Từ xưa Nho giáo đã có mặt trong lịch sử Việt Nam, đã trở thành một mặt của văn hóa Việt Nam. Nhưng Nho giáo chỉ trở thành hệ ý thức phong kiến Việt Nam khi giai cấp phong kiến Việt Nam đã trưởng thành “cho nó” và chế độ phong kiến Việt Nam được xác lập rõ rệt với đầy đủ những đặc trưng cơ bản của nó. Nho học Việt Nam gắn liền thành một bộ phận hữu cơ của chế độ phong kiến Việt Nam.
I- Vài điều về phương pháp
Trước hết chúng tôi xin nêu lên ở đây một vài điều về phương pháp:
1. Lợi ích nhân dân, dân tộc ngày xưa và lợi ích cho cách mạng ngày nay là thước đo giá trị của mọi tư tưởng nói chung và Nho giáo nói riêng.
Nói cách khác là nên suy nghĩ vấn đề dưới ánh sáng của quan điểm duy vật lịch sử và đường lối cách mạng tư tưởng - văn hóa của Đảng ta.
2. Không nên xuất phát từ lí thuyết Nho giáo đơn thuần mà nên xuất phát từ thực tiễn Việt Nam. Cũng không nên cô lập vấn đề Nho giáo ra khỏi quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam xưa nay.
3. Không nên sa vào các lối diễn dịch bình văn thuyết đạo hay vội vàng lập ra các bảng liệt kê những yếu tố này đáng tiếp thu, những yếu tố kia đáng gạt bỏ. Trái lại nên đi vào bản chất của lịch sử tư tưởng, triết học và hiện thực của các qui luật, các vấn đề chứ không phải là hiện thực rời rạc của các sự kiện. Có như thế mới góp phần tiến tới tổng kết được lịch sử tư tưởng - văn hóa và xây dựng lí luận cơ bản, làm cơ sở khoa học cho các ngành dần dần có được trách nhiệm giáo dục trong việc thực hành đạo đức văn hóa mới, chứ không trực tiếp phải là làm thay và bao biện các ngành ấy.
Đối với chúng tôi, một phương pháp như vậy vẫn còn trong lý tưởng. Đây chỉ là một bước thể nghiệm ban đầu. Phải được sự tham gia soi xét và bảo ban của tập thể mới mong tới ngày hoàn hảo được.
II- Nho giáo trong lịch sử tư tưởng – văn hóa Việt Nam
Từ xưa Nho giáo đã có mặt trong lịch sử Việt Nam, đã trở thành một mặt của văn hóa Việt Nam. Nhưng Nho giáo chỉ trở thành hệ ý thức phong kiến Việt Nam khi giai cấp phong kiến Việt Nam đã trưởng thành “cho nó” và chế độ phong kiến Việt Nam được xác lập rõ rệt với đầy đủ những đặc trưng cơ bản của nó. Nho học Việt Nam gắn liền thành một bộ phận hữu cơ của chế độ phong kiến Việt Nam. Có ba giai đoạn:
1. Ở thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo chỉ lưu hành trong bọn thống trị dân phương Bắc. Nam giao học tổ do Sĩ Nhiếp mở ra đầu thế kỉ XI cũng chỉ có mục đích đào tạo những người thừa hành cho bọn Thái thú, Thứ sử và chỉ thu hẹp trong đất Luy Lâu và ở các bản doanh của người Hán mà thôi.
Trong dân gian, tín ngưỡng và tình cảm Lạc Việt vẫn là gốc rễ phổ biến và bền chặt. Đó là lòng tin mãnh liệt vào tiên tổ giống nòi riêng, tình yêu đất nước quê hương nhà, lòng sùng kính những người thủ lĩnh anh hùng, tập thể bộ tộc và dân tộc có kì tích dựng nước, giữ nước và sáng tạo văn hóa nông nghiệp. Tóm lại đó là tinh thần cộng đồng bộ tộc hay dân tộc, một thứ tinh thần tập thể đã được rên đúc nên trong quá trình lịch sử từ xa xưa cho đến thời kỳ Hùng Vương.
- Từ thế kỉ I, II đầu C.N., đạo Phật lan truyền sang đất ta, ban đầu là từ hướng Nam lên - nhưng đạo Phật muốn bén rễ vào nhân dân ta thì tự mình cũng phải tìm cách đồng nhất với tín ngưỡng của nhân dân. Và về mặt này thì đạo Phật quả đã có tác dụng nhất định và sớm trở nên phổ biến so với Nho giáo.
- Từ thế kỉ VI, VII trở đi, Phật giáo và Nho giáo từ phương Bắc mới vào mạnh. Phật giáo này đã mang trong mình nó những yếu tố văn hóa Trung Quốc, trong đó có Nho giáo (chẳng hạn như kinh Phật được dịch ra Hán văn, được lý giải theo quan điểm kinh điển nho gia và được biện chính bằng lịch sử Đại Hán. Còn Nho giáo lúc này đã mang tính chất huyền học (pha Đạo giáo và Phật giáo, hoặc chịu ảnh hưởng của đạo phù thủy sa-man, mà tiêu biểu nhất là thuyết phong thủy thần bí và phép yểm linh thiêng man rợ của tên quan thực dân Cao Biền đang lăm le muốn nối tiếp chính sách của Mã Viện xưa để tiêu diệt truyền thống anh hùng của nhân dân ta, hòng dễ bề thống trị.
Cuộc đấu tranh giữa tín ngưỡng dân gian với Đạo giáo Cao Biền và Nho học “thực dân” rất quyết liệt đã diễn ra trên lập trường giành độc lập dân tộc và duy trì truyền thống cộng đồng công xã Việt Nam, gắn rất chặt với các cuộc khởi nghĩa anh dũng của nhân dân Việt Nam. Cuộc đấu tranh này in hằn rất rõ rệt ở trong tài liệu văn hóa dân gian về thời Bắc thuộc (truyện thần Tản Viên nhổ nước bọt vào mặt Cao Biền, truyện thần Tô Lịch cảnh cáo Cao Biền...). Ta thấy Nho học cấu kết với Đạo giáo để phục vụ xâm lược, nhưng nhân dân Việt Nam đã phản ứng mãnh liệt. Và càng phản ứng mãnh liệt với giai cấp thống trị xâm lược thì nhân dân lại càng phản ứng với Nho học “thực dân”. Và càng phản ứng với Nho học “thực dân” thì nhân dân lại càng hướng về đạo Phật và phương thuật dân gian, tạo ra những mầm mống cho Thiền học Việt Nam và Đạo nội (đạo gốc bản địa Việt Nam) hình thành về sau này.
2. Cho đến khi Vương quốc Đại Việt được hình thành độc lập sau cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc dai dẳng kiên trì ngót ngàn năm, thì truyền thống cộng đồng dân tộc cũng được phát huy, nền dân chủ công xã được tôn trọng, tín ngưỡng dân gian được duy trì. Nhà nước quý tộc xuất thân từ các cộng đồng bộ tộc mạnh nhất như Đinh, Lê, Lí, Trần tuy đang trên đà phong kiến hóa, nhưng lại rất cần một tôn giáo phiếm thần luận, và một chủ nghĩa đại từ đại bi (Phật có ở mọi nơi, ai cũng thành Phật được, Phật thương yêu trăm họ) (Vua là Bồ tát hiện thân của Đức Phật) để đề cao và phổ biến hóa vương quyền và thống nhất dân tộc, nghĩa là qui tất cả các công xã có quyền tự trị (có lệ làng và thần thành hoàng riêng) vào một mối (phép vua và ơn vua). Vì vậy đạo Phật vẫn chiếm địa vị chủ yếu: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt” nói lên lòng dân còn tán dương đạo Phật, nói lên sự việc nhà chùa còn được thay mặt “Bồ tát vua” quản lí đất làng và đời sống tinh thần ở làng. Cũng vì vậy mà chế độ tăng thông (quốc tăng) hình thành có chân rết xuống tận sư làng, gần như là tổ chức hành chính - tôn giáo kiểu Khmer và Lào mà ngày nay ta còn quan sát được.
Mặt khác, nhân dân cũng đang cần một sự viện trợ tinh thần để cứu chữa nỗi bất hạnh đầu tiên đang diễn ra trong xã hội phụ quyền tư hữu phong kiến có người giàu, người nghèo, người sang, người hèn, người mạnh, người yếu, người ác, người hiền, v.v... nên nhiệt liệt đón nhận Phật giáo. Tình hình này được phản ánh rất rõ ở trong truyện cổ tích thần kì lấy Bụt làm lực lượng phù trợ cho những nhân vật hiền lành bị áp bức bóc lột.
Như thế là đến lúc đó Nho giáo cũng vẫn chưa nhập cuộc hoàn toàn vào đời sống tinh thần Việt Nam. Tuy nhiên, Nho giáo đang cố tìm chỗ đứng cho nó ở trong các tầng lớp quý tộc, nhất là trong đám văn quan, võ quan đã được triều đình trọng dụng. Chế độ phong kiến càng phổ biến, tính chất xã hội đẳng cấp quan liêu càng phát triển, ý thức bảo vệ chế độ và xã hội phong kiến càng tăng thì việc đẩy mạnh Nho học và cải cách xã hội theo quan điểm Nho giáo từ trên xuống lại càng rõ rệt. Từ bên dưới chế độ công xã gia trưởng càng bị phân hóa và từ bên trên chế độ vương quyền tập trung càng được xác lập xuống tận địa phương, thì cái khung xã hội và hệ thống văn hóa giáo dục nho học cũng hình thành. Cũng từ bên dưới, đi liền với chế độ khoa cử tuyển dụng ngày một rộng rãi hơn, những người có học vấn nho học ra làm quan và sự phát triển các học đường nho gia ở từng vùng nó đẩy lùi dần uy lực của Phật giáo cơ sở. Cũng từ bên trên là sự bành trướng do các nho phái đại thần trong triều đình đẩy lùi dần uy lực của tăng lương đạo Phật ra khỏi địa vị cố vấn của vương quyền. Những kiểu người Bồ Tát - Vua (như Ỷ Lan, Lí Nhân Tông thời Lí, như Thái Tông, Nhân Tông thời Trần) đã bị phê phán; sự xa hoa viển vông và lãng mạn của Phật giáo bị đả kích, sự thống nhất giữa thiền sư và trí giả không còn đầy đủ nữa; tiếng nói ngọt ngào nhã nhặn giữa cao tăng và đại thần cũng mất. Tiếng nói của những Chu An, Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, v.v... dần dần có hiệu lực. Các sử gia nho học vừa là những nhà hành trị tích cực như Lí Tế Xuyên, cũng bắt đầu thu hút lý tưởng chinh phục thiên nhiên và chiến thắng kẻ thù xâm lược của nhân dân vào lịch sử đương đại của vương quốc Đại Việt, bằng cách hiện đại hóa huyền thoại và truyền thuyết Việt cổ, hiện đại hóa tín ngưỡng thành hoàng của các công xã theo ý đồ
huyền thoại hóa uy lực của vương quyền và tướng lĩnh mới. Truyền thống thờ cúng anh hùng dân tộc bắt đầu bị Nho giáo hóa theo quan điểm trung quân, bị Đạo giáo hóa theo nghi lễ âm phù cho vua quan, tướng lĩnh và đẩy lùi dần hoặc hạn chế quá trình Phật hóa truyền thống vốn đã có từ trước Bão cực truyện và chấm dứt ở Lĩnh Nam truyện của Trần Thế Pháp.
Bấy nhiêu sự kiện chứng tỏ cuộc đấu tranh tôn giáo giữa Nho - Phật Đạo đang diễn ra âm ỉ, khá sâu sắc, nhưng không ồn ào đổ máu, không thôn tính lẫn nhau, mà trái lại để tạo ra một sự thăng bằng trong đời sống tinh thần Việt Nam. Các tôn giáo dung hòa và bổ sung lẫn nhau, để thỏa mãn các mặt yêu cầu của đời sống đã đi vào khuôn khổ của phương thức sản xuất phong kiến Việt Nam: Nho giáo chi phối con người về mặt lý tính và nghĩa vụ xã hội; - Phật giáo chi phối con người về mặt tình cảm, tưởng tượng và ước mơ nhân đạo;
- Đạo giáo chi phối con người về mặt ý chí khắc phục khó khăn trần thế bằng phương thuật bí ẩn.
Đó chính là nội dung của “Tam giáo đông nguyên”, về cơ bản đã tồn tại suốt trong thời kỳ phong kiến, đã tạo ra tính chất hỗn hợp trong văn hóa, phong tục, tập quán và nghi lễ Việt Nam.
Chúng ta sẽ thấy rằng Nho giáo đã muốn độc tôn và chỉ đạo đời sống của nhân dân Việt Nam trong chế độ phong kiến, nhưng không tài nào độc tôn và chỉ đạo được, chúng ta cũng sẽ thấy rằng chế độ phong kiến Việt Nam không phải chỉ tồn tại duy nhất bằng Nho giáo mà thôi. Tất cả những mặt tích cực và tiêu cực của xã hội, con người và dân tộc ở trong chế độ phong kiến đã bị điều hòa và cân bằng vào trong cái gọi là Tam giáo đồng nguyên ấy.
Nho giáo như vậy đã nhập cuộc tương đối muộn và muốn nhập cuộc được phải tự hạn chế mình, tự đồng hóa mình vào thực tiễn cơ cấu xã hội và đời sống tinh thần Việt Nam. Cũng như bà đỡ đẻ của nó là chế độ phong kiến Việt Nam đã xác lập tương đối muộn và phải dung hòa với chế độ công xã cổ truyền Việt Nam mới tồn tại được.
Chừng nào không có sự dung hòa về mặt xã hội, không có sự dung hòa về mặt tôn giáo đó thì lập tức có khủng hoảng của Nho giáo. Và ở đây lại càng dễ xác nhận điều đánh giá cơ bản của chúng ta là Nho giáo không phải là một yêu cầu tự nhiên không có không được của con người Việt Nam ở trong lịch sử.
I- Vài điều về phương pháp
Trước hết chúng tôi xin nêu lên ở đây một vài điều về phương pháp:
1. Lợi ích nhân dân, dân tộc ngày xưa và lợi ích cho cách mạng ngày nay là thước đo giá trị của mọi tư tưởng nói chung và Nho giáo nói riêng.
Nói cách khác là nên suy nghĩ vấn đề dưới ánh sáng của quan điểm duy vật lịch sử và đường lối cách mạng tư tưởng - văn hóa của Đảng ta.
2. Không nên xuất phát từ lí thuyết Nho giáo đơn thuần mà nên xuất phát từ thực tiễn Việt Nam. Cũng không nên cô lập vấn đề Nho giáo ra khỏi quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam xưa nay.
3. Không nên sa vào các lối diễn dịch bình văn thuyết đạo hay vội vàng lập ra các bảng liệt kê những yếu tố này đáng tiếp thu, những yếu tố kia đáng gạt bỏ. Trái lại nên đi vào bản chất của lịch sử tư tưởng, triết học và hiện thực của các qui luật, các vấn đề chứ không phải là hiện thực rời rạc của các sự kiện. Có như thế mới góp phần tiến tới tổng kết được lịch sử tư tưởng - văn hóa và xây dựng lí luận cơ bản, làm cơ sở khoa học cho các ngành dần dần có được trách nhiệm giáo dục trong việc thực hành đạo đức văn hóa mới, chứ không trực tiếp phải là làm thay và bao biện các ngành ấy.
Đối với chúng tôi, một phương pháp như vậy vẫn còn trong lý tưởng. Đây chỉ là một bước thể nghiệm ban đầu. Phải được sự tham gia soi xét và bảo ban của tập thể mới mong tới ngày hoàn hảo được.
II- Nho giáo trong lịch sử tư tưởng – văn hóa Việt Nam
Từ xưa Nho giáo đã có mặt trong lịch sử Việt Nam, đã trở thành một mặt của văn hóa Việt Nam. Nhưng Nho giáo chỉ trở thành hệ ý thức phong kiến Việt Nam khi giai cấp phong kiến Việt Nam đã trưởng thành “cho nó” và chế độ phong kiến Việt Nam được xác lập rõ rệt với đầy đủ những đặc trưng cơ bản của nó. Nho học Việt Nam gắn liền thành một bộ phận hữu cơ của chế độ phong kiến Việt Nam. Có ba giai đoạn:
1. Ở thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo chỉ lưu hành trong bọn thống trị dân phương Bắc. Nam giao học tổ do Sĩ Nhiếp mở ra đầu thế kỉ XI cũng chỉ có mục đích đào tạo những người thừa hành cho bọn Thái thú, Thứ sử và chỉ thu hẹp trong đất Luy Lâu và ở các bản doanh của người Hán mà thôi.
Trong dân gian, tín ngưỡng và tình cảm Lạc Việt vẫn là gốc rễ phổ biến và bền chặt. Đó là lòng tin mãnh liệt vào tiên tổ giống nòi riêng, tình yêu đất nước quê hương nhà, lòng sùng kính những người thủ lĩnh anh hùng, tập thể bộ tộc và dân tộc có kì tích dựng nước, giữ nước và sáng tạo văn hóa nông nghiệp. Tóm lại đó là tinh thần cộng đồng bộ tộc hay dân tộc, một thứ tinh thần tập thể đã được rên đúc nên trong quá trình lịch sử từ xa xưa cho đến thời kỳ Hùng Vương.
- Từ thế kỉ I, II đầu C.N., đạo Phật lan truyền sang đất ta, ban đầu là từ hướng Nam lên - nhưng đạo Phật muốn bén rễ vào nhân dân ta thì tự mình cũng phải tìm cách đồng nhất với tín ngưỡng của nhân dân. Và về mặt này thì đạo Phật quả đã có tác dụng nhất định và sớm trở nên phổ biến so với Nho giáo.
- Từ thế kỉ VI, VII trở đi, Phật giáo và Nho giáo từ phương Bắc mới vào mạnh. Phật giáo này đã mang trong mình nó những yếu tố văn hóa Trung Quốc, trong đó có Nho giáo (chẳng hạn như kinh Phật được dịch ra Hán văn, được lý giải theo quan điểm kinh điển nho gia và được biện chính bằng lịch sử Đại Hán. Còn Nho giáo lúc này đã mang tính chất huyền học (pha Đạo giáo và Phật giáo, hoặc chịu ảnh hưởng của đạo phù thủy sa-man, mà tiêu biểu nhất là thuyết phong thủy thần bí và phép yểm linh thiêng man rợ của tên quan thực dân Cao Biền đang lăm le muốn nối tiếp chính sách của Mã Viện xưa để tiêu diệt truyền thống anh hùng của nhân dân ta, hòng dễ bề thống trị.
Cuộc đấu tranh giữa tín ngưỡng dân gian với Đạo giáo Cao Biền và Nho học “thực dân” rất quyết liệt đã diễn ra trên lập trường giành độc lập dân tộc và duy trì truyền thống cộng đồng công xã Việt Nam, gắn rất chặt với các cuộc khởi nghĩa anh dũng của nhân dân Việt Nam. Cuộc đấu tranh này in hằn rất rõ rệt ở trong tài liệu văn hóa dân gian về thời Bắc thuộc (truyện thần Tản Viên nhổ nước bọt vào mặt Cao Biền, truyện thần Tô Lịch cảnh cáo Cao Biền...). Ta thấy Nho học cấu kết với Đạo giáo để phục vụ xâm lược, nhưng nhân dân Việt Nam đã phản ứng mãnh liệt. Và càng phản ứng mãnh liệt với giai cấp thống trị xâm lược thì nhân dân lại càng phản ứng với Nho học “thực dân”. Và càng phản ứng với Nho học “thực dân” thì nhân dân lại càng hướng về đạo Phật và phương thuật dân gian, tạo ra những mầm mống cho Thiền học Việt Nam và Đạo nội (đạo gốc bản địa Việt Nam) hình thành về sau này.
2. Cho đến khi Vương quốc Đại Việt được hình thành độc lập sau cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc dai dẳng kiên trì ngót ngàn năm, thì truyền thống cộng đồng dân tộc cũng được phát huy, nền dân chủ công xã được tôn trọng, tín ngưỡng dân gian được duy trì. Nhà nước quý tộc xuất thân từ các cộng đồng bộ tộc mạnh nhất như Đinh, Lê, Lí, Trần tuy đang trên đà phong kiến hóa, nhưng lại rất cần một tôn giáo phiếm thần luận, và một chủ nghĩa đại từ đại bi (Phật có ở mọi nơi, ai cũng thành Phật được, Phật thương yêu trăm họ) (Vua là Bồ tát hiện thân của Đức Phật) để đề cao và phổ biến hóa vương quyền và thống nhất dân tộc, nghĩa là qui tất cả các công xã có quyền tự trị (có lệ làng và thần thành hoàng riêng) vào một mối (phép vua và ơn vua). Vì vậy đạo Phật vẫn chiếm địa vị chủ yếu: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt” nói lên lòng dân còn tán dương đạo Phật, nói lên sự việc nhà chùa còn được thay mặt “Bồ tát vua” quản lí đất làng và đời sống tinh thần ở làng. Cũng vì vậy mà chế độ tăng thông (quốc tăng) hình thành có chân rết xuống tận sư làng, gần như là tổ chức hành chính - tôn giáo kiểu Khmer và Lào mà ngày nay ta còn quan sát được.
Mặt khác, nhân dân cũng đang cần một sự viện trợ tinh thần để cứu chữa nỗi bất hạnh đầu tiên đang diễn ra trong xã hội phụ quyền tư hữu phong kiến có người giàu, người nghèo, người sang, người hèn, người mạnh, người yếu, người ác, người hiền, v.v... nên nhiệt liệt đón nhận Phật giáo. Tình hình này được phản ánh rất rõ ở trong truyện cổ tích thần kì lấy Bụt làm lực lượng phù trợ cho những nhân vật hiền lành bị áp bức bóc lột.
Như thế là đến lúc đó Nho giáo cũng vẫn chưa nhập cuộc hoàn toàn vào đời sống tinh thần Việt Nam. Tuy nhiên, Nho giáo đang cố tìm chỗ đứng cho nó ở trong các tầng lớp quý tộc, nhất là trong đám văn quan, võ quan đã được triều đình trọng dụng. Chế độ phong kiến càng phổ biến, tính chất xã hội đẳng cấp quan liêu càng phát triển, ý thức bảo vệ chế độ và xã hội phong kiến càng tăng thì việc đẩy mạnh Nho học và cải cách xã hội theo quan điểm Nho giáo từ trên xuống lại càng rõ rệt. Từ bên dưới chế độ công xã gia trưởng càng bị phân hóa và từ bên trên chế độ vương quyền tập trung càng được xác lập xuống tận địa phương, thì cái khung xã hội và hệ thống văn hóa giáo dục nho học cũng hình thành. Cũng từ bên dưới, đi liền với chế độ khoa cử tuyển dụng ngày một rộng rãi hơn, những người có học vấn nho học ra làm quan và sự phát triển các học đường nho gia ở từng vùng nó đẩy lùi dần uy lực của Phật giáo cơ sở. Cũng từ bên trên là sự bành trướng do các nho phái đại thần trong triều đình đẩy lùi dần uy lực của tăng lương đạo Phật ra khỏi địa vị cố vấn của vương quyền. Những kiểu người Bồ Tát - Vua (như Ỷ Lan, Lí Nhân Tông thời Lí, như Thái Tông, Nhân Tông thời Trần) đã bị phê phán; sự xa hoa viển vông và lãng mạn của Phật giáo bị đả kích, sự thống nhất giữa thiền sư và trí giả không còn đầy đủ nữa; tiếng nói ngọt ngào nhã nhặn giữa cao tăng và đại thần cũng mất. Tiếng nói của những Chu An, Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, v.v... dần dần có hiệu lực. Các sử gia nho học vừa là những nhà hành trị tích cực như Lí Tế Xuyên, cũng bắt đầu thu hút lý tưởng chinh phục thiên nhiên và chiến thắng kẻ thù xâm lược của nhân dân vào lịch sử đương đại của vương quốc Đại Việt, bằng cách hiện đại hóa huyền thoại và truyền thuyết Việt cổ, hiện đại hóa tín ngưỡng thành hoàng của các công xã theo ý đồ
huyền thoại hóa uy lực của vương quyền và tướng lĩnh mới. Truyền thống thờ cúng anh hùng dân tộc bắt đầu bị Nho giáo hóa theo quan điểm trung quân, bị Đạo giáo hóa theo nghi lễ âm phù cho vua quan, tướng lĩnh và đẩy lùi dần hoặc hạn chế quá trình Phật hóa truyền thống vốn đã có từ trước Bão cực truyện và chấm dứt ở Lĩnh Nam truyện của Trần Thế Pháp.
Bấy nhiêu sự kiện chứng tỏ cuộc đấu tranh tôn giáo giữa Nho - Phật Đạo đang diễn ra âm ỉ, khá sâu sắc, nhưng không ồn ào đổ máu, không thôn tính lẫn nhau, mà trái lại để tạo ra một sự thăng bằng trong đời sống tinh thần Việt Nam. Các tôn giáo dung hòa và bổ sung lẫn nhau, để thỏa mãn các mặt yêu cầu của đời sống đã đi vào khuôn khổ của phương thức sản xuất phong kiến Việt Nam: Nho giáo chi phối con người về mặt lý tính và nghĩa vụ xã hội; - Phật giáo chi phối con người về mặt tình cảm, tưởng tượng và ước mơ nhân đạo;
- Đạo giáo chi phối con người về mặt ý chí khắc phục khó khăn trần thế bằng phương thuật bí ẩn.
Đó chính là nội dung của “Tam giáo đông nguyên”, về cơ bản đã tồn tại suốt trong thời kỳ phong kiến, đã tạo ra tính chất hỗn hợp trong văn hóa, phong tục, tập quán và nghi lễ Việt Nam.
Chúng ta sẽ thấy rằng Nho giáo đã muốn độc tôn và chỉ đạo đời sống của nhân dân Việt Nam trong chế độ phong kiến, nhưng không tài nào độc tôn và chỉ đạo được, chúng ta cũng sẽ thấy rằng chế độ phong kiến Việt Nam không phải chỉ tồn tại duy nhất bằng Nho giáo mà thôi. Tất cả những mặt tích cực và tiêu cực của xã hội, con người và dân tộc ở trong chế độ phong kiến đã bị điều hòa và cân bằng vào trong cái gọi là Tam giáo đồng nguyên ấy.
Nho giáo như vậy đã nhập cuộc tương đối muộn và muốn nhập cuộc được phải tự hạn chế mình, tự đồng hóa mình vào thực tiễn cơ cấu xã hội và đời sống tinh thần Việt Nam. Cũng như bà đỡ đẻ của nó là chế độ phong kiến Việt Nam đã xác lập tương đối muộn và phải dung hòa với chế độ công xã cổ truyền Việt Nam mới tồn tại được.
Chừng nào không có sự dung hòa về mặt xã hội, không có sự dung hòa về mặt tôn giáo đó thì lập tức có khủng hoảng của Nho giáo. Và ở đây lại càng dễ xác nhận điều đánh giá cơ bản của chúng ta là Nho giáo không phải là một yêu cầu tự nhiên không có không được của con người Việt Nam ở trong lịch sử.