NHỮNG THÀNH TỰU CỦA VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT KHOA HỌC - KĨ THUẬT THẾ KỈ XIX
Từ cách mạng tư sản Hà Lan cho đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã xác lập và thắng lợi ở các nước châu Âu và châu Mỹ. Chủ nghĩa tư bản thoát khỏi những ràng buộc của chế độ phong kiến, rộng đường phát triển. Giai cấp tư sản cũng tiến hành cuộc cách mạng kỹ thuật nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa tư bản. Chính nhờ cuộc cách mạng công nghiệp mà giai cấp tư sản đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.... Với thắng lợi của cách mạng công nghiệp, chủ nghĩa tư bản đạt những thành tựu to lớn. Thế kỷ XIX là thế kỷ của những thắng lợi rực rỡ mà chủ nghĩa tư bản đạt được trong các mặt văn học, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật.
I. VĂN HỌC
Văn học thế kỷ XIX phát triển mạnh với hai trào lưu văn học lớn: văn học lãng mạn và văn học hiện thực. Các tác giả của thế kỷ XIX đã để lại cho nhân loại những bộ tiểu thuyết đồ sộ và tồn tại mãi với thời gian.
1. Văn học lãng mạn.
1.1. Hoàn cảnh ra đời:
Chủ nghĩa lãng mạn ở các nước phương Tây ra đời dưới ảnh hưởng của cách mạng Pháp. Cách mạng Pháp 1789 đánh đổ chế độ phong kiến, thiết lập chế độ tư sản là một bước ngoặc quan trọng, đánh dấu sự mở đầu của một chế độ chính trị mới, phù hợp với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Ðây là cuộc cách mạng duy nhất đã chiến thắng triệt để chủ nghĩa phong kiến nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp phong kiến đang trên đà tan rã và một bên là giai cấp tư sản đang đi lên. Cách mạng Pháp, vì vậy được sự ủng hộ nhiệt tình của những người có tư tưởng tiến bộ và quần chúng nhân dân lao động. Tuy nhiên, sau khi lật đổ giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản đã giành lấy những thành quả của cách mạng về phần mình, thay thế những quan hệ bóc lột của xã hội cũ bằng những quan hệ bóc lột của xã hội mới, tạo nên những tâm thế khác nhau trong đời sống xã hội.
Sự sụp đổ của quan hệ xã hội cũ và sự xác lập những quan hệ xã hội mới, đặc biệt là trong thời gian sau những cuộc chiến tranh của Napoléon, sự xác lập của Vương triều Phục hồi (1815-1830)... có tác động mạnh mẽ đến mọi tầng lớp công chúng và ảnh hưởng rộng rãi đến nhiều nước châu Âu. Một mặt, nó tạo nên sự bất mãn, chống đối của những người gắn bó tình cảm và quyền lợi với chế độ phong kiến phân quyền, muốn duy trì và bảo vệ trật tự xã hội mà họ cho là tốt đẹp, lí tưởng. Mặt khác, nó lại không đáp ứng được lòng mong mỏi và niềm tin của những tầng lớp quần chúng đã nhiệt tình ủng hộ cho cách mạng. Ước mơ vào một xã hội tốt đẹp đã không trở thành hiện thực...Chủ nghĩa lãng mạn đã hình thành và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử xã hội và tâm lí đó.
1.2. Nội dung:
Chủ nghĩa lãng mạn là tiếng nói của thời đại mới. Nó chia thành hai khuynh hướng: lãng mạn tiêu cực, bảo thủ và lãng mạn tích cực, tiến bộ. Hai khuynh hướng khác nhau trong chủ nghĩa lãng mạn là do những phản ứng khác nhau của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân đối với kết quả của cách mạng tư sản. Cơ sở của khuynh hướng lãng mạn tiêu cực là sự chống đối của tầng lớp quí tộc bị cách mạng Pháp lật đổ. Ngoài ra, cơ sở giai cấp của nó còn là tầng lớp tiểu tư sản bảo thủ chịu ảnh hưởng sâu xa của ý thức phong kiến lỗi thời. Vì vậy, nội dung của văn học lãng mạn tiêu cực là tiếng kêu thất vọng, lời than vãn, thương tiếc về một quá khứ cũ. Nó thất vọng với hiện tại và tìm đến những nơi náu ẩn của tinh thần như tôn giáo, tình yêu, vũ trụ.... Cở sở giai cấp của khuynh hướng lãng mạn tích cực là đông đảo quần chúng nhân dân phân hóa từ Ðẳng cấp thứ ba sau cách mạng tư sản và những tầng lớp trí thức tiểu tư sản tiến bộ có điều kiện thuận lợi để nói lên những tâm tư, tình cảm của quần chúng nhân dân lao động. Văn học lãng mạn tích cực hướng về tương lai, gởi gắm hy vọng vào việc cải tạo xã hội với một khát vọng chân lý và tự do. Các nhà văn lãng mạn tích cực luôn luôn muốn khám phá và sáng tạo, xông pha tìm cái mới. Ngoài ra nó còn mang nhiệt tình yêu nước và ít nhiều vươn đến tính chất lãng mạn cách mạng.
Về nghệ thuật, chủ nghĩa lãng mạn đã thay thế sự tìm tòi một chân lý phổ biến và trừu tượng bằng sự miêu tả những kinh nghiêm riêng và cụ thể. Các nhà văn lãng mạn đã đối lập với những qui tắc của nghệ thuật cổ điển bằng tự do trong nghệ thuật sáng tạo. Họ không mô phỏng tự nhiên, không tái hiện mà phát huy đến cao độ kiểu sáng tác tái tạo nghệ thuật không phải là sự mô tả thực tại có thực mà là sự tìm tòi chân lý lý tưởng (George Sand). Chủ nghĩa lãng mạn tích cực là văn học của cái tôi cho nên rất giàu tính trữ tình. Thơ trữ tình rất được ưa chuộng, đề tài tình yêu rất phổ biến, thể loại tự truyện khá phát triển.
1.3. Các nhà văn tiêu biểu:
Nói đến trào lưu lãng mạn, phải nói đến văn học lãng mạn Pháp. Văn học lãng mạn Pháp là một dòng văn học lớn, phản ánh cụ thể tình hình đấu tranh giai cấp trong khoảng thời gian giữa hai cuộc cách mạng 1789-1848.
- Các nhà văn lãng mạn Pháp: Chataubriand với những tác phẩm: René, Atala, Những kẻ tử vì đạo....; Lamartine với tác phẩm Le Lac, Những trầm tư đầu tiên; Alfred Vigny với Saint Marc, Moise, Héloise ... Ðại biểu cho những nhà văn lãng mạn tiến bộ là Mme de Stael, kế đó là George Sand với trên 90 tác phẩm, trong đó có những tác phẩm lớn: Valentine, Lélia, Indiana, Cái ao ma quái, Cô bé Fayette....Victor Hugo được xem là nhà văn lãng mạn tiến bộ vĩ đại. Các tác phẩm của ông nhuốm đầy tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, phục vụ cuộc đấu tranh của nhân dân, cho công lý, hòa bình, cho những người khốn khổ. Ông nổi tiếng với các tập tiểu thuyết: Những người khốn khổ, Nhà thờ đức bà Paris, Năm 93, Cromwell, Trừng phạt...
- Các nhà văn lãng mạn ở Anh: Wordsworth, Coleridge, Keats Byron với những tác phẩm ca ngợi những cuộc đấu tranh của công nhân và các phong trào giải phóng dân tộc. Ngoài ra còn có Shelley, một nhà thơ tiến bộ với những tác phẩm như: Thư gởi gió Tây, Prométée giải phóng, Gửi con chim sơn ca, Hélax....
- Ở Ðức: Wilhem Schelgel và Fridrich Schelgel được xem là những người mở đường cho văn học lãng mạn Ðức. Ngoài ra còn có thể kể Goeth, Heiner...
2. Văn học hiện thực phê phán thế kỷ XIX.
2.1 Hoàn cảnh ra đời:
Chủ nghĩa hiện thực phê phán ở Tây Âu hình thành vào những năm 20 của thế kỷ XIX và phát triển rực rỡ từ những năm 30 đến những năm 60. Nó ra đời và phát triển trong thời kỳ mà mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở nên quyết liệt.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho số phận của công nhân và quần chúng nhân dân ngày càng khốn khổ. Các nhà văn, nhà tư tưởng sống trong thời kỳ này, đã lấy chất liệu từ thực tế của cuộc sống để vạch ra những xấu xa của xã hội tư bản, phê phán và lên án mối quan hệ tư bản chủ nghĩa trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
2.2. Nội dung:
Các nhà văn hiện thực đã đi sâu tìm hiểu thực tế để phản ánh trong sáng tác của mình, đi sâu vào bản chất, phát hiện ra những mâu thuẫn trong hiện thực. Họ vạch trần bản chất xấu xa của xã hội tư sản, qui luật cạnh tranh khốc liệt của chủ nghĩa tư bản, sự bóc lột tàn nhẫn của những người giàu có đối với những người nghèo khổ. Trong khi miêu tả một cách chân thực cuộc sống, các nhà văn hiện thực đã lên tiếng, phê phán và tố cáo xã hội tư sản, lên án ma lực của đồng tiền, lên án cái đạo đức giả của giai cấp tư sản. Các nhà văn hiện thực phê phán đã cố gắng xây dựng những điển hình, những nhân vật mà tính cách hình thành và phát triển gắn liền với một hoàn cảnh điển hình. Các nhà văn của dòng văn học này đã có công phát triển và hoàn thiện loại tiểu thuyết xã hội. Ðó là một bức tranh rộng lớn về cuộc sống, một bộ bách khoa toàn thư về nghệ thuật của thế kỷ XIX.
2.3. Các nhà văn tiêu biểu:
-Pháp: văn học hiện thực Pháp thế kỷ XIX phát triển rực rỡ, nhất là những năm 30, 40 của thế kỷ XIX. Những đại biểu ưu tú của dòng văn học này là Standhal với tác phẩm Ðỏ và Ðen; Mérimée với Colomba, Carmen; Balzac với bộ Tấn trò đời; Flaubert với Bà Bovary.
- Anh: Dickens là nhà văn hiện thực phê phán lớn của Anh thế kỷ XIX, ông đã miêu tả một cách tài tình xã hội Anh nửa đầu thế kỷ XIX. Các tác phẩm lớn của ông là: Ngôi nhà lạnh lẽo, Thời buổi khó khăn, Cô bé Doris, David Copperfield...
Ngoài ra còn có Thackeray với Hội chợ phù hoa; Những người Virginie, Denis Duval...
- Nga: Puskin, Gogol, Lep Tônxtoi, Doxtoiepxki... là những nhà văn hiện thực lớn của Nga thế kỷ XIX, sống trong thời kỳ sôi động cách mạng ở Nga, đã có những đóng góp lớn đối với nền văn học Nga.
II. NGHỆ THUẬT
Cùng với văn học, thế kỷ XIX là một thế kỷ nổi bật với những thành tựu lớn về nghệ thuật.
1. Âm nhạc:
Những thiên tài âm nhạc như: Beethoven, Bach, Mozart, Chopin, Tchaicôvxki, Wagner ... đã để lại cho nhân loại những tác phẩm âm nhạc bất tử. Các nhà soạn nhạc thế kỷ XIX đã vượt qua những định luật cổ điển, những sáng tác của họ làm cho thính giả cảm động đến rơi lệ, hoặc say sưa với những điệu nhạc mới lạ, những tấu khúc rung động. Thành công tuyệt đỉnh của âm nhạc thế kỷ XIX là những nhạc kịch của Wagner. Ông đã biến đại ca kịch thành một tổng hợp của mọi nghệ thuật.
2. Hội họa:
Chủ nghĩa lãng mạn cũng ảnh hưởng lớn đến hội họa thế kỷ XIX. Nền hội họa mới đã thóat ly khỏi lối họa theo kiểu mẫu, đi tìm một phong cách tự do hoặc những phong cách trữ tình. Nổi tiếng với trường phái này là Eugene Delacroix, Jean Auguste Ingres, Turner, Van Goth...
3. Ðiêu khắc:
Thế kỷ XIX là một thời đại không mấy xuất sắc về điêu khắc tuy thời kỳ này có rất nhiều sản phẩm điêu khắc. Ở Châu Âu, điêu khắc tương đối khá nhất là ở Paris với những công trình điêu khắc trên Khải hoàn môn và những dinh thự khác. Các nhà điêu khắc Pháp như: Rodin và Maillol bắt đầu gạt bỏ những tiêu chuẩn của thời đại và tìm cách giản dị hóa, tăng khí lực cho những tác phẩm của họ.
4. Kiến trúc:
Thế kỷ XIX là một thế kỷ hỗn loạn về kiến trúc; người ta sử dụng nhiều kiểu kiến trúc khác nhau trong xây dựng: xây chùa kiểu Trung Hoa, Kim tự tháp kiểu Ai Cập, đền kiểu Hy Lạp, các trường đại học thì theo nghệ thuật Gothique...
III. KHOA HỌC
Trong mấy mươi năm đầu của thế kỷ XIX, sự phát triển của khoa học tự nhiên và xã hội đã đạt những thành tựu đáng kể. Kết quả trực tiếp của nó là sự phát triển của đại công nghiệp và kỹ thuật.
1. Khoa học tự nhiên:
- Về hóa học: thành tựu quan trọng nhất là học thuyết phân tử - nguyên tử. Quan điểm về thuyết nguyên tử được nhà bác học Nga Lô-mô-nô-xốp tiến hành nghiên cứu và được bổ sung bằng những thí nghiệm khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX nhờ việc phát hiện ra các qui luật về thành phần hóa học của vật chất. Nhà hóa học Men-dê- lê-ep đã vạch ra con đường khám phá các nguyên tố hóa học mới. Ông đã lập ra bảng kê về các nguyên tố hóa học.
- Về điện lực: đã có những nghiên cứu về dòng điện và các qui luật của nó, đồng thời người ta phát hiện ra những tác dụng hóa học của điện và nghiên cứu mối liên hệ giữa các hiện tượng hóa học và điện học. Người có công trong những công trình về điện là nhà bác học Anh Joule và nhà bác học Ðức Mayer.
- Về sinh vật: nhà sinh vật học Tiêp Khắc Pourkinge đã đề ra học thuyết tế bào. Trong sinh học, học thuyết tiến hóa của Darwin là một học thuyết có tác dụng lớn, nó đã lật đổ quan niệm về tính cố định và bất biến của tự nhiên. Học thuyết của Darwin đã ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng quan điểm biện chứng về tự nhiên.
Những thành tựu của khoa học tự nhiên cho thấy mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên, khẳng định những hình thức khác nhau của vật chất đều vận động, phát triển và chuyển hóa. Những thành tựu ấy đem lại một nhận thức mới cho con người về giới tự nhiên, tạo nên một thế giới quan mới, thế giới quan duy vật biện chứng trong tự nhiên.
2. Khoa học xã hội:
Triết học và xã hội học thế kỷ XIX phát triển theo một con đường phức tạp và đầy mâu thuẫn. Triết học và văn học thế kỷ XVIII, XIX đã tin tưởng vào lý tính, đề cao tự do, chống mọi hình thức áp bức của vương quyền và giáo hội. Triết học Khai sáng thế kỷ XVIII được xem là hệ tư tưởng của giai cấp tư sản. Sau đó, vào thế kỷ XIX, Marx và Engels đã đề ra học thuyết mới về đấu tranh của giai cấp công nhân, đó là một triết học khoa học và là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Sự ra đời của chủ nghĩa Marx đánh dấu một bước chuyển cách mạng trong lịch sử tư tưởng và lý luận, ảnh hưởng sâu sắc đến các ngành khoa học khác (Xem chương IV).
VI. KỸ THUẬT
1. Cơ giới:
Thế kỷ XIX được mệnh danh là thế kỷ của máy móc, sắt và động cơ hơi nước. Máy móc ra đời là cơ sở vật chất, kỹ thuật của sự chuyển biến từ công trường thủ công đến công nghiệp máy móc, đưa chủ nghĩa tư bản lên giai đoạn phát triển công nghiệp. Máy dệt và máy hơi nước bắt đầu phát triển ở Anh vào cuối thế kỷ XVIII, sau đó lan khắp châu Âu và Bắc Mỹ.
2. Giao thông - liên lạc:
Việc phát minh ra máy hơi nước đã làm cho giao thông liên lạc có những biến đổi đáng kể .
1802: Ðầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước được chế tạo ở Anh chạy trên đường lát đá.
1807: Fulton đã thiết kế tàu thủy chạy bằng động cơ hơi nước.
1814: Stepheson chế tạo ra đầu máy xe lửa cải tiến kéo được 8 toa và chạy 6 km/h. Năm 1825 ở Anh khánh thành đường xe lửa đầu tiên. Từ đó, xe lửa có một công dụng đáng kể trong lĩnh vực công nghiệp và giao thông.
Cuối thế kỷ XVIII, có những cuộc thí nghiệm bay bằng khí cầu ở Nga và Pháp. Năm 1783, anh em Montgolfier đã thực hiện một chuyến bay bằng khí cầu bơm bằng khí nóng, một trong hai người đã phát minh ra dù nhảy.
Máy điện tín được phát minh ở Nga và Mỹ vào giữa thế kỷ XIX, nhờ đó việc liên lạc được xa và nhanh. Năm 1844, Morse phát minh ra máy điện báo viết với một hệ thống ký hiệu riêng gồm gạch và chấm.
3. Nông nghiệp:
Nhờ những thành tựu về khoa học, phương pháp canh tác và công cụ sản xuất được cải tiến. Phân bón hóa học và máy nông nghiệp được sử dụng rộng rãi trên đồng ruộng làm tăng năng suất và sản lượng cây trồng.
4. Quân sự:
Kĩ thuật quân sự cũng có những tiến bộ đáng kể . Ðại bác có nòng trơn, bằng đồng và nạp đạn bằng miệng được thay bằng đại bác thép, nòng có rãnh, nạp đạn phía sau bằng qui lát. Súng hơi và súng có cơ bẩm chuyển động được phát minh và sử dụng rộng rãi. Các loại thuốc súng mạnh như: mìn, nitơrô glixerin làm giảm nhẹ trọng lượng của đầu đạn và của súng được áp dụng trong lĩnh vực quân sự để bắn được xa hơn.
Thủy quân cũng được cải tiến. Tàu sắt với động cơ hơi nước được sử dụng trong chiến tranh. Giữa thế kỷ XIX, thiết giáp hạm với ngư lôi chìm đã bắt đầu xuất hiện. Khí cầu cũng được sử dụng trong chiến tranh.
Tóm lại, thế kỷ XIX là thời kỳ thắng lợi của chủ nghĩa tư bản. Nó đánh dấu bước phát triển cao của kinh tế tư bản chủ nghĩa đồng thời còn có những thành tựu đáng kể trong mọi lĩnh vực của sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân loại. Những thành tựu này phải kể đến sự đóng góp của đông đảo quần chúng nhân dân và các nhà khoa học. Họ đã mày mò, khám phá ra những qui luật, những thành tựu mới, đóng góp vào kho tàng văn minh nhân loại.
(Sưu tầm)