Nguyễn Bính

thuydung271

New member
Xu
0
I/Cuộc đời

Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 tại xã Đồng Đội, Huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Định (hiện nay đã được đổi lại là Hà Nam Ninh); ông lấy bút hiệu Nguyễn Bính.

Theo tài liệu được Hội Nhà Văn ở Hà Nội công bố về tiểu sử của ông: thuở nhỏ Nguyễn Bính không được đi học ở nhà truờng mà chỉ đuợc học ở nhà với cha là ông đồ nho Nguyễn Đạo Bình và đồng thời cũng được người cậu ruột là Bùi Trinh Khiêm dạy kèm. Ông mồ côi mẹ rất sớm, gia đình túng quẫn, nên khi lên 10 tuổi đã phải theo anh ruột là Nguyễn Mạnh Phác ra Hà Nội sinh sống. Thời gian này ông được người anh dạy học ở nhà... Những năm đầu thập niên 40, Nguyễn Bính nhiều lần lưu lạc vào Miền Nam. Lúc này ông đổi tên là Nguyễn Bính Thuyết. Năm 1 43, Nguyễn Bính lại đi vào Miền Nam lần thứ ba và đã gặp Đông Hồ, Kiên Giang. Có lúc ông cư ngụ trong nhà Kiên Giang... Đó là thời ông viết những bài Hành Phương Nam, Tặng Kiên Giang, Từ Độ Về Đây#...

"Từ độ về đây sống rất nghèo
Bạn bè chỉ có gió trăng theo
Những thằng bất nghiã xin đừng tới
Hãy để thềm ta xanh sắc rêu#."
(Từ Độ Về Đây - 1943)

Năm 1947, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở Miền Nam. Đến

Năm 1954, khi Hiệp định Genève chia đôi đất nước, Nguyễn Bính tập kết về Bắc năm 1955 và được bố trí phục vụ trong Hội Nhà văn ở Hà Nội một thời gian.

Năm 1956, Ông được giao nhiệm vụ phụ trách tờ TRĂM HOA (nguyên văn trong tài liệu của Hội Nhà văn);

Đến năm 1958, Nguyễn Bính chuyển về tỉnh nhà Nam Định và phục vụ trong Ty Văn Hoá Nam Định cho đến ngày ông từ giã cõi đờị

Nguyễn Bính chết ngày 20-1-1966, những ngày cuối năm Ất Tị;

Suốt 30 năm sinh hoạt văn nghệ, nhà thơ đã sáng tác nhiều thể loại như làm thơ, viết kịch, truyện thợ.. Ông sáng tác rất mạnh, viết rất đều và sống hết mình cho sự nghiệp thi cạ Ông đã xuất bản được 20 tác phẩm đủ loại:

- Lỡ Bước Sang Ngang (Thơ 1940)
- Tâm Hồn Tôi (Thơ 1940)
- Hương Cố Nhân (Thơ 1941)
- Một Nghìn Cửa Sổ (Thơ 1941)
- Người Con Gái Ở Lầu Hoa (Thơ 1942)
- Mười Hai Bến Nước (Thơ 1942)
- Mây Tần (Thơ 1942)
- Bóng Giai Nhân (Kịch Thơ 1942)
- Truyện Tỳ Bà (Truyện Thơ 1942)
- Ông Lão Mài Gươm (Thơ 1947)
- Đồng Tháp Mười (Thơ 1955)
- Trả Ta Về (Thơ 1955)
- Gửi Người Vợ Miền Nam (Thơ 1955)
- Trong Bóng Cờ Bay (Truyện Thơ 1957)
- Nước Giếng Thơi (Thơ 1957)
- Tiếng Trống Đêm Xuân (Truyện Thơ 1958)
- Tình Nghĩa Đôi Ta (Thơ 1960)
- Cô Son (Chèo cổ 1961)
- Đêm Sao Sáng (Thơ 1962)
- Người Lái Đò Sông Vỵ (Chèo 1964)
II/Thơ văn
Ngoài những tác phẩm kể trên, còn một số thơ rời viết trong năm 1964, 1965 và 1966 chưa kịp xuất bản.
Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, Bút hiệu của ông là Nguyễn Bính, sinh năm 1918 tại xóm Trạm, thôn Thiên Vịnh, xã Đồng Đội nay là xã Cộng Hoà, huyện Vụ Bản thuộc tỉnh Nam Định. Ông mồ côi mẹ lúc mới lên ba, do đó bố ông có một bà kế mẫu, nhưng nhà vẫn nghèo nên ông được bên ngoại đưa về nuôi nấng dạy dỗ tại thôn Vân Tập cũng cùng xã Đồng Đội.

Cậu ruột Nguyễn Bính là ông Bùi Trình Khiêm lãnh trách nhiệm nuôi nấng ông. Được biết ông Bùi Trình Khiêm là một nhà nho có tiếng trong vùng thời đó đã tham gia vào phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, ông Khiêm cũng là thầy giáo dậy ông Trần Huy Liệu. Nhờ người cậu giỏi hán văn mà Nguyễn Bính có môi trường tiếp xúc sớm với chữ nghĩa, thi phú và nghệ thuật.

Khi Nguyễn Bính được mười ba tuổi đã làm kinh ngạc về tài thi phú của mình nhân vào dịp lễ hội Phủ Giầy (Nam Định) thường tổ chức vào tháng Ba Âm Lịch hằng năm, trong lễ hội năm này có tổ chức cuộc thi thơ. Năm đó ban tổ chức chọn đề thi là " Hãy tả cảnh chọi gà trong ngày lễ hội" Đề tài vừa ra, ông lấy bút giấy viết liền, chỉ chưa đầy nửa thời gian của ban tổ chức ấn định Ban Giám Khảo đã thấy Nguyễn Bính đã lên nộp bài thi. Mọi người đều ngạc nhiên nhất là những vị trong Ban Giám Khảo. Bài nộp của Nguyễn Bính dài hơn ba trang giấy , kể ra như vậy là ông đã viết khá dài. Sau khi Ban Giám Khảo xem xét và cân nhắc, đã quyết định trao giải thưởng hạng nhất cho bài thơ của nhà thơ Nguyễn Bính.

Liền ngay đó Ban giám khảo đã dùng loa phóng thanh đọc bài thơ được giải nhất ở giữa sân đình cho mọi người nghe. Nghe xong, tức thì hàng ngàn người đang tham dự lễ hội có mặt, đều nhất loạt vỗ tay hân hoan chúc mừng nhà thơ thiên tài Nguyễn Bính, có những cặp thanh niên còn cao hứng công kêng Nguyễn Bính lên vai, làm chàng trai Nguyễn Bính vừa mới lớn được nhìn từ trên cao hơn người xuống nhìn ngắm những cô gái đang đi dự lễ hội một cách hãnh diện và thoải mái, trái lại những cô gái xuân xanh mơn mởn đang ước tấm chồng nhìn lên anh thi sĩ đầy cao ngạo mà ước muốn được lấy chàng làm chồng . . .

Em như cô gái hãy còn xuân
Trong trắng thân chưa lấm bụi trần
Xuân đến, xuân đi, hoa mận nở
Gái xuân giũ lụa trên sông Vân
Lòng xuân lơ đãng, má xuân hồng
Cô gái xuân mơ chuyện vợ chồng
Đôi tám xuân đi trên mái tóc
Đêm xuân cô ngủ có buồn không?

Bài thơ "Gái Xuân" trên mà NB mô tả một nàng thôn nữ diễm kiều đang mơ mộng thật nhiều, cô đang mơ một tấm chồng, si tình một chàng trai nào đó có thể là thi nhân Nguyễn Bính chăng? Nên chàng hỏi "Đêm xuân cô ngủ có buồn không?"

Từ ngày chàng được đám đông vỗ tay tán thưởng sau cuộc thi ở Phủ Giầy năm ấy, NB lại càng cao hứng để sáng tác những vần thơ trữ tình làm nhiều người say mê, các cô thiếu nữ thì mê mẩn si tình như trong bài Chờ Nhau dưới đây:

Láng giềng đã đỏ đèn đâu
Chờ em ăn dập miếng giầu em sang
Đôi ta cùng ở một làng
Cùng chung một ngõ vội vàng chi anh
Em nghe họ nói mong manh
Hình như họ biết chúng mình với nhau.
Ai làm cả gió đắt cau,
Mấy hôm sương muối cho trầu đổ non.

Trong câu ' em nghe họ nói mong manh, hình như họ biết chúng mình với nhau ' quả tình là thi vị và lãng mạn, không còn nề nếp gia phong cổ hủ trai gái thụ thụ bất thân như ông bà ta thường nói. Tuy thế nhưng với bài Cô Hàng Xóm mà NB mô tả rằng nhà chàng ở cạnh nhà nàng mà vì lễ giáo nên còn hơi e ngại.

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn.
Hai người sống giữa cô đơn,
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.
Giá đừng có dậu mùng tơi,
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.
Cho nên chàng chỉ dám nhẹ nhàng nằm mơ thôi:
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng...
Có con bướm trắng thường sang bên này.
Bướm ơi! Bướm hãy vào đây!
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi...
Chả bao giờ thấy nàng cười,
Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên.
Cảnh mưa thì thật buồn, nhà thơ NB mô tả như sau:
Tầm tầm giời cứ đổ mưa,
Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm.
Cô đơn buồn lại thêm buồn,
Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi?

Chàng gửi hồn cho bướm trắng để chịu tang khi biết nàng đã thành người thiên cổ. NB quả là một người si tình và lãng mạn, mặc dầu chàng chưa hề mặt mặt cầm tay nàng lấy một lần mà đã nghẹn ngào, đau sót và nói rằng mình đã yêu nàng. Thật đúng là chàng vừa si tình lại hết sức lãng mạn.

Hỡi ơi! Bướm trắng tơ vàng!
Mau về mà chịu tang nàng đi thôi!
Đêm qua nàng đã chết rồi,
Nghẹn ngào tôi khóc... Quả tôi yêu nàng.

Kết luận một điều làm người đọc ngỡ ngàng sau khi nàng chết, NB còn mơ tưởng rằng nếu hồn trinh của Cô Hàng Xóm còn ở trần gian thì hãy nhập vào bướm trắng để qua với chàng thì sung sướng biết bao!.

Hồn trinh còn ở trần gian?
Nhập vào bướm trắng mà sang bên này!

Rồi, một câu chuyện thú vị và si tình khác của Nguyễn Bính nữa mà nhiều người còn nhắc tới: Số là năm ấy ông vừa tròn mười bốn tuổi Nguyễn Bính đi dự hội Phủ Giầy một lễ hội mà ông rất mê từ thuở nhỏ. Hôm đó ông đang ngồi xem hát hầu đồng bóng, khi thoáng thấy một cô gái trạc tuổi ông đi ngang qua. Cô bé người cao ráo mặc áo cánh sen thắt lưng hoa lý trông rất xinh. Cô ấy đi cùng với một người đàn bà có lẽ là mẹ nàng. Vẻ đẹp sắc nước nghiêng thành, lạ lùng như nàng vừa thoát ra từ bức tranh Tố Nữ treo ở tường trong phòng khách của một vị quan mà ông đã đưọc xem khi đi thăm ông quan ấy với người cậu, vội vàng ông chạy theo cốt nhìn cho bằng được khuôn mặt cô nàng, rồi ông ngơ ngẩn như người mất hồn khi diện kiến. Cả ngày hôm ấy, ông cứ đi theo hai mẹ con nàng, ông theo cả vào chùa trong để lạy cùng lạy, khấn cùng khấn với hai mẹ con nàng đến nỗi ông quên cả thời gian mãi cho đến chiều.

Gió chiều cầu nguyện đâu đây,
Nắng chiều cắt đoạn một ngày cuối thu.
Sư già quét lá sau chùa,
Để thiêu xác lá trước giờ lên chuông.
Si tình đến thế nên ít có người sánh kip. Ngoài việc lãng mạn si tình, NB còn được dân gian coi như một vị thần dùng thơ để bói toán nên người cùng thời đặt cho ông danh hiệu là 'chú bé thần đồng ', nhiều lời đồn đãi thêu dệt khiến nảy sinh ra nhiều chuyện bất ngờ . Lúc đầu người ta nhờ NB gà thơ cho những cuộc thi có hát đối đáp vì ông có tài đối ứng tức thì, nên thường bên nào có ông giúp thì đều thắng cuộc thi, làm đối phương tức giận. Tuy nhiên cũng nhờ tài đó mà ông được dân chúng ngưỡng mộ, thời đó dân trí còn thấp kém nên đã có người tôn ông lên đến tột đỉnh vinh quang, có người ngờ rằng ông là người của "cõi trên" hiện xuống vì do sự sùng kính quá đáng mà thành mê tín, tin rằng thơ NB là thơ Tiên, được giáng nhập vào cậu bé thần đồng chứ chẳng phải là thơ của người bình thường sáng tác. Thậm chí đến nỗi người muốn dựng vợ gả chồng cho con cái, hay những cặp trai gái gặp đường tình duyên trắc trở, hoặc làm ăn xui xẻo v.v. đều đến nhờ "Câu" cho thơ "Tiên"! "Cậu" tuỳ theo hoàn cảnh của thân chủ lại cho thơ "Tiên".
Một lần kia, gia đình nông dân nghèo có một cô gái vừa tuổi cập kê, một thanh niên con nhà giầu ở làng kế bên đến hỏi xin cưới làm vợ. Nhưng phiền một nỗi nàng đã có một người yêu khác trong làng, người này tuy nghèo nhưng như cô nhưng cách ăn nết ở cũng khá. Gia đình cô gái phân vân không biết quyết định ra sao cho phải nên đã tìm đến "Cậu" Cậu" liền lấy bút giấy viết ra "dòng thơ phán bảo" như sau:

"Của dẫu nhiều nhưng vẫn chẳng nên
Phù vân, giả dối chẳng lâu bền
Tình em đâu phải trao thiên hạ
Dành để trai làng mới đẹp duyên"

Thế là gia đình người thiếu nữ đành nghe lời thơ Tiên của Cậu gả cô cho trai làng, mà từ chối gả cho chàng thanh niên làng bên giầu có. Một chuyện thật độc đáo là có một anh chàng hành nghề đạo chích nghe nhà Thơ NB có thơ Tiên linh hiển lắm nên cũng tìm đến xin thơ Tiên và được Nguyễn Bính "giáng" cho mấy câu thơ, đọc xong thơ Tiên thì anh đạo chích bỏ luôn nghề ăn trộm.

Trở lại nàng Tố Nữ mà NB gặp ngày trẩy hội Phủ Giầy, hết ngày lễ hội thì chàng còn tò tò theo nàng nhiều ngày nữa, chàng luôn luôn đi theo bên nàng cho đến ngày thứ tư, chàng lén dúi được vào tay cô Tố Nữ một mảnh giấy có mấy câu thơ sau:
"Em ở cõi trần hay cõi tiên?
Phủ đền nhang khói nức hương em
Xin đi chầm chậm cho theo với
Lộc Thánh dâng người một trái tim".

Cô gái Tố Nữ nhanh nhẹn cầm lấy mảnh giấy nhưng nàng thẹn thùng ngó lơ đi nơi khác. Tuy vậy chỉ cần như thế là chàng đã mãn nguyện sung sướng tràn ngập trong lòng rồi. Như thế phải chăng Nguyễn Bính đã là một thi sĩ thật lãng mạn và si tình. Cuộc tình vẫn chưa chấm dứt, nàng sau đó đã theo mẹ về quê và chàng tìm cách đi theo cho đến tận nơi nàng ở. Tuy nhiên có lẽ mối tình đầu này kết quả chỉ đẩy đưa tới đó mà thôi bởi vì chỉ chừng ba tháng sau thì gia đình nàng đột ngột bán nhà chuyển đi nơi khác, thế là người tiên Tố Nữ của chàng đã biến mất, nhưng hình ảnh nàng Tố Nữ trẩy hội Phủ Giầy đầu chít khăn nhung mỏ qụa, có lúc nàng thả tóc đuôi gà thật xinh vẫn luôn ám ảnh trong tâm hồn chàng thi nhân Nguyễn Bính, một bóng hình khó lạt phai.

( Theo Nguyễn Cao Can ).
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Nhà thơ Nguyễn Bính đa tình có ít nhất 4 ng vợ và vô số tình nhân
Riêng thời gian ở trong Nam sau CM tháng 8 ông lấy 2 vợ

-Vợ thứ nhất là Nguyễn Hồng Châu có con gái Nguyễn Bính Hồng Cầu

-Được hơn 1 năm ông bỏ bà nhất lấy bà hai và có con gái là Hương Mai. Cuộc tình này đã được ghi thành bài thơ Gửi ng vợ miền Nam

Thời gian làm báo Trăm hoa ông lấy vợ là cô thư ký, có con trai tên là Hiền. Sau này vợ bỏ đi còn Hiền trong một cơn say ông đã đem cho ng qua đường trên phố Bà Triệu
Trở về quê ông lại lấy vợ quê và có con nữa

Chồng thì Nhân nghĩa vợ Nhân hậu
Mấy mươi cây số đường độc đạo

Nhà gianh thì sẵn đấy
Vợ xấu có làm sao
Cuốc kêu dài bãi sậy
Hoa súng nở đầy ao

Ngoài ra ông còn ít nhất 1 con riêng nữa trước CM tháng 8 với 1 kỹ nữ, được ông nhắc đến trong bài thơ

Hôm nay bắt được thư Hà Nội
Cho biết tin Dung đã đẻ rồi
Giờ Sửu tháng ngâu ngày nguyệt tận
Bao giờ tôi biết mặt con tôi
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Một nhà thơ xứ Thanh nói với tôi khi gặp nhau ở Hà Nội, ngay sau ngày nhà thơ Nguyễn Bính được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, năm 2001: "Nếu phải chọn ra mười nhà thơ Việt Nam xuất sắc của thế kỷ XX, tôi cầm chắc trong đó có Nguyễn Bính". Tôi bắt tay anh, cảm kích cái tình của một người yêu quý Nguyễn Bính dù ông đã đi xa 35 năm kể từ ngày 21-1-1966, tại nhà lương y Tân Thanh một người yêu thơ ông ở xã Công Lý, huyện Lý Nhân, gần nơi Ty Văn hoá Nam Hà sơ tán những năm đầu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Tôi mang ý kiến của người bạn thơ xứ Thanh về Thành Nam trao đổi với các bạn văn chương Nam Định. Mấy anh em bộ môn Thơ đều cho như thế là phải. Nhà thơ "trạng nguyên áo vải" của tỉnh Nam đã "vinh quy"! Trước đó, Nguyễn Bính đã ở trong sự mến mộ của bạn đọc Trung Nam Bắc, của người Việt tha hương các chân trời viễn xứ từ những năm ba mươi thế kỷ trước đến bây giờ.

Bốn mươi chín tuổi đời với hơn ba mươi năm cầm bút, Nguyễn Bính đã để lại cho đời 22 thi phẩm, trong đó có 14 tập thơ, 8 truyện thơ; 5 tác phẩm kịch bản sân khấu, gồm 2 kịch bản chèo, 3 vở kịch thơ (vở Bóng giai nhân phác thảo ban đầu của nhà thơ Yến Lan) và các tác phẩm văn xuôi: truyện ngắn, tiểu thuyết đã xuất bản. Một năng lực sáng tạo đáng kính nể.

Giờ đây quê hương Vụ Bản, xã Cộng Hoà, thôn Thiện Vịnh nơi sinh thành dưỡng dục ông đã thành một địa chỉ văn học cho du khách gần xa đi về. Tại đây, Nguyễn Bính cất tiếng chào đời vào mùa xuân, mùa lễ hội Thánh Mẫu Phủ Dầy năm Mậu Ngọ, 1918, trong một gia đình nền nếp, thân phụ là một nhà Nho. Gia phong còn đó trong lời thơ truyền tụng quí hơn vàng: "Nhà ta coi chữ hơn vàng/ Coi tài hơn cả giàu sang trên đời"... Nguyễn Bính mồ côi mẹ khi mới ba tháng tuổi, một thiệt thòi của tuổi thơ khó có gì bù đắp. Việc học hành của ông được uỷ thác cho người bác ruột bên mẹ, cụ Bùi Trình Khiêm, một nhà Nho yêu nước ở Vân Tập dạy bảo. Nguyễn Bính thụ giáo cả chữ Nho, chữ Quốc ngữ ở đây. Còn tiếng Pháp chắc là ông phải học với người anh ruột là nhà giáo Nguyễn Mạnh Phác - nhà viết kịch Trúc Đường. Nguyễn Bính sáng dạ, ông nhập tâm chữ nghĩa chân truyền, kinh sách, văn học, lịch sử... Cái nôi văn hiến Thiên Bản - Vụ Bản, Nam Định đã sinh ra Nguyễn Bính, một "thần đồng thi ca" khi mới mười ba tuổi. Nguồn mạch văn hoá - văn học dân tộc - dân gian đã góp công nuôi dưỡng thi tài Nguyễn Bính. Là một nhà thơ của Phong trào Thơ Mới(1932-1945), Nguyễn Bính tự làm giàu vốn kiến văn của mình khi văn học Việt Nam bước sang một thời kỳ mới. Trở thành một nhà thơ chuyên nghiệp sau khi nhận giải thưởng thơ của Tự Lực văn đoàn năm 1937, chỉ trong khoảng năm sáu năm, thơ Nguyễn Bính đã được đón nhận nồng hậu ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn...Cố hoạ sĩ Nguyệt Hồ (1902-1992), một người bạn vong niên, "đồng điệu" chí cốt, thuỷ chung của Nguyễn Bính từ thời cùng làm báo trước năm 1945 ở Hà Nội, nhớ lại: "Có một điều lạ là Nguyễn Bính nổi tiếng rất nhanh và nổi như cồn! Thơ anh xuất hiện, đi đến đâu, khắp thành thị, thôn quê, một thị trấn rừng biên giới hay một bến đò hẻo lánh xa xăm, người ta đều nỉ non, thánh thót đọc thơ Nguyễn Bính. Bà ru cháu, mẹ ru con bằng thơ Nguyễn Bính...Nguyễn Bính có một bộ mặt thơ riêng sau này nhiều người bắt chước gần như một trường phái. Ai làm theo kiểu đó người ta nhận ra ngay: "Lại bắt chước thơ Nguyễn Bính rồi"! Bộ mặt thơ riêng ấy là cái chất đượm tình "quê mùa", chất dân tộc Việt Nam ta. (Nguyệt Hồ - Lời bạt Giai thoại Nguyễn Bính -1991). Tài ứng đối văn chương, năng lực thi ca và bản lĩnh văn chương, Nguyễn Bính trong "trường văn trận bút" khi cộng tác, giao lưu với các vị cựu học, tân học: Trúc Khê, Thế Lữ, Nguyễn Vỹ, Lê Tràng Kiều... với các đồng nghiệp văn chương: Tô Hoài, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Vũ Hoàng Chương, Yến Lan, Đông Hồ, Mộng Tuyết... mà không "hụt hơi", không "lạc nẻo". Phải tự tin như thế nào một thi sĩ "chân quê" như ông mới có những cuộc "đi thực tế" suốt chiều dài đất nước, một thi nhân chỉ sống bằng nhuận bút và sự ưu ái của bè bạn và những người mến mộ thơ mình. Nguyễn Bính kỳ tài! Dù phải nếm trải những thiệt thòi cay đắng, những lỡ dở, phũ phàng của cái thời buổi "coi đồng bạc to hơn núi", thói đời và tình người với bao nhiêu ngán ngẩm nơi phồn hoa gió bụi kinh thành: "Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ/ Nghèo lắm con ơi, bạc lắm con". Dù phải cầm lòng bước lên bục diễn thuyết, viết kịch rồi đóng kịch lấy tiền để độ nhật, để xoay lấy một tấm vé cho chuyến tàu chở một người "giời bắt làm thi sĩ" trên đường thiên lý "hành phương Nam", nhất quyết không bỏ cuộc. Lạ một điều là trong hoàn cảnh lữ thứ tha hương như thế, Nguyễn Bính đã có những thi phẩm để đời dù phải đáp ứng tức thì những đòi hỏi của các ông chủ bút, các Mạnh Thường Quân và bạn đọc nơi ông đến rồi đi. Ví như chùm thơ ông viết ở Huế: Xóm Ngự Viên, Giời mưa ở Huế cùng với Người con gái ở lầu hoa, khi đứng vào tuyển tập thơ viết về Huế trước năm 1945 tập Bài thơ thôn Vĩ (Sông Hương - 1987), với 50 thi tài danh tiếng của đất nước, thơ Nguyễn Bính với hai bài thất ngôn trường thiên độc vận đặc sắc, xứng đáng đứng hàng đầu trong tuyển tập này. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh (1909-1982) trong cuốn Thi nhân Việt Nam đã có một nhận xét chí lý: Thơ Nguyễn Bính "là hồn xưa đất nước".

Gia tài thi ca của ông chủ yếu là thơ tình. Cái tình chân quê trong trẻo "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ mười mong một người", cái tình ngây thơ tuổi học trò "Đội đầu chung một lá sen tơ", cái tình trong mộng "Có một nghìn đêm tôi chiêm bao", ước vọng hạnh phúc lứa đôi không thành "Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ/ Mộng ngát duyên lành cũng bỏ tôi". Thơ tình Nguyễn Bính có cả mối đồng cảm với những tâm tình nơi thôn dã, những cảm thương nhân ái đối với những thân phận goá bụa, đơn côi, từ bà lão xóm Tây đến anh lái đò nghèo, từ chị Trúc "lỡ bước sang ngang" đến cô gái Hà Thành trinh trắng bạc mệnh ...Những gương mặt nhân hậu lầm lụi trong đám bụi mù nhân thế thời vong quốc "Gái chính chuyên kia đứng vệ đường", khuất lấp trong không gian cách trở, quạnh quẽ nghìn đời "Nhà em xa cách quá chừng/ Em van anh đấy, anh đừng thương em"... Những cuộc biệt ly chồng nam vợ bắc trên sân ga đổ bóng "Buồn ở đâu hơn ở chốn này?" Thơ Nguyễn Bính còn có những bài cảm động viết về quê hương, về gia đình thời nước mất nhà tan, với bao nhiêu ngậm ngùi thương nhớ.

Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ mới có công hiện đại hoá thể thơ lục bát. Ông và nhà thơ Huy Cận là những kiện tướng của thể thơ dân tộc này. Ngay thể thơ thất ngôn Đường luật vốn rất nghiêm nhặt, ở Nguyễn Bính cũng thăng hoa với đủ cả các phẩm chất đăng đối, tề chỉnh mà cứ tươi ròng sức sống:

Em vốn đường dài thân ngựa lẻ
Chị thì sông cái chiếc đò nan
Quê người đứng ngắm mây lưu lạc
Bến cũ nằm nghe sóng lỡ làng...

Ngọn bút trữ tình Nguyễn Bính có lúc còn "thảo lên lên giời mấy nét nhanh" trong bài Bảy chữ để gửi cho người mình yêu bức "ngọc thư" độc đáo: Xe ngựa chiều nay ngập thị thành/ Chiều nay nàng bắt được giời xanh/ Đọc xong bảy chữ thì thương lắm: "Vạn lý tương tư, vũ trụ tình".

Trước đó chừng một thế kỷ, một nhà thơ châu Âu cũng có thao tác "viết thư tình lên giời" gần giống Nguyễn Bính. Đó là Henrich Hainơ (1797-1856), nhà thơ lớn của nước Đức, trong tập Biển bắc, ông viết:

Anh sẽ nhổ cây thông nào cao lớn nhất Na Uy
Nhúng vào miệng hoả diệm bùng chảy
Anh viết câu thơ sáng rực lên trời:
"Anh yêu em! Hỡi em! An - nét!"

Trong bài thơ Một trời quan tái viết ở Lạng Sơn năm 1940, Nguyễn Bính có một dòng tự bạch "Tôi là thi sĩ của thương yêu". Ngẫm lại thật đúng. Là thi sĩ khát khao và trân trọng tình người, Nguyễn Bính trở thành người đồng điệu của nhiều văn nghệ sĩ chân chính ở các chân trời nghệ thuật từ xưa đến nay, những người suốt đời phấn đấu vì tình thương yêu đồng loại, tình yêu nhân dân đất nước, sống và viết với ước vọng nhân văn cao cả ấy.

Nguyễn Bính không màng thứ danh lợi "vinh thân phì gia" khom lưng uốn gối. Bước qua những lời mời gọi trọng vọng và cả lời hăm doạ từ đám quan chức Sài Gòn theo Pháp, đầu năm 1947, Nguyễn Bính đến với chiến khu Đồng Tháp Mười, tham gia kháng chiến, đồng cam cộng khổ với cán bộ, chiến sĩ, đồng bào miền Tây. Thơ ông chuyển sang một thời kỳ mới: phục vụ cuộc kháng chiến anh dũng quyết chiến quyết thắng của quân và dân Nam Bộ. Thơ Nguyễn Bính trên tờ Lá Lúa xuất bản ở chiến khu, có bài trở thành ca khúc nổi tiếng (Tiểu đoàn 307 - Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc). Những sáng tác kịp thời của ông được in qua những chế bản bằng đất, bằng bột, litô... được truyền tay nhau, nhanh chóng thâm nhập quần chúng ở Nam Bộ:Thư gửi về Cha, Đồng Tháp Mười, Mẹ, Chung một lời thề... "Thi sĩ của thương yêu" trải qua công tác ở Hội Văn hoá Cứu quốc tỉnh Rạch Giá, phó chủ nhiệm tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Rạch Giá, cán bộ cơ quan Văn nghệ khu Tám. Ông trở thành "rể quý" của miền quê phương Nam.

Năm 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc. Thơ Nguyễn Bính tiếp tục hành trình mới trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Ông về nhận công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam. Rồi Nguyễn Bính làm báo, ông chủ trương tờ Trăm hoa bộ mới. Do không đáp ứng được yêu cầu của báo chí thời điểm ấy, toà soạn đóng cửa, năm 1958, Nguyễn Bính trở về Nam Định sinh sống và tiếp tục sáng tác. Rồi ông nhận công tác tại Ty Văn hoá Thông tin tỉnh Nam Định. Là cán bộ của Phòng Sáng tác, nhà thơ Nguyễn Bính "đã góp công vào sự trưởng thành của phong trào văn nghệ quê hương". Một số cây bút trẻ của tỉnh đã được ông chỉ bảo, khuyến khích qua những đợt tập huấn, những hội nghị sáng tác, trong đó có những người nay đã là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Trở về quê nhà Nam Định, sức sáng tạo của Nguyễn Bính như được "hồi xuân". Cùng với các sáng tác thơ trữ tình, trong đó có những thi phẩm xuất sắc Chiều Thu, Đêm sao sáng, Trở về quê cũ, Tháng ba... các trường ca Làng tôi, Xây nhà máy...truyện thơ Tiếng trống đêm xuân, Bức thư nhà... Nguyễn Bính viết hai vở chèo Cô Son, Người lái đò sông Vị "bộc lộ tình cảm thiết tha đối với truyền thống nghệ thuật dân tộc".

Về Nam Định, Nguyễn Bính gặp lại những người bạn cũ Nguyệt Hồ, Trần Văn Khuê... Những người trân trọng tình bằng hữu với nhà thơ đã góp phần vun đắp cho ông có một mái ấm gia đình sau những chia ly, cách trở. Gia đình ông cùng chia sẻ những khó khăn với nhân dân thành Nam những năm tháng gian khổ. Ông cũng có thêm những đồng nghiệp mới biết trân trọng tài năng văn chương như nhà viết kịch Hồng Vũ, nhà văn Chu Văn... và những người tử tế yêu mến Nguyễn Bính nơi nhiệm sở, chốn dân phố, nơi sơ tán "Chồng ở Nhân Nghĩa, vợ Nhân Hậu...".

Hai mươi năm sau ngày ông đi xa, Tuyển tập Nguyễn Bính do Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh, nhà xuất bản Văn học liên kết xuất bản với sự góp công của các nhà sưu tầm - tuyển chọn: Quang Huy - Vũ Quốc Ái - Kim Ngọc Diệu - Đỗ Đình Thọ đã ra mắt với số lượng hàng vạn bản đáp ứng yêu cầu bạn đọc gần xa, làm nên một "hiện tượng xuất bản" lúc bấy giờ. Năm 1998, kỷ niệm 80 năm sinh ông, tuyển tập thơ Thi sĩ của thương yêu, Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định xuất bản, tuyển chọn những bài thơ của các nhà thơ, các hội viên bộ môn thơ viết về Nguyễn Bính cùng các thi phẩm đặc sắc của ông. Năm 2008, kỷ niệm 90 năm sinh ông, Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định xuất bản ấn phẩm Thi sĩ Nguyễn Bính hồn thơ Việt, tập hợp 16 bài viết của các tác giả nghiên cứu phê bình, tôn vinh sự nghiệp thi ca của Nguyễn Bính. Cùng thời điểm ấy, một con đường ở thành phố Nam Định mang tên nhà thơ quê hương. Tại miền thượng huyện Vụ Bản, xã Hiển Khánh, trường Trung học phổ thông Nguyễn Bính nhiều năm qua vẫn duy trì nền nếp "dạy tốt, học tốt". Thơ Nguyễn Bính trong tiếng trống "Tựu trường san sát chân son", nhiều trang sổ tay văn học của các bạn trẻ thời hội nhập chép thơ Nguyễn Bính.

Cứ nghĩ, giá mà giờ đây Nguyễn Bính còn, chúng ta sẽ được thấy một "đại lão thi sĩ" đầu râu tóc bạc chín mươi nhăm tuổi, sánh bước cùng người bạn cũ Tô Hoài, một "đại lão văn sĩ" chín mươi ba tuổi để con cháu nội ngoại xúm xít chúc mừng thì hay biết bao nhiêu! Nhưng Nguyễn Bính như người đẹp thuở xưa "Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu". Trước ngày đi xa, tại nơi sơ tán, thôn Đức Bản, xã Nhân Nghĩa, huyện Lý Nhân, trong ngôi nhà lợp lá mía, trên chiếc bàn kê tạm bên ô cửa sổ vấn vít những luống quít, giàn trầu, ông đã kịp gửi lại Bài thơ quê hương chứa chan tình yêu quê hương đất nước. Ông cũng gửi lại bài thơ tập Kiều tuyệt bút Kính gửi cụ Nguyễn Du và Truyện Kiều nhân dịp kỷ niệm 200 năm sinh đại thi hào Nguyễn Du:.."Thương vui bởi tại lòng này/ Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời/ Lòng thơ lai láng bồi hồi/ Tưởng người nên lại thấy người về đây".

Để kết bài viết này, tôi xin mượn bài thơ của nhà thơ - kiến trúc sư Vũ Minh Am, viết tháng Giêng, năm Mậu Dần, 1998, in trong tập Thi sĩ của thương yêu. Bài thơ hay "tờ hoa tiên" báo trước ngày vui:
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top