Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
1-9-1858 :Liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ súng vào thành Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
Đến năm 1857, vua Tự Đức vẫn duy trì chính sách cấm đạo nghiệt ngã; tư bản phương Tây mượn cớ đó bèn đẩy mạnh việc vũ trang xâm lược nước ta. Giữa năm 1858, chiến hạm Pháp và chiến hạm Tây Ban Nha đến hội quân tại Hải Nam để chuẩn bị xâm lược Việt Nam. Có tới 13 chiếc thuyền của liên quân Pháp – Tây Ban Nha trang bị vũ khí hiện đại, trong đó có tàu chở tới 50 đại bác dàn trận ở cửa biển Đà Nẵng.
Mờ sáng ngày 1-9-1858, quân Pháp ngang ngược gởi tối hậu thư đòi triều đình phải trả lời. Sau đó, chúng ngang nhiên nã đại bác vào, bắn phá hệ thống đồn lũy của quân đội nhà Nguyễn, vây đánh hai thành An Hải và Điện Hải, chiếm bán đảo Sơn Trà, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta.
Mặc cho thái độ do dự của nhà Nguyễn, nhân dân ta ngay từ đầu đã anh dũng chống trả quyết liệt các cuộc tấn công của quân xâm lược để bảo vệ tổ quốc.
17-2-1859 :Quân Pháp đánh chiếm tỉnh thành Gia Định (Sài Gòn).
Sau khi chiếm bán đảo Sơn Trà, thực dân Pháp mở cuộc tấn công quy mô vào đánh chiếm thành Sài Gòn để thiết lập căn cứ quân sự. Trên đường tiến quân vào Sài Gòn theo đường biển, liên quân Pháp – Tây Ban Nha liên tục nã đạn đại bác từ ngoài khơi vào các pháo đài của quân triều đình ở các vùng ven biển, nhất là ở Vũng Tàu. Các đồn, bảo, các pháo đài bảo vệ thành Sài Gòn từ xa, liên tiếp thất thủ: pháo đài Phúc Thắng, bảo Lương Thiện (Biên Hòa), đồn Phúc Vĩnh, đồn Danh Nghĩa (Gia Định). Cửa biển Cần Giờ do Đề đốc Gia Định là Trần Trí chia quân đóng giữ, cũng lọt vào tây giặc. Quân giặc theo đường sông tiến áp sát tỉnh thành và đổ bộ công phá thành. Thành vỡ. Án sát Lê Tứ tự vẫn theo thành; Hộ đốc Vũ Duy Ninh rút khỏi thành, đến thôn Phúc Lý, huyện Phúc Lộc, cũng thắc cổ tự vẫn; Đề đốc Trần Trí, bố chánh Vũ Thực và lãnh binh Tôn Thất Năng đem tàn quân rút về bảo Tây Thái huyện Bình Long.
Chỉ sau một thời gian ngắn, quân Pháp đã kéo vào chiếm đóng Sài Gòn, tỉnh thành của Gia Định lúc bấy giờ.
6-1859 :Triều đình tổ chức hội nghị các triều thần để đưa ra phương lược chống giặc Pháp.
Triều đình tổ chức Hội nghị các triều thần bàn về phương lược chống giặc Pháp.
Có 5 loại ý kiến như sau:
1- Lấy thế thủ làm chính, vì: có giữ vững thì sau mới có thể bàn đến chuyện hòa hay chiến được.
2- Lấy kế chống giữ lâu dài làm chính, vì: thuyền tàu, súng đạn là cái sở trường của giặc; giặc muốn đánh mau thắng mau; ta không nên chống lại cái sở trường của chúng, mà phải kiên trì chống và giữ để đợi khi chúng mệt mỏi, cần giảng hòa, lúc đó ta sẽ tùy cơ ứng phó.
3- Quyết tâm giữ đất, tấn công giặc, quyết không nghị hòa với giặc. Cụ thể là: ở Quảng Nam, địch đã tiến sâu vào nội địa bằng đường sông, ta phải dụ chúng lên bộ để tiêu diệt chúng; ở Gia Định: ta nên hợp quân các tỉnh lại để nhất loạt tiến công, đốt phá, tiêu diệt địch.
4- Hòa có mức độ: nếu giặc chỉ yêu cầu tự do truyền đạo và thông thương buôn bán thì nên hòa; nếu đó chỉ là những yêu sách giaû dối thì phải cố sức giữ.
5- Nên hòa ngay.
1-1860 Pháp cử phái viên đến quân thứ Gia Định đưa ra bản dự thảo Hòa ước gồm 11 điều khoản.
Đầu năm 1860, Pagiơ (Page), tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp-Tây Ban Nha tại Việt Nam cử phái viên đến quân thứ Gia Định đưa bản dự thảo Hòa ước gồm 11 điều khoản có nội dung như sau:
1- Hai bên chấm dứt mọi xung đột, ký kết hòa hiếu với nhau.
2- Sứ thần của Pháp được sử dụng đường bộ để đi từ Đà Nẵng vào kinh đô Huế.
3- Nước Nam đặt quan hệ ngoại giao với nước nào, thì nước Pháp cũng coi đó là bạn.
4- Triều đình Huế phải khoan tha, không được trả thù những người cộng tác với Pháp.
5- Pháp sẽ rút quân, ngay khi hòa ước này được hai bên ký kết.
6- Triều đình Huế không được bắt giữ, xét hỏi và xâm phạm đến tài sản của những người theo đạo Gia Tô một cách vô cớ; trường hợp giáo dân làm bậy thì chiếu luật trị tội.
7- Đối với giáo dân người Pháp phạm tội, triều đình phải giao cho nước Pháp xử lý, chứ không được đem giết hoặc đóng gông, khóa, trói.
8- Không được ngăn cản hoặc yêu sách ngoại lệ đối với thương thuyền của nước Pháp đến các cửa biển thông thương buôn bán.
9- Triều đình Huế cấp cho Tây Ban Nha một bản hòa ước.
10- Cho giáo sĩ Pháp được tự do đến những xã có dân theo đạo để giảng đạo.
11- Cho người Pháp đến bờ biển lập phố thông thương buôn bán.
Chỉ huy quân thứ Gia Định bác bỏ hẳn 3 điều cuối, còn 8 điều trên tạm thời chấp thuận lập biên bản giao cho phái viên Pháp mang về. Thấy vậy, Pagiơ ra lệnh tấn công, nhổ cừ, tràn vào sông và đổ bộ đánh chiếm khu vực Mai Sơn.
8-1860 :Triều đình cử Nguyễn Tri Phương vào Nam chỉ huy quân thứ Gia Định, tổ chức đánh Pháp
Triều đình cử Nguyễn tri Phương giữ chức Tổng thống quân vụ vào Nam chỉ huy quân thứ Gia Định, tổ chức việc đánh Pháp.Trước triều đình, Nguyễn Tri Phương đã vạch rõ âm mứu của giặc và đề xuất biện pháp chống địch.
Về phía địch, Nguyễn Tri Phương nhận định: Nam Kỳ là nơi thóc gạo, sản vật nhiều, tàu bè buôn bán rất có lợi, giặc Pháp biết đã lâu và cũng đã có ý đồ đánh chiếm đã lâu; hiện nay tỉnh thành Gia Định đã lọt vào tay chúng; chúng đã đặt đồn, đắp lũy, đặt phố xá, chiêu tập thuyền buôn người Thanh, người Kinh đánh thuế kiếm lời; chúng câu kết với bọn côn đồ Trung Quốc, bọn Hán gian để thêm vây cách; chúng thiết lập quan chức, tập hợp xã thôn, công khai tổ chức chiếm đóng lâu dài… Bởi vậy, âm mưu cướp Nam Kỳ của chúng đã rõ ràng. “Như thế không còn nói đến hòa nghị được nữa. Ta chỉ nên chuyên một mặt đánh và giữ”.
Về biện pháp chống giặc, Nguyễn Tri Phương đề nghị: quân số phải huy động từ 15.000 đến 20.000; không nên tụ quân ở một nơi, mà chia quân thành ba đạo: một đạo chính đóng tại đồn Phú Thọ, chỗ quân thứ Gia Định hiện đóng; một đạo đóng ở phủ hạt Tân An; một đạo đóng ở tỉnh hạt Biên Hòa. Phải phòng thủ các đường sông, ngòi lớn nhỏ. Phải vừa đánh và giữ, dần dần đắp thêm đồn lũy tiến sát đến chổ địch đóng quân. Phải trang bị từ 20 đến 30 cổ súng loại lớn, đường kính nòng từ 2 tấc 9 phân trở lên.
9-1861 :Khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực.
Nguyễn Trung Trực tên thật là Nguyễn Văn Lịch, làm nghề chài lưới. Năm 1861, phối hợp với Trương Định, ông đã chỉ huy đánh thắng một trận rất lớn trên sông Nhật Tảo (Bến Lức), đốt cháy tàu Étpêrăng (Espérance) (Hy Vọng) của giặc Pháp, giết chết nhiều địch và làm chết đuối nhiều tên khác, khiến Bôna vô cùng hỏang sợ.
Từ năm 1867, Nguyễn Trung Trực về Hà Tiên lập căn cứ riêng ở Hòn Chông. Chiến thắng oanh liệt tiếp theo của ông là trận tập kích vào Rạch Giá năm 1868, giết tên Tỉnh trưởng và hầu hết quân Pháp trong trại. Đây là một trong những trận đánh làm rung chuyển Soái phủ Nam Kỳ. Cũng năm 1868, Nguyễn Trung Trực bị quân Pháp vây bắt tại Phú Quốc. Ông nhận án tử hình ở Rạch Giá tháng 10-1868. Trước khi hy sinh, ông đã để lại một lời nói bất hủ nổi tiếng: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”
9-1861 :Khởi nghĩa của Trương Định chống Pháp ở Gia Định
Từ năm 1861 đến 1862, ở Nam Kỳ đã nổi lên các trung tâm kháng chiến sau: Đỗ Trình Thoại, Trương Định ở Gò Công, Trần Xuân Hòa ở Mỹ Tho, Nguyễn Trung Trực ở Tân An, Thiên hộ Dương ở Đồng Tháp Mười, Quản Là ở Tây Ninh…
Trong giai đọan này, cuộc khởi nghĩa của Trương Định là tiêu biểu nhất. Người anh hùng này với trí dũng song toàn, từ đất Gò Công đã thu hút được nhiều anh tài như Đỗ Quang, Đỗ Trình Thoại, Âu Dương Lân, Nguyễn Thông… nghĩa quân của Trương Định ngày càng đông và uy thế lan rộng khắp các vùng từ Tân An, Mỹ Tho, Gò Công xuống Đồng Tháp Mười…Suốt những năm từ 1861 đến cuối 1864, nghĩa quân ông chiến đấu anh dũng và giành được nhiều thắng lợi. Tuy nhiên, do kẻ thù với vũ khí hiện đại, cuộc khởi nghĩa của Trương Định cũng nhanh chóng bị dập tắt. Ông hy sinh ở tuổi 44, Trương Định đã là cho Pháp khiếp sợ với nhiều chiến thắng ở Gò Công, Rạch Giá, Quý Sơn, Tân An…Trương Định còn nổi tiếng với khẩu hiệu “Phan – Lâm mãi quốc, triều đình khí dân”- nghĩa là (họ Phan, Lâm bán nước, Triều đình bỏ rơi dân chúng) thiêu trên lá cờ “Bình Tây đại nguyên soái”.
5-6-1862 :Triều đình Huế ký Hiệp ước Nhâm Tuất với Pháp.
Sau khi đánh chiếm song 3 trỉnh miền Đông Nam Kỳ (đầu năm 1862), tướng Pháp là Bôna đã nhân cơ hội lúc Tự Đức còn đang lưỡng lự hoặc muốn “nghị hòa”, cùng với các đại diện của triều đình Huế là Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ký hiệp ước Nhâm Tuất ngày 5-6-1862.
Bảng Hiệp ước có 12 khoản, trong đó có những điểm chính sau: Triều đình thừa nhận việc cai quản 3 tỉnh miền Đông thuộc nước Pháp; Bồi thường cho Pháp 20 vạn quan chiến phí (tương đương 280 vạn lạng bạc); Mở ba cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt và Quảng Yên cho người Pháp thông thương; Cho phép người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia Tô, bãi bỏ lệnh cấm đạo trước đây; Phía Pháp sẽ trả lại tỉnh Vĩnh Long cho triều đình khi nào triều đình buộc dân chúng thôi chống Pháp…
Đến tháng 3-1863 Hiệp ước này mới được Napôlêông III phê chuẩn. Tháng 4-1863, Bôna và Guttierê mang Hiệp ước ra Huế để Tự Đức ký. Thực sự, đây là bước đầu của sự đầu hàng của triều đình Tự Đức.
6-1863 :Triều đình Huế cử phái đòan sang Pháp thương lượng chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ
Triều đình Huế cử phái đoàn sang Pháp với nhiệm vụ thương lượng chuộc lại bằng tiền ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường); đồng ý nhường hẳn cho Pháp chiếm đóng tại địa hạt thuộc tỉnh thành cuõ Gia Định (tức Sài Gòn), vùng phụ cận ngoại thành Định Tường, vùng Thủ Dầu Một thuộc tỉnh Biên Hòa, và đảo Côn Lôn.
Phái đoàn gồm: Hiệp biện đại học sĩ Phan Thanh Giản làm chánh sứ; Tả tham tri Bộ Lại Phạm Phú Thứ làm phó sứ; Án sát tỉnh Quảng Nam Ngụy Khắc Đản làm bồi sứ. Phái đoàn khởi hành ngày 21-6-1863, đến thủ đô Pari ngày 13-9-1863.
Đến năm 1857, vua Tự Đức vẫn duy trì chính sách cấm đạo nghiệt ngã; tư bản phương Tây mượn cớ đó bèn đẩy mạnh việc vũ trang xâm lược nước ta. Giữa năm 1858, chiến hạm Pháp và chiến hạm Tây Ban Nha đến hội quân tại Hải Nam để chuẩn bị xâm lược Việt Nam. Có tới 13 chiếc thuyền của liên quân Pháp – Tây Ban Nha trang bị vũ khí hiện đại, trong đó có tàu chở tới 50 đại bác dàn trận ở cửa biển Đà Nẵng.
Mờ sáng ngày 1-9-1858, quân Pháp ngang ngược gởi tối hậu thư đòi triều đình phải trả lời. Sau đó, chúng ngang nhiên nã đại bác vào, bắn phá hệ thống đồn lũy của quân đội nhà Nguyễn, vây đánh hai thành An Hải và Điện Hải, chiếm bán đảo Sơn Trà, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta.
Mặc cho thái độ do dự của nhà Nguyễn, nhân dân ta ngay từ đầu đã anh dũng chống trả quyết liệt các cuộc tấn công của quân xâm lược để bảo vệ tổ quốc.
17-2-1859 :Quân Pháp đánh chiếm tỉnh thành Gia Định (Sài Gòn).
Sau khi chiếm bán đảo Sơn Trà, thực dân Pháp mở cuộc tấn công quy mô vào đánh chiếm thành Sài Gòn để thiết lập căn cứ quân sự. Trên đường tiến quân vào Sài Gòn theo đường biển, liên quân Pháp – Tây Ban Nha liên tục nã đạn đại bác từ ngoài khơi vào các pháo đài của quân triều đình ở các vùng ven biển, nhất là ở Vũng Tàu. Các đồn, bảo, các pháo đài bảo vệ thành Sài Gòn từ xa, liên tiếp thất thủ: pháo đài Phúc Thắng, bảo Lương Thiện (Biên Hòa), đồn Phúc Vĩnh, đồn Danh Nghĩa (Gia Định). Cửa biển Cần Giờ do Đề đốc Gia Định là Trần Trí chia quân đóng giữ, cũng lọt vào tây giặc. Quân giặc theo đường sông tiến áp sát tỉnh thành và đổ bộ công phá thành. Thành vỡ. Án sát Lê Tứ tự vẫn theo thành; Hộ đốc Vũ Duy Ninh rút khỏi thành, đến thôn Phúc Lý, huyện Phúc Lộc, cũng thắc cổ tự vẫn; Đề đốc Trần Trí, bố chánh Vũ Thực và lãnh binh Tôn Thất Năng đem tàn quân rút về bảo Tây Thái huyện Bình Long.
Chỉ sau một thời gian ngắn, quân Pháp đã kéo vào chiếm đóng Sài Gòn, tỉnh thành của Gia Định lúc bấy giờ.
6-1859 :Triều đình tổ chức hội nghị các triều thần để đưa ra phương lược chống giặc Pháp.
Triều đình tổ chức Hội nghị các triều thần bàn về phương lược chống giặc Pháp.
Có 5 loại ý kiến như sau:
1- Lấy thế thủ làm chính, vì: có giữ vững thì sau mới có thể bàn đến chuyện hòa hay chiến được.
2- Lấy kế chống giữ lâu dài làm chính, vì: thuyền tàu, súng đạn là cái sở trường của giặc; giặc muốn đánh mau thắng mau; ta không nên chống lại cái sở trường của chúng, mà phải kiên trì chống và giữ để đợi khi chúng mệt mỏi, cần giảng hòa, lúc đó ta sẽ tùy cơ ứng phó.
3- Quyết tâm giữ đất, tấn công giặc, quyết không nghị hòa với giặc. Cụ thể là: ở Quảng Nam, địch đã tiến sâu vào nội địa bằng đường sông, ta phải dụ chúng lên bộ để tiêu diệt chúng; ở Gia Định: ta nên hợp quân các tỉnh lại để nhất loạt tiến công, đốt phá, tiêu diệt địch.
4- Hòa có mức độ: nếu giặc chỉ yêu cầu tự do truyền đạo và thông thương buôn bán thì nên hòa; nếu đó chỉ là những yêu sách giaû dối thì phải cố sức giữ.
5- Nên hòa ngay.
1-1860 Pháp cử phái viên đến quân thứ Gia Định đưa ra bản dự thảo Hòa ước gồm 11 điều khoản.
Đầu năm 1860, Pagiơ (Page), tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp-Tây Ban Nha tại Việt Nam cử phái viên đến quân thứ Gia Định đưa bản dự thảo Hòa ước gồm 11 điều khoản có nội dung như sau:
1- Hai bên chấm dứt mọi xung đột, ký kết hòa hiếu với nhau.
2- Sứ thần của Pháp được sử dụng đường bộ để đi từ Đà Nẵng vào kinh đô Huế.
3- Nước Nam đặt quan hệ ngoại giao với nước nào, thì nước Pháp cũng coi đó là bạn.
4- Triều đình Huế phải khoan tha, không được trả thù những người cộng tác với Pháp.
5- Pháp sẽ rút quân, ngay khi hòa ước này được hai bên ký kết.
6- Triều đình Huế không được bắt giữ, xét hỏi và xâm phạm đến tài sản của những người theo đạo Gia Tô một cách vô cớ; trường hợp giáo dân làm bậy thì chiếu luật trị tội.
7- Đối với giáo dân người Pháp phạm tội, triều đình phải giao cho nước Pháp xử lý, chứ không được đem giết hoặc đóng gông, khóa, trói.
8- Không được ngăn cản hoặc yêu sách ngoại lệ đối với thương thuyền của nước Pháp đến các cửa biển thông thương buôn bán.
9- Triều đình Huế cấp cho Tây Ban Nha một bản hòa ước.
10- Cho giáo sĩ Pháp được tự do đến những xã có dân theo đạo để giảng đạo.
11- Cho người Pháp đến bờ biển lập phố thông thương buôn bán.
Chỉ huy quân thứ Gia Định bác bỏ hẳn 3 điều cuối, còn 8 điều trên tạm thời chấp thuận lập biên bản giao cho phái viên Pháp mang về. Thấy vậy, Pagiơ ra lệnh tấn công, nhổ cừ, tràn vào sông và đổ bộ đánh chiếm khu vực Mai Sơn.
8-1860 :Triều đình cử Nguyễn Tri Phương vào Nam chỉ huy quân thứ Gia Định, tổ chức đánh Pháp
Triều đình cử Nguyễn tri Phương giữ chức Tổng thống quân vụ vào Nam chỉ huy quân thứ Gia Định, tổ chức việc đánh Pháp.Trước triều đình, Nguyễn Tri Phương đã vạch rõ âm mứu của giặc và đề xuất biện pháp chống địch.
Về phía địch, Nguyễn Tri Phương nhận định: Nam Kỳ là nơi thóc gạo, sản vật nhiều, tàu bè buôn bán rất có lợi, giặc Pháp biết đã lâu và cũng đã có ý đồ đánh chiếm đã lâu; hiện nay tỉnh thành Gia Định đã lọt vào tay chúng; chúng đã đặt đồn, đắp lũy, đặt phố xá, chiêu tập thuyền buôn người Thanh, người Kinh đánh thuế kiếm lời; chúng câu kết với bọn côn đồ Trung Quốc, bọn Hán gian để thêm vây cách; chúng thiết lập quan chức, tập hợp xã thôn, công khai tổ chức chiếm đóng lâu dài… Bởi vậy, âm mưu cướp Nam Kỳ của chúng đã rõ ràng. “Như thế không còn nói đến hòa nghị được nữa. Ta chỉ nên chuyên một mặt đánh và giữ”.
Về biện pháp chống giặc, Nguyễn Tri Phương đề nghị: quân số phải huy động từ 15.000 đến 20.000; không nên tụ quân ở một nơi, mà chia quân thành ba đạo: một đạo chính đóng tại đồn Phú Thọ, chỗ quân thứ Gia Định hiện đóng; một đạo đóng ở phủ hạt Tân An; một đạo đóng ở tỉnh hạt Biên Hòa. Phải phòng thủ các đường sông, ngòi lớn nhỏ. Phải vừa đánh và giữ, dần dần đắp thêm đồn lũy tiến sát đến chổ địch đóng quân. Phải trang bị từ 20 đến 30 cổ súng loại lớn, đường kính nòng từ 2 tấc 9 phân trở lên.
9-1861 :Khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực.
Nguyễn Trung Trực tên thật là Nguyễn Văn Lịch, làm nghề chài lưới. Năm 1861, phối hợp với Trương Định, ông đã chỉ huy đánh thắng một trận rất lớn trên sông Nhật Tảo (Bến Lức), đốt cháy tàu Étpêrăng (Espérance) (Hy Vọng) của giặc Pháp, giết chết nhiều địch và làm chết đuối nhiều tên khác, khiến Bôna vô cùng hỏang sợ.
Từ năm 1867, Nguyễn Trung Trực về Hà Tiên lập căn cứ riêng ở Hòn Chông. Chiến thắng oanh liệt tiếp theo của ông là trận tập kích vào Rạch Giá năm 1868, giết tên Tỉnh trưởng và hầu hết quân Pháp trong trại. Đây là một trong những trận đánh làm rung chuyển Soái phủ Nam Kỳ. Cũng năm 1868, Nguyễn Trung Trực bị quân Pháp vây bắt tại Phú Quốc. Ông nhận án tử hình ở Rạch Giá tháng 10-1868. Trước khi hy sinh, ông đã để lại một lời nói bất hủ nổi tiếng: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”
9-1861 :Khởi nghĩa của Trương Định chống Pháp ở Gia Định
Từ năm 1861 đến 1862, ở Nam Kỳ đã nổi lên các trung tâm kháng chiến sau: Đỗ Trình Thoại, Trương Định ở Gò Công, Trần Xuân Hòa ở Mỹ Tho, Nguyễn Trung Trực ở Tân An, Thiên hộ Dương ở Đồng Tháp Mười, Quản Là ở Tây Ninh…
Trong giai đọan này, cuộc khởi nghĩa của Trương Định là tiêu biểu nhất. Người anh hùng này với trí dũng song toàn, từ đất Gò Công đã thu hút được nhiều anh tài như Đỗ Quang, Đỗ Trình Thoại, Âu Dương Lân, Nguyễn Thông… nghĩa quân của Trương Định ngày càng đông và uy thế lan rộng khắp các vùng từ Tân An, Mỹ Tho, Gò Công xuống Đồng Tháp Mười…Suốt những năm từ 1861 đến cuối 1864, nghĩa quân ông chiến đấu anh dũng và giành được nhiều thắng lợi. Tuy nhiên, do kẻ thù với vũ khí hiện đại, cuộc khởi nghĩa của Trương Định cũng nhanh chóng bị dập tắt. Ông hy sinh ở tuổi 44, Trương Định đã là cho Pháp khiếp sợ với nhiều chiến thắng ở Gò Công, Rạch Giá, Quý Sơn, Tân An…Trương Định còn nổi tiếng với khẩu hiệu “Phan – Lâm mãi quốc, triều đình khí dân”- nghĩa là (họ Phan, Lâm bán nước, Triều đình bỏ rơi dân chúng) thiêu trên lá cờ “Bình Tây đại nguyên soái”.
5-6-1862 :Triều đình Huế ký Hiệp ước Nhâm Tuất với Pháp.
Sau khi đánh chiếm song 3 trỉnh miền Đông Nam Kỳ (đầu năm 1862), tướng Pháp là Bôna đã nhân cơ hội lúc Tự Đức còn đang lưỡng lự hoặc muốn “nghị hòa”, cùng với các đại diện của triều đình Huế là Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ký hiệp ước Nhâm Tuất ngày 5-6-1862.
Bảng Hiệp ước có 12 khoản, trong đó có những điểm chính sau: Triều đình thừa nhận việc cai quản 3 tỉnh miền Đông thuộc nước Pháp; Bồi thường cho Pháp 20 vạn quan chiến phí (tương đương 280 vạn lạng bạc); Mở ba cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt và Quảng Yên cho người Pháp thông thương; Cho phép người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia Tô, bãi bỏ lệnh cấm đạo trước đây; Phía Pháp sẽ trả lại tỉnh Vĩnh Long cho triều đình khi nào triều đình buộc dân chúng thôi chống Pháp…
Đến tháng 3-1863 Hiệp ước này mới được Napôlêông III phê chuẩn. Tháng 4-1863, Bôna và Guttierê mang Hiệp ước ra Huế để Tự Đức ký. Thực sự, đây là bước đầu của sự đầu hàng của triều đình Tự Đức.
6-1863 :Triều đình Huế cử phái đòan sang Pháp thương lượng chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ
Triều đình Huế cử phái đoàn sang Pháp với nhiệm vụ thương lượng chuộc lại bằng tiền ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường); đồng ý nhường hẳn cho Pháp chiếm đóng tại địa hạt thuộc tỉnh thành cuõ Gia Định (tức Sài Gòn), vùng phụ cận ngoại thành Định Tường, vùng Thủ Dầu Một thuộc tỉnh Biên Hòa, và đảo Côn Lôn.
Phái đoàn gồm: Hiệp biện đại học sĩ Phan Thanh Giản làm chánh sứ; Tả tham tri Bộ Lại Phạm Phú Thứ làm phó sứ; Án sát tỉnh Quảng Nam Ngụy Khắc Đản làm bồi sứ. Phái đoàn khởi hành ngày 21-6-1863, đến thủ đô Pari ngày 13-9-1863.