Nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp kinh điển là NMCT có đoạn ST chênh lên là nội dung chương này. Ngoài ra có NMCT không có ST chênh lên thường trình bày chung với ĐTNKOĐ. Bộ ba trên đây cộng thêm đột tử do MV là 4 thể của HCVC (hội chứng vành cấp).
I. GIẢI PHẪU BỆNH LÝ
(1) Tuyệt đại đa số (90%) NMCT là do "huyết khối mới sinh" bít hoàn toàn (bít tịt) ỏ nhánh ĐMV liên quan. Đó là nói về các NMCT xuyên thành. Chụp ĐMV thấy điều này xảy ra trong vòng 4 - 6 giò tính từ khi bắt đầu cơn đau (còn đám hoại tử khởi đầu từ sát nội tâm mạc (chưa xuyên thành), thì bắt đầu hình thành từ 1 giờ đầu). Sự bít tịt ĐMV này chủ yếu do “huyết khối mới sinh” ở ngay tại chỗ đó, thường kết hợp vối xuất huyết bên dưới mảng XV, đội nó lên và chảy máu vào trong mảng xơ vữa. Ngày nay đã xác định quá trình hình thành huyết khối mới sinh ấy thường khởi đầu từ sự rạn, nứt, vỡ, rách, gãy, đứt rời... của một vỏ mảng xơ vữa bị “viêm tại chỗ” thường ỏ bò rìa mảng XV, nhất là các mảng XV không chiếm hết chu vi tiết diện lòng mạch mà chỉ như vành trăng khuyết và nhất là mảng XV lõi lớn, vỏ mỏng. Huyết khối ấy có thể chỉ toàn là tiểu cầu bu kín lấy vỏ gãy hoặc bu kín lõi lipid vừa mới phòi ra; dần dần tiểu cầu gắn thêm bạch hồng cầu và được tơ huyết quấn chặt thành "huyết khối hỗn hợp" hoàn chỉnh. Các huyết khối mối sinh ấy trôi xuôi dòng máu chỉ cần một khúc rất ngắn là gặp lòng mạch hẹp hơn và bít tịt ĐMV đó.
(2) Nếu muộn hơn 4 - 6 giờ mà không bít hoàn toàn thì thường do đã đủ thời gian tạo nhũng kênh xuyên huyết khổì ĐMV hoặc do đã châm dứt sự co thắt ĐMV vừa mối phát sinh ỏ ngay khúc ĐMV bị xơ vữa và bị huyết khôi đó.
(3) Chỉ một tỷ lệ rất nhỏ NMCT là ĐMV bình thường: không có cục máu đông, ĐMV cũng không có mảng xơ vữa. Han là ở đây cơ chế chính của NMCT là một thuyên tắc từ xa tới lấp mạch hoặc cơ chê co mạch.
(4) Vùng cơ tim liên quan:
- Theo thòi gian, biến đổi thực thể ở vùng cơ tim tương ứng với ĐMV có vấn đê là:
+ Đại thể:
10 - 15 giò đầu: như bình thường.
15 - 24 giờ: cơ tim nhạt màu và nề.
. Sau 3 - 4 ngày: co' tim có xuất huyết.
. 1-2 tháng: cơ tim co lại, có sắc tố.
. Sau 2 - 3 tháng: sẹo trắng ngà.
+ Vi thể: mới không bỏ sót và lầm lẫn
• Ngay vài phút đầu: các sợi cơ tim đã "lượn sóng".
• Mười giò sau: xuất hiện các bạch cầu đa nhân rồi các đại thực bào.
. Trong tuần đầu: tế bào sợi non fibroblast bắt đầu tăng sinh.
• Tuần thứ hai: xuất hiện các sợi tạo keo.
- Ba vùng động học của ổ NMCT: ba vùng đồng tâm bọc lấy nhau. Tính từ ngoài vào là: thiếu máu cục bộ, tổn thương, hoại tử. Ranh giới giữa chúng luôn tiến triển một cách động học, tranh chấp. Khi không còn "vùng tổn thương" là đã sang giai đoạn NMCT bán cấp (trong giai đoạn cấp vẫn còn vùng tổn thương này cứ không ngừng sinh ra từ vùng TMCB, rồi gần như biến ngay đi, hoặc là trở thành hoại tử, hoặc là hồi phục thành TMCB). Khi chỉ còn vùng hoại tử và đã xơ hoá, lên sẹo là giai đoạn NMCT mạn, cũ, đã lành.
- Độ lan rộng NMCT:
+ NMCT xuyên thành.
+ NMCT dưối (sát) nội tâm mạc.
+ Rải rác nhiều ổ nhỏ.
II. ĐỂ TẠI NHÀ HAY CHUYEN t ớ i b ệ n h v iệ n ?
Ngành tim mạch đã khẳng định thành công cứu mạng vô số NMCT nhờ các "đơn vị chăm sóc mạch vành" tại bệnh viện cùng với xe hoặc trực thăng chuyên chở cấp cứu bn NMCT của các đơn vị đó. Các xe này được tranh bị đủ nên tương tự những "đơn vị mạch vành lưu động". Vậy không còn phải bàn cãi, phương thức chữa NMCT tại bệnh viện kiểu như trên dứt khoát là hơn hẳn để tại nhà. Các ưu th ế của "đơn vị MV" tại bệnh viện và lưu động:
+ Giảm tử vong: trước kia tử vong là 30-40% (chủ yếu trong 2 giò đầu, thường khi chưa vào viện và do rung thất), nay xuống còn 20% và thập kỷ đầu thê kỷ XXI còn 6-10%.
+ Chặn đứng rung thất, chữa được các rối loạn nhịp tim và dùng ngay được thuốc tiêu sợi huyết (trước 2-6 giờ) hoặc kịp đưa nong MV (trước 12 giờ), do đó giảm được sự lan rộng NMCT.
+ Hồi sức ngay biến chứng suy tim, nếu đã xảy ra.
- Vấn đê tồn tại: chỉ là chưa phổ biến được sâu sắc và thuyết phục, giáo dục sức khoẻ cho nhân dân để khi bị NMCT, bệnh nhân và thân nhân đánh giá được triệu chứng đó và không chút trì hoãn trong quyết định gọi cấp cứu đưa đi bệnh viện ngay tức khắc.
- Nhưng vai trò của chăm sóc NMCT tại nhà gần đây lại được đánh giá cao (Matheral). Người ta đề nghị có thể giữ chăm sóc NMCT tại nhà khi:
+ Tính từ lúc khỏi đầu triệu chứng: đã vượt quá 6 giờ.
+ Bệnh nhân hết đau, huyết áp bình thường, chân tay ấm.
+ Không có dấu của suy thất (T).
+ Nhịp tim ổn định.
+ Không có tiền sử tiểu đường.
+ Nhà ở không xa đơn vị y tế (chăm sóc MV) và khi cần thiết có thể chuyên chở tới đó thuận tiện.
III. ĐIỂU TRỊ TỨC THÌ
Điều trị tức khắc khi còn tại nhà, đang trên "đơn vị MV lưu động" hoặc ngay lúc vào bệnh viện
Giảm đau:
+ Morphin vẫn là thuốc hàng đầu.
Dùng 3 - 5mg (tức 1/3 - 1/2 ống) tiêm tm (nếu đau dữ, tăng thêm 2,5mg). Nếu cần lặp lại liều trên mỗi 5 phút.
+ Tất nhiên nếu tần số hô hấp không bị ức chế xuống mức quá thấp (<10 nhịp/phút và nếu HA không xuống dưối 8cmHg).
+ Tác dụng tốt khác của morphin: làm giãn tĩnh mạch, giảm gánh nặng tiểu tuần hoàn khi doạ phù phổi cấp (PPC), giúp an thần.
Giải độc morphin (nếu xảy ra) bằng naloxon (bd. Narcan) và biện pháp khác (xem mục 3.1 tr. 148-149).
Nếu morphin chỉ tạo buồn nôn hoặc nôn thì chỉ giải bằng: Cyclizin (biệt dược: Migwel, Marzin) õOmg tiêm bắp hoặc uống. Hoặc metoclopramid (biệt dược: Primperan, Anausin, Prokinyl, Reglan) lOmg tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp (hoặc uống lOmg): vừa chống nôn, vừa giúp mau lẹ chuyển thức ăn đi cho trông nhẹ dạ dày và tăng trương lực tâm vị (bộ nối thực quản - dạ dày).
Thở oxy: 3 - 5 lít/phút (xem mục 4 tr.150). Chỉ dùng atropin nếu xảy hội chứng phế vị với nhịp chậm (xoang hoặc bộ nối), buồn nôn, nôn ... với liều 0,5mg tĩnh
mạch, có thể lặp lại tới 5 lần.
- Không phòng ngừa đểu loạt loạn nhịp tim mọi bn mà chỉ ỏ những bn xảy nhịp nhanh th ất hoặc NTT thất đe dọa tính mạng (đa ổ, hoặc chuỗi hoặc dày (quá 10 NTT/phút), hoặc có R/T (R của NTT rơi sát đỉnh T)). Dùng lidocain lm g/lkg cân nặng; thận trọng nếu tụ t HA, tần sô" tim chậm!
- Chỉ dùng íurosemid (Troíurid, Lasix, Lasilix) 40 - 80mg tiêm tĩnh mạch: nếu xảy dọa PPC hoặc PPC (nhò tác dụng giãn tm trước, còn tác dụng lợi tiểu là rnuộn về sau). Nên nhớ NMCT mặt sau dưới mà kèm thêm NMCT th ất (P) (trừ phi PPC) thì cấm dùng íurosemid, lúc này tĩnh mạch cổ nổi và đập rõ lại là một chỉ điểm cho chống chỉ định này chứ không theo quán tính cũ là cứ hễ tm cô nổi và áp lực tm trung tâm tăng là tiêm lợi tiểu. Nhưng việc cơ bản nhất của điều trị tức thì là tiến hành tan huyết khôi bằng thuốc tiêu sợi huyết càng sớm càng tốt (trước 2 - 6 giờ kể từ khởi đầu cơn đau của NMCT) nếu xét không có các chông chỉ định tiêu sợi huyết. Tất nhiên là phải xác định được chẩn đoán NMCT rồi mà lúc này chưa dựa được vào tăng chất đánh dấu tim (như troponin T hoặc I) vì quá sốm nó chưa tăng. Ngoài yếu tố đau phải căn cứ đoạn ST của điện tim chênh lên > lmm ỏ đạo trình ngoại vi hoặc > 2mm ở 2 đạo trình liền nhau trưốc tim. Tất cả các chi tiết của biện pháp điều trị quan trọng này: xem kỹ ở chương “Phương pháp làm tan huyết khối”
- Nong mạch vành tiên phát: nếu không được dùng tiêu sợi huyết hoặc đã dùng mà không đạt (xem kỹ bài giảng: phụ lục IV ở cuối sách).
IV. CHẨN ĐOÁN TẠI BỆNH VIỆN
Không tiêu chuẩn nào tuyệt đốì.
- Bộ ba (triade) được dựa nhiều nhất, đó là phức hệ ba nhóm dấu hiệu:
+ Lâm sàng với cơn đau ngực kiểu MV điển hình.
+ Những biến đổi ĐTĐ (nêu riêng ở mục V tr.135) mang tính động học.
+ ' Tăng các "chất đánh dấu tim" (xem mục VI tr.142) mang tính động học.
Thường cứ có hai trong ba tiêu chuẩn đó là chẩn đoán nhiều khả năng dương tính (probable): xem bảng 14.
Chứng cứ chắc chắn: chỉ có nếu chẳng may tử vong với giải phẫu bệnh lý.
Ba nhóm dấu hiệu khác ít đặc biệt hơn, nhưng rất hữu ích trong chẩn đoán:
+ Dấu hiệu khám thực thể: ví dụ tiếng cọ màng ngoài tim, âm thổi TT mỏm tim, tiếng tim mò, nhịp ngựa phi T3 hoặc T4, mỏm tim nẩy nhiều ổ, HA giảm 10 15mmHg so với trước...
+ Sốt vừa và muộn (48 giờ sau khởi đầu đau).
+ Bạch cầu và huyết trầm (tốc độ lắng hồng cầu) tăng.
Điểu này cùng vối sốt: chớ lầm vỏi bội nhiễm phôi mà lạm dụng kháng sinh. Nhưng nếu sốt, tăng bạch cầu và huyết trầm mà rõ rệt thì lại rất có thể là bội nhiễm phổi (làm ngay X quang...), tiết niệu... do bn nằm bất động. Lại còn đường huyết thường tăng vừa do stress là NMCT cấp, chớ bồi thêm một chẩn đoán mối cho bn.
- Tuy đắt tiền và không đặc hiệu nhưng có lúc cần làm, đó là: dùng đồng vị phóng xạ làm nhấp nháy đồ tim (dương tính
kể từ giờ thứ 48).
Bệnh sử - Đau dữ dội điển hình "kiểu MV"
- Hơn 20 phút
- Dùng ntrat không giảm
- Cũng phải như cột 1
- Đau ngực không điển hình
- Cảm giác nghẹt thở hoặc ậm ạch khó tiêu
- Người khó chiu
- Ngất
- Khó thở cấp hoặc suy tim ứ đọng ĐTĐ - Sóng Q mới, ở > 2 đạo trình
- Đoạn ST chênh lên quá 2mm ỏ trước tim, quá 1mm ỏ chuẩn, hơn 24 giờ Hoặc có như cột (1)
- Chỉ sóng T đảo ngược
- Không sóng Q mới "Chất đánh dấu tim" T gấp 2 lần và hơn nữa
- Hoặc tăng rõ rệt như cột (1)
- t chưa quá 2 lần
+ Nếu dùng đồng vị bắt gắn vào cơ tim đang hoặc đã hoại tử, ví dụ dùng đồng vị imido diphosphat technicium 99m, pyrophosphat thiếc thì sẽ ghi được "điểm nóng".
+ Nếu dùng đồng vị bắt gắn vào các tế bào cơ tim bình thường còn sông (bao quanh NMCT), ví dụ dùng đồng vị thalium 201 thì sẽ ghi được "điểm lạnh".
Nguồn: sưu tầm
I. GIẢI PHẪU BỆNH LÝ
(1) Tuyệt đại đa số (90%) NMCT là do "huyết khối mới sinh" bít hoàn toàn (bít tịt) ỏ nhánh ĐMV liên quan. Đó là nói về các NMCT xuyên thành. Chụp ĐMV thấy điều này xảy ra trong vòng 4 - 6 giò tính từ khi bắt đầu cơn đau (còn đám hoại tử khởi đầu từ sát nội tâm mạc (chưa xuyên thành), thì bắt đầu hình thành từ 1 giờ đầu). Sự bít tịt ĐMV này chủ yếu do “huyết khối mới sinh” ở ngay tại chỗ đó, thường kết hợp vối xuất huyết bên dưới mảng XV, đội nó lên và chảy máu vào trong mảng xơ vữa. Ngày nay đã xác định quá trình hình thành huyết khối mới sinh ấy thường khởi đầu từ sự rạn, nứt, vỡ, rách, gãy, đứt rời... của một vỏ mảng xơ vữa bị “viêm tại chỗ” thường ỏ bò rìa mảng XV, nhất là các mảng XV không chiếm hết chu vi tiết diện lòng mạch mà chỉ như vành trăng khuyết và nhất là mảng XV lõi lớn, vỏ mỏng. Huyết khối ấy có thể chỉ toàn là tiểu cầu bu kín lấy vỏ gãy hoặc bu kín lõi lipid vừa mới phòi ra; dần dần tiểu cầu gắn thêm bạch hồng cầu và được tơ huyết quấn chặt thành "huyết khối hỗn hợp" hoàn chỉnh. Các huyết khối mối sinh ấy trôi xuôi dòng máu chỉ cần một khúc rất ngắn là gặp lòng mạch hẹp hơn và bít tịt ĐMV đó.
(2) Nếu muộn hơn 4 - 6 giờ mà không bít hoàn toàn thì thường do đã đủ thời gian tạo nhũng kênh xuyên huyết khổì ĐMV hoặc do đã châm dứt sự co thắt ĐMV vừa mối phát sinh ỏ ngay khúc ĐMV bị xơ vữa và bị huyết khôi đó.
(3) Chỉ một tỷ lệ rất nhỏ NMCT là ĐMV bình thường: không có cục máu đông, ĐMV cũng không có mảng xơ vữa. Han là ở đây cơ chế chính của NMCT là một thuyên tắc từ xa tới lấp mạch hoặc cơ chê co mạch.
(4) Vùng cơ tim liên quan:
- Theo thòi gian, biến đổi thực thể ở vùng cơ tim tương ứng với ĐMV có vấn đê là:
+ Đại thể:
10 - 15 giò đầu: như bình thường.
15 - 24 giờ: cơ tim nhạt màu và nề.
. Sau 3 - 4 ngày: co' tim có xuất huyết.
. 1-2 tháng: cơ tim co lại, có sắc tố.
. Sau 2 - 3 tháng: sẹo trắng ngà.
+ Vi thể: mới không bỏ sót và lầm lẫn
• Ngay vài phút đầu: các sợi cơ tim đã "lượn sóng".
• Mười giò sau: xuất hiện các bạch cầu đa nhân rồi các đại thực bào.
. Trong tuần đầu: tế bào sợi non fibroblast bắt đầu tăng sinh.
• Tuần thứ hai: xuất hiện các sợi tạo keo.
- Ba vùng động học của ổ NMCT: ba vùng đồng tâm bọc lấy nhau. Tính từ ngoài vào là: thiếu máu cục bộ, tổn thương, hoại tử. Ranh giới giữa chúng luôn tiến triển một cách động học, tranh chấp. Khi không còn "vùng tổn thương" là đã sang giai đoạn NMCT bán cấp (trong giai đoạn cấp vẫn còn vùng tổn thương này cứ không ngừng sinh ra từ vùng TMCB, rồi gần như biến ngay đi, hoặc là trở thành hoại tử, hoặc là hồi phục thành TMCB). Khi chỉ còn vùng hoại tử và đã xơ hoá, lên sẹo là giai đoạn NMCT mạn, cũ, đã lành.
- Độ lan rộng NMCT:
+ NMCT xuyên thành.
+ NMCT dưối (sát) nội tâm mạc.
+ Rải rác nhiều ổ nhỏ.
II. ĐỂ TẠI NHÀ HAY CHUYEN t ớ i b ệ n h v iệ n ?
Ngành tim mạch đã khẳng định thành công cứu mạng vô số NMCT nhờ các "đơn vị chăm sóc mạch vành" tại bệnh viện cùng với xe hoặc trực thăng chuyên chở cấp cứu bn NMCT của các đơn vị đó. Các xe này được tranh bị đủ nên tương tự những "đơn vị mạch vành lưu động". Vậy không còn phải bàn cãi, phương thức chữa NMCT tại bệnh viện kiểu như trên dứt khoát là hơn hẳn để tại nhà. Các ưu th ế của "đơn vị MV" tại bệnh viện và lưu động:
+ Giảm tử vong: trước kia tử vong là 30-40% (chủ yếu trong 2 giò đầu, thường khi chưa vào viện và do rung thất), nay xuống còn 20% và thập kỷ đầu thê kỷ XXI còn 6-10%.
+ Chặn đứng rung thất, chữa được các rối loạn nhịp tim và dùng ngay được thuốc tiêu sợi huyết (trước 2-6 giờ) hoặc kịp đưa nong MV (trước 12 giờ), do đó giảm được sự lan rộng NMCT.
+ Hồi sức ngay biến chứng suy tim, nếu đã xảy ra.
- Vấn đê tồn tại: chỉ là chưa phổ biến được sâu sắc và thuyết phục, giáo dục sức khoẻ cho nhân dân để khi bị NMCT, bệnh nhân và thân nhân đánh giá được triệu chứng đó và không chút trì hoãn trong quyết định gọi cấp cứu đưa đi bệnh viện ngay tức khắc.
- Nhưng vai trò của chăm sóc NMCT tại nhà gần đây lại được đánh giá cao (Matheral). Người ta đề nghị có thể giữ chăm sóc NMCT tại nhà khi:
+ Tính từ lúc khỏi đầu triệu chứng: đã vượt quá 6 giờ.
+ Bệnh nhân hết đau, huyết áp bình thường, chân tay ấm.
+ Không có dấu của suy thất (T).
+ Nhịp tim ổn định.
+ Không có tiền sử tiểu đường.
+ Nhà ở không xa đơn vị y tế (chăm sóc MV) và khi cần thiết có thể chuyên chở tới đó thuận tiện.
III. ĐIỂU TRỊ TỨC THÌ
Điều trị tức khắc khi còn tại nhà, đang trên "đơn vị MV lưu động" hoặc ngay lúc vào bệnh viện
Giảm đau:
+ Morphin vẫn là thuốc hàng đầu.
Dùng 3 - 5mg (tức 1/3 - 1/2 ống) tiêm tm (nếu đau dữ, tăng thêm 2,5mg). Nếu cần lặp lại liều trên mỗi 5 phút.
+ Tất nhiên nếu tần số hô hấp không bị ức chế xuống mức quá thấp (<10 nhịp/phút và nếu HA không xuống dưối 8cmHg).
+ Tác dụng tốt khác của morphin: làm giãn tĩnh mạch, giảm gánh nặng tiểu tuần hoàn khi doạ phù phổi cấp (PPC), giúp an thần.
Giải độc morphin (nếu xảy ra) bằng naloxon (bd. Narcan) và biện pháp khác (xem mục 3.1 tr. 148-149).
Nếu morphin chỉ tạo buồn nôn hoặc nôn thì chỉ giải bằng: Cyclizin (biệt dược: Migwel, Marzin) õOmg tiêm bắp hoặc uống. Hoặc metoclopramid (biệt dược: Primperan, Anausin, Prokinyl, Reglan) lOmg tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp (hoặc uống lOmg): vừa chống nôn, vừa giúp mau lẹ chuyển thức ăn đi cho trông nhẹ dạ dày và tăng trương lực tâm vị (bộ nối thực quản - dạ dày).
Thở oxy: 3 - 5 lít/phút (xem mục 4 tr.150). Chỉ dùng atropin nếu xảy hội chứng phế vị với nhịp chậm (xoang hoặc bộ nối), buồn nôn, nôn ... với liều 0,5mg tĩnh
mạch, có thể lặp lại tới 5 lần.
- Không phòng ngừa đểu loạt loạn nhịp tim mọi bn mà chỉ ỏ những bn xảy nhịp nhanh th ất hoặc NTT thất đe dọa tính mạng (đa ổ, hoặc chuỗi hoặc dày (quá 10 NTT/phút), hoặc có R/T (R của NTT rơi sát đỉnh T)). Dùng lidocain lm g/lkg cân nặng; thận trọng nếu tụ t HA, tần sô" tim chậm!
- Chỉ dùng íurosemid (Troíurid, Lasix, Lasilix) 40 - 80mg tiêm tĩnh mạch: nếu xảy dọa PPC hoặc PPC (nhò tác dụng giãn tm trước, còn tác dụng lợi tiểu là rnuộn về sau). Nên nhớ NMCT mặt sau dưới mà kèm thêm NMCT th ất (P) (trừ phi PPC) thì cấm dùng íurosemid, lúc này tĩnh mạch cổ nổi và đập rõ lại là một chỉ điểm cho chống chỉ định này chứ không theo quán tính cũ là cứ hễ tm cô nổi và áp lực tm trung tâm tăng là tiêm lợi tiểu. Nhưng việc cơ bản nhất của điều trị tức thì là tiến hành tan huyết khôi bằng thuốc tiêu sợi huyết càng sớm càng tốt (trước 2 - 6 giờ kể từ khởi đầu cơn đau của NMCT) nếu xét không có các chông chỉ định tiêu sợi huyết. Tất nhiên là phải xác định được chẩn đoán NMCT rồi mà lúc này chưa dựa được vào tăng chất đánh dấu tim (như troponin T hoặc I) vì quá sốm nó chưa tăng. Ngoài yếu tố đau phải căn cứ đoạn ST của điện tim chênh lên > lmm ỏ đạo trình ngoại vi hoặc > 2mm ở 2 đạo trình liền nhau trưốc tim. Tất cả các chi tiết của biện pháp điều trị quan trọng này: xem kỹ ở chương “Phương pháp làm tan huyết khối”
- Nong mạch vành tiên phát: nếu không được dùng tiêu sợi huyết hoặc đã dùng mà không đạt (xem kỹ bài giảng: phụ lục IV ở cuối sách).
IV. CHẨN ĐOÁN TẠI BỆNH VIỆN
Không tiêu chuẩn nào tuyệt đốì.
- Bộ ba (triade) được dựa nhiều nhất, đó là phức hệ ba nhóm dấu hiệu:
+ Lâm sàng với cơn đau ngực kiểu MV điển hình.
+ Những biến đổi ĐTĐ (nêu riêng ở mục V tr.135) mang tính động học.
+ ' Tăng các "chất đánh dấu tim" (xem mục VI tr.142) mang tính động học.
Thường cứ có hai trong ba tiêu chuẩn đó là chẩn đoán nhiều khả năng dương tính (probable): xem bảng 14.
Chứng cứ chắc chắn: chỉ có nếu chẳng may tử vong với giải phẫu bệnh lý.
Ba nhóm dấu hiệu khác ít đặc biệt hơn, nhưng rất hữu ích trong chẩn đoán:
+ Dấu hiệu khám thực thể: ví dụ tiếng cọ màng ngoài tim, âm thổi TT mỏm tim, tiếng tim mò, nhịp ngựa phi T3 hoặc T4, mỏm tim nẩy nhiều ổ, HA giảm 10 15mmHg so với trước...
+ Sốt vừa và muộn (48 giờ sau khởi đầu đau).
+ Bạch cầu và huyết trầm (tốc độ lắng hồng cầu) tăng.
Điểu này cùng vối sốt: chớ lầm vỏi bội nhiễm phôi mà lạm dụng kháng sinh. Nhưng nếu sốt, tăng bạch cầu và huyết trầm mà rõ rệt thì lại rất có thể là bội nhiễm phổi (làm ngay X quang...), tiết niệu... do bn nằm bất động. Lại còn đường huyết thường tăng vừa do stress là NMCT cấp, chớ bồi thêm một chẩn đoán mối cho bn.
- Tuy đắt tiền và không đặc hiệu nhưng có lúc cần làm, đó là: dùng đồng vị phóng xạ làm nhấp nháy đồ tim (dương tính
kể từ giờ thứ 48).
Bệnh sử - Đau dữ dội điển hình "kiểu MV"
- Hơn 20 phút
- Dùng ntrat không giảm
- Cũng phải như cột 1
- Đau ngực không điển hình
- Cảm giác nghẹt thở hoặc ậm ạch khó tiêu
- Người khó chiu
- Ngất
- Khó thở cấp hoặc suy tim ứ đọng ĐTĐ - Sóng Q mới, ở > 2 đạo trình
- Đoạn ST chênh lên quá 2mm ỏ trước tim, quá 1mm ỏ chuẩn, hơn 24 giờ Hoặc có như cột (1)
- Chỉ sóng T đảo ngược
- Không sóng Q mới "Chất đánh dấu tim" T gấp 2 lần và hơn nữa
- Hoặc tăng rõ rệt như cột (1)
- t chưa quá 2 lần
+ Nếu dùng đồng vị bắt gắn vào cơ tim đang hoặc đã hoại tử, ví dụ dùng đồng vị imido diphosphat technicium 99m, pyrophosphat thiếc thì sẽ ghi được "điểm nóng".
+ Nếu dùng đồng vị bắt gắn vào các tế bào cơ tim bình thường còn sông (bao quanh NMCT), ví dụ dùng đồng vị thalium 201 thì sẽ ghi được "điểm lạnh".
Nguồn: sưu tầm