa trở lại cung đình khi nhạc cung đình suy thái).

Ba thế kỉ ấy cũng là thời nội chiến Mạc - Lê, Trịnh - Nguyễn liên miên, phân tranh Bắc - Nam kéo dài, chúa tiếm quyền vua, xã hội loạn lạc, lầm than; hậu quả là nhạc cung đình Đàng Ngoài ngưng đọng và dần dần đình đốn.
Thế kỉ XVII - XVIII ở Phú Xuân và Đàng Trong: thời các chúa Nguyễn

(1558 - 1777)


Từ những năm 30 của thế kỉ XVII, nhà văn hóa lớn Đào Duy Từ (tác giả của Hổ trướng khu cơ, Tư Dung vãn, Ngọa Long cương vãn, của hai lũy Trường Dục và lũy Nhật Lệ (Lũy Thầy), tương truyền là tác giả của một số bài hát, điệu múa và vở hát bội cung đình thời các chúa Nguyễn, ông tổ lớn nhất của âm nhạc Huế và hát bội Huế được thờ tại nhà thờ Thanh Bình ở Huế (1572 - 1634) đã tiếp thu nhạc Đàng Ngoài, và đã giúp chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1623 - 1634) lập ra một hệ thống lễ nhạc, triều nhạc mới. Hòa thanh thự của các chúa là tổ chức âm nhạc cung đình lớn của Đàng Trong gồm ban nhạc, đội ca, đội múa đông đảo (Đại Nam thực lục tiên biên). Cuối thế kỉ XVII - đầu thế kỉ XVIII, nhạc cung đình Đàng Trong đã khá hoàn chỉnh, phong phú, hấp dẫn, theo những ghi chép và đánh giá của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán, thượng khách của chúa Nguyễn Phúc Chu (1692 - 1725) sau chuyến đi thăm Đàng Trong và Phú Xuân của ông. Được mời xem ca múa nhạc và hát bội tại phủ chúa, nhà sư cho biết điệu múa nổi tiếng thời đó là điệu múa Thái liên diễn tả dáng dấp đài các, trang nhã, tình tứ của các cô " tiểu hầu " của đô thành Phú Xuân vừa chèo thuyền vừa tươi cười hái sen. Các ca nhi vũ nữ ấy " đội mão vàng, áo hoa xanh dài phết đất, thoa son dồi phấn rất mực diễm lệ, làm nao lòng người xem " (hồi ký Hải ngoại kỷ sự, bản dịch, 1963).


Cuối thế kỉ XVIII: thời Tây Sơn

(1788 - 1802)

1790, (năm sau đại thắng Đống Đa ở Thăng Long), một vua Quang Trung (giả) cầm đầu một đoàn ngoại gia sang thăm hữu nghị triều đình nhà Thanh, cầu hòa, và chúc thọ hoàng đế Càn Long 80 tuổi. Càn Long ý phong cho vua Đại Việt là " An Nam quốc vương " và vui lòng thưởng thức đoàn " An Nam quốc nhạc " biểu diễn chúc thọ. Nhờ những ghi chép cụ thể của Đại Thanh hội điển sự lệ và tập văn kiện ngoại giao Đại Việt quốc thư của ta mà âm nhạc cung đình thời Tây Sơn hiện ra khá rõ nét. Hội điển triều Thanh đã mô tả chính xác trang phục các nhạc công, ca công và vũ công Việt Nam. Nghệ nhân cung đình Tây Sơn chơi 8 loại nhạc khí mà Hội điển triều Thanh đã ghi lại bằng chữ nôm: " một cái cổ (kai kou: trống), một cái phách (kai p'o), hai cái sáo (kai chao), một cái đàn huyền tử (kai t'an hien tse, có thể là đàn tam), một cái đàn hồ cầm (kai t'an hou k'in), một cái đàn song vận (kai t'an choang wen, có thể là đàn nguyệt) một cái đàn tỳ bà (kai t'an p'i p'a), một cái tam âm la (kai san in lo). Đó là phần nhạc khí. Về phần hát, Đại Việt quốc thư cho biết bổ sung như sau: Nhân dịp lễ thượng thọ của Càn Long 80 tuổi, đoàn quốc nhạc của ta gồm 6 nhạc công và 6 ca công cung đình đã biểu diễn cho hoàng đế nhà Thanh nghe " nhạc phủ từ khúc thập điệu ". Rất có thể đây là liên khúc 10 bản " Thập thủ liên hoàn " nổi tiếng trong nhã nhạc cung đình Huế, cũng gọi là 10 bản Tấu, hay 10 bài Ngự, thậm chí có nghệ nhân gọi là mười bản Tàu (?) (mà khi được nghe chúng, người Trung Quốc chính hiệu đã cho rằng không có gì là " Tàu " cả). (Đại Thanh HĐSL, bản in 1908, Quyển 528, Thư viện Hội Châu Á Paris; Đại Việt quốc thư, TT Học liệu (Bộ Giáo dục) xb., Sài gòn 1972).
Thế kỉ XIX: Thời thịnh của triều Nguyễn

(1802 - 1885)

Theo những tài liệu tham khảo hiện có, thời kỳ vàng son của âm nhạc cung đình Đại Việt - Việt Nam - Đại Nam là thịnh thời triều Nguyễn trước khi kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ vào năm 1885. Hai tài liệu chủ yếu là Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (đầu thế kỉ XIX) và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của Quốc sử quán (giữa thế kỉ XIX) cho biết: Từ sau khi Gia Long lên ngôi đến khi Tự Đức mất (1883) âm nhạc cung đình Phú Xuân bây giờ quen gọi là NNCĐH đã được phục hồi, chấn chỉnh và phát triển mạnh. Các loại Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung chi nhạc đã ảnh hưởng qua lại nhiều với nhạc cổ điển thính phòng (ca Huế, đờn Huế) và nhạc tuống cổ điển, cung đình (thanh nhạc và nhạc múa của hát bội Huế). Đáng chú ý là nhiều nhà hát rạp hát lớn nhỏ của vua, đại thần và dân thường được xây dựng làm nơi biểu diễn nhạc cung đình, nhạc cổ điển, hát bội hay nhạc dân gian: Duyệt thị đường trong hoàng thành, Minh Khiêm đường trong lăng Tự Đức, Cửu tư đài trong cung Ninh Thọ, rạp hát ông Hoàng Mười, nhà hát Mai Viên tại tư dinh thượng thư Đào Tấn, đã không loại trừ sự tấp nập của những rạp hát ông Sáu Ớt (Nguyễn Nhơn Từ), rạp hát gia đình họ Đoàn (ở An Cựu), rạp hát bà Tuần (tồn tại đến 1975), v.v...

1802 - 1819 Thời Gia Long, Việt tương đội, một tổ chức âm nhạc cung đình lớn được thành lập với 200 nghệ nhân. Vua lại cho dựng đài Thông minh, một sân khấu ca múa nhạc và hát bội trong cung Ninh Thọ.

1820 - 1840 Minh Mạng cho xây dựng Nhà hát lớn Duyệt thị đường (1824), đổi Việt tương đội thành Thanh bình thự, lập thêm một Đội nữ nhạc với 50 ca nữ, vũ nữ, lại cho xây dựng Nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm nhạc và hát bội Huế: Thanh bình từ đường (1825). Trước nhà thờ dựng một tấm bia, một sân khấu hát bội và ca vũ nhạc. Văn bia cho biết vào đời Minh Mạng, nghệ thuật âm nhạc và sân khấu đã phát triển tốt đẹp:

" Vũ đài xuân rạng hàng ngũ chỉnh tề, sân khấu mây lồng âm thanh dìu dặt (...) Khánh chuông ra lệnh xướng hòa, kèn trống nhịp nhàng đánh thổi (...) Trải mấy triều vương đều khuyến khích, Biết bao âm nhạc thảy dồi dào (...) Giữa điện đình ca múa, tỏ điềm thái vận nước nhà; Trên lăng miếu xướng hòa, ngưỡng đức cao thâm biển núi... (bản dịch của Ưng Dự).

1841 - 1883 Đời Tự Đức, âm nhạc cổ điển, nhã nhạc cung đình và hát bội cung đình đạt tới đỉnh cao. Nhà hát Minh khiêm đường được xây dựng (1864) trong Khiêm cung (sau khi vua mất sẽ gọi là Khiêm lăng). Tương truyền chính Tự Đức đã sáng tác bản nhạc Tứ đại cảnh nổi tiếng. Say mê thơ, nhạc và hát bội hơn chính trị, vua lập nên Hiệu thơ phòng để cùng các danh nho trong triều đình xướng họa thơ văn, thưởng thức âm nhạc, sáng tác hay nhuận sắc các vở hát bội. Nhà thơ và nhà soạn tuồng lỗi lạc thời Tự Đức là Đào Tấn (1845 - 1907)
Thế kỉ XIX: Thời suy của triều Nguyễn

(1885 - 1945)

1858 - 1885 Thực dân Pháp gây hấn và bắt đầu xâm lược nước ta từ Đà Nẵng, rồi chiếm dần Nam Bộ, Bắc Bộ. Tháng 8 năm 1885 kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ. Các vua Nguyễn sau Tự Đức đều được Pháp đưa ra làm vì, mất hết quyền bính. Đời sống cung đình tẻ nhạt, âm nhạc cung đình ngày càng sa sút. 1889 - 1925 Thành Thái lập Võ can đội, rồi thêm một đội Đồng ấu (nghệ nhân thiếu niên, làm dự bị cho Võ can đội). Tất cả đều hoạt động cầm chừng.

1914-1944 Tập san Những người Bạn của Huế cổ kính (B.A.V.H.) (bằng tiếng Pháp) ra đời và sẽ xuất bản tổng cộng 120 tập (dày nhiều vạn trang) trong suốt 30 năm dưới sự điều khiển của nhà Việt Nam học lỗi lạc L.m. Léopold Cadière. Nhiều bài nghiên cứu có giá trị về nhạc Huế được công bố trên tập san, nổi bật nhất là công trình của nhạc sĩ cổ điển Hoàng Yến (1919): Âm nhạc ở Huế, đàn nguyệt và tranh.

1925 - 1945 Dưới thời Bảo Đại, Võ can đội đổi thành Ba vũ đội gồm cả một đội Đại nhạc và một đội Tiểu nhạc tổng cộng khoảng 100 nghệ nhân hoạt động rời rạc, trong lúc chờ đợi làm nhiệm vụ chính: tham gia phục vụ lễ Tế Nam giao (3 năm một lần) (theo lời kể của cụ Lữ Hữu Thi).

1942 là năm cuối cùng triều Nguyễn cử hành lễ Tế Nam giao, cũng là lần cuối cùng Nhã nhạc cung đình Huế được biểu diễn trọng thể trước công chúng.

31 - 8 - 1945 Trên Ngọ Môn, hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn vương quốc Đại Nam thoái vị. Nhã nhạc cung đình Huế tạm thời rã đám.
 
Nhã nhạc cung đình Việt Nam


Nhạc cung đình được là Lễ nhạc, hoặc Nhã nhạc, (dân gian gọi là Thế tục nhạc). Lễ nhạc có xuất xứ từ đời Chu (Trung Quốc). Đến đời Tần (221-206 TCN), Tần Thuỷ Hoàng đã cho đốt hết các kinh sách cũ, và những gì liên quan đến Nhã nhạc có trong Kinh nhạc, Lễ nhạc do Khổng Tử soạn đều bị thất truyền. Các đời sau vẫn dùng những gì còn có thể tìm lại được từ hai quyển sách này để làm căn bản cho Lễ nhạc cung đình của mình. Lễ nhạc được du nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc dưới thời vua Lý Anh Tông (1138-1157). Trước đó thông qua nền văn hoá Chăm (ấn Độ) đã đến nước ta. ở Việt Nam, âm điệu nhạc vui được gọi là điệu Bắc hay Khách, nghĩa là có âm hưởng Trung Quốc, nhạc có âm điệu buồn được gọi là có âm điệu Nam, hay là âm điệu Việt. Đến triều Lý Thánh Tông (1054-1072) đem các nhạc vũ công của vương triều Chiêm Thành về Kinh đô Thăng Long, và cho họ chỉ dạy các nghệ sĩ cung đình nhà Lý âm nhạc Chăm. Huế tọa lạc trên nền tảng một kinh đô cũ của Chiêm Thành.

Các cung điệu bán âm buồn của nhạc Chăm vẫn tồn tại trong âm nhạc Huế. Nhạc cung đình chỉ có tại kinh thành Huế. Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, đây là bộ môn âm nhạc duy nhất được ghi vào sử sách từ xa xưa, trải qua bao thăng trầm của các triều đại, bao biến thiên của thời cuộc mà vẫn còn lưu lại được một di sản đáng kể có thể sử dụng để nghiên cứu về nhiều mặt: nhạc khí đa dạng; sắp xếp dàn nhạc tinh vi; nhạc ngữ độc đáo; bài bản dồi dào và quan điểm thẩm mỹ sâu sắc.

Những chi tiết về một dàn Đại nhạc cung đình xuất hiện đầu tiên trong sử sách có thể là trong quyển “An nam chí lược” của Lê Tắc vào đời Trần,

Sách Khâm định Đại Thành Hộ điển sự lệ (xuất bản 1908) có ghi rành rẽ các chi tiết của dàn nhạc cung đình có từ cuối thế kỷ thứ 18. Miêu tả dàn nhạc cung đình có ghi tên nhạc khí gồm: 1 cái cổ (trống), 1 cái phách (sinh tiền), 2 cái sáo, 1 tam huyền tử (đờn tam), 1 hồ cầm (đờn nhị), 1 cái đàn song vận (nguyệt cầm), 1 đàn tỳ bà, 1 tam âm la. Đoàn các vũ sinh mặc áo rộng thêu rồng, thắt lưng màu xanh dương và đầu bịt khăn giống như vũ sinh. Số lượng nhạc khí ngày nay không có gì thay đổi. Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi đặt tên dàn nhạc đổi tên là Việt Nam Quốc nhạc. Nhạc cung đình có một giá trị nghệ thuật rất cao, tập hợo những nhạc sĩ và nhạc công tài năng từ khắp nơi trong đất nước, là những nghệ sĩ chuyên nghiệp, biểu diễn tinh vi, sáng tác chất lượng. Các nhạc khí được dùng trong Nhạc cung đình cũng được làm rất kỹ, chạm khắc cẩn khéo léo, rất tinh xảo, có đầy đủ màu âm: tiếng kim, tiếng thổ, tiếng trong, tiếng đục, tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng da, tiếng đá (khánh), tiếng đồng. Các dàn nhạc chẳng những đa dạng và quy mô mà còn rất đặc biệt trong sự phối hợp màu âm, không quan tâm đến số lượng mà quan tâm đến chất lượng. Khi hoà đàn thì không nhạc khí nào có thể át các nhạc khí khác mà mỗi loại âm thanh đều có thể phân biệt rõ ràng.

Nhạc cung đình bao gồm tất cả các bộ môn âm nhạc khác, từ Lễ nhạc để dùng vào các buổi tế lễ lớn nhỏ của cung đình, trong các chùa miếu, nhạc thính phòng, sân khấu, kể cả các vũ điệu, mà mỗi bộ môn đều có những nghệ sĩ thượng thặng chuyên sáng tạo và biểu diễn. Những sự kiện hỗn loạn làm rung chuyển Việt Nam vào thế kỷ 20 - đặc biệt là sự sụp đổ của chế độ quân chủ và mấy chục năm chiến tranh đã sự đe dọa nghiêm trọng đến sự tồn tại của Nhã nhạc. Thiếu thốn của sân khấu, truyền thống âm nhạc này đã mất dần chức năng xã hội nguyên gốc. Còn một số cựu nhạc công đang cố gắng giữ cho Nhã nhạc truyền thống sống lại và truyền những những kỹ năng của họ tới thế hệ trẻ. Chúng ta phải phải bảo tồn di sản nghệ thuật cha ông để lại, bồi đắp thêm bằng những sáng tạo mang dấu ấn

của thời đại, mà không đánh mất bản sắc dân tộc Việt Nam. Nhất định Nhã nhạc sẽ tiếp tục tồn tại với nghi thức đại chúng và những nghi lễ tôn giáo và như một nguồn của cảm hứng cho âm nhạc Việt nam đương đại. Ngày 7-11-2003, Tổng Giám đốc UNESCO, ông Kiochiro Matsuura chính thức công bố trong buổi lễ được tổ chức tại Paris, UNESCO đã ghi tên 28 kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại lần thứ hai, trong đó có Nhã nhạc Huế.


 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top