Hide Nguyễn
Du mục số
- Xu
- 1,943
Nhạc jazz từ đâu đến?
Những tập tục văn hóa và âm nhạc truyền thống Tây Phi theo chân những người nô lệ đến Mỹ và phát triển qua nhiều thời kỳ, đó là nguồn cội của nhạc jazz...
Posted Image
Những năm 1700
New Wolrd những năm 1700 đang còn thịnh trị chế độ nô lệ. Tầng lớp chủ nô đối xử hà khắc và man rợ, coi những người nô lệ của mình không bằng loài vật, nhất là những người thuộc bộ lạc Tây Phi bị xiềng xích và đem bán như những đồ vật rẻ tiền. Những người nô lệ Tây Phi phải lao động nhọc nhằn, sinh hoạt trong điều kiện cực nhục, bị nghiêm cấm cả việc trò chuyện và tụ tập đông đúc.
Để phản kháng chế độ bất công và giải toả mối uất hận tinh thần, họ tìm đến âm nhạc. Chính âm nhạc đã trở thành phương tiện cứu cánh trong đời sống cơ cực bần hàn của những người nô lệ da đen Tây Phi. Họ giao lưu và chuyển tải những thông tin bí mật bằng âm nhạc, và trên hết, nghệ thuật âm nhạc là phương cách hữu hiệu để họ giải toả nỗi niềm, tâm tư, tình cảm, nỗi buồn tha hương và khát vọng tự do của mình.
Những tập tục văn hóa và âm nhạc truyền thống Tây Phi theo chân những người nô lệ góp mặt tại New Wolrd, tại “Thế giới mới” này: đó là những câu hò đối đáp khi lao động, là những câu chuyện truyền khẩu do một người khởi xướng và đám đông hưởng ứng, là những giai điệu buồn mênh mang của những bài dân ca tôn giáo có tên gọi là Spiritual, trái ngược với những giai điệu thê lương là những tiết tấu mạnh mẽ sôi động, dữ dội của những nhạc khí gõ trong vũ điệu lễ hội.
Dần dần sinh hoạt văn hóa của những người nô lệ Tây Phi trở thành một phần nền tảng của nghệ thuật âm nhạc châu Mỹ, được biết dưới tên gọi nhạc jazz.
Vào những năm 1800
Nước Mỹ được xem là “vùng đất hứa”. Dân châu Âu đổ xô đến miền đất xa lạ này với hy vọng tìm kiếm cơ may làm giàu để đổi đời. Và thế là, những phong tục tập quán trong sinh hoạt văn hóa của các dân tộc châu Âu cũng “di cư” cùng họ tới đất Mỹ xa xôi.
Các thành phố và bến cảng ở Mỹ vang lên không ngớt những điệu nhảy Quadrille của người Pháp, điệu nhảy cuồng nhiệt Flamenco của người Tây Ban Nha, điệu Jig vui nhộn, ngộ nghĩnh của người Ailen, điệu Valse thanh lịch, quý phái của dân tộc Đức… Và chính phong cách “đa quốc gia” ảnh hưởng sâu đậm lên nền âm nhạc Mỹ.
Xu hướng kết hợp hai nền âm nhạc châu Phi và châu Âu rất được ưa chuộng. Cuộc hôn phối âm nhạc này cho ra đời loại nhạc mới gọi là "Ragtime”, đó là sự phối hợp tài tình giữa giai điệu du dương và mênh mang buồn của cộng động người da đen với phong cách nhạc nhảy sôi nổi từng bừng có cấu trúc mạch lạc, khúc triết của các dân tộc da trắng châu Âu. Chiếc nôi đón nhận sự ra đời của Ragtime là Missouri. Những năm cuối thế kỷ 19 rất nhiều nhạc sỹ đến Missouri để phát triển và hoàn thiện tài danh âm nhạc của mình. Một trong những nhà soạn nhạc Ragtime thành công là Scott Joplin.
Cũng từ truyền thống nhạc Spizitual, dòng nhạc Blues bắt đầu hình thành khoảng đầu những năm 1890. Qua phong cách Blues các ca sỹ mặc sức phô diễn khả năng giọng hát của mình tới tận cùng để lột tả sức sống mãnh liệt của nội tâm và sự sâu thẳm của các trạng thái xúc cảm.
Những năm 1900
Bến cảng New Orleans đón nhận âm nhạc của tất cả các dân tộc đến đây nhập cư. Trước tiên phải kể đến người Pháp, họ là những người khai phá và thành phố New Orleans là thuộc địa của Pháp vào những năm 1700. Sau đó một thời gian nó thuộc quyền cai trị của Tây Ban Nha. Tới đầu thế kỷ 19 thành phố tiếp tục đón nhận những kẻ đi khai phá đến từ Anh Quốc, Ailen, Scotlen, Đức và Ý..
Cư dân ở New Orleans có nguồn gốc từ nhiều nền văn hóa khác nhau hội tụ lại. Sự giao thoa giữa các nền âm nhạc cho ra đời một thể loại âm nhạc mới gọi là “Jazz”. Tên gọi “Jazz” chính thức xuất hiện vào những năm đầu thế kỷ 20. Nhạc Jazz bao gồm nhạc Mỹ gốc châu Phi hòa quyện với nhạc dân tộc các nước châu Âu, cùng với nhạc Blues, nhạc Rigtime, nhạc nhà binh và một số thể loại khác tạo nên.
Những năm 1920
Sau 2 thập niên, một thế hệ mới đến tuổi trưởng thành. Những thanh niên này dịch chuyển lên phương Bắc nhằm tìm kiếm những cơ hội mới tại các thành phố như Chicago, New York. Nhạc Blues và nhạc Jazz là những “hành trang văn hóa” mà họ mang theo bắt đầu lan tỏa tại các thành phố phương Bắc nước Mỹ.
Tâm lý giới trẻ có nhiều chuyển biến phức tạp sau những năm đại chiến thế giới thứ nhất. Họ phản đối những quan điểm cổ điển của thế hệ cha mẹ. Các hộp đêm mọc lên như nấm. Thanh niên đắm mình trong những điệu Blues và Jazz sinh động và cuồng nhiệt. Cải cách trang phục được các cô gái nhiệt liệt tán thưởng, mốt cắt tóc ngắn với những chiếc váy ngắn cũn cởn như một thách thức nổi loạn, phản kháng của giới trẻ với những “cấm kỵ” xưa cũ.
Sự suy thoái của chiến tranh không kéo dài. Sau những năm 20, nền kinh tế được cải thiện và có chiều hướng phát triển nhanh chóng. Lần đầu tiên máy quay đĩa hát và máy thu thanh tràn ngập thị trường. Nhạc Jazz thoát khỏi địa vị thấp kém, xoàng xĩnh trong các hộp đêm rẻ tiền, góp tiếng nói trên làn sóng của đài phát thanh, và góp mặt trong các vũ trường và khách sạn sang trọng.
Những năm 1930
Posted Image
Nước Mỹ rơi vào khủng hoảng tài chính trầm trọng. Đời sống người dân hết sức khó khăn. Điều kiện giải trí theo sở nguyện bị xếp xó. Radio trở thành phương tiện hầu như duy nhất giữ vai trò trung tâm giải trí. Mọi người đành thoả mãn đam mê âm nhạc bằng cách nhún nhảy, khiêu vũ theo những điệu Jazz vang lên êm dịu và uyển chuyển được phát trên đài gọi là “Big band swing”. Swing là những điệu nhạc phổ biến nhất thập niên 1930 - 1940. Sức hấp dẫn của Swing giúp người dân giải trí một cách nhẹ nhàng và quên đi phần nào những cực nhọc vất vả của thời kỳ “đại suy thoái”.
Trong những năm này, ở một thành phố khác của Mỹ, thành phố duy nhất dường như thoát khỏi thời kỳ “đại suy thoái” - Kansas - tiền bạc chảy vào những chốn ăn chơi, cờ bạc, rượu chè, ma túy. Cuộc sống về đêm ở những chốn này trở thành nguyên nhân để nhạc Jazz được ưa chuộng. Một thứ nhạc Swing buông thả và tự nhiên chủ nghĩa trở nên quyến rũ trong những hộp đêm nhan nhản khắp thành phố. Kansas hút các nhạc sỹ nhạc Jazz thất nghiệp ở nơi khác về đây kiếm sống, vì thế chẳng bao lâu sau, đời sống của nhạc Jazz ở Kansas trở nên sôi động không kém gì New York hay Chicago.
Những năm 1940
Đại chiến thế giới thứ 2, hàng triệu người Mỹ gốc Phi bị tổng động viên ra mặt trận và đầu quân vào phục vụ trong quân đội. Nạn phân biệt chủng tộc và ngược đãi người da đen xảy ra khắp nơi và trên mọi phương diện, kể cả trong âm nhạc: những nghệ sỹ Jazz tài năng người da đen bị thất sủng, các ban nhạc Jazz của người da trắng được thành lập.
Những năm 1950
Chuyển sang thập niên 50, những phương tiện giải trí của người Mỹ chuyển hướng qua truyền hình và phim ảnh. Nhạc Jazz đối diện với sự cạnh tranh mới, các phòng khiêu vũ còn lại không nhiều, nhường chỗ cho chương trình truyền hình Milton Berle giới thiệu Elvis Presley với thể loại mới hơn ”Rock’n' roll”ra đời, được thế hệ trẻ đón nhận sôi nổi.
Những năm 1960 về sau
Trong suốt những năm 60, phong trào đòi nhân quyền của những người Mỹ gốc Phi nổi dậy khắp nước Mỹ. Các công ty sản xuất đĩa nhạc và các câu lạc bộ của người da trắng đã khống chế sự phát triển nghệ thuật và nguồn thu nhập tài chính của những người da đen. Một số nghệ sỹ da đen tách ra hoạt động tự do, tiếp tục cho ra đời những thứ âm nhạc phức hợp, mạnh mẽ, sinh động và dần dần đưa nhạc Jazz đi theo những hướng mới.
Sau thập niên 60, nhạc Jazz phát triển mạnh, có sức lan toả ra toàn cầu như một loại nhạc đại diện cho tự do. Sự cộng sinh kết hợp với sự chuyển hóa đã khoác lên mình nhạc Jazz tấm áo choàng mới, số phận mới, địa vị mới, nhạc Jazz đón nhận vị trí xứng đáng hơn và trở thành một hình thức nghệ thuật có tầm vóc quốc tế…
Số phận của một loại hình thức nghệ thuật có thể biến động không ngừng. Tìm cách phân loại và định nghĩa chúng thường tỏ rõ sự hạn chế và thiếu chính xác. Thêm vào đó, “tên hiệu” có thể giới hạn sự chọn lựa và đem lại sự mỏi mệt cho chúng ta. Nên chăng, hãy thưởng thức và học hỏi thứ nghệ thuật làm bạn đam mê bằng nhiều cách và các phương tiện khác nhau!
Theo PGS TS Nguyễn Minh
[FLASH]https://www.nhaccuatui.com/m/-vnfqTBIK5[/FLASH]
-----------
Một số chuyên gia âm nhạc cho rằng nhạc Jazz là một quà tặng tuyệt vời nhất của châu Mỹ đối với nền âm nhạc thế giới. Thể loại nhạc này bắt nguồn từ chính cuộc sống của những người Mỹ - Phi.
Gần đây, có rất nhiều bộ phim chiếu tại các kênh truyền hình Mỹ nói về lịch sử của nhạc Jazz và các thời kỳ phát triển của nó. Các nhà làm phim thông qua những bộ phim để nói về sự ra đời một thể loại âm nhạc mới của những người da đen, người lai da đen và người Mỹ da trắng.
"Jazz" là sự hòa trộn của ba dòng nhạc Swing, Bebop và Fusion. Nhạc Jazz đem đến cho người nghe nhiều cảm xúc khác nhau, lúc buồn vui, khi trầm lắng sôi động. Riêng với thể loại nhạc này, các nhạc công chính là người sáng tác những bản Jazz mới bằng cách vừa chơi nhạc, vừa ngẫu hứng thổi hồn mình phiêu lãng qua những nốt nhạc. Mỗi lần họ chơi, bản nhạc dường như có một sức sống mới mẻ hơn tùy vào cảm xúc của họ. Các nhạc công nhạc Jazz thực sự khiến cho khán giả đi từ những bất ngờ này đến những bất ngờ khác, rất thú vị, cuốn hút bằng sự phá cách trong các giai điệu truyền thống và những xúc cảm lớn trong từng khoảnh khắc bay bổng, phiêu du, da diết lạ kỳ.
Nhạc Jazz có từ thế kỷ 19. Người Mỹ - Phi bắt đầu phát triển thể loại nhạc này vào cuối những nǎm 1880. Từ âm nhạc của người Mỹ da đen và những bài hát buồn về những năm tháng sống cuộc đời nô lệ, họ đã tạo ra thể loại nhạc Blue. Bên cạnh nhạc Blue, nhạc Ragtime (nhạc ractim của người Mỹ da đen) cũng có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành của nhạc Jazz. Thể loại nhạc này vào những nǎm 1890 rất được ưa chuộng tại miền Nam nước Mỹ.
Các nhạc sĩ người Mỹ - Phi và những người lai da đen ở New Orleans, Louisiana là người phát triển thể loại nhạc Jazz vào đầu những năm 1900. Các nhạc công này trong những buổi trình diễn tại các lễ kỷ niệm và cuộc diễu hành ngày hội đã ngẫu hứng sáng tạo thêm vào những bản nhạc đã viết từ trước. Thể loại nhạc khởi xuất từ New Orleans này thường được gọi là nhạc Jazz cổ điển, Jazz truyền thống hay còn gọi là nhạc Jazz Dixieland. Từ New Orleans, các nhạc sĩ như Jelly Roll Morton, Sidney Bechet và King Oliver đã đưa nhạc Jazz đến nhiều nơi khác. Từ đó, nhạc Jazz ngày càng được ưa chuộng và được thế giới biết đến.
Các nhà sử học thường gọi những nǎm 1920 là thời đại nhạc Jazz hay còn gọi là thời kỳ hoàng kim của thể loại nhạc Jazz Mỹ. Trong thời kỳ này, lớp thanh niên ở miền Tây đã tạo ra một thể loại nhạc mới. Người ta gọi đây là thể loại nhạc Jazz phong cách Chicago. Sau đó, thể loại nhạc Jazz có tên gọi là Swing cũng trở nên rất phổ biến ở Mỹ.
Sau Thế chiến II, nhạc Jazz phong cách swing không được ưa chuộng nữa. Người ta đã thay đổi sở thích để đến với những thể loại nhạc mới lạ. Một trong những loại nhạc đó là bebop, hay còn gọi là nhạc pop. Thể loại nhạc này xuất hiện vào đầu những năm 1940, do những nhạc sĩ trẻ như nhạc công chơi kèn trompet Dizzy Gillespie, tay kèn saxaphone Charlie Parker, nghệ sĩ dương cầm Thelonious Monk và Bud Powell khởi nguồn. Sau đó, Bebop dần trở nên phố biến. Thể loại nhạc này có những biến tấu đem lại cho người nghe nhiều điều bất ngờ.
Cho đến những nǎm 1950, nhạc cool Jazz cũng rất phổ biến. Tay kèn Saxophone Lester Young và tay ghi-ta Charlie Christian là những người đầu tiên khởi nguồn loại nhạc này. Các nhạc cụ của cool jazz đem lại những giai điệu âm thanh nhẹ nhàng du dương hơn nhạc bebop.
Thời kỳ này người ta rất yêu chuộng nhạc Jazz. Có khá nhiều câu lạc bộ nhạc Jazz xuất hiện và các đĩa nhạc Jazz bán rất chạy. Việc đưa ra những đĩa nhạc có thời lượng dài hơn đã thu hút được nhiều người khiến nhạc Jazz càng trở nên nổi tiếng. Với những đĩa nhạc này, người ta có thể nghe một bản nhạc dài hay nhiều bản nhạc ngắn mà không phải thay đổi đĩa nhạc. Buổi hoà nhạc Jazz lớn nhất nước Mỹ đã được tổ chức tại Newport, Rhode Island vào năm 1950. Ngày nay, những buổi hoà nhạc như thế được tổ chức ở khắp nơi trên thế giới.
Trong thời kỳ những nǎm 1950, nhạc Jazz phát triển theo các xu hướng khác nhau. Nhạc sĩ chơi nhạc cổ điển Gunther Schuller đã viết những bản nhạc kết hợp nhạc jazz hiện đại với những âm thanh hoà phối của nhạc cổ điển.
John Coltrane vào thập kỷ 60 đã khởi nguồn một thể loại nhạc mới. Anh đã kết hợp nhạc Jazz cùng với nhạc Ấn Độ. Nhưng một thể loại nhạc mới có tên gọi rock & roll cũng khởi sắc vào thời kỳ này và nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Khắp thế giới đâu đâu người ta cũng nghe nhạc rock của Elvis Presley và của ban nhạc nổi tiếng Beatles. Thể loại âm nhạc mới này đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến nhạc Jazz.
Vào thập kỷ 70, nhạc jazz đã có những ảnh hưởng của Rock. Sự phát triển của các nhạc cụ điện tử góp phần tạo nên sự kết hợp này.
Nhạc Jazz quay trở lại với những âm thanh tryền thống của nó vào thập kỷ 80. Tay kèn trumpet Wynton Marsalis chính là người tiên phong trong phong trào này. Dòng nhạc Jazz này kết hợp các dòng nhạc swing, bebop và cool jazz.
Ngày nay, các nhạc công nhạc Jazz chơi rất nhiều thể loại nhạc mang phong cách Jazz. Âm nhạc của họ có sự pha trộn của phong cách swing và bebop do vậy nghe giống như nhạc rock & roll hay như âm nhạc của những người cao bồi miền tây nước Mỹ.
Tư liệu sưu tầm.
Những tập tục văn hóa và âm nhạc truyền thống Tây Phi theo chân những người nô lệ đến Mỹ và phát triển qua nhiều thời kỳ, đó là nguồn cội của nhạc jazz...
Posted Image
Những năm 1700
New Wolrd những năm 1700 đang còn thịnh trị chế độ nô lệ. Tầng lớp chủ nô đối xử hà khắc và man rợ, coi những người nô lệ của mình không bằng loài vật, nhất là những người thuộc bộ lạc Tây Phi bị xiềng xích và đem bán như những đồ vật rẻ tiền. Những người nô lệ Tây Phi phải lao động nhọc nhằn, sinh hoạt trong điều kiện cực nhục, bị nghiêm cấm cả việc trò chuyện và tụ tập đông đúc.
Để phản kháng chế độ bất công và giải toả mối uất hận tinh thần, họ tìm đến âm nhạc. Chính âm nhạc đã trở thành phương tiện cứu cánh trong đời sống cơ cực bần hàn của những người nô lệ da đen Tây Phi. Họ giao lưu và chuyển tải những thông tin bí mật bằng âm nhạc, và trên hết, nghệ thuật âm nhạc là phương cách hữu hiệu để họ giải toả nỗi niềm, tâm tư, tình cảm, nỗi buồn tha hương và khát vọng tự do của mình.
Những tập tục văn hóa và âm nhạc truyền thống Tây Phi theo chân những người nô lệ góp mặt tại New Wolrd, tại “Thế giới mới” này: đó là những câu hò đối đáp khi lao động, là những câu chuyện truyền khẩu do một người khởi xướng và đám đông hưởng ứng, là những giai điệu buồn mênh mang của những bài dân ca tôn giáo có tên gọi là Spiritual, trái ngược với những giai điệu thê lương là những tiết tấu mạnh mẽ sôi động, dữ dội của những nhạc khí gõ trong vũ điệu lễ hội.
Dần dần sinh hoạt văn hóa của những người nô lệ Tây Phi trở thành một phần nền tảng của nghệ thuật âm nhạc châu Mỹ, được biết dưới tên gọi nhạc jazz.
Vào những năm 1800
Nước Mỹ được xem là “vùng đất hứa”. Dân châu Âu đổ xô đến miền đất xa lạ này với hy vọng tìm kiếm cơ may làm giàu để đổi đời. Và thế là, những phong tục tập quán trong sinh hoạt văn hóa của các dân tộc châu Âu cũng “di cư” cùng họ tới đất Mỹ xa xôi.
Các thành phố và bến cảng ở Mỹ vang lên không ngớt những điệu nhảy Quadrille của người Pháp, điệu nhảy cuồng nhiệt Flamenco của người Tây Ban Nha, điệu Jig vui nhộn, ngộ nghĩnh của người Ailen, điệu Valse thanh lịch, quý phái của dân tộc Đức… Và chính phong cách “đa quốc gia” ảnh hưởng sâu đậm lên nền âm nhạc Mỹ.
Xu hướng kết hợp hai nền âm nhạc châu Phi và châu Âu rất được ưa chuộng. Cuộc hôn phối âm nhạc này cho ra đời loại nhạc mới gọi là "Ragtime”, đó là sự phối hợp tài tình giữa giai điệu du dương và mênh mang buồn của cộng động người da đen với phong cách nhạc nhảy sôi nổi từng bừng có cấu trúc mạch lạc, khúc triết của các dân tộc da trắng châu Âu. Chiếc nôi đón nhận sự ra đời của Ragtime là Missouri. Những năm cuối thế kỷ 19 rất nhiều nhạc sỹ đến Missouri để phát triển và hoàn thiện tài danh âm nhạc của mình. Một trong những nhà soạn nhạc Ragtime thành công là Scott Joplin.
Cũng từ truyền thống nhạc Spizitual, dòng nhạc Blues bắt đầu hình thành khoảng đầu những năm 1890. Qua phong cách Blues các ca sỹ mặc sức phô diễn khả năng giọng hát của mình tới tận cùng để lột tả sức sống mãnh liệt của nội tâm và sự sâu thẳm của các trạng thái xúc cảm.
Những năm 1900
Bến cảng New Orleans đón nhận âm nhạc của tất cả các dân tộc đến đây nhập cư. Trước tiên phải kể đến người Pháp, họ là những người khai phá và thành phố New Orleans là thuộc địa của Pháp vào những năm 1700. Sau đó một thời gian nó thuộc quyền cai trị của Tây Ban Nha. Tới đầu thế kỷ 19 thành phố tiếp tục đón nhận những kẻ đi khai phá đến từ Anh Quốc, Ailen, Scotlen, Đức và Ý..
Cư dân ở New Orleans có nguồn gốc từ nhiều nền văn hóa khác nhau hội tụ lại. Sự giao thoa giữa các nền âm nhạc cho ra đời một thể loại âm nhạc mới gọi là “Jazz”. Tên gọi “Jazz” chính thức xuất hiện vào những năm đầu thế kỷ 20. Nhạc Jazz bao gồm nhạc Mỹ gốc châu Phi hòa quyện với nhạc dân tộc các nước châu Âu, cùng với nhạc Blues, nhạc Rigtime, nhạc nhà binh và một số thể loại khác tạo nên.
Những năm 1920
Sau 2 thập niên, một thế hệ mới đến tuổi trưởng thành. Những thanh niên này dịch chuyển lên phương Bắc nhằm tìm kiếm những cơ hội mới tại các thành phố như Chicago, New York. Nhạc Blues và nhạc Jazz là những “hành trang văn hóa” mà họ mang theo bắt đầu lan tỏa tại các thành phố phương Bắc nước Mỹ.
Tâm lý giới trẻ có nhiều chuyển biến phức tạp sau những năm đại chiến thế giới thứ nhất. Họ phản đối những quan điểm cổ điển của thế hệ cha mẹ. Các hộp đêm mọc lên như nấm. Thanh niên đắm mình trong những điệu Blues và Jazz sinh động và cuồng nhiệt. Cải cách trang phục được các cô gái nhiệt liệt tán thưởng, mốt cắt tóc ngắn với những chiếc váy ngắn cũn cởn như một thách thức nổi loạn, phản kháng của giới trẻ với những “cấm kỵ” xưa cũ.
Sự suy thoái của chiến tranh không kéo dài. Sau những năm 20, nền kinh tế được cải thiện và có chiều hướng phát triển nhanh chóng. Lần đầu tiên máy quay đĩa hát và máy thu thanh tràn ngập thị trường. Nhạc Jazz thoát khỏi địa vị thấp kém, xoàng xĩnh trong các hộp đêm rẻ tiền, góp tiếng nói trên làn sóng của đài phát thanh, và góp mặt trong các vũ trường và khách sạn sang trọng.
Những năm 1930
Posted Image
Nước Mỹ rơi vào khủng hoảng tài chính trầm trọng. Đời sống người dân hết sức khó khăn. Điều kiện giải trí theo sở nguyện bị xếp xó. Radio trở thành phương tiện hầu như duy nhất giữ vai trò trung tâm giải trí. Mọi người đành thoả mãn đam mê âm nhạc bằng cách nhún nhảy, khiêu vũ theo những điệu Jazz vang lên êm dịu và uyển chuyển được phát trên đài gọi là “Big band swing”. Swing là những điệu nhạc phổ biến nhất thập niên 1930 - 1940. Sức hấp dẫn của Swing giúp người dân giải trí một cách nhẹ nhàng và quên đi phần nào những cực nhọc vất vả của thời kỳ “đại suy thoái”.
Trong những năm này, ở một thành phố khác của Mỹ, thành phố duy nhất dường như thoát khỏi thời kỳ “đại suy thoái” - Kansas - tiền bạc chảy vào những chốn ăn chơi, cờ bạc, rượu chè, ma túy. Cuộc sống về đêm ở những chốn này trở thành nguyên nhân để nhạc Jazz được ưa chuộng. Một thứ nhạc Swing buông thả và tự nhiên chủ nghĩa trở nên quyến rũ trong những hộp đêm nhan nhản khắp thành phố. Kansas hút các nhạc sỹ nhạc Jazz thất nghiệp ở nơi khác về đây kiếm sống, vì thế chẳng bao lâu sau, đời sống của nhạc Jazz ở Kansas trở nên sôi động không kém gì New York hay Chicago.
Những năm 1940
Đại chiến thế giới thứ 2, hàng triệu người Mỹ gốc Phi bị tổng động viên ra mặt trận và đầu quân vào phục vụ trong quân đội. Nạn phân biệt chủng tộc và ngược đãi người da đen xảy ra khắp nơi và trên mọi phương diện, kể cả trong âm nhạc: những nghệ sỹ Jazz tài năng người da đen bị thất sủng, các ban nhạc Jazz của người da trắng được thành lập.
Những năm 1950
Chuyển sang thập niên 50, những phương tiện giải trí của người Mỹ chuyển hướng qua truyền hình và phim ảnh. Nhạc Jazz đối diện với sự cạnh tranh mới, các phòng khiêu vũ còn lại không nhiều, nhường chỗ cho chương trình truyền hình Milton Berle giới thiệu Elvis Presley với thể loại mới hơn ”Rock’n' roll”ra đời, được thế hệ trẻ đón nhận sôi nổi.
Những năm 1960 về sau
Trong suốt những năm 60, phong trào đòi nhân quyền của những người Mỹ gốc Phi nổi dậy khắp nước Mỹ. Các công ty sản xuất đĩa nhạc và các câu lạc bộ của người da trắng đã khống chế sự phát triển nghệ thuật và nguồn thu nhập tài chính của những người da đen. Một số nghệ sỹ da đen tách ra hoạt động tự do, tiếp tục cho ra đời những thứ âm nhạc phức hợp, mạnh mẽ, sinh động và dần dần đưa nhạc Jazz đi theo những hướng mới.
Sau thập niên 60, nhạc Jazz phát triển mạnh, có sức lan toả ra toàn cầu như một loại nhạc đại diện cho tự do. Sự cộng sinh kết hợp với sự chuyển hóa đã khoác lên mình nhạc Jazz tấm áo choàng mới, số phận mới, địa vị mới, nhạc Jazz đón nhận vị trí xứng đáng hơn và trở thành một hình thức nghệ thuật có tầm vóc quốc tế…
Số phận của một loại hình thức nghệ thuật có thể biến động không ngừng. Tìm cách phân loại và định nghĩa chúng thường tỏ rõ sự hạn chế và thiếu chính xác. Thêm vào đó, “tên hiệu” có thể giới hạn sự chọn lựa và đem lại sự mỏi mệt cho chúng ta. Nên chăng, hãy thưởng thức và học hỏi thứ nghệ thuật làm bạn đam mê bằng nhiều cách và các phương tiện khác nhau!
Theo PGS TS Nguyễn Minh
[FLASH]https://www.nhaccuatui.com/m/-vnfqTBIK5[/FLASH]
-----------
Một số chuyên gia âm nhạc cho rằng nhạc Jazz là một quà tặng tuyệt vời nhất của châu Mỹ đối với nền âm nhạc thế giới. Thể loại nhạc này bắt nguồn từ chính cuộc sống của những người Mỹ - Phi.
Gần đây, có rất nhiều bộ phim chiếu tại các kênh truyền hình Mỹ nói về lịch sử của nhạc Jazz và các thời kỳ phát triển của nó. Các nhà làm phim thông qua những bộ phim để nói về sự ra đời một thể loại âm nhạc mới của những người da đen, người lai da đen và người Mỹ da trắng.
"Jazz" là sự hòa trộn của ba dòng nhạc Swing, Bebop và Fusion. Nhạc Jazz đem đến cho người nghe nhiều cảm xúc khác nhau, lúc buồn vui, khi trầm lắng sôi động. Riêng với thể loại nhạc này, các nhạc công chính là người sáng tác những bản Jazz mới bằng cách vừa chơi nhạc, vừa ngẫu hứng thổi hồn mình phiêu lãng qua những nốt nhạc. Mỗi lần họ chơi, bản nhạc dường như có một sức sống mới mẻ hơn tùy vào cảm xúc của họ. Các nhạc công nhạc Jazz thực sự khiến cho khán giả đi từ những bất ngờ này đến những bất ngờ khác, rất thú vị, cuốn hút bằng sự phá cách trong các giai điệu truyền thống và những xúc cảm lớn trong từng khoảnh khắc bay bổng, phiêu du, da diết lạ kỳ.
Nhạc Jazz có từ thế kỷ 19. Người Mỹ - Phi bắt đầu phát triển thể loại nhạc này vào cuối những nǎm 1880. Từ âm nhạc của người Mỹ da đen và những bài hát buồn về những năm tháng sống cuộc đời nô lệ, họ đã tạo ra thể loại nhạc Blue. Bên cạnh nhạc Blue, nhạc Ragtime (nhạc ractim của người Mỹ da đen) cũng có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành của nhạc Jazz. Thể loại nhạc này vào những nǎm 1890 rất được ưa chuộng tại miền Nam nước Mỹ.
Các nhạc sĩ người Mỹ - Phi và những người lai da đen ở New Orleans, Louisiana là người phát triển thể loại nhạc Jazz vào đầu những năm 1900. Các nhạc công này trong những buổi trình diễn tại các lễ kỷ niệm và cuộc diễu hành ngày hội đã ngẫu hứng sáng tạo thêm vào những bản nhạc đã viết từ trước. Thể loại nhạc khởi xuất từ New Orleans này thường được gọi là nhạc Jazz cổ điển, Jazz truyền thống hay còn gọi là nhạc Jazz Dixieland. Từ New Orleans, các nhạc sĩ như Jelly Roll Morton, Sidney Bechet và King Oliver đã đưa nhạc Jazz đến nhiều nơi khác. Từ đó, nhạc Jazz ngày càng được ưa chuộng và được thế giới biết đến.
Các nhà sử học thường gọi những nǎm 1920 là thời đại nhạc Jazz hay còn gọi là thời kỳ hoàng kim của thể loại nhạc Jazz Mỹ. Trong thời kỳ này, lớp thanh niên ở miền Tây đã tạo ra một thể loại nhạc mới. Người ta gọi đây là thể loại nhạc Jazz phong cách Chicago. Sau đó, thể loại nhạc Jazz có tên gọi là Swing cũng trở nên rất phổ biến ở Mỹ.
Sau Thế chiến II, nhạc Jazz phong cách swing không được ưa chuộng nữa. Người ta đã thay đổi sở thích để đến với những thể loại nhạc mới lạ. Một trong những loại nhạc đó là bebop, hay còn gọi là nhạc pop. Thể loại nhạc này xuất hiện vào đầu những năm 1940, do những nhạc sĩ trẻ như nhạc công chơi kèn trompet Dizzy Gillespie, tay kèn saxaphone Charlie Parker, nghệ sĩ dương cầm Thelonious Monk và Bud Powell khởi nguồn. Sau đó, Bebop dần trở nên phố biến. Thể loại nhạc này có những biến tấu đem lại cho người nghe nhiều điều bất ngờ.
Cho đến những nǎm 1950, nhạc cool Jazz cũng rất phổ biến. Tay kèn Saxophone Lester Young và tay ghi-ta Charlie Christian là những người đầu tiên khởi nguồn loại nhạc này. Các nhạc cụ của cool jazz đem lại những giai điệu âm thanh nhẹ nhàng du dương hơn nhạc bebop.
Thời kỳ này người ta rất yêu chuộng nhạc Jazz. Có khá nhiều câu lạc bộ nhạc Jazz xuất hiện và các đĩa nhạc Jazz bán rất chạy. Việc đưa ra những đĩa nhạc có thời lượng dài hơn đã thu hút được nhiều người khiến nhạc Jazz càng trở nên nổi tiếng. Với những đĩa nhạc này, người ta có thể nghe một bản nhạc dài hay nhiều bản nhạc ngắn mà không phải thay đổi đĩa nhạc. Buổi hoà nhạc Jazz lớn nhất nước Mỹ đã được tổ chức tại Newport, Rhode Island vào năm 1950. Ngày nay, những buổi hoà nhạc như thế được tổ chức ở khắp nơi trên thế giới.
Trong thời kỳ những nǎm 1950, nhạc Jazz phát triển theo các xu hướng khác nhau. Nhạc sĩ chơi nhạc cổ điển Gunther Schuller đã viết những bản nhạc kết hợp nhạc jazz hiện đại với những âm thanh hoà phối của nhạc cổ điển.
John Coltrane vào thập kỷ 60 đã khởi nguồn một thể loại nhạc mới. Anh đã kết hợp nhạc Jazz cùng với nhạc Ấn Độ. Nhưng một thể loại nhạc mới có tên gọi rock & roll cũng khởi sắc vào thời kỳ này và nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Khắp thế giới đâu đâu người ta cũng nghe nhạc rock của Elvis Presley và của ban nhạc nổi tiếng Beatles. Thể loại âm nhạc mới này đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến nhạc Jazz.
Vào thập kỷ 70, nhạc jazz đã có những ảnh hưởng của Rock. Sự phát triển của các nhạc cụ điện tử góp phần tạo nên sự kết hợp này.
Nhạc Jazz quay trở lại với những âm thanh tryền thống của nó vào thập kỷ 80. Tay kèn trumpet Wynton Marsalis chính là người tiên phong trong phong trào này. Dòng nhạc Jazz này kết hợp các dòng nhạc swing, bebop và cool jazz.
Ngày nay, các nhạc công nhạc Jazz chơi rất nhiều thể loại nhạc mang phong cách Jazz. Âm nhạc của họ có sự pha trộn của phong cách swing và bebop do vậy nghe giống như nhạc rock & roll hay như âm nhạc của những người cao bồi miền tây nước Mỹ.
Tư liệu sưu tầm.