Nguyễn Khuyến-người tiêu biểu cho tâm hồn Việt

Bút Nghiên

ButNghien.com
Nguyễn Khuyến-người tiêu biểu cho tâm hồn Việt

Thi hào Nguyễn Khuyến (1835-1909), thuở nhỏ tên Thắng, tự Miễn Chi, hiệu Quế Sơn, sinh ở quê mẹ, nhưng tám tuổi về sống ở quê cha, làng Vị Hạ, tục gọi là làng Và (nay thuộc xã Yên Ðổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam)...

Trải hai mươi năm theo nghiệp khoa cử, Nguyễn Khuyến từng đỗ đầu ba kỳ thi Hương, thi Hội, thi Ðình, mà từ đây ông được gọi là "Tam nguyên Yên Ðổ". Trong hơn mười năm tham gia chính sự, ông từng làm việc ở Quốc sử quán và Bộ Hộ trong triều đình Huế; được bổ dụng chức Ðốc học, án sát, Bố chánh ở các tỉnh Thanh Hóa, Quảng Ngãi, rồi ông kiên quyết cáo hưu ở tuổi năm mươi (1884) và mất tại quê nhà...

Về sáng tác, Nguyễn Khuyến sử dụng cả chữ Hán và chữ Nôm, làm thơ Ðường luật và các thể cổ phong, lục bát, hát nói, văn sách, văn tế, câu đối, ký và tự dịch thơ của chính mình từ Hán sang Nôm. Số lượng tác phẩm của ông đến nay đã sưu tập tới hơn 800 bài, bước đầu đã công bố được hơn một nửa. Trên phương diện hình thức thể loại, về cơ bản Nguyễn Khuyến vẫn trung thành với các thể thơ Ðường luật và chưa có những cách tân nào thật đặc biệt. Tuy nhiên, ông lại tạo nên sự khác biệt và đạt tới đỉnh cao trong nghệ thuật biểu hiện tiếng nói trữ tình, tiếng nói của bậc đại khoa bình dân, bậc đại quan nhập cuộc đời thường, trở thành nhà thơ thứ nhất của "quê hương làng cảnh Việt Nam" (Xuân Diệu). Thấm nhuần đạo lý nơi cửa Khổng sân Trình, thế nhưng Nguyễn Khuyến không nói nhiều đến ơn vua lộc nước và cũng không ham công danh sự nghiệp. Sống giữa thời buổi loạn lạc, trước sau Nguyễn Khuyến vẫn hướng về thôn quê, chuyển trọng tâm cả hệ thống chủ đề, đề tài, nhân vật, cảnh vật về nơi cố hương bình dị. Có thể nói môi trường khoa cử đã rèn đúc Nguyễn Khuyến thành một nhà Nho chính thống nhưng thực tại đất nước gắn với hơn hai mươi năm khoảng cuối cuộc đời, đặc biệt kể từ khi quyết chí cáo hưu, đã khiến tâm hồn ông trở nên có nhiều sóng gió, vừa ngơ ngác giữa cõi đời, vừa đau đáu nỗi niềm thương nước, thương dân.

Trong tâm thế một nhà Nho, Nguyễn Khuyến bất lực trước việc đất nước bị người Pháp xâm chiếm. Không còn đủ sức tham gia chiến trận, ông đành bằng lòng trở về cố hương để bảo toàn khí tiết: Mười năm trời bôn ba trên một con đường - Nay trở về may mắn ta vẫn còn là ta (Lời than lúc cuối xuân). Gián cách với chốn quan trường nửa Tây nửa ta, ông mỉa mai cái thứ hội hè bát nháo, muốn thức tỉnh tư cách "người" trong mỗi con người: Khen ai khéo vẽ trò vui thế - Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu (Hội Tây). Tuy nhiên, trước sức mạnh của kỹ thuật Tây phương, Nguyễn Khuyến bàng hoàng trước thực tại mới, phê phán cả những phương diện đưa đến tiến bộ xã hội: Khoét rỗng ruột gan trời đất cả - Phá tung phên giậu hạ di rồi (Hoài cổ). Ông cho rằng việc khai mỏ, làm đường đã phá tan cả "long mạch", khiến cuộc sống không còn được bình yên như trước nữa. Có thể đó là cái giá phải trả của thời đại thực dân hóa, thời đại thực dân nửa phong kiến mà Nguyễn Khuyến đã ít nhiều cảm nhận được với rất nhiều ngờ vực. Ði xa hơn, ông tỏ lòng yêu nước bằng những bài thơ vịnh sử, ngợi ca từ Ðổng Thiên Vương, Hai Bà Trưng đến Trần Hưng Ðạo, Chu Văn An, Nguyễn Trãi...

Trở về quê nhà, Nguyễn Khuyến còn bộc lộ tiếng nói trào phúng gắn quyện với trữ tình. Một mặt, ông châm biếm sâu cay bọn quan lại gian tham, thói đạo đức giả, nhưng ông lại rất xao xuyến cảm thương những cuộc đời nghèo khó, giàu ân nghĩa, tình người. Từ sâu thẳm cõi lòng, Nguyễn Khuyến cất lên tiếng thơ trào lộng sâu lắng, tự phân thân mà chê cười những "tiến sĩ giấy", "ông phỗng đá", "anh giả điếc" và sự vô vị của con đường khoa cử: Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ - Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng (Tự trào)... Trên tất cả, Nguyễn Khuyến chạnh lòng thương nhớ những người bạn, những lão nông, những cuộc đời bình dị. Ông gắn bó với vườn Bùi chốn cũ, đặc biệt có thể nói, ba bài thơ Vịnh mùa thu, Câu cá mùa thu, Uống rượu mùa thu của ông đã đạt tới đỉnh cao của dòng thơ đề vịnh, ngợi ca làng cảnh thôn quê Việt Nam.

Người đời không nhớ nhiều tới Tam nguyên Yên Ðổ trên danh vị đại khoa và cũng là bậc đại quan nhưng sẽ mãi nhớ đến Nguyễn Khuyến trong tư cách một thi nhân. Thơ Nguyễn Khuyến thật sự tiêu biểu cho tâm hồn người Việt và phong vị, cốt cách Á Ðông. Có thể coi ông là đại biểu cuối cùng của mẫu hình thi nhân nhà Nho chính thống, là "quả pháo đùng" tổng kết nền thi ca cuối mùa trung đại.

NGUYỄN HỮU SƠN
Nguồn: Báo Nhân dân​
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Nguyễn Khuyến có tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễn Chi. Ông sinh giờ Tý, 15/ 11/ 1835 (tức ngày18 tháng giêng năm Ất Mùi), tại làng Ngòi, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên (Nam Hà), là con trai của cụ Nguyễn Tông Khởi (có sách ghi là Nguyễn Liễn) và Bà Trần Thị Thoan. Có thể nói, Nguyễn Khuyến xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, hai bên nội ngoại đều có truyền thống khoa bảng. Cụ bốn đời Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Mại, đỗ tiến sĩ, làm quan đến Hiến sát sự Thanh Hoá. Cha ông cũng theo đời Nho học, đỗ ba khoa tú tài, chuyên nghề dạy học.

Thuở nhỏ, Nguyễn Khuyến học với cha. năm lên 8 tuổi, ông theo gia đình về sống ở quê nội ở làng Và, xã Yên Đỗ, huyện Bình Lục. Năm 1825, ông đi thi Hương lần thứ nhất cùng cha, song không đỗ. Năm sau, địa phương có dịch thương hàn, ông mắc bệnh suýt chết. Cha và em ruột, bố mẹ vợ chồng cùng nhiều họ hàng thân thuộc đều qua đời vì bạo bệnh. Gia đình ông lâm vào cảnh tiêu đều xơ xác, đời sống ngày càng đói rét. 1852, ông lấy cô Nguyễn Thị Lụa – con gái ông Nguyễn Gia Thung ở cùng làng rồi cùng cha đi thi Hương. Nhà nghèo, không tiền lai kinh, vợ ông phải 175 bán cái yếm được năm quan để chồng đi thi nhưng ông không đậu. Năm sau, cha chết vì thương hàn, ông muốn bỏ học đi dạy học nhưng mẹ ông không đồng ý. Hai người phụ nữ, một người mẹ 60 tuổi và moät người con dâu mới vẫn cặm cụi dệt vải thuê kiếm tiền nuôi con, nuôi chồng ăn học. nhưng trớ trêu thay, lận đận bao lần, đến năm 34tuổi, 7 lần thi chỉ một lần đậu Hương năm 1864. Sau đó, ông đổi tên thành Nguyễn Khuyến để tự khích lệ mình cố gắng dùi mài kinh sự. Sự kiên trì, cần cù, miệt mài ấy cuối cùng cũng được đền bù xứng đáng: Năm 36 tuổi, ông đỗ đầu khoa thi Hội, Đình, Hương, học vị hoàng giáp nên được vua Tự Đức ban cờ biểu và thêm 2 chữ Tam Nguyên. Từ đó người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đỗ. Cuộc đời ông nằm gọn trong giai đoạn đất nước suy vong, lệ thuộc hoàn toàn và người Pháp. Ngày ông vinh quy, cả làng nao nức, vui mừng đi đón rước linh đình.

Nguyễn Khuyến bắt đầu ra làm quan và lần lượt giữ những chức vụ quan trọng như Đốc học Thanh Hoá, Án sát Quảng Bình, Bố chánh Quảng Nam, Thương biện Hà Nội, Sơn Hưng Tuyên Tổng đốc. Thế nhưng, sống trong một triều đại đã đến thời mục nát, tận mắt chứng kiến cảnh nô lệ, ông sinh lòng chán nản và viện cớ đau mắt nặng, Nguyễn Khuyến cáo quan vào năm 50 tuổi (1885) và về quê đạy học, vui thú điền viên. Đây cũng là một hành động chứng tỏ sự bất hợp tác của nhà thơ đối với triều đình và người Pháp. Ông mất năm 1909, thọ 75 tuổi.

Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Ông đặc biệt có tài về thơ Nôm và chính ở đây, thơ ông đặc biệt sắc sảo và sinh động. Con người của ông hiển hiện trong thơ khá chân thật, rõ ràng, nên thơ giữa ông và con người thật của Nguyễn Khuyến không có một sự cách biệt nào. Có thể nói, tên tuổi của ông, hình ảnh của ông đã đi vào lòng dân tộc thật đậm đà thân thương! Vì sao ư?

Nhà thơ là một con người, một tâm hồn thơ tiêu biểu cho bản sắc Việt Nam. Cái đặc tính dịu dàng, kín đáo, không ồn ào nhưng hóm hỉnh, trong sáng và sâu sắc, tế nhị, có lẽ là sản phẩm tinh thần độc đáo của xứ sở đồng bằng trồng lúa nước, xứ sở của những làng quê xanh ngắt với những lũy tre bao bọc xung quanh! Những đặc tính ấy đã từng làm say mê bao nhiêu du khách đến từ những đất nước xa xôi.

Mặc dù đã dự phần “bảng vàng bia đá nghìn thu”, nhưng Nguyễn Khuyến lúc nào cũng giữ nguyên vẹn phong cách của một người con của xứ làng quê ấy, sống chan hòa với những người “chân quê” giữa đồng đất quê hương. Minh chứng là một bức tranh sinh hoạt gần gũi, thấm đậm tình người trong “Bạn đến chơi nhà”, là người dân quê chân chất, tràn đầy sự trìu mến, thân thương, là sự tha thiết bi thương trước cảnh đói rét, nô lệ lầm than của người dân đất Việt, … Dù với hoàn cảnh nào thì thơ ông vẫn trung thành bản sắc Việt Nam. Cái bản sắc ấy hòa quyện vào thiên nhiên thật đặc sắc và hữu tình. Chỉ là cảnh nông thôn nghèo nàn xơ xác cũng sẽ là những tác phẩm Thơ - Họa tuyệt vời, làm rung động lòng người trong cái tình của Nguyễn Khuyến và bằng bút pháp điêu luyện của ông.


Không chỉ là một tâm hồn Việt Nam tiêu biểu, Nguyễn Khuyến còn là một nhân cách Việt Nam tiêu biểu ở thời đại bấy giờ. Đó là thời đại mất nước, dân tộc bị chà đạp, con người Việt Nam đói rét lầm than. Rất nhiều kẻ xuất thân là kẻ sĩ, “sĩ phu” đã làm tay sai cho giặc. Bản thân Nguyễn Khuyến cũng đã trót dấn thân vào con đường hoạn lộ. Nhưng với nhãn quan sắc bén, ông nhìn rõ chân tường của thời cuộc, ông đã dứt khoát vứt bỏ mọi thứ vinh hoa phú quý, “treo ấn từ quan”, giả đui giả điếc, lui về ở ẩn nơi làng quê để giữ vững khí tiết, phẩm cách của một người yêu nước chân chính, hòa mình cùng nhân dân. Ông đau với nỗi đau của người dân, ông buồn với cái “sự nghèo” của họ, nhưng càng đau hơn khi bất lực trước cảnh dân tình bị dày xéo và day đứt bằng nỗi đau của một người ưu thời mẫn thế, đau nước đau nòi:

Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm,
Nước độc ma thiêng mấy vạn người,
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,
Phá tung phên giậu hạ đi rồi”.

Một nhân cách thực sự cao cả làm sao có thể chịu khoanh tay bó gối trước cuộc đời ngang trái? Vậy Nguyễn Khuyến đã “xử thế” như thế nào cho xứng với tầm vóc của ông? Biết mình không có khả năng làm chính trị, ông quay ra làm văn hóa! Ông làm thơ, làm câu đối, ca trù… cho mọi người thưởng thức. Ông sáng tạo ra Văn Thơ Trào Phúng sâu sắc, chua cay, chĩa mũi dùi đả kích vào cái cuộc đời đồi bại và lố bịch lúc bấy giờ. Một triều đình nhà Nguyễn như “hề”: Vua chèo còn chẳng ra gì, quan chèo vai nhọ khác chithằng hề”; một bà đầm thực dân “Bà quan tênh nghếch xem bơi trai”; hay một ông quan ta bị Tây đá đít bằng “giày móng lợn”, hoặc ông lại cám cảnh trước cả đám “dân ngu” chưa nhận ra cái nhục mất nước Cậy sức, cây đu nhiều chị nhún, tham tiền, cột mỡ lắm anh leo, khen ai khéo vẽ trò vui thế, vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!”. Có thể nói, Thơ Trào Phúng của ông khác nào một ngọn đuốc soi đường cho lương tri của dân tộc trong đêm tối, giúp mọi người thấy rõ phải quấy, chính tà.

Nguyễn Khuyến là con người tuyệt vời! Một nhân cách lớn, một bản sắc Việt Nam độc đáo, một tâm hồn thắm thiết, một văn tài kiệt xuất và một cách xử thế đúng đắn, một nhà thơ ưu tú, đại tài đều tụ hội trong ông. Bà cụ Đà, cháu nội của Nguyễn Khuyến, kể rằng: “Vào cuối đời, cụ Tam Nguyên sống âm thầm, buồn tủi. Mỗi lúc hoàng hôn sắp xuống, cụ ngồi trầm ngâm ngoài sân với hai ông phỗng đá, rót rượu vào ba ly, nâng chén mời, và tự uống phần mình. Rồi buồn rầu xoa đầu hai pho tượng và uống hộ cho cả hai. Sau đó cụ ngồi thừ người một lúc, rồi cúi đầu, lặng lẽ bưng mặt khóc”.

Giọt lệ chí tình của nhà thơ đã để lại cho chúng ta nhiều xúc động và suy nghĩ, cũng như chính cuộc đời và thi phẩm của ông. Chúng ta cảm thông với những băn khoăn day dứt, với nước mắt và nụ cười của nhà thơ. Và hôm nay, chúng ta có thể nở nụ cười vui mừng vì Văn học Việt Nam đã có một nhà thơ như thế! Nguyễn Khuyến đã “dân tộc hóa” phong cảnh nông thôn, “cụ thể hóa” cuộc sống lam lũ nhưng không kém phần thơ mộng của dân lành, “thi vị hóa” tình bạn, cười cái đáng cười và khóc điều đáng khóc trong xã hội, và nhất là đã yêu mến quê hương với một tấm lòng chân thật, khiêm nhường. Chúng ta hân hoan vì Văn học Việt Nam có Nguyễn Khuyến, một nhà thơ tài năng, đạo đức, một gương mẫu để chúng ta noi theo. Nhà thơ Nguyễn Khuyến, với lòng yêu nước và thương dân, đã đi vào văn học sử và sẽ mãi mãi để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng mọi người.


 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top