PHÚC KEYNES
New member
- Xu
- 0
Tạp chí Triết học
Số 9 (208), 2008
--- o0o ---
Triết học là một thành tố rất cổ của văn hóa tinh thần, là trí tuệ của loài người và không dễ gì nhận thức được nó. Cái khó trong việc nắm bắt triết học trước hết bị quy định bởi diện rộng tới mức tối đa các khái niệm triết học. Tính đa nghĩa của phần lớn các khái niệm ấy luôn gây khó cho sự hiểu biết về nội dung của chúng, về mối quan hệ qua lại giữa chúng với nhau và giiữa chúng với các khái niệm triết học khác, cũng như vai trò của chúng đối với đời sống con người. Phương pháp quan trọng nhất, nếu không nói đó là phương pháp cơ bản về hiệu quả của việc nghiên cứu các khái niệm triết học, chính là việc nghiên cứu lịch sử triết học từ khi nó mới phát sinh. Một khoa học càng chính xác bao nhiêu và thêm nữa, nó lại được toán học hóa, thì đòi hỏi phải tìm hiểu sự phát triển trước đó của nó càng nhẹ hơn. Ngược lại, việc nghiên cứu các khoa học xã hội - nhân văn lại không thể thiếu những am hiểu căn bản về lịch sử trước đó của chúng. Việc làm rõ chính các hệ vấn đề triết học trên thực tế đã cho thấy, hoàn toàn không thể thiếu tri thức về toàn bộ lịch sử trước đây của nó.
Chúng ta đã có rất nhiều định nghĩa về triết học. Đó là những định nghĩa chung, cụ thể và mang tính ẩn dụ. Các định nghĩa ấy đã định hình được sự đa dạng về việc giải thích triết học mà các học giả đưa ra, trong đó có một số học giả sẽ được chúng tôi dẫn ra trong cuốn sách này tùy theo văn cảnh trình bày. Trước hết, chúng tôi xin nhắc lại rằng, triết học hoàn toàn mang tính khái quát, kể cả trong trường hợp nó tác động qua lại với các thành tố khác của văn hóa tinh thần - trí tuệ, tức là với tôn giáo và thần luận với tư cách phương diện “lý luận” của nó, xuất hiện khi triết học còn chưa ra đời, với nghệ thuật và sự suy ngẫm về nghệ thuật (xuất hiện trong chính triết học), với khoa học và những thành tố khác. Sự tương đồng của các hình thái thế giới quan thể hiện tính đa diện của đời sống con người đã gây khó khăn lớn cho việc định nghĩa triết học. Sự tương đồng ấy có thể và cần phải hiểu với tư cách một khoa học phức tạp nhất về con người (điều được đề cập tới bằng chính thuật ngữ Hy Lạp cổ là “yêu mến sự thông thái”), với tư cách con người hành động và tư duy, còn khi xét trong vô vàn các phương diện khác nhau thì đó là sinh thể có tinh thần và thể xác.
Xuất phát từ điều nói trên, hoàn toàn có thể hiểu đối tượng của triết học như là tổng hòa các mối quan hệ chủ - khách thể. Các thuật ngữ “chủ thể” và “khách thể” bằng tiếng Latinh đã xuất hiện trong Triết học Kinh viện Tây Âu thời kỳ Trung cổ và hiện nay, nghĩa của chúng đã được thừa nhận một cách phổ biến - tối đa như các quan hệ nhận thức - thực tế của con người trong tính hiện thực đối lập với nó là tự nhiên và xã hội, thể hiện những nhu cầu và hoạt động của trí óc, của trái tim và của thân xác con người. Dĩ nhiên, một định nghĩa như vậy về triết học có thể được coi là hoàn toàn thích hợp cho cả thế giới quan vốn không thể tách rời triết học, bởi nó quá chung, quá rộng, song, như chúng ta đã thấy, ngay từ khi xuất hiện các mối quan hệ nói trên thì những ý niệm của các nhà triết học và thậm chí, của nhiều nhà tư tưởng vốn không cho mình là những nhà triết học, về nguyên tắc, vẫn được hàm chứa trong công thức đó.
Chúng tôi không muốn đặt ra một góc nhìn cho trước đối với việc nghiên cứu tiếp theo về hệ vấn đề triết học mà các nhà triết học đã trình bày. Ở đây, chúng tôi muốn chỉ ra rằng, trong triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII - XIX, hệ vấn đề đó đã được nghiên cứu với quy mô đặc biệt sâu rộng. Một trong những nhà sáng lập nền triết học đó là Iôganơ Phíchtơ, người đã chú trọng đến việc suy xét hệ vấn đề đạo đức - xã hội và luôn đặt đối lập chủ thể người - “cái Tôi” (và cả “cái Tôi”) với tổng hòa các khách thể mâu thuẫn với nó - “cái Không - tôi”. Khi chứng minh cho sự khẳng định dứt khoát của mình về xuất phát điểm là “cái Tôi” và cũng là để hiểu cho đúng mọi “cái Không - tôi”, Phíchtơ đã xác định lập trường của mình đứng về phía “chủ nghĩa duy tâm”, đối lập với lập trường của “chủ nghĩa giáo điều” (hay là “chủ nghĩa duy vật”). C.Mác và Ph.Ăngghen đã coi Phíchtơ là một trong những bậc tiền bối của mình, nhưng các ông lại thay đổi thái độ đó, đồng thời khẳng định rằng, một lập trường đúng đắn duy nhất, phù hợp với toàn bộ lịch sử thực tiễn và phát triển của loài người về triết học và khoa học là chủ nghĩa duy vật, bởi nó giải thích tinh thần con người như một hiện tượng phái sinh và thứ phát so với vật chất. Do vậy, toàn bộ lịch sử triết học được chủ nghĩa Mác diễn tả như là sự đối lập và đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Thế nhưng, sự gián đoạn mang tính nhị nguyên hóa đã quá nhấn mạnh “con người đang sống” như một sinh thể tinh thần - thể xác và thể xác - tinh thần. Khác với tính phổ biến đến tối đa của vật chất và tinh thần, được đặt đối lập với nhau trong “tính thứ nhất” và “tính thứ hai”, mối quan hệ chủ - khách thể là sự thừa nhận sự thống nhất giữa hai mặt của con người - tinh thần và thể xác như một sinh thể hiện thực có nhận thức. Thật vậy, khi chú ý đến vai trò to lớn của các khoa học, đến sự tác động qua lại của chúng với triết học để tạo nên yếu tố cấu thành quan trọng về đối tượng nghiên cứu, chúng ta cần phải lưu ý rằng, để phân tích vai trò đó trong nghiên cứu chuyên sâu của các khoa học về tự nhiên, trong việc nghiên cứu theo lối quy giản về tự nhiên thì dường như, lại cần phải phân tách chủ thể ra khỏi khách thể để không những nắm bắt được chúng trong sự thống nhất, mà cả trong sự phân chia nữa. Đồng thời, khách thể tự nhiên cũng trở nên rõ ràng hơn đối với con người, mở ra cho con người khả năng sử dụng một cách có hiệu quả các yếu tố cấu thành hiện thực khách quan tồn tại không phụ thuộc vào con người.
Trên trục đường chính ấy luôn xuất hiện và phát triển một hiện tượng đặc biệt của nền văn minh - đó là cái trung gian giữa chủ thể và khách thể tự nhiên, là khách thể mới và phức tạp hơn nhiều, là hiện thực chủ - khách thể. Cùng với sự phát triển của nền văn minh, lĩnh vực tinh thần của chính con người và nền văn hóa của nó cũng được phát triển, trong đó nhiều yếu tố cấu thành và bộ phận hợp thành của nó có thể được luận giải như là những khía cạnh của triết học.
Để cụ thể hóa tính chủ - khách thể của lĩnh vực tinh thần, về nguyên tắc, cần phải nhấn mạnh rằng, triết học là một hệ thống khá phức tạp của tri tín (tín ngưỡng và tri thức), luôn thể hiện bản chất nhận thức - chân thực của đời sống con người mà ở đó, thường có sự đan xen giữa các yếu tố cấu thành tín ngưỡng và tri thức trong các mối quan hệ qua lại khác nhau. Dĩ nhiên, ở đây không đề cập đến riêng niềm tin tôn giáo - tín ngưỡng mà tính nhất quyết tuyệt đối trong các giáo điều của niềm tin ấy đã đạt tới đỉnh điểm trong nguồn gốc thần luận về thuyết đơn thần của Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo và các tôn giáo khác. Với nội dung đầy đủ và được suy ra từ các kinh thánh, những giáo điều ấy đã có trước mọi “tri thức”, trước hết là đối với “tri thức” tôn giáo. Béctơrăng Rátxen đã rất thành công khi xác định bản chất của triết học như là tri tín trong phần Nhập môn “Lịch sử triết học phương Tây”, đồng thời giải thích lĩnh vực trung gian như là “vùng đất hoang” nằm giữa thần học và khoa học mà cả hai đều tấn công “mảnh đất ấy” từ hai phía đối lập nhau, nhưng không bao giờ đụng độ nhau. Chỉ có niềm tin thế giới quan triết học mới được đặc trưng bởi tính đầy đủ về mặt nhận thức luận, nhận thức - lý luận, song nếu thiếu trình độ nhất định về tri thức, niềm tin đó cũng sẽ bị mất ý nghĩa về mặt chức năng. Phương diện nhận thức khoa học của triết học lại đòi hỏi một định nghĩa khác cho nó, đó là định nghĩa bổ sung chứ không phải là loại bỏ định nghĩa trước đó.
Định nghĩa đó, theo tín niệm của tác giả, phải được coi là một định nghĩa về thế giới quan đã được hệ thống hóa ở mức độ cao nhất, được duy lý hóa đến tối đa trong thời đại của nó. Trong tổ hợp tri tín, chính khoa học lại quy định nội dung của yếu tố cấu thành thứ hai. Ngoài ra, để làm rõ một định nghĩa đã được hình thành, cần phải vạch ra ý nghĩa của cụm từ “thế giới quan” vốn đa nghĩa và rất rộng trong tiếng Đức và tiếng Nga. Trong các tài liệu triết học Đức, thuật ngữ “thế giới quan” (Weltanschauung) xuất hiện vào thế kỷ XVIII (còn trong ngôn ngữ Nga, nó xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX). Trên phương diện triết học, thế giới quan được đặc trưng bởi tính xác định và tính hệ thống ở mức độ thấp hơn, khi nó được sử dụng trong các văn cảnh khác nhau. Người ta thường nói đến các thế giới quan: tôn giáo, nghệ thuật, đạo đức, khoa học tự nhiên theo nghĩa các thế giới quan này, xét về mặt hệ thống, thể hiện các tín niệm ít được luận chứng (hoặc hoàn toàn không được luận chứng) và còn lâu, mới dựa trên tính đầy đủ về sự kiện.
Ở đây, cả thuật ngữ “duy lý hóa” cũng cần phải được làm rõ. Trong những điều kiện của nền văn minh Hy Lạp cổ đại, triết học đã xuất hiện đồng thời với các khoa học khác. Vào thời kỳ Trung cổ, triết học thường được đồng nhất với tổng hòa các khoa học (“các nền nghệ thuật tự do”), mặc dù ở giai đoạn Êlê trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, toán học, thiên văn học và thậm chí, cả những nhận thức kinh nghiệm (vốn được xem là đặc thù của thời đó) về địa lý, văn học, nhất là y học, đã phát triển ngoài văn cảnh triết học. Trong tư liệu triết học phương Tây và của Nga, chúng ta cũng thường thấy những nhận định cho rằng, trong quá trình phát triển của văn hóa trí tuệ đã có các khoa học cụ thể khác nhau được tách ra từ triết học. Vả lại, triết học chưa bao giờ là cha đẻ của khoa học cả, nhưng nó đã từng xuất hiện và được phát triển trong mối liên hệ mật thiết với các khoa học. Triết học và các khoa học đã cùng nhau tạo nên những bộ phận cấu thành quan trọng nhất của sự duy lý hóa.
Do vậy, cần phải nói rằng, về căn bản, chúng ta cần phải hiểu các khoa học trong sự tác động qua lại của chúng với triết học thời cổ đại, kể cả các hình thức tác động khác trong những thời đại tiếp theo, như toán học và các tri thức khoa học tự nhiên. Vào thời cổ đại, các khoa học đã phát triển một cách riêng lẻ, sự liên kết giữa chúng chúng chỉ diễn ra vào thời Cận đại, thời đại của Galilê, Đêcáctơ và Niutơn, khi mà các khoa học đang ngày càng trở thành lực lượng sản xuất. Trên cơ sở đó, nhiều nhà nghiên cứu khoa học, thậm chí cả những nhà triết học, đã giải thích thời đại đó như là sự khởi đầu của riêng tri thức khoa học. Song, đó là quan niệm giản đơn, không thể chấp nhận được đối với nhà nghiên cứu lịch sử triết học. Trên thực tế, cần phải định nghĩa khoa học vốn được hiểu trong tính chỉnh thể của nó như một tri thức đã được chuyên môn hóa mà trước hết, công dụng của nó về mặt thực tiễn là sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể của con người. Đồng thời, cần phải kết nối khoa học với quá trình phát triển và tổ chức lao động trí óc trong sự tác động qua lại của nó với lao động chân tay. Chỉ có trên cơ sở đó, mới có thể phát huy được tính năng động của cả hai nhân tố này trong khoa học. Cùng với đó là phương pháp kinh nghiệm thực tiễn - kinh nghiệm cảm tính mà chúng ta thường sử dụng trong quá trình sáng tạo các tri thức thực tiễn vốn có và bền vững - các tri thức đó được củng cố trong bộ nhớ của loài người. Nhân tố này là vốn có đối với loài người ngay từ thời tiền sử, tiền văn minh. Về nguyên tắc, nó vẫn là nhân tố quy định ngay cả trong những điều kiện của các nền văn minh cổ đại Ai Cập và Babilon, nơi mà toán học, thiên văn học và y học rất phát triển (đó là khoa học kinh nghiệm cảm tính trong số các khoa học tự nhiên, và như chúng ta đã thấy, hiện vẫn còn tiếp tục phát triển). Song, như chúng ta đều biết, chỉ có ở Hy Lạp cổ đại mới có sự xuất hiện và phát triển lý thuyết - diễn dịch của tri thức khoa học trong các trường phái triết học. Do lệ thuộc trực tiếp vào nhân tố này mà lôgíc học mới ra đời trong chính triết học Hy Lạp cổ đại. Thiếu lôgíc học sẽ không thể có bất kỳ một sự duy lý hóa nào cả.
Mặc dù vậy, chúng ta vẫn không thể quy lôgíc học về sự tác động của nó tới việc xuất hiện tri thức khoa học, cũng như tới sự phát triển tiếp theo của triết học. Sự tiến bộ của đời sống kinh tế (đặc biệt là sự xuất hiện của tiền tệ), sự ra đời của pháp luật nhằm điều chỉnh các mối quan hệ tài sản của con người cũng như một số nhân tố khác của nền văn minh đã mở rộng và làm sâu sắc thêm khuynh hướng duy lý hóa.
Tuy nhiên, khi nhấn mạnh nhân tố duy lý hóa, chúng ta không được phép bỏ qua tính huyền diệu của vô vàn các hiện tượng tự nhiên và các khách thể của tri thức, đặc biệt là trong thời kỳ Cổ đại – thời kỳ mà triết học xuất hiện, và hơn thế nữa là tính huyền bí về sự xuất hiện của con người. Chúng ta cũng không được phép bỏ qua tính vô cùng phức tạp của bản chất con người mà yếu tố trí tuệ cấu thành của nó không phải bao giờ cũng mang tính chủ đạo. Phương diện này của sinh thể người và hoạt động nhận thức của con người được thể hiện rõ khi xác định triết học như một hệ thống tri tín. Như chúng ta đều biết, triết học Hy Lạp cổ đại đã xuất hiện trong điều kiện mà ở đó, một tổ hợp của sự duy lý hóa dường như đã trở nên đầy đủ cho quá trình này. Đó trước hết là xuất hiện của các ý niệm về nhận thức luận, về bản thể luận, nhân bản học và đạo đức - xã hội; sau đó là các hệ thống duy lý vĩ đại của Platôn và Arixtốt vào thời kỳ được gọi là cổ điển ở trình độ cao của nền văn hóa Êlê. Và, ngay cả ở một trong những trường phái triết học đầu tiên là Pitago, thì các nhà triết học của trường phái này cũng vẫn vấp phải những khó khăn không thể giải quyết được bằng lôgíc học khi xem xét một số yếu tố hình học (đó là điều mà họ đã cố giấu đi). Về sau, vào thời kỳ hậu cổ điển, khuynh hướng nhà triết học hoài nghi – Pirông đã phủ nhận hoàn toàn khả năng xuất hiện của tri thức xác thực.
Các ý niệm phi duy lý không chỉ làm mất khả năng, mà còn thu hẹp quy mô của triết học duy lý hóa, trước hết là về phương diện kiến giải hiện tượng con người. Các ý niệm đó đã thâm nhập vào triết học, đặc biệt là từ phía niềm tin tôn giáo, từ các tín niệm Hy Lạp cổ đại và sau đó, ngày càng nhiều hơn từ các vùng Trung Cận Đông. Hệ thống đơn thần vĩ đại của Thiên Chúa giáo đã được một số ý niệm sơ cấp của triết học Hy Lạp cổ đại tiếp thu và do vậy, các yếu tố phi duy lý của nó đã xuất hiện ngày một mạnh mẽ. Ở đây, sự đối lập giữa phi duy lý và duy lý đã có sự gia tăng đáng kể, trước hết là từ nhân tố ý chí – nơi cấu thành lĩnh vực hoạt động cảm giác của con người và không lệ thuộc vào sự chỉ đạo của trí óc với tư cách trung tâm của những năng lực và khả năng trí tuệ. Một hình thức cực đoan của thuyết phi duy lý tôn giáo là thần học đã xuất hiện, khi nhấn mạnh tính tuyệt đối không thể nhận thức được về phương diện sinh thể của các vị thần mang nhân cách mà con người, khi đối thoại với các thần này cũng trở nên huyền bí như vậy từ trong sâu thẳm của tâm hồn mình.
Những thành tựu công nghệ và những thành tựu khác của nền văn minh nhân loại đã tìm cho bản thân mình sự phản ánh trong các ý niệm duy lý và trong các hệ thống triết học Tây Âu thời Cận đại. Sự toàn diện nhất và vĩ đại nhất trong số các ý niệm và hệ thống đó đã xuất hiện ở Đức vào thế kỷ XVIII – XIX, trong các tác phẩm của Cantơ, Phíchtơ, Seling và Hêghen. Song hành với điều đó là sự gia tăng các mặt đối lập của chính nền văn minh nhân loại. Đặc biệt, nhận thức của một số nhà triết học Đức về tính phức tạp, đa dạng của đời sống và tinh thần con người (và không chỉ riêng họ) đã làm nảy sinh các ý niệm phi duy lý, đồng thời làm cho các hệ thống triết học phi duy lý phát triển. Học thuyết có ảnh hưởng khá mạnh trong số đó là học thuyết của Sôpenhauơ (1788 - 1860). Ngược lại với ý niệm căn bản của nhà phiếm lôgíc Hêghen về lý tính thế giới vốn hướng sự phát triển của văn minh và văn hóa vừa tầm với trình độ hiểu biết của các nhà triết học, Sôpenhauơ đã đưa ra ý niệm đối lập với ý chí mù quáng và tự tại mà người ta vẫn thường sử dụng để biện luận cho tính bí ẩn của tồn tại và tính phi duy lý của đời sống con người.
Toàn bộ khuynh hướng đó dường như là của nền triết học Đức vốn được mệnh danh là “triết học đời sống” (thuật ngữ này đã từng xuất hiện vào thế kỷ XVIII). Nhà tư tưởng lớn nhất và khá nổi tiếng của khuynh hướng đó là diễn giả tài ba Nítsơ (1844 - 1900). Đặc điểm nổi bật của triết học đời sống là sự hạ thấp bằng mọi cách năng lực trí tuệ và khả năng của con người, đồng thời nhấn mạnh những thiếu sót về nhận thức của lý tính - cái dường như là sức mạnh không gì lay chuyển nổi của lôgíc học. Nhà tư tưởng Pháp Bécxông (1859 - 1941) cũng đã phát triển triết lý khá mạnh mẽ đó theo khuynh hướng nói trên. Một nhà lý luận nổi tiếng của “triết học đời sống” - nhà triết học Đức Vinhem Đintây (1833 - 1911) đã được xem là học giả có trình độ hiểu biết nhiều về lịch sử triết học, là tác giả của nhiều tác phẩm thơ ca và các công trình tâm lý học. Ở một trong những tác phẩm lớn nhất của mình là Nhập môn tinh thần khoa học (1883), ông đã đặt đối lập khoa học nhân văn với tư cách khoa học được con người biết đến khá nhiều với các khoa học tự nhiên. Theo ông, con người, với những mức độ xác tín khác nhau, cũng chỉ giải thích được những hiện tượng rời rạc của tự nhiên mà thôi. Chủ thể trong sự nhận thức tự nhiên đã hội tụ trong nó tất cả những điều mà ông quan tâm, lại được ông đặt đối lập với chính khách thể tự nhiên bên ngoài. Trong hiện tượng đặc biệt của ý thức con người, đối với ông, cái xác định không phải là quá trình nhận thức trong sự tác động của nó với thế giới khách quan bên ngoài, mà là áp lực đối với sự trải nghiệm tâm lý, ý chí, cảm xúc, bản năng, v.v.. Tính chỉnh thể của nhận thức được thể hiện trong các nhân tố đa dạng của kinh nghiệm bên trong, được liên kết bởi khái niệm “đời sống”, tức là khái niệm mà về căn bản, được hiểu bằng trực giác.
Một khuynh hướng rất gần gũi với triết học đời sống và có uy tín là chủ nghĩa hiện sinh - “triết học về sự hiện hữu”. Khuynh hướng này đã nhận được sự tán thành của không ít học giả ở Nga vào thế kỷ XX (Berơđêép, Séctốp), ở Đức (Giaxpe, Haiđơgơ), ở Pháp (Xáctơrơ, Mắcxen, Camuy) cũng như ở Mỹ, Tây Ban Nha và các nước khác. Mục đích chủ yếu của chủ nghĩa hiện sinh là vạch ra ý nghĩa bản thể luận về sự hiện hữu của cá nhân con người trước tính phức tạp của tồn tại mang tính siêu nghiệm trong quan hệ với con người. Do vậy, nó luôn phải giải quyết hệ vấn đề hết sức phức tạp về tự do (đặc biệt là khi đối mặt với cái chết) mà con người không thể tránh được. Véctơ siêu nghiệm của con người trong hoàn cảnh đó luôn hướng tới hoặc là Chúa, hoặc một cách giản đơn, không tới cái gì cả.
Ngay cả trong một số khuynh hướng phi duy lý được cho là quan trọng, nếu mô tả hoàn toàn bằng lược đồ, cũng dễ nhận thấy rằng, không thể có lý thuyết phi duy lý “thuần túy”. Lý thuyết này chỉ có thể là sự thần bí hoá mà thôi. Thuyết phi duy lý triết học ở trình độ này hay trình độ khác đều bao hàm các yếu tố của thuyết duy lý. Các trường hợp triết học đối lập cũng gặp không ít tình huống như vậy. Như chúng ta đều biết, trong sự đa dạng của các ý niệm triết học và ngay cả các học thuyết triết học còn lâu mới có hiện tượng một nhà triết học nào đó lấy tư tưởng của mình để phủ định hoàn toàn tư tưởng của các nhà triết học khác. Đương nhiên, trong lịch sử triết học, cũng đã xuất hiện các triết thuyết thuộc loại đó. Một trong số đó là chủ nghĩa Mác - Lênin - một học thuyết từng tuyên bố chủ nghĩa duy vật biện chứng là duy nhất mang tính khoa học và hoàn toàn bác bỏ các quan điểm triết học cơ bản của chủ nghĩa duy tâm. Trên thực tế, như chúng ta đã thấy, chủ nghĩa duy vật với tư cách một hình thức triết học tự nhiên (xét trên bình diện rộng nhất, chứ không phải theo ý nghĩa của mỹ học) và chủ nghĩa duy tâm còn lâu mới hoàn toàn bác bỏ được nhau. Nhà toán học và lôgíc học, nhà siêu hình học vĩ đại người Đức là Lépnít, người mà vào thời của mình đã biết khá rõ lịch sử triết học (ông cũng là người đầu tiên sử dụng các thuật ngữ “các nhà duy vật” và “các nhà duy tâm”), đã chỉ ra rằng, “đa số các trường phái triết học đều đúng trong phần lớn các nhận định của mình, song các trường phái đó cũng bị sai ở việc phủ định” (Thư gửi người theo phái Platon ở Pháp Nicôlai Râymông, ngày 10 tháng Giêng năm 1714).
Về sau, nhà triết học duy tâm Đức vĩ đại Hêghen (1770 - 1831) - người đã sáng tạo ra một hệ thống đa diện của triết học và được xem như là sự tổng kết toàn bộ tiến trình lịch sử triết học, trong những suy tư của mình, đã đưa ra ý niệm cho rằng, tất cả các hệ thống triết học đều là nhất thời, song chúng đã tạo ra các phạm trù và những ý niệm riêng, mang ý nghĩa đặc biệt. Các phạm trù và những ý niệm ấy đang tiếp tục tồn tại một cách độc lập, hoặc đang tồn tại trong các hệ thống mới khác. Tuy nhiên, một mặt, Hêghen đã xem hệ thống triết học của mình là duy nhất đúng; mặt khác, lại cho rằng, hệ thống đó cần được làm rõ trong sự xem xét của tiến trình lịch sử triết học (vả lại, không chỉ có Hêghen đã giải thích như vậy về học thuyết của mình).
Nền tảng chủ - khách thể của triết học cho phép chúng ta lý giải một số học thuyết với tư cách những học thuyết hỗn dung nhưng lại thiên về phía khách thể (như chủ nghĩa duy vật), số khác thì thiên về phía chủ thể. Thậm chí, nhiều học thuyết trong số các học thuyết đó cũng muốn tìm ra ý nghĩa xác định của triết học trong các nghiên cứu theo hướng nhận thức luận và trong các hệ thống triết học. Tuy các học thuyết ấy lệ thuộc một cách rõ rệt vào lĩnh vực chủ thể, song không có một hệ thống bản thể luận nào, bằng cách này hay cách khác lại bỏ qua những khách thể nào đó của nó. Điều này dường như cũng đúng cho cả khuynh hướng có sự phát triển khá mạnh mẽ là chủ nghĩa thực chứng thế kỷ ở XIX - XX (mặc dù các yếu tố cụ thể của nó xuất hiện sớm hơn nhiều). Đây là khuynh hướng đã đưa ra yếu tố cấu thành của khoa học - nhận thức luận để chống lại khuynh hướng phổ biến – khuynh hướng siêu hình.
Xét toàn bộ nội dung quan điểm của triết học đời sống và chủ nghĩa hiện sinh, có thể nói, những khuyết tật của chúng đã đặc biệt thể hiện ra ở sự đối lập giữa con người tinh thần và con người thân xác; trong sự cách biệt đáng kể ở mức độ nhiều hay ít, là sự đối lập giữa con người và tự nhiên; còn trong một mức độ nhất định, là sự đối lập giữa con người và tồn tại xã hội - văn minh. Những nghiên cứu kinh nghiệm - phân tích, cũng như các quan điểm khác với các hệ thống triết học nói trên, về thực chất, đã bỏ qua con người chỉnh thể với toàn bộ tính phức tạp về đời sống của nó. Cũng đã có một tham vọng muốn nắm bắt tính chỉnh thể tinh thần - vật chất, chủ - khách thể của tồn tại, tức là tính chỉnh thể từng được thực hiện trong nhiều triết học ở thời Cổ đại, thời Trung cổ và thời Cận đại, đến thế kỷ XIX – XX, nó lại được tái diễn trong điều kiện xuất hiện những thành tựu mới trong các lĩnh vực toán học, lôgíc học, vật lý học và những lĩnh vực khác của tri thức khoa học tự nhiên.
Ở đây, một số hệ thống của các nhà triết học Anh - Mỹ đã liên kết với nhau thành khuynh hướng tân hiện thực và thể hiện rõ mối quan tâm hàng đầu của mình. Đặc biệt nổi bật về phương diện này là Alfred Waithed (1861 - 1947). Ông là tác giả của công trình Điểm khởi đầu của toán học (1910 - 1913, viết cùng với học trò là Rátxen) được xem là một trong những công trình căn bản về lôgíc toán. Về sau, trong một loạt công trình của mình, ông đã xem xét các vấn đề vật lý lý thuyết và triết học tự nhiên. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, Waithed đã chú ý tới việc suy tư về các hiện tượng của sinh học, nhân học, tâm lý học, nghệ thuật, tôn giáo và chính trị. Với ý đồ khắc phục sự phân chia thành cái thân xác và cái tâm lý, nhà triết học Anh - Mỹ này đã cố gắng xây dựng tính đơn nhất của hệ thống, khi giải thích các hiện tượng đa dạng và phức tạp của một hệ thống chỉnh thể – Vũ trụ. Các nhà triết học tham gia nghiên cứu hệ thống đó là Samuel Alechxanđơrơ (mất năm 1938, các công trình chủ yếu của ông, gồm “Không gian. Thời gian và Thượng đế”, 1927), Jan Smitz (mất năm 1950, công trình quan trọng nhất của ông là “Toàn thể luận (Holism) và sự tiến hóa”, năm 1926) và các nhà triết học khác. Họ đã đưa ra thuật ngữ khá thích hợp có gốc từ tiếng Hy Lạp là holism (do Smitz đưa ra) - đó là triết học về tính chỉnh thể mà theo đó, cái toàn vẹn luôn bao hàm một cách khá sâu sắc tri thức mới so với tổng hòa các yếu tố tạo nên tính chỉnh thể đó. Ý niệm về tính hiệu quả của con đường nhận thức từ tính chỉnh thể đến các bộ phận, các yếu tố cấu thành của nó, như chúng ta thấy, đã xuyên suốt nhiều học thuyết triết học, bắt đầu từ triết học Hy Lạp cổ đại. Sự tiến bộ của các tri thức khoa học cụ thể, tự nhiên và xã hội - nhân văn đang đặt ra trước các nhà triết học những nhiệm vụ ngày càng khó khăn hơn khi xem xét chúng trong phạm vi của tính chỉnh thể. Do vậy, có thể nhấn mạnh rằng, phẩm chất trí tuệ hàng đầu của một nhà triết học được quy định bởi trực giác về tính chỉnh thể của ông ta, bởi năng lực nắm bắt sự thống nhất bền vững trong tính đa dạng của các hiện tượng được suy xét - đó là những hiện tượng mà thoạt nhìn, hoàn toàn mang tính mâu thuẫn. Và, tính đa dạng đó càng rộng bao nhiêu, thì bản chất của nó càng sâu bấy nhiêu.
Ý niệm về tính chỉnh thể còn quy định cả đặc điểm của chương trình nghiên cứu hiện đang được tiến hành. Trong chương trình đó, tác giả muốn vạch ra tất cả các ý niệm thế giới quan - triết học cơ bản và chung nhất mà các nhà tư tưởng, đồng thời là những học giả tiêu biểu nhất đã trình bày. Nhiệm vụ đó được thực hiện trong việc xem xét hệ vấn đề của tiến trình thế giới quan và lịch sử triết học. Tính chỉnh thể trong sự xem xét của nó là bằng chứng xác nhận sự chuyển hướng của các ý niệm sâu rộng nhất ở các thời đại trước thành các nhu cầu thế giới quan ở thời đại văn minh này. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là phủ nhận sự xuất hiện các ý niệm triết học mới và thậm chí, cả những phạm trù mới nữa.
Như vậy, trong văn cảnh thuyết toàn thể, chúng ta thấy đã có sự xuất hiện của một quan điểm rộng lớn về cái gọi là sự tiến hóa (emergence), thuật ngữ Latinh xuất hiện vào năm 1875(1). Thực chất của nó nằm trong sự suy tư về tính tự tại của sự phát triển không đồng đều, luôn có bước nhảy vọt đối với những trình độ khá cao về mặt tổ chức - từ cơ thể thô sơ nhất (hoàn toàn không phải là cơ thể đã bị tước mất sự sống) đến những hiện tượng tinh thần và tâm lý cao. Cũng giống như nhiều học thuyết triết học ở thời kỳ Hy Lạp cổ đại, ở thời Trung cổ và Cận đại, trong học thuyết triết học này, cái được xem là chủ đạo và bao hàm cả cái khởi thủy của Vũ trụ là Chúa Trời với tư cách biểu hiện của sự thống nhất chủ - khách thể. Trong chủ nghĩa duy tâm Đức thế kỷ XVIII – XIX, chúng ta nhận thấy các ý niệm giống nhau về sự phát triển tự tại trong tự nhiên, mà tự nhiên thì lại hướng tới tinh thần (như trong triết học tự nhiên của Selinh) và sự tự gia tăng tính sáng tạo của chính thần linh trong các hiện tượng đa dạng của lịch sử, của văn minh và văn hóa (như ở Hêghen).
Khi tiếp tục trình bày hệ vấn đề của tiến trình lịch sử triết học, thuật ngữ “cơ thể” sẽ được sử dụng rộng rãi (trong sách của chúng tôi thường sử dụng thuật ngữ “cơ cấu”), “Thuyết cơ cấu”, về nguyên tắc, tương ứng với các học thuyết nói trên của các nhà triết học Anh nổi tiếng. Khi đề cập tới tính chỉnh thể, tới sự tồn tại nguyên vẹn, thuật ngữ này định hình tính tương tự đối với chủ thể như một cơ cấu định dạng tính chỉnh thể đó ở trình độ trực giác - lý tính. Các yếu tố cụ thể của tự nhiên được nhận thức bằng con đường phân tích - kinh nghiệm thông qua phép quy giản để quy cái phức tạp về cái đơn giản, nghĩa là đạt được sự quy giản đó bằng các phương tiện cảm tính - lý trí. Từ chính các yếu tố đa dạng và duy lý, từ kết quả của nhận thức thực tiễn như vậy mà xuất hiện các trực giác về vật chất và tinh thần của nền văn minh. Loại tri thức cụ thể như vậy cùng với những kết quả của nó sẽ được thể hiện bằng những thuật ngữ có gốc từ tiếng Hy Lạp, đó là “cơ học”, “cơ chế” (mechanỗ - công cụ, máy móc), đồng thời mở rộng đến mức tối đa ý nghĩa của nó (cái đã được đề cập tới một cách tối đa trong cơ học của Niutơn) và kiến giải nó bằng tính đối lập căn bản về nhận thức - tồn tại của toàn bộ cơ thể.
Sự đối lập và tác động qua lại giữa cơ cấu và cơ chế đã xuyên suốt nhiều quan niệm và hệ thống thế giới quan, - bắt đầu từ thế giới quan tôn giáo - thần thoại, - và cả thế giới quan triết học mà ở đó, chúng ta có thể thấu hiểu, khi nghiên cứu chúng một cách cụ thể. Tính cấp thiết của sự tác động qua lại đã được thể hiện khá rõ nét cả trong thời đại ngày nay, khi khoa học tiến đến sát sự kiến tạo nên đời sống và thậm chí, cả con người với tư cách đỉnh điểm và tiêu điểm của khoa học. Nói như vậy, nhưng chúng ta cũng nên quay trở lại với những đặc trưng cụ thể hơn của chủ thể và khách thể.
Ở trên, chúng ta đã xác định rõ rằng, khái niệm khách thể bao hàm trước hết là giới tự nhiên nguyên bản, sau đó mới đến nền văn minh với tư cách khâu trung gian giữa chủ thể và khách thể tự nhiên. Cái phức tạp trong tiến trình lịch sử và lịch sử - triết học là cái được biểu thị bằng thuật ngữ “chủ thể”. Từ những kiến giải của triết học với tư cách tri tín và thế giới quan đã được duy lý hóa, khi xem xét chúng trong triển vọng lịch sử và phương pháp luận, tất yếu sẽ nảy sinh vấn đề chủ thể tập thể có trước chủ thể cá nhân, mặc dù, xét một cách thuần túy về mặt bản thể luận, thì chỉ có chủ thể cá nhân mà thôi. Ngay cả ngôn ngữ mà nhờ đó, nhà triết học tư duy và sáng tạo, cũng biến nó thành yếu tố của chủ thể dân tộc. Đó là còn chưa nói tới nhiều phương diện của nền văn minh và những trực giác, những nhân tố khác nhau về văn hóa tinh thần và tâm lý dân tộc của nó, - và đó cũng chính là cái mà Hêghen gọi là “tinh thần dân tộc”.
Một phương diện khác của chủ thể tập thể chính là nhóm - xã hội, hay là giai cấp (đặc biệt trong truyền thống mácxít). Sự tác động của nó tới triết học không chỉ tới mức tổng thể vốn đã được khẳng định trong truyền thống mácxít, mà còn biểu hiện ở mức độ lớn nhất trong những giới hạn chính trị - xã hội của nó và hơn nữa, trong các học thuyết triết học chính trị độc lập.
Tính đa dạng thứ ba, tính đa dạng được xem là căn bản của chủ thể - đó là chủ thể có nhân cách - người sáng tạo trực tiếp ra tất cả các học thuyết triết học. Có thể khẳng định rằng, trình độ chuyển hóa của bất kỳ tính đa dạng nào về thế giới quan thành triết học đều có quan hệ trực tiếp với nội dung nhân cách của nó. Cái mang tính quyết định đối với triết học là chủ thể có nhân cách, tức chủ thể luôn gắn bó mật thiết với chủ thể tập thể. Sự sáng tạo của một nhân cách có thể dẫn tới sự thay đổi nào đó, thậm chí còn dẫn tới sự phá vỡ cả truyền thống.
Ở đây, cần phải đề cập tới một trong những vấn đề lớn nhất của tiến trình lịch sử triết học tức những vấn đề làm rõ tính quy định về mặt xã hội của nó. Đó là vấn đề về mối quan hệ qua lại giữa triết học và hệ tư tưởng.
Thuật ngữ này do nhà triết học Pháp Antuan de Trasi đề xuất trong công trình của ông có nhan đề “Các yếu tố của hệ tư tưởng” (1801). Kế tiếp các nhà triết học khác ở Pháp, ông đã bày tỏ sự bất bình đối với các nhà tư tưởng siêu hình theo khuynh hướng tiền thực chứng – những người đã quá đề cao tính hệ thống của triết học và cho rằng, quan niệm của họ là hết sức tư biện, là sự bịa đặt. Ở đây, cần lưu ý rằng, do không quan tâm đến tính hệ thống, một số nhà tư tưởng đã hướng quan điểm của mình đến những chủ thể chính trị - đó là dân tộc, giai cấp, đảng phái và các phong trào xã hội. Loại hệ tư tưởng như vậy đã xuất hiện và tồn tại suốt hàng thế kỷ và thậm chí hàng nghìn năm trước khi xuất hiện chính thuật ngữ này. Trước hết, đó là những tri tín tôn giáo, đặc biệt các tri tín đã xuất hiện vào thời kỳ hình thành tôn giáo đơn thần. Cái làm nên hạt nhân trong các tri tín đó đã tạo nên những giáo điều vững chắc, cứng nhắc đến tột độ. Và, niềm tin phi khoa học vào các giáo điều ấy đã hướng con người tới các thần khải của kinh thánh. Tuy nhiên, dù sao đi nữa, trong sự hình thành của chúng, dẫu là với mức độ thấp hơn cũng như trong sự vận động tiếp theo của chúng, các giáo điều ấy đã sử dụng một số ý niệm triết học để bứt phá ra khỏi văn cảnh hệ thống của chúng. Thí dụ điển hình nhất, như chúng ta thấy, là Thiên Chúa giáo.
Giữa triết học và hệ tư tưởng vốn không có ranh giới rõ ràng, thậm chí, đôi khi còn không thể nhận ra được các ranh giới đó, nếu xét đến sự tương đồng về các hình thức thế giới quan. Do vậy, tất cả các hệ tư tưởng đều tuyên bố về tính chân lý của mình một cách cực quyền, thậm chí là dựa vào trực giác. Tính chân lý của một giai cấp, trên thực tế, luôn được khẳng định là đương nhiên, thậm chí còn cho đó là phổ biến. Tính giai cấp này cũng được kiến giải như là tính đảng của mọi chân lý. Thêm nữa, triết học với tư cách thế giới quan thượng lưu, mang tính cá nhân thường thể hiện tính đảng và tính hoài nghi ở mức độ này hay mức độ khác. Đã là nhà triết học chân chính thì không thể mang tính đảng, mà vượt lên trên tính đảng và có thể đi ngược lại giai tầng của mình, luôn giữ lập trường phê phán đối với chính dân tộc mình. Một thí dụ khá điển hình là Xôcrát, người đã từng nói rằng, ông đứng về phía nhân dân Aten như cừu đứng cạnh ngựa, cốt để cho ngựa không lơ là cảnh giác và không bị lâm vào tình trạng lười biếng. Trên thực tế, do cái đó mà ông đã hy sinh cả mạng sống của mình. Và, đã từng có biết bao trường hợp tương tự như vậy trong đời sống của các nhà triết học! Sức mạnh của nhà triết học chính là ở chỗ trở thành người chiến sĩ đấu tranh cho chân lý, bởi theo lời của nhà triết học nổi tiếng Tây Ban Nha - Ortega - I - Gaxet (1883 - 1955), “chân lý chỉ thoáng hiện ra ở con người có khát vọng về nó, kỳ vọng vào nó và trong lý tính của người đó luôn chuẩn bị cho nó một vị trí” (B.14, tr.150)(2). Từ điều nói trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, chức năng quan trọng nhất của triết học là ở việc điều chỉnh “những lệch lạc” khác nhau, đặc biệt khi hệ tư tưởng này hay hệ tư tưởng khác được giáo điều hóa, trở thành một hệ thống cứng nhắc của các tín niệm và hành vi ở quy mô một loạt các quốc gia./.
Nguồn: Tạp chí Triết học, số 9 (208), 2008. Bản điện tử: https://www.vientriethoc.com.vn/?vientriet=articles_deltails&id=812&cat=45&pcat=
(1) Emergence - học thuyết triết học của chủ nghĩa duy tâm Anh - Mỹ hiện đại, theo đó sự xuất hiện của những cái mới về chất là không thể nhận biết được và không theo quy luật tự nhiên.
(2)Xin xem: T.N.Ôizerơman. Triết học với tư cách lịch sử triết học. Mátxcơva, 1999, tr. 150 (tiếng Nga).
[1]Giáo sư, tiến sĩ triết học, Khoa Triết học, Đại học Lômônôxốp.
Số 9 (208), 2008
--- o0o ---
NHẬP MÔN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
[Phần 1]
[Phần 1]
V. V. Xôcôlốphttps://triethoc.edu.vn/#_ftn1
Triethoc: “Nhập môn lịch sử triết học”của V.V.Xôcôlốp đã được sử dụng như một giáo trình cho sinh viên khoa triết học của các trường đại học tổng hợp thuộc Liên bang Nga. Trong cuốn sách này, V.V. Xôcôlốp đã đưa ra một quan niệm mới về triết học với tư cách lịch sử triết học. Không chỉ thế, trong cuốn sách này, ông còn đưa ra quan điểm coi lịch sử triết học như là triết học trong quá trình phát triển lịch sử của nó và nhiều tư tưởng độc đáo liên quan đến tính đặc thù của tri thức triết học, đến nhận thức triết học và lịch sử của nó. (Lời giới thiệu của Tạp chí Triết học)
THẾ GIỚI QUAN VÀ TRIẾT HỌC
VỚI TƯ CÁCH NHỮNG HIỆN TƯỢNG CHUNG NHẤT CỦA VĂN HÓA TINH THẦN
VỚI TƯ CÁCH NHỮNG HIỆN TƯỢNG CHUNG NHẤT CỦA VĂN HÓA TINH THẦN
Triết học là một thành tố rất cổ của văn hóa tinh thần, là trí tuệ của loài người và không dễ gì nhận thức được nó. Cái khó trong việc nắm bắt triết học trước hết bị quy định bởi diện rộng tới mức tối đa các khái niệm triết học. Tính đa nghĩa của phần lớn các khái niệm ấy luôn gây khó cho sự hiểu biết về nội dung của chúng, về mối quan hệ qua lại giữa chúng với nhau và giiữa chúng với các khái niệm triết học khác, cũng như vai trò của chúng đối với đời sống con người. Phương pháp quan trọng nhất, nếu không nói đó là phương pháp cơ bản về hiệu quả của việc nghiên cứu các khái niệm triết học, chính là việc nghiên cứu lịch sử triết học từ khi nó mới phát sinh. Một khoa học càng chính xác bao nhiêu và thêm nữa, nó lại được toán học hóa, thì đòi hỏi phải tìm hiểu sự phát triển trước đó của nó càng nhẹ hơn. Ngược lại, việc nghiên cứu các khoa học xã hội - nhân văn lại không thể thiếu những am hiểu căn bản về lịch sử trước đó của chúng. Việc làm rõ chính các hệ vấn đề triết học trên thực tế đã cho thấy, hoàn toàn không thể thiếu tri thức về toàn bộ lịch sử trước đây của nó.
Chúng ta đã có rất nhiều định nghĩa về triết học. Đó là những định nghĩa chung, cụ thể và mang tính ẩn dụ. Các định nghĩa ấy đã định hình được sự đa dạng về việc giải thích triết học mà các học giả đưa ra, trong đó có một số học giả sẽ được chúng tôi dẫn ra trong cuốn sách này tùy theo văn cảnh trình bày. Trước hết, chúng tôi xin nhắc lại rằng, triết học hoàn toàn mang tính khái quát, kể cả trong trường hợp nó tác động qua lại với các thành tố khác của văn hóa tinh thần - trí tuệ, tức là với tôn giáo và thần luận với tư cách phương diện “lý luận” của nó, xuất hiện khi triết học còn chưa ra đời, với nghệ thuật và sự suy ngẫm về nghệ thuật (xuất hiện trong chính triết học), với khoa học và những thành tố khác. Sự tương đồng của các hình thái thế giới quan thể hiện tính đa diện của đời sống con người đã gây khó khăn lớn cho việc định nghĩa triết học. Sự tương đồng ấy có thể và cần phải hiểu với tư cách một khoa học phức tạp nhất về con người (điều được đề cập tới bằng chính thuật ngữ Hy Lạp cổ là “yêu mến sự thông thái”), với tư cách con người hành động và tư duy, còn khi xét trong vô vàn các phương diện khác nhau thì đó là sinh thể có tinh thần và thể xác.
Xuất phát từ điều nói trên, hoàn toàn có thể hiểu đối tượng của triết học như là tổng hòa các mối quan hệ chủ - khách thể. Các thuật ngữ “chủ thể” và “khách thể” bằng tiếng Latinh đã xuất hiện trong Triết học Kinh viện Tây Âu thời kỳ Trung cổ và hiện nay, nghĩa của chúng đã được thừa nhận một cách phổ biến - tối đa như các quan hệ nhận thức - thực tế của con người trong tính hiện thực đối lập với nó là tự nhiên và xã hội, thể hiện những nhu cầu và hoạt động của trí óc, của trái tim và của thân xác con người. Dĩ nhiên, một định nghĩa như vậy về triết học có thể được coi là hoàn toàn thích hợp cho cả thế giới quan vốn không thể tách rời triết học, bởi nó quá chung, quá rộng, song, như chúng ta đã thấy, ngay từ khi xuất hiện các mối quan hệ nói trên thì những ý niệm của các nhà triết học và thậm chí, của nhiều nhà tư tưởng vốn không cho mình là những nhà triết học, về nguyên tắc, vẫn được hàm chứa trong công thức đó.
Chúng tôi không muốn đặt ra một góc nhìn cho trước đối với việc nghiên cứu tiếp theo về hệ vấn đề triết học mà các nhà triết học đã trình bày. Ở đây, chúng tôi muốn chỉ ra rằng, trong triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII - XIX, hệ vấn đề đó đã được nghiên cứu với quy mô đặc biệt sâu rộng. Một trong những nhà sáng lập nền triết học đó là Iôganơ Phíchtơ, người đã chú trọng đến việc suy xét hệ vấn đề đạo đức - xã hội và luôn đặt đối lập chủ thể người - “cái Tôi” (và cả “cái Tôi”) với tổng hòa các khách thể mâu thuẫn với nó - “cái Không - tôi”. Khi chứng minh cho sự khẳng định dứt khoát của mình về xuất phát điểm là “cái Tôi” và cũng là để hiểu cho đúng mọi “cái Không - tôi”, Phíchtơ đã xác định lập trường của mình đứng về phía “chủ nghĩa duy tâm”, đối lập với lập trường của “chủ nghĩa giáo điều” (hay là “chủ nghĩa duy vật”). C.Mác và Ph.Ăngghen đã coi Phíchtơ là một trong những bậc tiền bối của mình, nhưng các ông lại thay đổi thái độ đó, đồng thời khẳng định rằng, một lập trường đúng đắn duy nhất, phù hợp với toàn bộ lịch sử thực tiễn và phát triển của loài người về triết học và khoa học là chủ nghĩa duy vật, bởi nó giải thích tinh thần con người như một hiện tượng phái sinh và thứ phát so với vật chất. Do vậy, toàn bộ lịch sử triết học được chủ nghĩa Mác diễn tả như là sự đối lập và đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Thế nhưng, sự gián đoạn mang tính nhị nguyên hóa đã quá nhấn mạnh “con người đang sống” như một sinh thể tinh thần - thể xác và thể xác - tinh thần. Khác với tính phổ biến đến tối đa của vật chất và tinh thần, được đặt đối lập với nhau trong “tính thứ nhất” và “tính thứ hai”, mối quan hệ chủ - khách thể là sự thừa nhận sự thống nhất giữa hai mặt của con người - tinh thần và thể xác như một sinh thể hiện thực có nhận thức. Thật vậy, khi chú ý đến vai trò to lớn của các khoa học, đến sự tác động qua lại của chúng với triết học để tạo nên yếu tố cấu thành quan trọng về đối tượng nghiên cứu, chúng ta cần phải lưu ý rằng, để phân tích vai trò đó trong nghiên cứu chuyên sâu của các khoa học về tự nhiên, trong việc nghiên cứu theo lối quy giản về tự nhiên thì dường như, lại cần phải phân tách chủ thể ra khỏi khách thể để không những nắm bắt được chúng trong sự thống nhất, mà cả trong sự phân chia nữa. Đồng thời, khách thể tự nhiên cũng trở nên rõ ràng hơn đối với con người, mở ra cho con người khả năng sử dụng một cách có hiệu quả các yếu tố cấu thành hiện thực khách quan tồn tại không phụ thuộc vào con người.
Trên trục đường chính ấy luôn xuất hiện và phát triển một hiện tượng đặc biệt của nền văn minh - đó là cái trung gian giữa chủ thể và khách thể tự nhiên, là khách thể mới và phức tạp hơn nhiều, là hiện thực chủ - khách thể. Cùng với sự phát triển của nền văn minh, lĩnh vực tinh thần của chính con người và nền văn hóa của nó cũng được phát triển, trong đó nhiều yếu tố cấu thành và bộ phận hợp thành của nó có thể được luận giải như là những khía cạnh của triết học.
Để cụ thể hóa tính chủ - khách thể của lĩnh vực tinh thần, về nguyên tắc, cần phải nhấn mạnh rằng, triết học là một hệ thống khá phức tạp của tri tín (tín ngưỡng và tri thức), luôn thể hiện bản chất nhận thức - chân thực của đời sống con người mà ở đó, thường có sự đan xen giữa các yếu tố cấu thành tín ngưỡng và tri thức trong các mối quan hệ qua lại khác nhau. Dĩ nhiên, ở đây không đề cập đến riêng niềm tin tôn giáo - tín ngưỡng mà tính nhất quyết tuyệt đối trong các giáo điều của niềm tin ấy đã đạt tới đỉnh điểm trong nguồn gốc thần luận về thuyết đơn thần của Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo và các tôn giáo khác. Với nội dung đầy đủ và được suy ra từ các kinh thánh, những giáo điều ấy đã có trước mọi “tri thức”, trước hết là đối với “tri thức” tôn giáo. Béctơrăng Rátxen đã rất thành công khi xác định bản chất của triết học như là tri tín trong phần Nhập môn “Lịch sử triết học phương Tây”, đồng thời giải thích lĩnh vực trung gian như là “vùng đất hoang” nằm giữa thần học và khoa học mà cả hai đều tấn công “mảnh đất ấy” từ hai phía đối lập nhau, nhưng không bao giờ đụng độ nhau. Chỉ có niềm tin thế giới quan triết học mới được đặc trưng bởi tính đầy đủ về mặt nhận thức luận, nhận thức - lý luận, song nếu thiếu trình độ nhất định về tri thức, niềm tin đó cũng sẽ bị mất ý nghĩa về mặt chức năng. Phương diện nhận thức khoa học của triết học lại đòi hỏi một định nghĩa khác cho nó, đó là định nghĩa bổ sung chứ không phải là loại bỏ định nghĩa trước đó.
Định nghĩa đó, theo tín niệm của tác giả, phải được coi là một định nghĩa về thế giới quan đã được hệ thống hóa ở mức độ cao nhất, được duy lý hóa đến tối đa trong thời đại của nó. Trong tổ hợp tri tín, chính khoa học lại quy định nội dung của yếu tố cấu thành thứ hai. Ngoài ra, để làm rõ một định nghĩa đã được hình thành, cần phải vạch ra ý nghĩa của cụm từ “thế giới quan” vốn đa nghĩa và rất rộng trong tiếng Đức và tiếng Nga. Trong các tài liệu triết học Đức, thuật ngữ “thế giới quan” (Weltanschauung) xuất hiện vào thế kỷ XVIII (còn trong ngôn ngữ Nga, nó xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX). Trên phương diện triết học, thế giới quan được đặc trưng bởi tính xác định và tính hệ thống ở mức độ thấp hơn, khi nó được sử dụng trong các văn cảnh khác nhau. Người ta thường nói đến các thế giới quan: tôn giáo, nghệ thuật, đạo đức, khoa học tự nhiên theo nghĩa các thế giới quan này, xét về mặt hệ thống, thể hiện các tín niệm ít được luận chứng (hoặc hoàn toàn không được luận chứng) và còn lâu, mới dựa trên tính đầy đủ về sự kiện.
Ở đây, cả thuật ngữ “duy lý hóa” cũng cần phải được làm rõ. Trong những điều kiện của nền văn minh Hy Lạp cổ đại, triết học đã xuất hiện đồng thời với các khoa học khác. Vào thời kỳ Trung cổ, triết học thường được đồng nhất với tổng hòa các khoa học (“các nền nghệ thuật tự do”), mặc dù ở giai đoạn Êlê trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, toán học, thiên văn học và thậm chí, cả những nhận thức kinh nghiệm (vốn được xem là đặc thù của thời đó) về địa lý, văn học, nhất là y học, đã phát triển ngoài văn cảnh triết học. Trong tư liệu triết học phương Tây và của Nga, chúng ta cũng thường thấy những nhận định cho rằng, trong quá trình phát triển của văn hóa trí tuệ đã có các khoa học cụ thể khác nhau được tách ra từ triết học. Vả lại, triết học chưa bao giờ là cha đẻ của khoa học cả, nhưng nó đã từng xuất hiện và được phát triển trong mối liên hệ mật thiết với các khoa học. Triết học và các khoa học đã cùng nhau tạo nên những bộ phận cấu thành quan trọng nhất của sự duy lý hóa.
Do vậy, cần phải nói rằng, về căn bản, chúng ta cần phải hiểu các khoa học trong sự tác động qua lại của chúng với triết học thời cổ đại, kể cả các hình thức tác động khác trong những thời đại tiếp theo, như toán học và các tri thức khoa học tự nhiên. Vào thời cổ đại, các khoa học đã phát triển một cách riêng lẻ, sự liên kết giữa chúng chúng chỉ diễn ra vào thời Cận đại, thời đại của Galilê, Đêcáctơ và Niutơn, khi mà các khoa học đang ngày càng trở thành lực lượng sản xuất. Trên cơ sở đó, nhiều nhà nghiên cứu khoa học, thậm chí cả những nhà triết học, đã giải thích thời đại đó như là sự khởi đầu của riêng tri thức khoa học. Song, đó là quan niệm giản đơn, không thể chấp nhận được đối với nhà nghiên cứu lịch sử triết học. Trên thực tế, cần phải định nghĩa khoa học vốn được hiểu trong tính chỉnh thể của nó như một tri thức đã được chuyên môn hóa mà trước hết, công dụng của nó về mặt thực tiễn là sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể của con người. Đồng thời, cần phải kết nối khoa học với quá trình phát triển và tổ chức lao động trí óc trong sự tác động qua lại của nó với lao động chân tay. Chỉ có trên cơ sở đó, mới có thể phát huy được tính năng động của cả hai nhân tố này trong khoa học. Cùng với đó là phương pháp kinh nghiệm thực tiễn - kinh nghiệm cảm tính mà chúng ta thường sử dụng trong quá trình sáng tạo các tri thức thực tiễn vốn có và bền vững - các tri thức đó được củng cố trong bộ nhớ của loài người. Nhân tố này là vốn có đối với loài người ngay từ thời tiền sử, tiền văn minh. Về nguyên tắc, nó vẫn là nhân tố quy định ngay cả trong những điều kiện của các nền văn minh cổ đại Ai Cập và Babilon, nơi mà toán học, thiên văn học và y học rất phát triển (đó là khoa học kinh nghiệm cảm tính trong số các khoa học tự nhiên, và như chúng ta đã thấy, hiện vẫn còn tiếp tục phát triển). Song, như chúng ta đều biết, chỉ có ở Hy Lạp cổ đại mới có sự xuất hiện và phát triển lý thuyết - diễn dịch của tri thức khoa học trong các trường phái triết học. Do lệ thuộc trực tiếp vào nhân tố này mà lôgíc học mới ra đời trong chính triết học Hy Lạp cổ đại. Thiếu lôgíc học sẽ không thể có bất kỳ một sự duy lý hóa nào cả.
Mặc dù vậy, chúng ta vẫn không thể quy lôgíc học về sự tác động của nó tới việc xuất hiện tri thức khoa học, cũng như tới sự phát triển tiếp theo của triết học. Sự tiến bộ của đời sống kinh tế (đặc biệt là sự xuất hiện của tiền tệ), sự ra đời của pháp luật nhằm điều chỉnh các mối quan hệ tài sản của con người cũng như một số nhân tố khác của nền văn minh đã mở rộng và làm sâu sắc thêm khuynh hướng duy lý hóa.
Tuy nhiên, khi nhấn mạnh nhân tố duy lý hóa, chúng ta không được phép bỏ qua tính huyền diệu của vô vàn các hiện tượng tự nhiên và các khách thể của tri thức, đặc biệt là trong thời kỳ Cổ đại – thời kỳ mà triết học xuất hiện, và hơn thế nữa là tính huyền bí về sự xuất hiện của con người. Chúng ta cũng không được phép bỏ qua tính vô cùng phức tạp của bản chất con người mà yếu tố trí tuệ cấu thành của nó không phải bao giờ cũng mang tính chủ đạo. Phương diện này của sinh thể người và hoạt động nhận thức của con người được thể hiện rõ khi xác định triết học như một hệ thống tri tín. Như chúng ta đều biết, triết học Hy Lạp cổ đại đã xuất hiện trong điều kiện mà ở đó, một tổ hợp của sự duy lý hóa dường như đã trở nên đầy đủ cho quá trình này. Đó trước hết là xuất hiện của các ý niệm về nhận thức luận, về bản thể luận, nhân bản học và đạo đức - xã hội; sau đó là các hệ thống duy lý vĩ đại của Platôn và Arixtốt vào thời kỳ được gọi là cổ điển ở trình độ cao của nền văn hóa Êlê. Và, ngay cả ở một trong những trường phái triết học đầu tiên là Pitago, thì các nhà triết học của trường phái này cũng vẫn vấp phải những khó khăn không thể giải quyết được bằng lôgíc học khi xem xét một số yếu tố hình học (đó là điều mà họ đã cố giấu đi). Về sau, vào thời kỳ hậu cổ điển, khuynh hướng nhà triết học hoài nghi – Pirông đã phủ nhận hoàn toàn khả năng xuất hiện của tri thức xác thực.
Các ý niệm phi duy lý không chỉ làm mất khả năng, mà còn thu hẹp quy mô của triết học duy lý hóa, trước hết là về phương diện kiến giải hiện tượng con người. Các ý niệm đó đã thâm nhập vào triết học, đặc biệt là từ phía niềm tin tôn giáo, từ các tín niệm Hy Lạp cổ đại và sau đó, ngày càng nhiều hơn từ các vùng Trung Cận Đông. Hệ thống đơn thần vĩ đại của Thiên Chúa giáo đã được một số ý niệm sơ cấp của triết học Hy Lạp cổ đại tiếp thu và do vậy, các yếu tố phi duy lý của nó đã xuất hiện ngày một mạnh mẽ. Ở đây, sự đối lập giữa phi duy lý và duy lý đã có sự gia tăng đáng kể, trước hết là từ nhân tố ý chí – nơi cấu thành lĩnh vực hoạt động cảm giác của con người và không lệ thuộc vào sự chỉ đạo của trí óc với tư cách trung tâm của những năng lực và khả năng trí tuệ. Một hình thức cực đoan của thuyết phi duy lý tôn giáo là thần học đã xuất hiện, khi nhấn mạnh tính tuyệt đối không thể nhận thức được về phương diện sinh thể của các vị thần mang nhân cách mà con người, khi đối thoại với các thần này cũng trở nên huyền bí như vậy từ trong sâu thẳm của tâm hồn mình.
Những thành tựu công nghệ và những thành tựu khác của nền văn minh nhân loại đã tìm cho bản thân mình sự phản ánh trong các ý niệm duy lý và trong các hệ thống triết học Tây Âu thời Cận đại. Sự toàn diện nhất và vĩ đại nhất trong số các ý niệm và hệ thống đó đã xuất hiện ở Đức vào thế kỷ XVIII – XIX, trong các tác phẩm của Cantơ, Phíchtơ, Seling và Hêghen. Song hành với điều đó là sự gia tăng các mặt đối lập của chính nền văn minh nhân loại. Đặc biệt, nhận thức của một số nhà triết học Đức về tính phức tạp, đa dạng của đời sống và tinh thần con người (và không chỉ riêng họ) đã làm nảy sinh các ý niệm phi duy lý, đồng thời làm cho các hệ thống triết học phi duy lý phát triển. Học thuyết có ảnh hưởng khá mạnh trong số đó là học thuyết của Sôpenhauơ (1788 - 1860). Ngược lại với ý niệm căn bản của nhà phiếm lôgíc Hêghen về lý tính thế giới vốn hướng sự phát triển của văn minh và văn hóa vừa tầm với trình độ hiểu biết của các nhà triết học, Sôpenhauơ đã đưa ra ý niệm đối lập với ý chí mù quáng và tự tại mà người ta vẫn thường sử dụng để biện luận cho tính bí ẩn của tồn tại và tính phi duy lý của đời sống con người.
Toàn bộ khuynh hướng đó dường như là của nền triết học Đức vốn được mệnh danh là “triết học đời sống” (thuật ngữ này đã từng xuất hiện vào thế kỷ XVIII). Nhà tư tưởng lớn nhất và khá nổi tiếng của khuynh hướng đó là diễn giả tài ba Nítsơ (1844 - 1900). Đặc điểm nổi bật của triết học đời sống là sự hạ thấp bằng mọi cách năng lực trí tuệ và khả năng của con người, đồng thời nhấn mạnh những thiếu sót về nhận thức của lý tính - cái dường như là sức mạnh không gì lay chuyển nổi của lôgíc học. Nhà tư tưởng Pháp Bécxông (1859 - 1941) cũng đã phát triển triết lý khá mạnh mẽ đó theo khuynh hướng nói trên. Một nhà lý luận nổi tiếng của “triết học đời sống” - nhà triết học Đức Vinhem Đintây (1833 - 1911) đã được xem là học giả có trình độ hiểu biết nhiều về lịch sử triết học, là tác giả của nhiều tác phẩm thơ ca và các công trình tâm lý học. Ở một trong những tác phẩm lớn nhất của mình là Nhập môn tinh thần khoa học (1883), ông đã đặt đối lập khoa học nhân văn với tư cách khoa học được con người biết đến khá nhiều với các khoa học tự nhiên. Theo ông, con người, với những mức độ xác tín khác nhau, cũng chỉ giải thích được những hiện tượng rời rạc của tự nhiên mà thôi. Chủ thể trong sự nhận thức tự nhiên đã hội tụ trong nó tất cả những điều mà ông quan tâm, lại được ông đặt đối lập với chính khách thể tự nhiên bên ngoài. Trong hiện tượng đặc biệt của ý thức con người, đối với ông, cái xác định không phải là quá trình nhận thức trong sự tác động của nó với thế giới khách quan bên ngoài, mà là áp lực đối với sự trải nghiệm tâm lý, ý chí, cảm xúc, bản năng, v.v.. Tính chỉnh thể của nhận thức được thể hiện trong các nhân tố đa dạng của kinh nghiệm bên trong, được liên kết bởi khái niệm “đời sống”, tức là khái niệm mà về căn bản, được hiểu bằng trực giác.
Một khuynh hướng rất gần gũi với triết học đời sống và có uy tín là chủ nghĩa hiện sinh - “triết học về sự hiện hữu”. Khuynh hướng này đã nhận được sự tán thành của không ít học giả ở Nga vào thế kỷ XX (Berơđêép, Séctốp), ở Đức (Giaxpe, Haiđơgơ), ở Pháp (Xáctơrơ, Mắcxen, Camuy) cũng như ở Mỹ, Tây Ban Nha và các nước khác. Mục đích chủ yếu của chủ nghĩa hiện sinh là vạch ra ý nghĩa bản thể luận về sự hiện hữu của cá nhân con người trước tính phức tạp của tồn tại mang tính siêu nghiệm trong quan hệ với con người. Do vậy, nó luôn phải giải quyết hệ vấn đề hết sức phức tạp về tự do (đặc biệt là khi đối mặt với cái chết) mà con người không thể tránh được. Véctơ siêu nghiệm của con người trong hoàn cảnh đó luôn hướng tới hoặc là Chúa, hoặc một cách giản đơn, không tới cái gì cả.
Ngay cả trong một số khuynh hướng phi duy lý được cho là quan trọng, nếu mô tả hoàn toàn bằng lược đồ, cũng dễ nhận thấy rằng, không thể có lý thuyết phi duy lý “thuần túy”. Lý thuyết này chỉ có thể là sự thần bí hoá mà thôi. Thuyết phi duy lý triết học ở trình độ này hay trình độ khác đều bao hàm các yếu tố của thuyết duy lý. Các trường hợp triết học đối lập cũng gặp không ít tình huống như vậy. Như chúng ta đều biết, trong sự đa dạng của các ý niệm triết học và ngay cả các học thuyết triết học còn lâu mới có hiện tượng một nhà triết học nào đó lấy tư tưởng của mình để phủ định hoàn toàn tư tưởng của các nhà triết học khác. Đương nhiên, trong lịch sử triết học, cũng đã xuất hiện các triết thuyết thuộc loại đó. Một trong số đó là chủ nghĩa Mác - Lênin - một học thuyết từng tuyên bố chủ nghĩa duy vật biện chứng là duy nhất mang tính khoa học và hoàn toàn bác bỏ các quan điểm triết học cơ bản của chủ nghĩa duy tâm. Trên thực tế, như chúng ta đã thấy, chủ nghĩa duy vật với tư cách một hình thức triết học tự nhiên (xét trên bình diện rộng nhất, chứ không phải theo ý nghĩa của mỹ học) và chủ nghĩa duy tâm còn lâu mới hoàn toàn bác bỏ được nhau. Nhà toán học và lôgíc học, nhà siêu hình học vĩ đại người Đức là Lépnít, người mà vào thời của mình đã biết khá rõ lịch sử triết học (ông cũng là người đầu tiên sử dụng các thuật ngữ “các nhà duy vật” và “các nhà duy tâm”), đã chỉ ra rằng, “đa số các trường phái triết học đều đúng trong phần lớn các nhận định của mình, song các trường phái đó cũng bị sai ở việc phủ định” (Thư gửi người theo phái Platon ở Pháp Nicôlai Râymông, ngày 10 tháng Giêng năm 1714).
Về sau, nhà triết học duy tâm Đức vĩ đại Hêghen (1770 - 1831) - người đã sáng tạo ra một hệ thống đa diện của triết học và được xem như là sự tổng kết toàn bộ tiến trình lịch sử triết học, trong những suy tư của mình, đã đưa ra ý niệm cho rằng, tất cả các hệ thống triết học đều là nhất thời, song chúng đã tạo ra các phạm trù và những ý niệm riêng, mang ý nghĩa đặc biệt. Các phạm trù và những ý niệm ấy đang tiếp tục tồn tại một cách độc lập, hoặc đang tồn tại trong các hệ thống mới khác. Tuy nhiên, một mặt, Hêghen đã xem hệ thống triết học của mình là duy nhất đúng; mặt khác, lại cho rằng, hệ thống đó cần được làm rõ trong sự xem xét của tiến trình lịch sử triết học (vả lại, không chỉ có Hêghen đã giải thích như vậy về học thuyết của mình).
Nền tảng chủ - khách thể của triết học cho phép chúng ta lý giải một số học thuyết với tư cách những học thuyết hỗn dung nhưng lại thiên về phía khách thể (như chủ nghĩa duy vật), số khác thì thiên về phía chủ thể. Thậm chí, nhiều học thuyết trong số các học thuyết đó cũng muốn tìm ra ý nghĩa xác định của triết học trong các nghiên cứu theo hướng nhận thức luận và trong các hệ thống triết học. Tuy các học thuyết ấy lệ thuộc một cách rõ rệt vào lĩnh vực chủ thể, song không có một hệ thống bản thể luận nào, bằng cách này hay cách khác lại bỏ qua những khách thể nào đó của nó. Điều này dường như cũng đúng cho cả khuynh hướng có sự phát triển khá mạnh mẽ là chủ nghĩa thực chứng thế kỷ ở XIX - XX (mặc dù các yếu tố cụ thể của nó xuất hiện sớm hơn nhiều). Đây là khuynh hướng đã đưa ra yếu tố cấu thành của khoa học - nhận thức luận để chống lại khuynh hướng phổ biến – khuynh hướng siêu hình.
Xét toàn bộ nội dung quan điểm của triết học đời sống và chủ nghĩa hiện sinh, có thể nói, những khuyết tật của chúng đã đặc biệt thể hiện ra ở sự đối lập giữa con người tinh thần và con người thân xác; trong sự cách biệt đáng kể ở mức độ nhiều hay ít, là sự đối lập giữa con người và tự nhiên; còn trong một mức độ nhất định, là sự đối lập giữa con người và tồn tại xã hội - văn minh. Những nghiên cứu kinh nghiệm - phân tích, cũng như các quan điểm khác với các hệ thống triết học nói trên, về thực chất, đã bỏ qua con người chỉnh thể với toàn bộ tính phức tạp về đời sống của nó. Cũng đã có một tham vọng muốn nắm bắt tính chỉnh thể tinh thần - vật chất, chủ - khách thể của tồn tại, tức là tính chỉnh thể từng được thực hiện trong nhiều triết học ở thời Cổ đại, thời Trung cổ và thời Cận đại, đến thế kỷ XIX – XX, nó lại được tái diễn trong điều kiện xuất hiện những thành tựu mới trong các lĩnh vực toán học, lôgíc học, vật lý học và những lĩnh vực khác của tri thức khoa học tự nhiên.
Ở đây, một số hệ thống của các nhà triết học Anh - Mỹ đã liên kết với nhau thành khuynh hướng tân hiện thực và thể hiện rõ mối quan tâm hàng đầu của mình. Đặc biệt nổi bật về phương diện này là Alfred Waithed (1861 - 1947). Ông là tác giả của công trình Điểm khởi đầu của toán học (1910 - 1913, viết cùng với học trò là Rátxen) được xem là một trong những công trình căn bản về lôgíc toán. Về sau, trong một loạt công trình của mình, ông đã xem xét các vấn đề vật lý lý thuyết và triết học tự nhiên. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, Waithed đã chú ý tới việc suy tư về các hiện tượng của sinh học, nhân học, tâm lý học, nghệ thuật, tôn giáo và chính trị. Với ý đồ khắc phục sự phân chia thành cái thân xác và cái tâm lý, nhà triết học Anh - Mỹ này đã cố gắng xây dựng tính đơn nhất của hệ thống, khi giải thích các hiện tượng đa dạng và phức tạp của một hệ thống chỉnh thể – Vũ trụ. Các nhà triết học tham gia nghiên cứu hệ thống đó là Samuel Alechxanđơrơ (mất năm 1938, các công trình chủ yếu của ông, gồm “Không gian. Thời gian và Thượng đế”, 1927), Jan Smitz (mất năm 1950, công trình quan trọng nhất của ông là “Toàn thể luận (Holism) và sự tiến hóa”, năm 1926) và các nhà triết học khác. Họ đã đưa ra thuật ngữ khá thích hợp có gốc từ tiếng Hy Lạp là holism (do Smitz đưa ra) - đó là triết học về tính chỉnh thể mà theo đó, cái toàn vẹn luôn bao hàm một cách khá sâu sắc tri thức mới so với tổng hòa các yếu tố tạo nên tính chỉnh thể đó. Ý niệm về tính hiệu quả của con đường nhận thức từ tính chỉnh thể đến các bộ phận, các yếu tố cấu thành của nó, như chúng ta thấy, đã xuyên suốt nhiều học thuyết triết học, bắt đầu từ triết học Hy Lạp cổ đại. Sự tiến bộ của các tri thức khoa học cụ thể, tự nhiên và xã hội - nhân văn đang đặt ra trước các nhà triết học những nhiệm vụ ngày càng khó khăn hơn khi xem xét chúng trong phạm vi của tính chỉnh thể. Do vậy, có thể nhấn mạnh rằng, phẩm chất trí tuệ hàng đầu của một nhà triết học được quy định bởi trực giác về tính chỉnh thể của ông ta, bởi năng lực nắm bắt sự thống nhất bền vững trong tính đa dạng của các hiện tượng được suy xét - đó là những hiện tượng mà thoạt nhìn, hoàn toàn mang tính mâu thuẫn. Và, tính đa dạng đó càng rộng bao nhiêu, thì bản chất của nó càng sâu bấy nhiêu.
Ý niệm về tính chỉnh thể còn quy định cả đặc điểm của chương trình nghiên cứu hiện đang được tiến hành. Trong chương trình đó, tác giả muốn vạch ra tất cả các ý niệm thế giới quan - triết học cơ bản và chung nhất mà các nhà tư tưởng, đồng thời là những học giả tiêu biểu nhất đã trình bày. Nhiệm vụ đó được thực hiện trong việc xem xét hệ vấn đề của tiến trình thế giới quan và lịch sử triết học. Tính chỉnh thể trong sự xem xét của nó là bằng chứng xác nhận sự chuyển hướng của các ý niệm sâu rộng nhất ở các thời đại trước thành các nhu cầu thế giới quan ở thời đại văn minh này. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là phủ nhận sự xuất hiện các ý niệm triết học mới và thậm chí, cả những phạm trù mới nữa.
Như vậy, trong văn cảnh thuyết toàn thể, chúng ta thấy đã có sự xuất hiện của một quan điểm rộng lớn về cái gọi là sự tiến hóa (emergence), thuật ngữ Latinh xuất hiện vào năm 1875(1). Thực chất của nó nằm trong sự suy tư về tính tự tại của sự phát triển không đồng đều, luôn có bước nhảy vọt đối với những trình độ khá cao về mặt tổ chức - từ cơ thể thô sơ nhất (hoàn toàn không phải là cơ thể đã bị tước mất sự sống) đến những hiện tượng tinh thần và tâm lý cao. Cũng giống như nhiều học thuyết triết học ở thời kỳ Hy Lạp cổ đại, ở thời Trung cổ và Cận đại, trong học thuyết triết học này, cái được xem là chủ đạo và bao hàm cả cái khởi thủy của Vũ trụ là Chúa Trời với tư cách biểu hiện của sự thống nhất chủ - khách thể. Trong chủ nghĩa duy tâm Đức thế kỷ XVIII – XIX, chúng ta nhận thấy các ý niệm giống nhau về sự phát triển tự tại trong tự nhiên, mà tự nhiên thì lại hướng tới tinh thần (như trong triết học tự nhiên của Selinh) và sự tự gia tăng tính sáng tạo của chính thần linh trong các hiện tượng đa dạng của lịch sử, của văn minh và văn hóa (như ở Hêghen).
Khi tiếp tục trình bày hệ vấn đề của tiến trình lịch sử triết học, thuật ngữ “cơ thể” sẽ được sử dụng rộng rãi (trong sách của chúng tôi thường sử dụng thuật ngữ “cơ cấu”), “Thuyết cơ cấu”, về nguyên tắc, tương ứng với các học thuyết nói trên của các nhà triết học Anh nổi tiếng. Khi đề cập tới tính chỉnh thể, tới sự tồn tại nguyên vẹn, thuật ngữ này định hình tính tương tự đối với chủ thể như một cơ cấu định dạng tính chỉnh thể đó ở trình độ trực giác - lý tính. Các yếu tố cụ thể của tự nhiên được nhận thức bằng con đường phân tích - kinh nghiệm thông qua phép quy giản để quy cái phức tạp về cái đơn giản, nghĩa là đạt được sự quy giản đó bằng các phương tiện cảm tính - lý trí. Từ chính các yếu tố đa dạng và duy lý, từ kết quả của nhận thức thực tiễn như vậy mà xuất hiện các trực giác về vật chất và tinh thần của nền văn minh. Loại tri thức cụ thể như vậy cùng với những kết quả của nó sẽ được thể hiện bằng những thuật ngữ có gốc từ tiếng Hy Lạp, đó là “cơ học”, “cơ chế” (mechanỗ - công cụ, máy móc), đồng thời mở rộng đến mức tối đa ý nghĩa của nó (cái đã được đề cập tới một cách tối đa trong cơ học của Niutơn) và kiến giải nó bằng tính đối lập căn bản về nhận thức - tồn tại của toàn bộ cơ thể.
Sự đối lập và tác động qua lại giữa cơ cấu và cơ chế đã xuyên suốt nhiều quan niệm và hệ thống thế giới quan, - bắt đầu từ thế giới quan tôn giáo - thần thoại, - và cả thế giới quan triết học mà ở đó, chúng ta có thể thấu hiểu, khi nghiên cứu chúng một cách cụ thể. Tính cấp thiết của sự tác động qua lại đã được thể hiện khá rõ nét cả trong thời đại ngày nay, khi khoa học tiến đến sát sự kiến tạo nên đời sống và thậm chí, cả con người với tư cách đỉnh điểm và tiêu điểm của khoa học. Nói như vậy, nhưng chúng ta cũng nên quay trở lại với những đặc trưng cụ thể hơn của chủ thể và khách thể.
Ở trên, chúng ta đã xác định rõ rằng, khái niệm khách thể bao hàm trước hết là giới tự nhiên nguyên bản, sau đó mới đến nền văn minh với tư cách khâu trung gian giữa chủ thể và khách thể tự nhiên. Cái phức tạp trong tiến trình lịch sử và lịch sử - triết học là cái được biểu thị bằng thuật ngữ “chủ thể”. Từ những kiến giải của triết học với tư cách tri tín và thế giới quan đã được duy lý hóa, khi xem xét chúng trong triển vọng lịch sử và phương pháp luận, tất yếu sẽ nảy sinh vấn đề chủ thể tập thể có trước chủ thể cá nhân, mặc dù, xét một cách thuần túy về mặt bản thể luận, thì chỉ có chủ thể cá nhân mà thôi. Ngay cả ngôn ngữ mà nhờ đó, nhà triết học tư duy và sáng tạo, cũng biến nó thành yếu tố của chủ thể dân tộc. Đó là còn chưa nói tới nhiều phương diện của nền văn minh và những trực giác, những nhân tố khác nhau về văn hóa tinh thần và tâm lý dân tộc của nó, - và đó cũng chính là cái mà Hêghen gọi là “tinh thần dân tộc”.
Một phương diện khác của chủ thể tập thể chính là nhóm - xã hội, hay là giai cấp (đặc biệt trong truyền thống mácxít). Sự tác động của nó tới triết học không chỉ tới mức tổng thể vốn đã được khẳng định trong truyền thống mácxít, mà còn biểu hiện ở mức độ lớn nhất trong những giới hạn chính trị - xã hội của nó và hơn nữa, trong các học thuyết triết học chính trị độc lập.
Tính đa dạng thứ ba, tính đa dạng được xem là căn bản của chủ thể - đó là chủ thể có nhân cách - người sáng tạo trực tiếp ra tất cả các học thuyết triết học. Có thể khẳng định rằng, trình độ chuyển hóa của bất kỳ tính đa dạng nào về thế giới quan thành triết học đều có quan hệ trực tiếp với nội dung nhân cách của nó. Cái mang tính quyết định đối với triết học là chủ thể có nhân cách, tức chủ thể luôn gắn bó mật thiết với chủ thể tập thể. Sự sáng tạo của một nhân cách có thể dẫn tới sự thay đổi nào đó, thậm chí còn dẫn tới sự phá vỡ cả truyền thống.
Ở đây, cần phải đề cập tới một trong những vấn đề lớn nhất của tiến trình lịch sử triết học tức những vấn đề làm rõ tính quy định về mặt xã hội của nó. Đó là vấn đề về mối quan hệ qua lại giữa triết học và hệ tư tưởng.
Thuật ngữ này do nhà triết học Pháp Antuan de Trasi đề xuất trong công trình của ông có nhan đề “Các yếu tố của hệ tư tưởng” (1801). Kế tiếp các nhà triết học khác ở Pháp, ông đã bày tỏ sự bất bình đối với các nhà tư tưởng siêu hình theo khuynh hướng tiền thực chứng – những người đã quá đề cao tính hệ thống của triết học và cho rằng, quan niệm của họ là hết sức tư biện, là sự bịa đặt. Ở đây, cần lưu ý rằng, do không quan tâm đến tính hệ thống, một số nhà tư tưởng đã hướng quan điểm của mình đến những chủ thể chính trị - đó là dân tộc, giai cấp, đảng phái và các phong trào xã hội. Loại hệ tư tưởng như vậy đã xuất hiện và tồn tại suốt hàng thế kỷ và thậm chí hàng nghìn năm trước khi xuất hiện chính thuật ngữ này. Trước hết, đó là những tri tín tôn giáo, đặc biệt các tri tín đã xuất hiện vào thời kỳ hình thành tôn giáo đơn thần. Cái làm nên hạt nhân trong các tri tín đó đã tạo nên những giáo điều vững chắc, cứng nhắc đến tột độ. Và, niềm tin phi khoa học vào các giáo điều ấy đã hướng con người tới các thần khải của kinh thánh. Tuy nhiên, dù sao đi nữa, trong sự hình thành của chúng, dẫu là với mức độ thấp hơn cũng như trong sự vận động tiếp theo của chúng, các giáo điều ấy đã sử dụng một số ý niệm triết học để bứt phá ra khỏi văn cảnh hệ thống của chúng. Thí dụ điển hình nhất, như chúng ta thấy, là Thiên Chúa giáo.
Giữa triết học và hệ tư tưởng vốn không có ranh giới rõ ràng, thậm chí, đôi khi còn không thể nhận ra được các ranh giới đó, nếu xét đến sự tương đồng về các hình thức thế giới quan. Do vậy, tất cả các hệ tư tưởng đều tuyên bố về tính chân lý của mình một cách cực quyền, thậm chí là dựa vào trực giác. Tính chân lý của một giai cấp, trên thực tế, luôn được khẳng định là đương nhiên, thậm chí còn cho đó là phổ biến. Tính giai cấp này cũng được kiến giải như là tính đảng của mọi chân lý. Thêm nữa, triết học với tư cách thế giới quan thượng lưu, mang tính cá nhân thường thể hiện tính đảng và tính hoài nghi ở mức độ này hay mức độ khác. Đã là nhà triết học chân chính thì không thể mang tính đảng, mà vượt lên trên tính đảng và có thể đi ngược lại giai tầng của mình, luôn giữ lập trường phê phán đối với chính dân tộc mình. Một thí dụ khá điển hình là Xôcrát, người đã từng nói rằng, ông đứng về phía nhân dân Aten như cừu đứng cạnh ngựa, cốt để cho ngựa không lơ là cảnh giác và không bị lâm vào tình trạng lười biếng. Trên thực tế, do cái đó mà ông đã hy sinh cả mạng sống của mình. Và, đã từng có biết bao trường hợp tương tự như vậy trong đời sống của các nhà triết học! Sức mạnh của nhà triết học chính là ở chỗ trở thành người chiến sĩ đấu tranh cho chân lý, bởi theo lời của nhà triết học nổi tiếng Tây Ban Nha - Ortega - I - Gaxet (1883 - 1955), “chân lý chỉ thoáng hiện ra ở con người có khát vọng về nó, kỳ vọng vào nó và trong lý tính của người đó luôn chuẩn bị cho nó một vị trí” (B.14, tr.150)(2). Từ điều nói trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, chức năng quan trọng nhất của triết học là ở việc điều chỉnh “những lệch lạc” khác nhau, đặc biệt khi hệ tư tưởng này hay hệ tư tưởng khác được giáo điều hóa, trở thành một hệ thống cứng nhắc của các tín niệm và hành vi ở quy mô một loạt các quốc gia./.
Trần Nguyên Việt dịch
Nguồn: Tạp chí Triết học, số 9 (208), 2008. Bản điện tử: https://www.vientriethoc.com.vn/?vientriet=articles_deltails&id=812&cat=45&pcat=
(1) Emergence - học thuyết triết học của chủ nghĩa duy tâm Anh - Mỹ hiện đại, theo đó sự xuất hiện của những cái mới về chất là không thể nhận biết được và không theo quy luật tự nhiên.
(2)Xin xem: T.N.Ôizerơman. Triết học với tư cách lịch sử triết học. Mátxcơva, 1999, tr. 150 (tiếng Nga).
[1]Giáo sư, tiến sĩ triết học, Khoa Triết học, Đại học Lômônôxốp.