Cuộc kháng chiến chống Mông -Nguyên lần thứ nhất đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong nhiều thế hệ sau. Mãi đến cuối thế kỉ XIII vua Trần Nhân Tông - người anh hùng chống Nguyên còn viết:
“Bạch đầu quan sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong”
(Người lính già đầu bạc.
Mãi kể chuyện Nguyên Phong).
Theo kế hoạch định trước thì quân Mông Cổ sẽ đánh chiếm Nam Tống theo 4 hướng tiến công. Khubilai chỉ huy một cánh quân đánh chiếm Ngạc Châu (Hồ Bắc). Một cánh quân do Tôgatrai chỉ huy đánh xuống Kinh Châu. Mông Kha chỉ huy 4 vạn quân đánh xuống Tứ Xuyên, và Uriangkhađai (Ngột Lương Hợp Thai) chỉ huy cánh quân từ Đại Lý đánh thẳng xuống Đại Việt, từ đó đánh vào Ung Châu (Quảng Tây), Quế Châu (Quảng Tây) rồi tiến lên hợp quân với Khubilai ở Ngạc Châu.
Vậy là cánh quân của Uriangkhaiđai phải thực hiện hai nhiệm vụ: đánh chiếm Đại Việt và từ Đại Việt đánh lên Nam Tống. Chiếm được Đại Việt còn có ý nghĩa lớn sau này cho đế quốc Mông Cổ là lập được bàn đạp cho các cuộc viễn chinh xuống Đông Nam Á. Nguyên sử cho biết: ''Ngột Lương Hợp Thai vào Giao Chỉ định kế ở lâu dài”.
Chiếm được Đại Việt là mục tiêu chiến lược của kế hoạch Mông Kha và đó cũng là cố gắng rất lớn của chúng. Sau khi chiếm được Đại Lý, quân số Mông Cổ chỉ còn hơn 2 vạn người. Chúng còn dùng thêm hơn 2 vạn hàng binh của tên vua đầu hàng Đoàn Hưng Trí sáp nhập làm ''quân tiên phong". Tổng số quân xâm lược do Uriangkhađai chỉ huy có thể tới 4 vạn.
Xuống gần biên giới nước ta, chúng dừng quân và cho sứ giả đưa thư vào Đại Việt đe dọa và dụ hàng. Nhưng 3 lần liên tục cử sứ giả vào Đại Việt, cả ba lần không thấy sứ giả trở về.
Thường xuyên theo dõi tình hình và biết rõ âm mưu xâm lược của quân Mông Cổ, nhà Trần đã chuẩn bị kháng chiến. Tháng 9 - 1257 chủ trại Quy Hóa (dọc hữu ngạn sông Hồng) cho người cấp báo về triều đình tin sứ giả Mông Cổ đến. Tháng 10, vua Trần Thái Tông xuống chiếu cho các tướng điều quân thủy bộ lên miền biên giới Tây Bắc và ra lệnh cho cả nước khẩn trương chuẩn bị đánh giặc. Các sứ giả Mông Cổ láo xược đều bị tống giam ở kinh đô Thăng Long.
Không thấy sứ giả về, Uriangkhađai quyết định tiến công. Y sai Trếch Trếch Đu (Triệt Triệt Đô) và một tướng khác chia quân làm 2 đạo tiến theo tả ngạn và hữu ngạn sông Thao. Đường tả ngạn qua vùng đất các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang ngày nay xuống Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ). Đường hữu ngạn qua vùng đất Quy Hóa (Lào Cai, Yên Bái) cùng xuống Bạch Hạc. Hai đạo quân nhỏ này chỉ là quân đi trước thăm dò, dẫn đường. Theo sau là đạo quân khác do con trai của Uriangkhađai là AJu (A- thuật) chỉ huy. Và cuối cùng là đạo quân do chính Uriangkhađai tiến sau.
Tháng 1 - 1258, hai đạo quân Mông Cổ đi trước cùng đến hội quân ở Bạch Hạc. Sau đó chúng theo đường bộ, hướng về Thăng Long đến Bình Lệ Nguyên. Ở Bình Lệ Nguyên (có lẽ là vùng Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay) nơi có sông Cà Lồ chắn ngang, vua Trần Thái Tông đã lập phòng tuyến chặn giặc.
Thấy quân ta dàn trận bên sông, Aju vội cho người quay lại báo tin với Uriangkhađai thúc quân tiến xuống. Ngày 17- 1- 1258 chúng kéo đến Bình Lệ Nguyên.
Uriangkhađai tiến sát bên kia sông đang tìm cách vượt qua. Y chia quân làm 3 đợt. Đội tiền phong do Trếch Trếch Đu chỉ huy vượt qua sông sang trước. Uriangkhađai dẫn đội trung quân sang sau. Còn Khai đu và Aju dẫn hậu đội vượt sông cuối cùng.
Quân Trếch Trếch Đu vượt sông lên đến bờ bị quân ta chặn đánh quyết liệt. Vua Trần Thái Tông tự mình đốc thúc tướng sĩ, xông vào trận mạc cùng binh sĩ trực tiếp chiến đấu. Tướng Lê Tần (được gọi Lê Phụ Trần) dũng cảm cưỡi ngựa xông vào trận giặc.
Địa hình Bình Lệ Nguyên khá thuận lợi cho kỵ binh Mông Cổ phát huy sở trường của chúng. Trận địa của ta bị lấn dần. Những tên lính Mông Cổ thiện xạ bắn vào voi của ta. Voi hoảng sợ lồng quay lại trước sức tiến công của chúng. Quân ta rời trận địa đến sách Cụ Bản thì có quân tiếp viện của tướng Phạm Cụ Chích tiếp đến. Phạm Cụ Chích đem quân ngăn chặn giặc, và ông hi sinh, nhưng quân Trần đã rút lui an toàn. Nhà vua xuống thuyền ở bến Lãng Mĩ. Quân Mông Cổ đứng trên bờ bắn theo. Lê Tần lấy ván thuyền che cho nhà Vua. Thuyền quân ta theo sông Cà Lồ xuôi về Phủ Lỗ. Âm mưu cướp thuyền, chặn đường rút lui và bắt sống vua Trần của địch hoàn toàn thất bại. Uriangkhađai nổi giận, đổ mọi tội lỗi lên đầu tướng tiên phong. Trếch Trếch Đu hoảng sợ, uống thuốc độc tự tử.
Hôm sau (18- l- 1258) vua Trần cho phá cầu Phủ Lỗ và bố trí quân lập thế trận bên hữu ngạn sông ngăn địch. Đến Phủ Lỗ, Uriangkhađai thúc quân vượt sông, đánh vào trận địa quân ta. Quân ta rút lui về Thăng Long.
Cố thủ không được, triều đình quyết định rút lui khỏi kinh đô để bảo toàn lực lượng. Bà Linh Từ quốc mẫu, vợ thái sư Trần Thủ Độ chỉ đạo việc sơ tán các cung phi và gia đình các tướng, các quan lại về vùng sông Hoàng Giang (Lý Nhân, Hà Nam). Quân đội và nhà vua thì lui về vùng sông Thiên Mạc (Duy Tiên, Hà Nam). Thăng Long yên tĩnh trống không. Quân Mông Cổ tiến vào một kinh đô vắng lặng. Chúng sục sạo khắp nơi, chỉ thấy trong nhà ngục những sứ giả mà Uriangkhađai đã phái vào Đại Việt trước đây đang gục đầu trên mặt đất. Sách Nguyên sử loại biên chép: "Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào đô thành thấy 3 người sứ sai sang trước đang bị giam trong ngục, người nào cũng bị những thanh tre bó chặt vào mình, sát hằn đến da, khi cởi trói ra thì một người đã bị chết". Bọn giặc điên cuồng tàn phá kinh thành giết hại những người ở lại.
Về phía giặc, vào Thăng Long hoang vắng, gặp khó khăn về hậu cần, chúng đánh ra vùng xung quanh kinh đô để hòng cướp bóc lương thực. Nhưng ở đây cũng bị nhân dân các hương ấp chống cự quyết liệt. Tiêu biểu nhất là cuộc chiến đấu bảo vệ làng xóm của nhân dân Cổ Sở (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Tây). Nghe tin giặc kéo đến, nhân dân Cổ Sở đã tự tổ chức lực lượng vũ trang đào hào bao quanh làng, dựng luỹ chiến đấu. Khi giặc kéo đến làng, kị binh không vượt qua được hào, lại bị cung nỏ bắn ra. Chúng phải rút lui, chịu thất bại. Thắng lợi của nhân dân Cổ Sở là thắng lợi của chiến tranh nhân dân địa phương đang mở rộng xung quanh kinh đô Thăng Long. Lực lượng quân xâm lược Mông Cổ đã thất bại đầu tiên trước những cuộc chiến đấu từ xóm làng, hương ấp. Chỉ sau mấy ngày vào Thăng Long, quân Mông Cổ hoàn toàn mất hết nhuệ khí chiến đấu. Đã không có lương ăn, lại bị các làng xóm xung quanh chống lại, Uriangkhađai và bọn tướng lĩnh đều hoảng hốt đến cực điểm. Nắm vững thời cơ, triều đình nhà Trần quyết định phản công giải phóng Thăng Long.
Ngày 29- 1- 1258 Trần Thái Tông cùng nhiều tướng lĩnh đem binh thuyền từ sông Thiên Mạc ra sông Hồng tiến tới Thăng Long. Quân ta đổ bộ lên Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng khoảng từ dốc Hàng Than đến dốc Hòe Nhai, quận Ba Đình- Hà Nội) tập kích doanh trại địch.
Địch bị đánh bật khỏi kinh thành. Uriangkhađai cho quân rút theo đường cũ theo hữu ngạn sông Hồng trở về Vân Nam. Đến trại Quy Hóa, quân giặc lại bị nhân dân miền núi dưới sự chỉ huy của trại chủ Hà Bổng đổ ra đón đánh. Quân Mông Cổ bị thiệt hại nặng, hoảng sợ, cắm đầu chạy thoát thân không dám nghĩ đến chuyện cướp bóc đốt phá như khi mới tiến vào Đại Việt. Nhân dân ta bấy giờ mỉa mai gọi chúng là ''giặc Phật''.
Uriangkhađai thúc tàn quân chạy ra khỏi biên giới sang Vân Nam, dừng chân tại thành Áp Xích (Côn Minh). Đợt viễn chinh của Mông Cổ sang Đại Việt đến đây hoàn toàn thất bại. Uriangkhađai tướng thân tín của đại hãn Mông Ke, từng đánh Liêu, từng theo hãn Ba Tu đánh Ba Lan, Hunggari, mà đã có thời, bọn quý tộc Mông Cổ tôn xưng y là viên tướng bách chiến bách thắng nhưng nay đã thua trận trên đất Đại Việt.
Theo nhà sử học Rasít Uđin thì cánh quân của Uriangkhađai tuy không lớn, nhưng có đến 50 thân vương, trong đó có Abisca con Thành Cát Tư Hãn. Đạo quân hùng mạnh nhiều tướng tài như vậy chỉ được ở Thăng Long có 9 ngày.
Kinh thành sạch bóng quân thù, ngày 5- 1- 1258 là ngày tết nguyên đán năm Mậu Ngọ. Trong buổi thiết triều, Trần Thái Tông phong thưởng cho các tướng lĩnh có quân công. Lê Tần và Hà Bổng là người đứng đầu, Hà Bổng được phong tước hầu. Cuộc kháng chiến chống Mông -Nguyên lần thứ nhất đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong nhiều thế hệ sau. Mãi đến cuối thế kỉ XIII vua Trần Nhân Tông - người anh hùng chống Nguyên còn viết:
“Bạch đầu quan sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong”
(Người lính già đầu bạc.
Mãi kể chuyện Nguyên Phong).
Hãy bấm Thích và Chia sẻ để mình đăng bài nữa nhé!
“Bạch đầu quan sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong”
(Người lính già đầu bạc.
Mãi kể chuyện Nguyên Phong).
Nhà Trần kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ lần I (1258)
Guyúc (Quý Do) chết năm 1248, nhưng mãi đến 1251 Mông Cổ mới lên ngôi đại hãn. Mông Ke ráo riết chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc. Năm 1252 Mông Cổ sai Khubilai (Hốt Tất Liệt) đánh chiếm Đại Lý (rồi đổi tên là Vân Nam) lấy đó làm bàn đạp mở cuộc tiến công vào Đại Việt.
Theo kế hoạch định trước thì quân Mông Cổ sẽ đánh chiếm Nam Tống theo 4 hướng tiến công. Khubilai chỉ huy một cánh quân đánh chiếm Ngạc Châu (Hồ Bắc). Một cánh quân do Tôgatrai chỉ huy đánh xuống Kinh Châu. Mông Kha chỉ huy 4 vạn quân đánh xuống Tứ Xuyên, và Uriangkhađai (Ngột Lương Hợp Thai) chỉ huy cánh quân từ Đại Lý đánh thẳng xuống Đại Việt, từ đó đánh vào Ung Châu (Quảng Tây), Quế Châu (Quảng Tây) rồi tiến lên hợp quân với Khubilai ở Ngạc Châu.
Vậy là cánh quân của Uriangkhaiđai phải thực hiện hai nhiệm vụ: đánh chiếm Đại Việt và từ Đại Việt đánh lên Nam Tống. Chiếm được Đại Việt còn có ý nghĩa lớn sau này cho đế quốc Mông Cổ là lập được bàn đạp cho các cuộc viễn chinh xuống Đông Nam Á. Nguyên sử cho biết: ''Ngột Lương Hợp Thai vào Giao Chỉ định kế ở lâu dài”.
Chiếm được Đại Việt là mục tiêu chiến lược của kế hoạch Mông Kha và đó cũng là cố gắng rất lớn của chúng. Sau khi chiếm được Đại Lý, quân số Mông Cổ chỉ còn hơn 2 vạn người. Chúng còn dùng thêm hơn 2 vạn hàng binh của tên vua đầu hàng Đoàn Hưng Trí sáp nhập làm ''quân tiên phong". Tổng số quân xâm lược do Uriangkhađai chỉ huy có thể tới 4 vạn.
Xuống gần biên giới nước ta, chúng dừng quân và cho sứ giả đưa thư vào Đại Việt đe dọa và dụ hàng. Nhưng 3 lần liên tục cử sứ giả vào Đại Việt, cả ba lần không thấy sứ giả trở về.
Thường xuyên theo dõi tình hình và biết rõ âm mưu xâm lược của quân Mông Cổ, nhà Trần đã chuẩn bị kháng chiến. Tháng 9 - 1257 chủ trại Quy Hóa (dọc hữu ngạn sông Hồng) cho người cấp báo về triều đình tin sứ giả Mông Cổ đến. Tháng 10, vua Trần Thái Tông xuống chiếu cho các tướng điều quân thủy bộ lên miền biên giới Tây Bắc và ra lệnh cho cả nước khẩn trương chuẩn bị đánh giặc. Các sứ giả Mông Cổ láo xược đều bị tống giam ở kinh đô Thăng Long.
Không thấy sứ giả về, Uriangkhađai quyết định tiến công. Y sai Trếch Trếch Đu (Triệt Triệt Đô) và một tướng khác chia quân làm 2 đạo tiến theo tả ngạn và hữu ngạn sông Thao. Đường tả ngạn qua vùng đất các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang ngày nay xuống Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ). Đường hữu ngạn qua vùng đất Quy Hóa (Lào Cai, Yên Bái) cùng xuống Bạch Hạc. Hai đạo quân nhỏ này chỉ là quân đi trước thăm dò, dẫn đường. Theo sau là đạo quân khác do con trai của Uriangkhađai là AJu (A- thuật) chỉ huy. Và cuối cùng là đạo quân do chính Uriangkhađai tiến sau.
Tháng 1 - 1258, hai đạo quân Mông Cổ đi trước cùng đến hội quân ở Bạch Hạc. Sau đó chúng theo đường bộ, hướng về Thăng Long đến Bình Lệ Nguyên. Ở Bình Lệ Nguyên (có lẽ là vùng Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay) nơi có sông Cà Lồ chắn ngang, vua Trần Thái Tông đã lập phòng tuyến chặn giặc.
Thấy quân ta dàn trận bên sông, Aju vội cho người quay lại báo tin với Uriangkhađai thúc quân tiến xuống. Ngày 17- 1- 1258 chúng kéo đến Bình Lệ Nguyên.
Uriangkhađai tiến sát bên kia sông đang tìm cách vượt qua. Y chia quân làm 3 đợt. Đội tiền phong do Trếch Trếch Đu chỉ huy vượt qua sông sang trước. Uriangkhađai dẫn đội trung quân sang sau. Còn Khai đu và Aju dẫn hậu đội vượt sông cuối cùng.
Quân Trếch Trếch Đu vượt sông lên đến bờ bị quân ta chặn đánh quyết liệt. Vua Trần Thái Tông tự mình đốc thúc tướng sĩ, xông vào trận mạc cùng binh sĩ trực tiếp chiến đấu. Tướng Lê Tần (được gọi Lê Phụ Trần) dũng cảm cưỡi ngựa xông vào trận giặc.
Địa hình Bình Lệ Nguyên khá thuận lợi cho kỵ binh Mông Cổ phát huy sở trường của chúng. Trận địa của ta bị lấn dần. Những tên lính Mông Cổ thiện xạ bắn vào voi của ta. Voi hoảng sợ lồng quay lại trước sức tiến công của chúng. Quân ta rời trận địa đến sách Cụ Bản thì có quân tiếp viện của tướng Phạm Cụ Chích tiếp đến. Phạm Cụ Chích đem quân ngăn chặn giặc, và ông hi sinh, nhưng quân Trần đã rút lui an toàn. Nhà vua xuống thuyền ở bến Lãng Mĩ. Quân Mông Cổ đứng trên bờ bắn theo. Lê Tần lấy ván thuyền che cho nhà Vua. Thuyền quân ta theo sông Cà Lồ xuôi về Phủ Lỗ. Âm mưu cướp thuyền, chặn đường rút lui và bắt sống vua Trần của địch hoàn toàn thất bại. Uriangkhađai nổi giận, đổ mọi tội lỗi lên đầu tướng tiên phong. Trếch Trếch Đu hoảng sợ, uống thuốc độc tự tử.
Hôm sau (18- l- 1258) vua Trần cho phá cầu Phủ Lỗ và bố trí quân lập thế trận bên hữu ngạn sông ngăn địch. Đến Phủ Lỗ, Uriangkhađai thúc quân vượt sông, đánh vào trận địa quân ta. Quân ta rút lui về Thăng Long.
Cố thủ không được, triều đình quyết định rút lui khỏi kinh đô để bảo toàn lực lượng. Bà Linh Từ quốc mẫu, vợ thái sư Trần Thủ Độ chỉ đạo việc sơ tán các cung phi và gia đình các tướng, các quan lại về vùng sông Hoàng Giang (Lý Nhân, Hà Nam). Quân đội và nhà vua thì lui về vùng sông Thiên Mạc (Duy Tiên, Hà Nam). Thăng Long yên tĩnh trống không. Quân Mông Cổ tiến vào một kinh đô vắng lặng. Chúng sục sạo khắp nơi, chỉ thấy trong nhà ngục những sứ giả mà Uriangkhađai đã phái vào Đại Việt trước đây đang gục đầu trên mặt đất. Sách Nguyên sử loại biên chép: "Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào đô thành thấy 3 người sứ sai sang trước đang bị giam trong ngục, người nào cũng bị những thanh tre bó chặt vào mình, sát hằn đến da, khi cởi trói ra thì một người đã bị chết". Bọn giặc điên cuồng tàn phá kinh thành giết hại những người ở lại.
Về phía giặc, vào Thăng Long hoang vắng, gặp khó khăn về hậu cần, chúng đánh ra vùng xung quanh kinh đô để hòng cướp bóc lương thực. Nhưng ở đây cũng bị nhân dân các hương ấp chống cự quyết liệt. Tiêu biểu nhất là cuộc chiến đấu bảo vệ làng xóm của nhân dân Cổ Sở (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Tây). Nghe tin giặc kéo đến, nhân dân Cổ Sở đã tự tổ chức lực lượng vũ trang đào hào bao quanh làng, dựng luỹ chiến đấu. Khi giặc kéo đến làng, kị binh không vượt qua được hào, lại bị cung nỏ bắn ra. Chúng phải rút lui, chịu thất bại. Thắng lợi của nhân dân Cổ Sở là thắng lợi của chiến tranh nhân dân địa phương đang mở rộng xung quanh kinh đô Thăng Long. Lực lượng quân xâm lược Mông Cổ đã thất bại đầu tiên trước những cuộc chiến đấu từ xóm làng, hương ấp. Chỉ sau mấy ngày vào Thăng Long, quân Mông Cổ hoàn toàn mất hết nhuệ khí chiến đấu. Đã không có lương ăn, lại bị các làng xóm xung quanh chống lại, Uriangkhađai và bọn tướng lĩnh đều hoảng hốt đến cực điểm. Nắm vững thời cơ, triều đình nhà Trần quyết định phản công giải phóng Thăng Long.
Ngày 29- 1- 1258 Trần Thái Tông cùng nhiều tướng lĩnh đem binh thuyền từ sông Thiên Mạc ra sông Hồng tiến tới Thăng Long. Quân ta đổ bộ lên Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng khoảng từ dốc Hàng Than đến dốc Hòe Nhai, quận Ba Đình- Hà Nội) tập kích doanh trại địch.
Địch bị đánh bật khỏi kinh thành. Uriangkhađai cho quân rút theo đường cũ theo hữu ngạn sông Hồng trở về Vân Nam. Đến trại Quy Hóa, quân giặc lại bị nhân dân miền núi dưới sự chỉ huy của trại chủ Hà Bổng đổ ra đón đánh. Quân Mông Cổ bị thiệt hại nặng, hoảng sợ, cắm đầu chạy thoát thân không dám nghĩ đến chuyện cướp bóc đốt phá như khi mới tiến vào Đại Việt. Nhân dân ta bấy giờ mỉa mai gọi chúng là ''giặc Phật''.
Uriangkhađai thúc tàn quân chạy ra khỏi biên giới sang Vân Nam, dừng chân tại thành Áp Xích (Côn Minh). Đợt viễn chinh của Mông Cổ sang Đại Việt đến đây hoàn toàn thất bại. Uriangkhađai tướng thân tín của đại hãn Mông Ke, từng đánh Liêu, từng theo hãn Ba Tu đánh Ba Lan, Hunggari, mà đã có thời, bọn quý tộc Mông Cổ tôn xưng y là viên tướng bách chiến bách thắng nhưng nay đã thua trận trên đất Đại Việt.
Theo nhà sử học Rasít Uđin thì cánh quân của Uriangkhađai tuy không lớn, nhưng có đến 50 thân vương, trong đó có Abisca con Thành Cát Tư Hãn. Đạo quân hùng mạnh nhiều tướng tài như vậy chỉ được ở Thăng Long có 9 ngày.
Kinh thành sạch bóng quân thù, ngày 5- 1- 1258 là ngày tết nguyên đán năm Mậu Ngọ. Trong buổi thiết triều, Trần Thái Tông phong thưởng cho các tướng lĩnh có quân công. Lê Tần và Hà Bổng là người đứng đầu, Hà Bổng được phong tước hầu. Cuộc kháng chiến chống Mông -Nguyên lần thứ nhất đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong nhiều thế hệ sau. Mãi đến cuối thế kỉ XIII vua Trần Nhân Tông - người anh hùng chống Nguyên còn viết:
“Bạch đầu quan sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong”
(Người lính già đầu bạc.
Mãi kể chuyện Nguyên Phong).
Hãy bấm Thích và Chia sẻ để mình đăng bài nữa nhé!
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: