Đêm ngày rằm tháng giêng âm lịch là Tết Nguyên Tiêu cổ truyền của nhân dân Trung Quốc , cũng gọi là "Tết Hoa Đăng " . Theo tập tục cũ , đêm ngày rằm tháng giêng , bất cứ trong thành thị hay ở nông thôn , đâu đâu cũng treo đèn kết hoa , mọi người ra ngắm cảnh hoa đăng , đố câu đối, bầu không khí Tết Nguyên Tiêu thật tưng bừng náo nhiệt .
Từ các đời Đường ,Tống đến Minh, Thanh , Tết Nguyên Tiêu đã trở thành hoạt động vui chơi giải trí quan trọng của dân chúng . Tết Nguyên Tiêu treo đèn lồng , ngắm hoa đăng là hoạt động vui chơi giải trí được quần chúng nhân dân ở nhiều khu vực Trung Quốc hết sức hoan nghênh . Đặc biệt những năm gần đây , Tết Nguyên Tiên đã xuất hiện quang cảnh phồn thịnh hơn bao giờ hết .Mọi người đều yêu thích Tết Nguyên Tiêu , vậy tết cổ truyền này được bắt nguồn từ đâu ?
Một ý kiến cho rằng , Tết Nguyên Tiêu là có từ Đời Hán , Cuốn "Ngày tết Trung Quốc " xuất bản vào tháng 9 năm 1983 cho rằng : Vua Hán Văn lên ngôi sau khi "dẹp yên cuộc rối ren do gia tộc họ Lã " gây nên , chính ngày đó là ngày rằm tháng giêng . Sau đó cứ vào ngày rằm tháng giêng là vua Hán Văn đều ra khỏi cung vua để đi dạo chơi và "chung vui với dân". Chữ "Dạ" trong cổ ngữ Trung Quốc được gọi là "Tiêu " , cho nên vua Hán Văn đã lấy ngày rằm tháng giêng làm ngày Tết Nguyên Tiêu . Nhưng , lúc đó chưa có tập tục treo đèn lồng . Đến năm thứ 10 Vĩnh Bình , tức năm 67 công nguyên , do đề xuất chủ trương theo đạo phật , vua Hán Minh đã ra sắc lệnh treo đèn lồng trong Tết Nguyên Tiêu để tỏ lòng tôn sùng phật giáo . Đó là cội nguồn treo đèn lồng trong Tết Nguyên Tiêu
Còn một ý kiến khác thì cho rằng , Tết Nguyên Tiêu bắt nguồn từ hoạt động tôn giáo của phật giáo do Thích-ca-mâu-ni sáng lập . Ngày rằm tháng giêng , tăng lữ tề tịu đông đủ để ngắm cảnh hào quang tỏa ra từ Xá Lỵ của Phật. Cũng có người cho rằng , Chung vui Tết Nguyên Tiêu là luật lệ cũ của đạo giáo . Đạo giáo gọi ngày rằm tháng giêng là " Tết Thượng Nguyên " .
Về cội nguồn của Tết Nguyên Tiêu , trong dân gian có rất nhiều giải thích . Truyền thuyết cho rằng , Tết Nguyên Tiêu có từ thời vua Hán Vũ . Hồi đó , các cung nữ sau Tết Nguyên Tiêu tháng giêng đều nhớ nhà và nhớ cha mẹ , nhưng cung vua canh phòng cẩn mật , làm thế nào để ra đi gặp mặt cha mẹ ? Đông Phương Sóc giàu trí thông minh sau khi được tin này bày tỏ hết sức đồng tình , rồi thiết kế phương án để giúp các cung nữ thực hiện nguyện vọng gặp mặt bố mẹ , bước đầu tiên của Đông Phương Sóc là tung tin , cho rằng Hỏa Thần sẽ cử người đến thiêu hủy thành Trường An , khiến cung vua trong nội thành hoang mang khiếp sợ .Sau đó Đông Phương Sóc bày mưu hiến kế với vua Hán Vũ rằng , tối ngày rằm mọi người trong cung nhất luật phải đi lánh nạn ở ngoài cùng vua , các đường to ngõ hẻm , trước nhà sau sân trong nội thành đều treo đèn lồng đỏ , tạo nên giả tượng là cả tòa thành Trường An lửa cháy hừng hực , nhờ đó để đánh lừa Hỏa Thần đang giám sát trên trời . Vua Hán Vũ đã đồng ý phương án này của Đông Phương Sóc , thế là các cung nữ nhân Tết Nguyên Tiêu thực hiện nguyện vọng gặp mặt người thân . Từ đó , cứ đến ngày rằm tháng giêng đều phải treo đèn lồng . Còn có truyền thuyết cho rằng , Tết Nguyên Tiêu bắt nguồn từ tập quán của công việc đồng áng trong dân gian . Trước sau ngày rằm tháng giêng hàng năm , công việc cày bừa của vụ chiêm sẽ bắt đầu , bà con nông dân ở các nơi đều khẩn trương chuẩn bị cho công việc đồng áng . Đến tối ngày rằm tháng giêng , bà con nông dân ở một số khu vực thì đi ra đồng ruộng tập trung cây cỏ lá khô , rồi châm lửa thiêu hủy để diệt sâu bọ .
Những ý nghĩa của cái Tết trong truyền thống Văn hóa Việt Nam
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới: Tết Nguyên Ðán, còn gọi là Tết Cả. Trên thực tế, Việt Nam có hàng chục ngày Tết cổ truyền có rất nhiều ý nghĩa ở nhiều thời điểm khác nhau trong năm. Và trong từng cái tết ấy, đều chứa đựng một sự tích sâu xa ví như sự giao thoa với nền văn hóa khu vực, song đã được Việt hóa một cách tự nhiên và sâu sắc.
Tết Nguyên Ðán: Tết Nguyên Ðán là Tết lớn trong năm. Tết này còn gọi là Tết Cả, vào đúng vào ngày mùng 1 tháng Giêng âm lịch, ngày đầu tiên của Năm Mới. Theo phong tục cổ truyền Việt Nam , Tết Nguyên Ðán trước hết là Tết của gia đình. Trong 3 ngày Tết diễn ra với ba cuộc gặp gỡ lớn ngay tại mỗi nhà. Thứ nhất là cuộc gặp gỡ của những Gia Thần, đó là Tiên Sư hay Nghề Sư là vị tổ đầu tiên dạy nghề mà gia đình mình đang làm. Thổ công, trong giữa đất, nơi mà mình đang ở; và Táo Quân là thần của việc nấu ăn của mọi người trong gia đình. Cuộc gặp gỡ thứ hai là cuộc gặp gỡ Tổ Tiên Ông Bà, những người đã khuất. Người dân tin rằng linh hồn của những người đã khuất cũng về với con cháu của họ vào dịp Tết. Cuộc gặp gỡ thứ ba là cuộc đoàn tụ của những người trong nhà, như một thói quen linh thiêng và bền vững nhất. Mỗi năm tết đến, dù đang ở đâu, làm gì, trong hoàn cảnh nào, hầu như ai cũng mong muốn và cố gắng trở về quây quần với những người thân trong gia đình. Dịp Tết Nguyên Ðán người ta làm bánh chưng trong cái niêu, đi chúc mừng nhau, mở hội, tổ chức các cuộc vui chơi, thi đỗ, ăn uống rất tưng bừng. Tết Nguyên Ðán thực sự là ngày hội mùa lớn, ngày nhớ ơn, tạ ơn, chúc mừng, sum họp vui vẻ, và thiêng liêng.
Tết Khai Hàng: Theo tính cách của người xưa, ngày mồng 1 tháng Giêng ứng vào ngày gà; mồng hai: chó; mồng ba: lợn; mồng bốn: dê; mồng năm: trâu; mồng sáu: ngựa; mồng bảy: người; mồng tám: lúa. Trong 8 ngày đầu năm, cứ ngày nào sáng sủa, thì coi như loài giống thuộc về ngày ấy được tốt cả năm. Vì vậy, đến mồng bảy, thấy trời tạnh ráo, quang đãng, thì người ta tin rằng cả năm mọi người sẽ gặp may mắn, hạnh phúc. Mồng bảy hạ cái niêu kết thúc Tết Nguyên Ðán cũng là ngày bắt đầu tết Khai Hàng, Tết mở đầu cho ngày vui để đón chào mùa xuân mới.
Tết Thượng Nguyên: Tết Thượng Nguyên hay còn gọi là Tết Nguyên Tiêu, vào đúng ngày rằm tháng Giêng, ngày trăng rằm đầu tiên của năm. Tết này phần lớn được tổ chức tại Chùa Chiền, vì ngày rằm tháng Giêng còn được gọi là ngày Vía của Phật Tổ. Thành ngữ có câu: "Lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng Giêng" xuất phát từ đó. Sau khi đi Chùa, mọi người về nhà họp mặt, cúng Gia Tiên và ăn cỗ.
Tết Hàn Thực: Hàn Thực nghĩa là ăn đồ nguội. Tết này vào ngày mồng 3 tháng Ba âm lịch. Thời Xuân Thu ở Trung Quốc, Công Tử Trùng Nhĩ, về sau là vua Tấn Văn Công, khi gặp cảnh hoạn nạn, đói quá, được Giới Tử Thôi cắt thịt đùi của mình, nấu dâng cho ăn. Sau 19 năm phiêu bạt, Trùng Nhĩ lại được trở về nắm giữ vương quyền nước Tần. Vua ban thưởng cho tất cả những người đã cùng nếm mật nằm gai, nhưng lại quên mất Tử Thôi. Tử Thôi cũng không oán hận, vì nghĩ việc giúp đỡ Trùng Nhĩ là một nghĩa vụ của kẻ bầy tôi. Và Tử Thôi đưa mẹ vào sống ở núi Ðiều. Lúc vua nhớ ra cho người tới mời mà không được, liền sai đốt rừng để Tử Thôi phải đi ra. Tuy nhiên Tử Thôi không ra, và hai mẹ con cùng bị chết cháy. Hôm ấy đúng ngày 5 tháng Ba. Ðau xót, vua sai lập miếu thờ trên núi, và đổi tên núi đó là Giới Sơn. Người quanh vùng thương Tử Thôi nên hằng năm từ ngày mồng 3 đến mồng 5 tháng Ba thì kiêng đốt lửa mà chỉ ăn đồ nguội đã nấu sẵn. Từ thời Nhà Lý, người Việt đã tiếp nhận Tết này nhưng chỉ tổ chức vào một ngày mồng 3 tháng Ba mà thôi, không kiêng đốt lửa và thường làm bánh trôi, bánh chay, thay cho đồ nguội, mục đích chủ yếu là để cúng gia tiên chứ ít người hiểu rõ chuyện Giới Tử Thôi. Hiện nay, Tết này vẫn thường đậm nét ở miền Bắc, nhất là các tỉnh quanh Hà Nội.
Tết Thanh Minh: Trong truyện Kiều có viết rằng: "Thanh Minh trong tiết tháng Ba, lễ là Tảo Mộ hội là Ðạm Thanh", Thanh Minh nghĩa là trời trong sáng, nhân đó người ta đi thăm mồ mã của những người thân. Tết Thanh Minh thường vào tháng Ba âm lịch trở thành lễ Tảo Mộ. Sau khi đã tảo mộ, mọi người trong gia đình trở về nhà làm lễ cúng gia tiên.
Tết Ðoan Ngọ: Tết Ðoan Ngọ còn gọi là Tết Ðoan Dương, vào ngày mồng 5 tháng Năm âm lịch. Ðây là giai đoạn chuyển mùa từ Xuân sang Hạ, nên khí hậu có nhiều thay đổi đột ngột, dễ sinh bệnh thời khí. Ca dao Viêt Nam có câu: "Chưa ăn bánh nếp Ðoan Dương, áo bông chẳng dám khinh thường cỡi ra". Khúc Nguyên là một nhà thơ nổi tiếng, một vị trung thần của nước Sở, do can ngăn Ngũ Hoài Vương không được, đã uất ức ôm đá gieo mình xuống sông Miệt La tự vận. Hôm ấy đúng ngày 5 tháng Năm. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày đó, người dân Trung Quốc làm bánh, cuốn chỉ ngũ sắc bên ngoài, chủ ý khiến cho cá sợ khỏi ăn, rồi bơi thuyền ra giữa sông ném bánh xuống cúng Khúc Nguyên. Ở Việt Nam ít người biết chuyện Khúc Nguyên, mà chỉ coi mồng 5 tháng Năm là Tết giết sâu bọ, vì trong giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Mọi người dậy sớm, chỉ ăn hoa quả hoặc chè. Tuy nhiên mỗi nơi có thêm một phong tục riêng ví dụ như ở Phụng Lý, vào ngày này, người con rễ trong gia đình thường tới biếu người bố vợ một con ngỗng thật to.
Tết Trung Nguyên: Tết Trung Nguyên vào ngày rằm tháng Bảy. Theo sách Phật hôm ấy là ngày vong nhân được xá tội, ngày báo hiếu cha mẹ. Ngay tại Chùa thường làm chay tịnh tế và cầu kinh Vu Lan. Tại gia đình thì bày cúng gia tiên, đốt vàng mã.
Tết Trung Thu: Tết Trung Thu nhằm vào ngày rằm tháng Tám. Trung Thu là Tết của trẻ con. Thường ban ngày người ta làm lễ cúng gia tiên, tối mới bày hoa quả bánh kẹo để trẻ con vui chơi, phá cỗ, trong trăng rước đèn.
Tết Trùng Cửu: Tết Trùng Cửu vào ngày 9 tháng Chín âm lịch. Tết này bắt nguồn tự sự tích của Ðạo Lão. Thời Hán có người tên gọi là Hoàng Cảnh đi học phép tiên, một hôm thầy Phiên Tràng Phong bảo Hoàng Cảnh khuyên mỗi người trong gia đình, may một cái túi lụa đựng hoa cúc, rồi đến chỗ cao để tạm trú. Quả nhiên ngày 9 tháng 9 có lụt to, ngập hết làng mạc. Vì làm theo lời thầy, Hoàng Cảnh và gia đình đã thoát nạn. Từ xưa, nho sĩ Việt Nam đã theo lễ này, nhưng lại biến thành cuộc du ngoạn núi non, uống rượu cúc, gọi là Thưởng Tết Trùng Dương.
Tết Trùng Thập: đây là Tết của các thầy thuốc. Theo sách dược lễ thì đến ngày 10 tháng Mười âm lịch, thầy thuốc mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ thời xuân hạ thu đông, cho nên tốt nhất. Ở nông thôn Việt Nam , đến ngày đó, người ta thường làm bánh dầy, nấu chè, để cúng gia tiên, rồi đem biếu cho những người thân thuộc, chứ không mấy quan tâm đến chuyện thầy thuốc thầy thua.
Tết Hàn Nguyên: Tết Hàn Nguyên hay còn gọi là Tết Cầu Mới, vào ngày rằm hay ngày 1 tháng Mười. Ở nông thôn, Tết này thường được tổ chức rất lớn, vì đây là dịp nấu cơm gạo mới của vụ mùa vừa xong, trước để cúng tổ tiên, sau để tự thưởng công cày cấy.
Tết Táo Quân: Tết Táo Quân vào ngày 23 tháng Chạp. Người ta coi đây là ngày vua bếp lên chầu trời để tâu lại việc bếp núc, làm ăn, cư xử của gia đình trong năm qua. Theo truyền thuyết Việt Nam , xưa có hai vợ chồng nghèo khổ quá, phải chia tay nhau mỗi người một nơi tha phương cầu thực. Sau đó người vợ may mắn lấy được chồng giàu. Một năm kia vào ngày 23 tháng Chạp, người vợ đang đốt vàng mã ngoài sân, thì thấy một người ăn xin bước vào. Nhận ra chính là chồng cũ, nên người vợ động lòng, đem cơm gạo tiền bạc ra cho. Người chồng mới biết chuyện, nghi ngờ vợ. Người vợ đâm khó xử, uất ức, lao vào bếp lửa tự vận. Người chồng cũ đau xót, cũng nhảy vào lửa chết theo. Người chồng mới ân hận, cũng lao vào lửa chết theo. Trời thấy cả 3 đều có nghĩa, nên phong cho làm vua bếp. Ca dao Việt Nam có câu: "Thế gian một vợ một chồng chẳng như vua bếp hai ông một bà". Vì tích ấy, cứ đến phiên chợ ngày 23 tháng Chạp, mỗi gia đình thường mua hai cái mũ cho ông, một cái mũ cho bà, bằng giấy, và 3 con cá chép làm ngựa để vua bếp về chầu trời. Sau khi cúng trong bếp, mũ được đốt, và cá chép được mang ra thả ao hồ, sông suối.
Sưu tầm
Từ các đời Đường ,Tống đến Minh, Thanh , Tết Nguyên Tiêu đã trở thành hoạt động vui chơi giải trí quan trọng của dân chúng . Tết Nguyên Tiêu treo đèn lồng , ngắm hoa đăng là hoạt động vui chơi giải trí được quần chúng nhân dân ở nhiều khu vực Trung Quốc hết sức hoan nghênh . Đặc biệt những năm gần đây , Tết Nguyên Tiên đã xuất hiện quang cảnh phồn thịnh hơn bao giờ hết .Mọi người đều yêu thích Tết Nguyên Tiêu , vậy tết cổ truyền này được bắt nguồn từ đâu ?
Một ý kiến cho rằng , Tết Nguyên Tiêu là có từ Đời Hán , Cuốn "Ngày tết Trung Quốc " xuất bản vào tháng 9 năm 1983 cho rằng : Vua Hán Văn lên ngôi sau khi "dẹp yên cuộc rối ren do gia tộc họ Lã " gây nên , chính ngày đó là ngày rằm tháng giêng . Sau đó cứ vào ngày rằm tháng giêng là vua Hán Văn đều ra khỏi cung vua để đi dạo chơi và "chung vui với dân". Chữ "Dạ" trong cổ ngữ Trung Quốc được gọi là "Tiêu " , cho nên vua Hán Văn đã lấy ngày rằm tháng giêng làm ngày Tết Nguyên Tiêu . Nhưng , lúc đó chưa có tập tục treo đèn lồng . Đến năm thứ 10 Vĩnh Bình , tức năm 67 công nguyên , do đề xuất chủ trương theo đạo phật , vua Hán Minh đã ra sắc lệnh treo đèn lồng trong Tết Nguyên Tiêu để tỏ lòng tôn sùng phật giáo . Đó là cội nguồn treo đèn lồng trong Tết Nguyên Tiêu
Còn một ý kiến khác thì cho rằng , Tết Nguyên Tiêu bắt nguồn từ hoạt động tôn giáo của phật giáo do Thích-ca-mâu-ni sáng lập . Ngày rằm tháng giêng , tăng lữ tề tịu đông đủ để ngắm cảnh hào quang tỏa ra từ Xá Lỵ của Phật. Cũng có người cho rằng , Chung vui Tết Nguyên Tiêu là luật lệ cũ của đạo giáo . Đạo giáo gọi ngày rằm tháng giêng là " Tết Thượng Nguyên " .
Về cội nguồn của Tết Nguyên Tiêu , trong dân gian có rất nhiều giải thích . Truyền thuyết cho rằng , Tết Nguyên Tiêu có từ thời vua Hán Vũ . Hồi đó , các cung nữ sau Tết Nguyên Tiêu tháng giêng đều nhớ nhà và nhớ cha mẹ , nhưng cung vua canh phòng cẩn mật , làm thế nào để ra đi gặp mặt cha mẹ ? Đông Phương Sóc giàu trí thông minh sau khi được tin này bày tỏ hết sức đồng tình , rồi thiết kế phương án để giúp các cung nữ thực hiện nguyện vọng gặp mặt bố mẹ , bước đầu tiên của Đông Phương Sóc là tung tin , cho rằng Hỏa Thần sẽ cử người đến thiêu hủy thành Trường An , khiến cung vua trong nội thành hoang mang khiếp sợ .Sau đó Đông Phương Sóc bày mưu hiến kế với vua Hán Vũ rằng , tối ngày rằm mọi người trong cung nhất luật phải đi lánh nạn ở ngoài cùng vua , các đường to ngõ hẻm , trước nhà sau sân trong nội thành đều treo đèn lồng đỏ , tạo nên giả tượng là cả tòa thành Trường An lửa cháy hừng hực , nhờ đó để đánh lừa Hỏa Thần đang giám sát trên trời . Vua Hán Vũ đã đồng ý phương án này của Đông Phương Sóc , thế là các cung nữ nhân Tết Nguyên Tiêu thực hiện nguyện vọng gặp mặt người thân . Từ đó , cứ đến ngày rằm tháng giêng đều phải treo đèn lồng . Còn có truyền thuyết cho rằng , Tết Nguyên Tiêu bắt nguồn từ tập quán của công việc đồng áng trong dân gian . Trước sau ngày rằm tháng giêng hàng năm , công việc cày bừa của vụ chiêm sẽ bắt đầu , bà con nông dân ở các nơi đều khẩn trương chuẩn bị cho công việc đồng áng . Đến tối ngày rằm tháng giêng , bà con nông dân ở một số khu vực thì đi ra đồng ruộng tập trung cây cỏ lá khô , rồi châm lửa thiêu hủy để diệt sâu bọ .
Những ý nghĩa của cái Tết trong truyền thống Văn hóa Việt Nam
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới: Tết Nguyên Ðán, còn gọi là Tết Cả. Trên thực tế, Việt Nam có hàng chục ngày Tết cổ truyền có rất nhiều ý nghĩa ở nhiều thời điểm khác nhau trong năm. Và trong từng cái tết ấy, đều chứa đựng một sự tích sâu xa ví như sự giao thoa với nền văn hóa khu vực, song đã được Việt hóa một cách tự nhiên và sâu sắc.
Tết Nguyên Ðán: Tết Nguyên Ðán là Tết lớn trong năm. Tết này còn gọi là Tết Cả, vào đúng vào ngày mùng 1 tháng Giêng âm lịch, ngày đầu tiên của Năm Mới. Theo phong tục cổ truyền Việt Nam , Tết Nguyên Ðán trước hết là Tết của gia đình. Trong 3 ngày Tết diễn ra với ba cuộc gặp gỡ lớn ngay tại mỗi nhà. Thứ nhất là cuộc gặp gỡ của những Gia Thần, đó là Tiên Sư hay Nghề Sư là vị tổ đầu tiên dạy nghề mà gia đình mình đang làm. Thổ công, trong giữa đất, nơi mà mình đang ở; và Táo Quân là thần của việc nấu ăn của mọi người trong gia đình. Cuộc gặp gỡ thứ hai là cuộc gặp gỡ Tổ Tiên Ông Bà, những người đã khuất. Người dân tin rằng linh hồn của những người đã khuất cũng về với con cháu của họ vào dịp Tết. Cuộc gặp gỡ thứ ba là cuộc đoàn tụ của những người trong nhà, như một thói quen linh thiêng và bền vững nhất. Mỗi năm tết đến, dù đang ở đâu, làm gì, trong hoàn cảnh nào, hầu như ai cũng mong muốn và cố gắng trở về quây quần với những người thân trong gia đình. Dịp Tết Nguyên Ðán người ta làm bánh chưng trong cái niêu, đi chúc mừng nhau, mở hội, tổ chức các cuộc vui chơi, thi đỗ, ăn uống rất tưng bừng. Tết Nguyên Ðán thực sự là ngày hội mùa lớn, ngày nhớ ơn, tạ ơn, chúc mừng, sum họp vui vẻ, và thiêng liêng.
Tết Khai Hàng: Theo tính cách của người xưa, ngày mồng 1 tháng Giêng ứng vào ngày gà; mồng hai: chó; mồng ba: lợn; mồng bốn: dê; mồng năm: trâu; mồng sáu: ngựa; mồng bảy: người; mồng tám: lúa. Trong 8 ngày đầu năm, cứ ngày nào sáng sủa, thì coi như loài giống thuộc về ngày ấy được tốt cả năm. Vì vậy, đến mồng bảy, thấy trời tạnh ráo, quang đãng, thì người ta tin rằng cả năm mọi người sẽ gặp may mắn, hạnh phúc. Mồng bảy hạ cái niêu kết thúc Tết Nguyên Ðán cũng là ngày bắt đầu tết Khai Hàng, Tết mở đầu cho ngày vui để đón chào mùa xuân mới.
Tết Thượng Nguyên: Tết Thượng Nguyên hay còn gọi là Tết Nguyên Tiêu, vào đúng ngày rằm tháng Giêng, ngày trăng rằm đầu tiên của năm. Tết này phần lớn được tổ chức tại Chùa Chiền, vì ngày rằm tháng Giêng còn được gọi là ngày Vía của Phật Tổ. Thành ngữ có câu: "Lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng Giêng" xuất phát từ đó. Sau khi đi Chùa, mọi người về nhà họp mặt, cúng Gia Tiên và ăn cỗ.
Tết Hàn Thực: Hàn Thực nghĩa là ăn đồ nguội. Tết này vào ngày mồng 3 tháng Ba âm lịch. Thời Xuân Thu ở Trung Quốc, Công Tử Trùng Nhĩ, về sau là vua Tấn Văn Công, khi gặp cảnh hoạn nạn, đói quá, được Giới Tử Thôi cắt thịt đùi của mình, nấu dâng cho ăn. Sau 19 năm phiêu bạt, Trùng Nhĩ lại được trở về nắm giữ vương quyền nước Tần. Vua ban thưởng cho tất cả những người đã cùng nếm mật nằm gai, nhưng lại quên mất Tử Thôi. Tử Thôi cũng không oán hận, vì nghĩ việc giúp đỡ Trùng Nhĩ là một nghĩa vụ của kẻ bầy tôi. Và Tử Thôi đưa mẹ vào sống ở núi Ðiều. Lúc vua nhớ ra cho người tới mời mà không được, liền sai đốt rừng để Tử Thôi phải đi ra. Tuy nhiên Tử Thôi không ra, và hai mẹ con cùng bị chết cháy. Hôm ấy đúng ngày 5 tháng Ba. Ðau xót, vua sai lập miếu thờ trên núi, và đổi tên núi đó là Giới Sơn. Người quanh vùng thương Tử Thôi nên hằng năm từ ngày mồng 3 đến mồng 5 tháng Ba thì kiêng đốt lửa mà chỉ ăn đồ nguội đã nấu sẵn. Từ thời Nhà Lý, người Việt đã tiếp nhận Tết này nhưng chỉ tổ chức vào một ngày mồng 3 tháng Ba mà thôi, không kiêng đốt lửa và thường làm bánh trôi, bánh chay, thay cho đồ nguội, mục đích chủ yếu là để cúng gia tiên chứ ít người hiểu rõ chuyện Giới Tử Thôi. Hiện nay, Tết này vẫn thường đậm nét ở miền Bắc, nhất là các tỉnh quanh Hà Nội.
Tết Thanh Minh: Trong truyện Kiều có viết rằng: "Thanh Minh trong tiết tháng Ba, lễ là Tảo Mộ hội là Ðạm Thanh", Thanh Minh nghĩa là trời trong sáng, nhân đó người ta đi thăm mồ mã của những người thân. Tết Thanh Minh thường vào tháng Ba âm lịch trở thành lễ Tảo Mộ. Sau khi đã tảo mộ, mọi người trong gia đình trở về nhà làm lễ cúng gia tiên.
Tết Ðoan Ngọ: Tết Ðoan Ngọ còn gọi là Tết Ðoan Dương, vào ngày mồng 5 tháng Năm âm lịch. Ðây là giai đoạn chuyển mùa từ Xuân sang Hạ, nên khí hậu có nhiều thay đổi đột ngột, dễ sinh bệnh thời khí. Ca dao Viêt Nam có câu: "Chưa ăn bánh nếp Ðoan Dương, áo bông chẳng dám khinh thường cỡi ra". Khúc Nguyên là một nhà thơ nổi tiếng, một vị trung thần của nước Sở, do can ngăn Ngũ Hoài Vương không được, đã uất ức ôm đá gieo mình xuống sông Miệt La tự vận. Hôm ấy đúng ngày 5 tháng Năm. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày đó, người dân Trung Quốc làm bánh, cuốn chỉ ngũ sắc bên ngoài, chủ ý khiến cho cá sợ khỏi ăn, rồi bơi thuyền ra giữa sông ném bánh xuống cúng Khúc Nguyên. Ở Việt Nam ít người biết chuyện Khúc Nguyên, mà chỉ coi mồng 5 tháng Năm là Tết giết sâu bọ, vì trong giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Mọi người dậy sớm, chỉ ăn hoa quả hoặc chè. Tuy nhiên mỗi nơi có thêm một phong tục riêng ví dụ như ở Phụng Lý, vào ngày này, người con rễ trong gia đình thường tới biếu người bố vợ một con ngỗng thật to.
Tết Trung Nguyên: Tết Trung Nguyên vào ngày rằm tháng Bảy. Theo sách Phật hôm ấy là ngày vong nhân được xá tội, ngày báo hiếu cha mẹ. Ngay tại Chùa thường làm chay tịnh tế và cầu kinh Vu Lan. Tại gia đình thì bày cúng gia tiên, đốt vàng mã.
Tết Trung Thu: Tết Trung Thu nhằm vào ngày rằm tháng Tám. Trung Thu là Tết của trẻ con. Thường ban ngày người ta làm lễ cúng gia tiên, tối mới bày hoa quả bánh kẹo để trẻ con vui chơi, phá cỗ, trong trăng rước đèn.
Tết Trùng Cửu: Tết Trùng Cửu vào ngày 9 tháng Chín âm lịch. Tết này bắt nguồn tự sự tích của Ðạo Lão. Thời Hán có người tên gọi là Hoàng Cảnh đi học phép tiên, một hôm thầy Phiên Tràng Phong bảo Hoàng Cảnh khuyên mỗi người trong gia đình, may một cái túi lụa đựng hoa cúc, rồi đến chỗ cao để tạm trú. Quả nhiên ngày 9 tháng 9 có lụt to, ngập hết làng mạc. Vì làm theo lời thầy, Hoàng Cảnh và gia đình đã thoát nạn. Từ xưa, nho sĩ Việt Nam đã theo lễ này, nhưng lại biến thành cuộc du ngoạn núi non, uống rượu cúc, gọi là Thưởng Tết Trùng Dương.
Tết Trùng Thập: đây là Tết của các thầy thuốc. Theo sách dược lễ thì đến ngày 10 tháng Mười âm lịch, thầy thuốc mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ thời xuân hạ thu đông, cho nên tốt nhất. Ở nông thôn Việt Nam , đến ngày đó, người ta thường làm bánh dầy, nấu chè, để cúng gia tiên, rồi đem biếu cho những người thân thuộc, chứ không mấy quan tâm đến chuyện thầy thuốc thầy thua.
Tết Hàn Nguyên: Tết Hàn Nguyên hay còn gọi là Tết Cầu Mới, vào ngày rằm hay ngày 1 tháng Mười. Ở nông thôn, Tết này thường được tổ chức rất lớn, vì đây là dịp nấu cơm gạo mới của vụ mùa vừa xong, trước để cúng tổ tiên, sau để tự thưởng công cày cấy.
Tết Táo Quân: Tết Táo Quân vào ngày 23 tháng Chạp. Người ta coi đây là ngày vua bếp lên chầu trời để tâu lại việc bếp núc, làm ăn, cư xử của gia đình trong năm qua. Theo truyền thuyết Việt Nam , xưa có hai vợ chồng nghèo khổ quá, phải chia tay nhau mỗi người một nơi tha phương cầu thực. Sau đó người vợ may mắn lấy được chồng giàu. Một năm kia vào ngày 23 tháng Chạp, người vợ đang đốt vàng mã ngoài sân, thì thấy một người ăn xin bước vào. Nhận ra chính là chồng cũ, nên người vợ động lòng, đem cơm gạo tiền bạc ra cho. Người chồng mới biết chuyện, nghi ngờ vợ. Người vợ đâm khó xử, uất ức, lao vào bếp lửa tự vận. Người chồng cũ đau xót, cũng nhảy vào lửa chết theo. Người chồng mới ân hận, cũng lao vào lửa chết theo. Trời thấy cả 3 đều có nghĩa, nên phong cho làm vua bếp. Ca dao Việt Nam có câu: "Thế gian một vợ một chồng chẳng như vua bếp hai ông một bà". Vì tích ấy, cứ đến phiên chợ ngày 23 tháng Chạp, mỗi gia đình thường mua hai cái mũ cho ông, một cái mũ cho bà, bằng giấy, và 3 con cá chép làm ngựa để vua bếp về chầu trời. Sau khi cúng trong bếp, mũ được đốt, và cá chép được mang ra thả ao hồ, sông suối.
Sưu tầm