Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình (trong hai đoạn trích tiêu biểu: “Kiều ở lầu Ngưng Bích” và “Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều"

Cua Ta

New member
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Nền văn học Việt Nam xưa được ví như bức tường cao dày của xúc cảm và tri thức. Trước những bước đi của thời gian, dường như nó càng thêm vững chãi, uy nghi và lộng lẫy hơn bao giờ hết. Bằng chứng là, dù có mấy trăm, mấy nghìn năm trôi qua, người ta vẫn không ngừng lần mò, tìm về với tinh hoa nghệ thuật của nền cổ văn vốn đã ít nhiều nằm khuất dưới lớp bụi mờ thời gian. Một trong những thi phẩm cho đến tận bây giờ vẫn không giảm sức hút, vẫn được cho là còn quá nhiều để hiểu, để khám phá, chính là Đoạn trường tân thanh – kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du, biểu tượng lớn cho văn học trung đại Việt Nam.

Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du là một áng văn chương tuyệt tác trong lịch sử văn học nước ta. Truyện Kiều có giá trị về mọi mặt: tư tưởng, triết lý, luân lý, tâm lý và văn chương.

Truyện Kiều đã trở thành quyển truyện thơ phổ thông nhất nước ta: từ các bậc cao sang quyền quý, trí thức khoa bảng, văn nhân thi sĩ, cho đến những người bình dân ít học, ai cũng biết đến Truyện Kiều, thích đọc Truyện Kiều, ngâm Kiều và thậm chí bói Kiều. Giá trị tuyệt hảo của Truyện Kiều là một điều khẳng định mà trong đó giá trị văn chương lại giữ một địa vị rất cao.
Về nội dung, Truyện Kiều cũng là sự thể hiện tập trung nhất, xúc động nhất, và cũng thành công nhất “nỗi đau nhân tình” của cuộc đời của Nguyễn Du. Qua truyện ta nhận thấy biết bao cảnh đau thương, những cuộc đời trước diễn biến của dòng đời. Một dòng đời đầy rẫy những hiểm nguy không lường trước của một chế độ xã hội mục nát, tàn bạo. Những con người trong cái cảnh gian truân ấy hiện lên vẫn ngời sáng chói lọi, vẫn giữ được những phẩm chất của mình. Và cũng qua đó ta cũng thấy được tấm lòng, nỗi đồng cảm của Nguyễn Du trước những số phận ấy, những bi cảnh cuộc đời ấy .

Về nghệ thuật – có thể nói Truyện Kiều của Nguyễn Du là một đỉnh cao nghệ thuật. Và một trong những đỉnh cao nghệ thuật góp phần tạo nên thành công ấy chính là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Bút pháp này của đại thi hào Nguyễn Du được coi là điêu luyện, tuyệt bút mà người đời sau khen ngợi "như máu chảy ở đầu ngọn bút" và "thấu nghìn đời”.

Với ước muốn và vì lẽ trên, người viết đã chọn đề tài: Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du để nghiên cứu và tìm hiểu. Đồng thời, qua việc tìm hiểu này sẽ giúp cho người viết hiểu rõ và có những nhận định đúng hơn về vấn đề trên và đó cũng là cơ sở cho việc học tập, nghiên cứu giảng dạy về sau này.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một ngôi sao sáng chói nhất trong nền văn học cổ điển Việt Nam. Tác phẩm được xếp vào một trong những kiệt tác bất hủ của văn học thế giới. Vị trí đó đã nói lên tất cả giá trị của Truyện Kiều.

Xưa nay đã có nhiều những công trình nghiên cứu lớn về Truyện Kiều và đã không có ít những đánh giá, nhìn nhận khác nhau .
Trong giai đoạn từ lúc Truyện Kiều ra đời cho đến hết thế kỉ XIX, đã có nhiều bình luận về Truyện Kiều mà cụ thể là các nhân vật trong Truyện Kiều mà trọng tâm là nhân vật Thúy Kiều. Tiêu biểu một số tác gia như: Minh mệnh, Tự Đức, Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Công Trứ, Phạm Quý Thích, Mộng Liên Đường chủ nhân, Phong Tuyết chủ nhân, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến.

Sang giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành tác phẩm thu hút nhiều luồng ý kiến tranh luận sôi nổi và rất gay gắt. Tiêu biểu:

Ở màn thứ nhất, các nhà chí sỹ Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng đứng trên lập trường dân tộc, yêu nước của nhà Nho chân chính, tiếp thu tư tưởng tư sản Tân thư đã phẫn nộ trước phong trào sùng bái do Phạm Quỳnh đề xướng từ năm 1919.
Ở màn thứ hai diễn ra sự đánh giá về giá trị khác nhau của Truyện Kiều giữa những nhà văn, nhà lý luận phê bình của hai phái chủ trương “Nghệ thuật vị nghệ thuật” và “Nghệ thuật vị nhân sinh” trong những năm 1935-1939. Tiêu biểu một số tác gia như: Hải Triều; Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều...

Ở màn thứ ba của cuộc tranh luận Truyện Kiều là vào những năm 1941-1944, đi sâu vào phương pháp nhiên cứu, phân tích Truyện Kiều ở các phương diện khách quan, chủ quan và văn bản nghệ thuật. Tiêu biểu: Nguyễn Bách Khoa qua hai công trình cho in liên tiếp Nguyễn Du và Truyện Kiều (1941), Văn chương Truyện Kiều (1942)...

Nhìn chung lại, qua các màn tranh luận về Truyện Kiều hồi trước cách mạng, đã có một bước tiến trong nhận thức, đánh giá về tác giả và tác phẩm văn học. Mỗi tác giả, với tài năng của mình cũng như với giới hạn của thời đại đã sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị, ghi dấu một giai đoạn lịch sử và đời sống xã hội, góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển văn hóa dân tộc.
Giai đoạn từ cách mạng tháng tám đến nay, việc nghiên cứu đã chuyển sang một khuynh hướng mới mẻ. Việc nghiên cứu Truyện Kiều là việc nghiên cứu trong quan hệ với hiện thục đời sống xã hội theo quan điểm mỹ học mácxít. Tác phẩm văn học được nhìn nhận như là sự phản ánh đời sống xã hội và bộc lộ thái độ của nhà văn đối với hiện thực đó. Tiêu biểu một số tác gia: Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Lê Đình Kỵ, Xuân Diệu, Phan Ngọc...

Trên đây là sự tổng kết ngắn gọn về việc nghiên cứu đánh giá Truyện Kiều qua nhiều giai đoạn khác nhau. Về đề tài mà chúng tôi nghiên cứu, thì ít nhiều cũng có nhiều tác giả đi sâu nhưng vẫn chỉ dừng lại ở một số bài viết và chưa có một công trình cụ thể nào. Trên cơ sở kế thừa và kết hợp với một số nguồn tài liệu tham khảo…, chúng tôi mạnh dạn đi vào công việc nghiên cứu của mình.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng mà chúng tôi nghiên cứu là: Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Phạm vi nghiên cứu: Theo yêu cầu của đề tài, phạm vi khảo sát tìm hiểu của chúng tôi chỉ trong hai đoạn trích tiêu biểu trong Truyện Kiều, đó là: “Kiều ở lầu Ngưng Bích” “Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều”. Và về văn bản, chúng tôi dựa trên văn bản của cuốn Truyện Kiều của NXB Văn học, 2008.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng một số cách tiếp cận sau:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống:
- Phương pháp so sánh - đối chiếu:
- Phương pháp phân tích - chứng minh:
- Phương pháp tổng hợp

5. Cấu trúc đề tài:

Cấu trúc đề tài nghiên cứu này gồm ba phần: Phần mở đầu, Phần nội dung, Phần kết luận. Trong phần nội dung được chia làm hai chương chính:

Chương một: Những vấn đề chung
Chương hai: Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình (trong hai đoạn trích tiêu biểu: “Kiều ở lầu Ngưng Bích” và “Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều”) trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Cuối cùng là tài liệu tham khảo.












NỘI DUNG

Chương một: Những vấn đề chung
1.1. Giải thích thuật ngữ:

Để biểu đạt tư tưởng tình cảm trong văn chương nhà văn thưởng sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật. Trong số đó, tả cảnh ngụ tình (hay còn gọi mượn cảnh tả tình) là một trong những thủ pháp quen thuộc va tiêu biểu. Khi tả cảnh, nhiều khi nhà văn không nhắm hướng người đọc cảm nhận cái đẹp của cảnh mà đích cuối cùng muốn đạt được chính là tình. Cảnh chỉ là cái phông, cái nền cho tình biểu đạt. Sự tổ chức đặc biệt mối quan hệ giữa tình và cảnh tạo nên ý nghĩa lớn ngoài lời, hình thành tính hình tượng mới thể hiện qua các hình ảnh đó, mà mỗi hình ảnh đều đóng vai trò khêu những giá trị lớn hơn nó, bao trùm lên nó. Chỉ xét riêng nền trung đại Việt Nam, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được coi là một thủ pháp chính để bộc lộ cảm xúc tâm trạng.

Lối tả cảnh ngụ tình - đây là lối tả cảnh mang tính cách chủ quan, man mác khắp trong truyện Kiều. Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của nhân vật chính hoặc phụ ẩn chứa trong đó. Nói một cách khác, Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý luôn luôn đem cái cảm xúc của người đối cảnh cho chi phối lên cảnh vật. Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Chính Nguyễn Du đã tự thú nhận sự chủ quan của mình trong lúc tả cảnh qua hai câu thơ:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Trong khuynh hướng này, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du vượt khác hẳn các thi nhân khác, kể cả những thi sĩ Tây Phương, vốn rất thiện nghệ trong lối tả cảnh ngụ tình. Trong khi các thi sĩ này chỉ đi một chiều, nghĩa là chỉ tìm những cảnh vật nào phù hợp với tâm trạng của con người thì mới ghi vào, còn Nguyễn Du thì vừa đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại đồng thời vừa đưa tâm hồn đến với cảnh, tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa cảnh và người, giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai..

Bút pháp của đại thi hào Nguyễn Du được coi là điêu luyện, tuyệt bút trong đó nghệ thuật tả cảnh tả tình được người đời sau khen ngợi "như máu chảy ở đầu ngọn bút" và "thấu nghìn đời"

1.2. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du

1.2.1. Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu. Quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Nguyễn du ra đời trong một gia đình đại quý tộc, có thế lực vào bậc nhất lúc đương thời. Cha là Nguyễn Nghiễm, một người thông minh học rộng biết nhiều, làm quan thương được thăng chức, từng làm quan chức tể tướng trong triều đình
Mẹ là Trần Thị Tần, con gái một ông làm chức câu kê (hế toán), người xã Hoa Thiều, Huyện Đông Ngàn, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh .

Gia đình cũng như dòng họ Nguyễn Du có rất nhiều người làm quan dưới triều Lê- Trịnh và cũng có nhiều người viết sách, làm văn, nghĩa là một gia đình có truyền thống văn học. Ông nội của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh, một nhà triết học chuyên nghiên cứu Kinh Dịch. Cha Nguyễn Du là một sử gia đòng thời là một nhà thơ. Anh trai Nguyễn Du là Nguyễn Khản là một người giỏi thơ Nôm…

Nguyễn Du từ nhỏ nổi tiếng khôi ngô, được tắm mình qua những tiếng hát hò, ví dặm của quê hương mình và quê mẹ cũng nổi tiếng với những làn điệu quan họ - một nét nghệ thuật dân gian mượt mà tha thiết, sâu lắng, tinh tế. Chính những điều này đã thấm sâu vào tâm hồn Nguyễn Du.

Mặc dầu xuất thân từ một gia đình quý tộc, nhưng thời gian sống trong nhung lụa của ông rất ngắn ngủi, năm 12 tuổi mồ côi cha lẫn mẹ phải sống nhờ vào anh trai mình.

Khi lớn lên thì chứng kiến mọi biến động của xã hội Việt Nam những năm nửa cuối thế thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX. Thứ nhất là sự sụp đổ của triều đại Lê – Trịnh đánh dấu bằng sự kiện Nguyễn Huệ lên ngôi vua lập lên triều đại Quang Trung. Và cũng chứng kiến sự sụp đổ của triều đại này và triều đại nhà Nguyễn lên thay thế.

Với những biến động lịch sử này, ít nhiều ảnh hưởng một cách sâu sắc đến Nguyễn Du và các tri thức yêu nước lúc bấy giờ. Một triều đại với ba thời đại nó đã tạo nên những tấm bi kịch trong tư tưởng của ông. Và điều này đã ảnh hưởng không nhỏ trong các sáng tác của ông.

1.2.2. Về sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Các sáng tác của ông nổi trội hơn cả đó chính là thơ ca.

Về tác phẩm chữ Hán: có ba tập thơ chữ Hán, tổng cộng 250 bài:

+ Thanh Hiên thi tập (78 bài);
+ Nam trung tạp ngâm (40 bài);
+ Bắc hành tạp lục (132 bài)

Về tác phẩm chữ Nôm: Nguyễn Du chủ yếu sáng tác bẳng hai thể thơ lục bát và song thất lục bát, gồm: Văn chiêu hồn, Đoạn Trường Tân Thanh và có thể cả các tác phẩm Thác lời trai phường Nón, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu.

1.3. Đôi nét về Truyện Kiều và giới thiệu hai đoạn trích

1.3.1. Truyện Kiều là tên gọi phổ biến của tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh của đại thi hào Nguyễn Du. Tác phẩm này đã đưa Nguyễn Du lên hàng danh nhân văn hoá thế giới. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, truyện được viết ra sau khi ông đi sứ nhà Thanh về và theo lời truyền thì Phạm Quý Thích đã cho khắc in vào khoảng từ năm 1820 đến năm 1825. Bản khắc in đó nay không còn nữa. Tác phẩm này được viết bằng chữ Nôm, gồm 3254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc.

Truyện Kiều là tiểu thuyết viết bằng thơ lục bát. Truyện phản ánh xã hội đương thời thông qua cuộc đời của nhân vật chính Vương Thuý Kiều. Xuyên suốt tác phẩm là chữ "tâm" theo như Nguyễn Du đã tâm niệm "Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu" Ngày nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm văn học Việt Nam được giới thiệu rộng rãi nhất đến với các du khách cũng như các nhà nghiên cứu nước ngoài.

Tổng thể Truyện Kiều gồm có sáu hồi (theo Vũ Đình Long): Kiều gặp Kim Trọng tại hội Đạp Thanh, Kim Kiều gắn bó với nhau trước hiên Lãm Thúy (hồi 1) ; Vương Ông mắc nạn, Kiều bán mình (hồi 2); Kiều ở Thanh Lâu (hồi 3); Dấm chua lại tội bằng ba lửa nồng (hồi 4); Mắc lầu xanh lân thứ hai, Thúy Kiều gặp Từ Hải; Cả nhà đoàn tụ (hồi 6).

1.3.2. Hai đoạn trích: “Kiều ở lầu Ngưng Bích” “Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều” là những phần được trích ra trong truyện. Cụ thể:

“Kiều ở lầu Ngưng Bích” được trích từ Truyện kiều từ dòng 1033 đến dòng 1054, thuộc hồi thứ ba, ở phần thứ hai của truyện: Gia biến và lưu lạc. Khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự tử. Biết Kiều tính khẳng khái, cứng rắn, Tú Bà cho Kiều ở riêng trong lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu khác:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người chén nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ,
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gội rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa của hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ ?
Sân lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Buồn trông của bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng song kêu quanh ghế ngồi.”

Đoạn thơ miêu tả tâm trạng nhiều bề của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích. Sau khi trải qua liên tiếp nhiều tai biến (gia đình mắc oan, bán mình chuộc cha, trao duyên cho em và rơi vào tay Mã Giám Sinh cùng Tú Bà), “Lầu Ngưng Bích” là một khoảng khắc yên thân tạm thời đối với Thúy Kiều. Được Tú Bà hứa không bắt tiếp khách và cho ra ở biệt lập nơi lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều một mình đối diện với cảnh vật thiên nhiên va đối diện với lòng mình trong hoàn cảnh đất khách quê người, trước một tương lai mờ mịt. Một bi kịch trong nội tâm trong chặn đường của số phận đã được thể hiện rõ nét trong đoạn trích này thông qua hình thái ngôn ngữ “tả cảnh ngụ tình” và “ngôn ngữ độc thoại”.

“Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều” được trích từ dòng 1518 đến dòng 1526, thuộc hồi thứ tư. Bị Mã Giám sinh lừa về nhà chứa mụ Tú Bà, Kiều phải sống cuộc đời tiếp khách lầu xanh “Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh”. Đau đớn vì nhân phẩm bị chà đạp, nên khi gặp Thúc sinh, con nhà buôn giàu có, rể của Lại bộ thượng thư, say mê Kiều, nàng nhận lời lấy lẽ của Thúc Sinh và khuyên Thúc Sinh về gặp vợ cả là Hoạn Thư để trình bày sự thật. Đoạn này tả cảnh Thúy Kiều tiễn đưa Thúc sinh về gặp Hoạn thư:

“Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi,
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường !.”

Đoạn thơ nói đến tình ly biệt giữa Thúc Sinh và Thúy Kiều. Thúc Sinh không “tài mạo tót vời” như Kim Trọng và cũng chăng phải anh hùng kiết xuất như Từ Hải, nhưng là một con người đã yêu thương và cứu vớt Thúy Kiều ra khỏi cuộc sống đáng sợ ở lầu xanh Tú Bà. Trải qua nhiều trắc trở, họ đã có một cuộc sống hạnh phúc êm đềm “Từng cau đắng lại mặn mà hơn xưa”
Một cảnh biệt li có kẻ ở, người đi, có chia tay bịn rịn nhưng chủ yếu là sự hòa nhập với con người, giữa tình người và cảnh vật. Nội dung là tình li biệt nhưng hình tượng nghệ thuật là cảnh, tình li biệt, thể hiện cảm hứng sáng tạo về yêu cầu hạn phúc tuổi trẻ.


*​
* *​
Chương hai: Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

(Trong hai đoạn trích tiêu biểu: “Kiều ở lầu Ngưng Bích”​
và “Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều”)

2.1. Tả cảnh gợi tả hoàn cảnh cô đơn, bẽ bàng của con người (Thúy Kiều)
Như trên đã giới thiệu, Thúy Kiều khi bị lưu lạc vào chốn lầu xanh, nàng uất hận định tự tử. Tú Bà sợ mất vốn nên đã nhường bước giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng bích:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ "khóa xuân" đã nói lên điều đó. "Khóa xuân" ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng kiều. Trong hoàn cảnh chua xót đau đớn, nàng cảm thấy:

"Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.


Hình ảnh “ non xa”, “ tấm trăng” như gợi lên cảnh sắc mênh mang trời nước, cảm giác xa vời của núi non, cảm giác cao vút, trơ trọi mênh mông của ánh trăng trên bầu trời. Tất cả tưởng như “gần ở chung”, tất cả tưởng như gần trước mặt.

“Bốn bề bát ngát xa trông
[FONT=&amp],[/FONT]
[FONT=&amp]Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia[/FONT]

Và mở rộng tầm mắt nhìn xuống “bốn bề” thì một không gian càng mở rộng “bát ngát”. Một không gian thoáng đảng của cảnh sắc thiên nhiên bát ngát. Và nhìn xa hơn nữa thì thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Và giữa khung cảnh ấy với một thân phận trơ trọi Thúy Kiều ngồi một mình trong lầu Ngưng Bích. Một mình Nàng trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Câu thơ sáu chữ, chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian: “Bốn bề bát ngát xa trông”. Và rồi:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian cũng như không gian giam hãm con người, sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều thui thủi nơi quê người một thân. Nàng chỉ còn biết làm bạn với “mây sớm đèn khuya”. Nàng rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối.

Một khung cảnh thiên nhiên, một bøc tranh lÇu Ng­ng BÝch cã nh÷ng cån c¸t nhÊp nh«, b¸t ng¸t, nh÷ng bôi s¾c ®á thæi bèc lªn vµ xa xa lµ nh÷ng d·y nói non trïng ®iÖp vµ cã c¶ ¸nh tr¨ng. C¶nh thiªn nhiªn mªng m«ng, v¾ng lÆng, tr¬ träi, rîn ngîp ë lÇu Ng­ng BÝch lµ ®Ó lµm næi bËt t©m tr¹ng, nçi buån, niÒm c« ®¬n buån tñi cña nµng KiÒu.

Cã thÓ nãi bøc tranh tr­íc lÇu Ng­ng BÝch kh«ng cßn ®¬n thuÇn lµ bøc tranh thiªn nhiªn mµ lµ bøc tranh "t©m c¶nh" - Trong c¶nh cã t×nh, trong t×nh cã c¶nh. Thi nh©n x­a ®· tõng nãi:

"C¶nh nµo c¶nh ch¼ng ®eo sÇu,
[FONT=&amp]Ng­êi buån c¶nh cã vui ®©u bao giê?".

[/FONT]
Trong giờ phút mà bên ngoài tưởng như yên tĩnh này thì chính trong lòng nàng Kiều đang ngổn ngang, tăm tối. Tất cả những gì xảy ra trước đó lại được tái hiện, để rồi chỉ còn lại cảm giác đau buồn, nhớ thương vô hạn xoáy sâu vào tâm can nàng.
Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như “bụi hồng” nhỏ bé.

Cả một không gian mênh mông, hoang vắng không một bóng người, không một tiếng chim, càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này. Nàng cảm thấy buồn tủi, chán chường, cảnh thế nào lòng mình thế ấy: “Trống trải, đơn côi”:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nữa tình nữa cảnh như chia tấm lòng”

2.2. Tả cảnh thể hiện tâm trạng nhớ thương

Tiếp theo dòng thời gian trong tâm tưởng trên, trong khung cảnh mênh mông, hoang vắng ấy. Con người kia hiện lên sao cô đơn lẻ loi trơ trọi quá! Nàng lúc này cảm thấy buồn, cảm giác đau buồn khôn nguôi. Nhìn cảnh mà cảnh càng gieo sâu trong lòng ta nỗi buồn hơn. Hơn ai hết, lúc này Kiều cảm thấy cô đơn lắm, nỗi cô đơn sâu thẳm trong tâm hồn Nàng. Và bỗng chốc:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tinh sương luống những rày trông mai chờ.

Nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ đến những lới thề nguyền dưới ánh trăng vằng vặc hôm nào :

Vội mầng làm lễ rước vào,
Dài sen nối sáp, song đào thêm hương.
Tiên thề cùng thảo một trương,
Tóc mây một món, dao vàng chia đôi.
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng, một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Chén hà sánh giọng quỳnh tương,
Dải là hương lộn, bình gương bóng lồng.

Nàng hình dung được nổi sầu muộn, chờ mong của chàng và tự hứa với lòng mình giữ trọn mối tình chung thuỷ. Có lẽ lúc này, nàng thương chàng Kim vô hạn, bởi trước lúc chia li không nói với nhau được một lời, nổi oan gia quá ư đột ngột:

Chân trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Càng nhớ người yêu, nàng càng thấm thía tình cảnh bơ vơ trơ trọi nơi chân trời góc bể của mình, càng nuối tiếc mối tình đầu trong trắng, ngây thơ, càng ý thức sâu sắc chẳng bao giờ có thể “gột rửa” được tấm lòng thuỷ chung son sắt với chàng.

“Trăng thề còn đó trơ trơ,
Dám xa xôi mặt, mà thưa thớt lòng
Ngoài nghìn dặm, chốc ba đông,
Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy”

Với cha mẹ cũng vậy, mặc dầu nàng đã “liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân”, cứu được cha, em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng lúc này nàng vẫn cảm thấy xót xa, cảm thấy chưa xứng là phận làm con. Bởi lúc cha mẹ già yếu, mình không được chăm sóc, không được hầu hạ:
“Xót người tựa của hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Nàng hình dung cha mẹ vẫn sớm hôm tựa cửa ngóng trông tin tức của nàng. Nàng xót thương và da diết không nguôi về nỗi không thể “quạt nồng ấp lạnh”, phụng dưỡng cha mẹ ngày một già yếu. Chỉ bốn câu thơ độc thoại nội tâm, mà tấm lòng hiếu thảo của Kiều đã được Nguyễn Du thể hiện cao đẹp và xúc động biết bao. Nàng nhớ nhà cha mẹ, nhớ đến cả gốc cây tử già trước sân qua bao mùa mưa nắng ...

Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô định. Buồn biết bao khi phải mãi mãi xa cách người yêu. Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà không được phụng dưỡng sớm hôm. Nổi buồn đó đang thức dậy trong lòng Thuý Kiều “Xuân xanh đang tuổi đến tuần cập kê” – một cô thiếu nữ sắc, tài vẹn toàn, vốn đa tình, đa cảm. Một nổi buồn mênh mông như đè nặng, bao quanh lấy nàng. Nhìn vào đâu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nỗi buồn của nàng thì như cố định. Và rồi...

2.3.
Tả cảnh thể hiện tâm trạng buồn đau, âu lo

Hết cái day dứt phụ tình Kim, nàng lại nghĩ đến cái tội phụ công sinh dưỡng, không thể chăm sóc cha mẹ khi về già là một trong những nỗi niềm cứ canh cánh trong Kiều lúc bấy giờ. Và rồi từ những nỗi niềm buồn thương đó, Nguyễn Du đã khéo léo tô thêm màu xám trên ánh nhìn xa xăm của Kiều, đẩy sầu não lên thành đỉnh điểm, qua tám câu khép lại đoạn trích:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”

Tâm trạng buồn nhớ của Kiều giờ đi cả vào ánh mắt. Người buồn thì cảnh cũng buồn. Vẫn là cảnh đó, không gian đó, nhưng đã chất chứa phần nào nỗi lòng Kiều. Khung tranh mở ra ngay thời điểm chiều hôm – là thời điểm quen thuộc của nghệ thuật, của những lưu luyến khó tả. Cửa bể chiều hôm gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày phản chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như niềm lưu luyến tha thiết của Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia. Cửa biển trong ánh chiều tà yếu ớt bao trùm luôn cả những con thuyền căng buồm lộng gió ngoài xa – những con thuyền chở hy vọng của nàng Kiều được một lần tự do ngoài bầu trời rộng mở, vượt khỏi cái tù túng tẻ nhạt nơi lầu son gác tía. Những cánh buồm đều ở rất xa, thoắt ẩn thoắt hiện trong ánh hoàng hôn trĩu buồn, như niềm hy vọng của nàng chỉ là những chấm nhỏ ngoài khơi xa mịt mờ, những từ thấp thoáng, xa xa càng khiến hy vọng nhạt nhòa.

“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Tiếp tới, vẫn là ánh nhìn vào nước, nhưng đã gần hơn. Có lẽ nào Nàng lúc này đã bắt đầu nhượng bộ trước những xa xăm của cuộc đời, nhìn gần để có thêm ít hy vọng, dù nhỏ. Ngờ đâu, cái mà nàng trông thấy còn dữ tợn hơn bội phần. Cánh hoa mỏng manh dập dìu trước ngọn nước từ trên cao đổ xuống. Thử hỏi, cánh hoa mỏng manh ấy làm sao chịu nổi sức nước tràn? Thân phận Kiều cũng vậy, quá bé nhỏ trước dòng đời. Cái man mác trôi của hoa thể hiện thân phận lạc loài, vô định của nàng. Nàng bây giờ cũng như bông hoa kia, không còn người thân bên cạnh, tự nàng phải bước lên những chông gai của cuộc đời.

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.”

Rồi Nàng bắt đầu đảo mắt đến cái sắc xanh nối tiếp của trời và đất. Tuy nhiên, bãi cỏ không mang màu xanh tươi như tiết thanh minh tháng ba, từ láy “rầu rầu” gợi cho ta sự tàn úa đến thảm thương. Xanh trời nối tiếp xanh đất nhưng xanh nào cũng là màu xanh tàn úa, héo hắt. Màu xanh tàn héo ấy khiến “xanh xanh” cả đất trời. Nàng nhìn vào màu xanh mong tìm kiếm chút hy vọng nhỏ nhoi lần nữa, nhưng cũng như những lần trước, Nàng quay đi với nỗi thất vọng ngập tràn. Cảnh buồn hay vì người buồn nên cảnh mới buồn thì không biết, chỉ biết lần này, nàng Kiều đã thật sự tuyệt vọng, chẳng còn đối cảnh nào khiến nàng thấy ý muốn níu kéo của mình là đúng. Mọi thứ đều đưa nàng vào suy nghĩ dằn vặt và đau xót hơn.

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Trong lúc này, Kiều thấy mình dường như chao đảo. Từng ngọn gió mạnh thổi sóng vỗ ầm ầm. Quang cảnh đã thôi yên lặng, mặt biển dậy sóng, lòng Kiều cũng dậy sóng. Những đợt sóng dữ dội như dự báo trước điều bất an, như cảnh báo một tương lai bão táp đang chờ Kiều trước mắt. Người con gái tài sắc trong hoàn cảnh đó đã hoảng loạn vô cùng.

Thời gian như dồn lại, không gian mênh mông, vô bờ - tám dòng thơ cuối này tạo nên bốn khung tranh tâm trạng của nàng Kiều. Mỗi khung tranh là một trạng thái tâm lý khác nhau. Điệp từ “buồn trông” diễn tả cái tăng tiến đến choáng ngợp của từng cung bậc xúc cảm trong Kiều. Nỗi buồn tủi ban đầu đã dồn nghẹn trong lòng thành niềm lo sợ về thân phận lạc loài, cái héo hắt, tuyệt vọng trước thực tại, trào ra thành nỗi hoảng sợ tột độ, hoàn toàn mất phương hướng.

[FONT=&amp]KiÒu ®ang trong t©m tr¹ng buån c« ®¬n tª t¸i nªn nµng nh×n ®©u còng thÊy buån. NguyÔn Du [/FONT]khéo t[FONT=&amp]¶ khung c¶nh thiªn nhiªn xung quanh lÇu Ng­ng BÝch lµ ®Ó t¶ t©m tr¹ng Thuý KiÒu. §©y lµ mét bøc tranh phong phó vµ sinh ®éng vÒ ngo¹i c¶nh vµ t©m c¶nh. Nh­ vËy, b»ng nghÖ thuËt t¶ c¶nh ngô t×nh tµi hoa, ®éc ®¸o, NguyÔn Du ®· kh¾c ho¹ ®­îc mét bøc tranh sinh ®éng vÒ ngo¹i c¶nh vµ t©m c¶nh, trong ®ã næi lªn t©m tr¹ng nµng KiÒu bÒ bén bao nçi buån ®au, chua xãt, lo sî, v« väng...
[/FONT]
2.4. Tả cảnh thể hiện tình biệt li, chia biệt:

Nếu trên là màu sắc của tâm trạng buồn đau, nhớ thương, tuổi hận; thì đến với đoạn trích “Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều” thì màu sắc tâm trạng chuyển sang một hình thái khác nhưng cũng không ngoài sắc thái trên. Cảnh li biệt người ra đi, kẻ ở lại, bịn rịn lưu luyến khiến ai không phải động lòng:

“Người lên ngựa, kẻ chia bào”

Nếu như cuộc chia tay giữa Kiều và Kim Trọng là cuộc chia tay đầy lưu luyến, bất ngờ thì cuộc chia tay giữa Kiều và Thúc sinh lại là cuộc chia tay lặng lẽ và như định trước. Dẫu cho Thúc Sinh không “tài mạo tót vời” như chàng Kim, không “ngang dọc trời đất” như Từ Hải, nhưng cũng là người yêu thương cứu vớt Kiều ra cái cạm hố sâu thẳm trong cuộc đời. Tình yêu của Thúc Sinh đối với Thúy Kiều là thứ tình “trước còn trăng gió, sau ra đá vàng”, bởi vậy nên có sự đằm thắm của riêng, sự gắn bó riêng của nó. Trước cảnh chia ly, ai mà không phải mang:

“Dù cho song gió bất bình,
Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi,
Hơn điều giấu ngược giấu xuôi,
Lại mang những việc tày trời đến sau.
Thương nhau xin nhớ lời nhau,
Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.
Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
Chén mừng xin đợi ngày này năm sau.”

Thực tế có những cuộc chia tay rất thanh thản :

“Anh đi đường anh tôi đi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.”

Nhưng có lẽ chắc không phải là trường hợp của Kiều. Mối tình của Kiều và Thúc tuy mới chớm nhưng cũng gắn bó biết bao ân tình, cho nên nỗi ra đi kẻ ở lại sao mà không lưu luyến, sao mà không nhớ thương. Nhưng nhớ thương lưu luyến thì cũng đến lúc chia tay, thế nên cũng phải:
Người lên ngựa | Kẻ chia bào.

Câu thơ dường như báo trước sự biệt ly vĩnh viễn của Kiều và Thúc sau này. “Người lên ngựa” – Thúc Sinh, ‘Kẻ chia bào”- chính là nàng Kiều. Nàng đứng lặng nhìn theo bóng dáng chàng khuất dần và khuất hẳn. Có lẽ lúc lúc này tâm trạng Kiều sao mà không thể buồn và lo lắng cho được. Cảnh vật xung quanh lúc này cũng như đang cảm thông với nỗi buồn của Kiều “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”:
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.
Dặm hồng bụi chớm chinh an,
Trong người đã khuất mấy ngàn dâu xanh”

Không gian thay đổi liên tục. Đôi mắt nàng Kiều đầu tiên nhìn vào rừng phong bát ngát đang thay lá đỏ mà chuyển sang con đường mà Thúc Sinh vừa đi, con đường ấy giờ đay “bụi hồng” mũ mịt. Ở đây, Kiều không chỉ nhìn thấy màu đỏ của rừng phong, màu hồng của bụi đường mà còn thấy “Màu quan san” – màu của sự xa xôi cách trở, một màu không có thực trong cuộc sống nhưng lại tồn tại trong tâm linh Nàng Kiều lúc này. “Màu quan san” đã cùng với “rừng phong”, “dặm hồng” tạo nên ấn tượng cho cuộc chia ly, buồn nhưng không kém phần trang trọng.

Và rồi, dáng người khuất hẳn trên nẻo đường xa, chỉ thấy “Mấy ngàn dâu xanh”. Màu xanh xanh của “ngàn dâu” đã khuất lấp dáng chàng. Hình ảnh “ngàn dâu xanh” là hình ảnh quen thuộc của văn cổ. Đọc câu thơ này, ta bỗng nhớ đến:

“Cũng trông lại, mà cũng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?”
(Chinh phụ ngâm)

Người đi – Kẻ ở đều quay lại tìm nhau, những nhìn đâu mà chẳng thấy, chỉ thấy xanh ngắt một màu “xanh xanh” – màu của chút ngút ngàn lo lắng, hoang mang trong tâm trí của kẻ ở lại.

Giữa cái màu đỏ bao la của “rừng phong”, của bụi đường, màu xanh ngắt bất ngời hiện ra làm cho cảnh vật trở lại hài hòa, dịu mát. Màu xanh từ xưa đến nay vẫn được xem là màu của hy vọng. Nhưng có lẽ lúc này không còn mang ý nghĩa gì về hy vọng nữa mà chỉ thấy một tâm trạng não nề:

Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.

Mới khi nào đây, cả hai còn sống êm đềm trong cảnh: “hương càng đượm, lửa càng hồng/ Càng sôi vẻ ngọc càng lòng màu sen” thì giờ phải cách xa hỏi Kiều sao không buồn. Nàng một mình đơn côi, chỉ còn “chiếc bóng năm canh” nhưng kẻ ra đi cũng chỉ “muôn dặm một mình” rất có thể gặp rủi ro bất ngờ. Kiều về vừa lo lắng cho Thúc Sinh, vừa lo cho cuộc tình của mình rơi vào cảnh tuyệt vọng để rồi phải nhìn thấy cảnh: “Cuối dòng sông là cửa bể, cuối cuộc tình là khổ đau”. Hai câu thơ đã khắc họa rõ nét nỗi khổ của con người trong ly biệt trong một không gian dàn trải thăm thẳm khôn cùng.
Và rồi nỗi khổ ấy càng tô đậm hơn bằng hình ảnh:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

Ai ? Ai đã nỡ chia cắt vầng trăng vầng trăng, chia cắt cuộc tình tươi đẹp này. Hỏi trời trời chẳng thấu, hỏi đất đất không hay!... Chỉ có Kiều đang buồn khổ ngẩng lên trời và hoảng hốt: "Vầng trăng ai xẻ làm đôi…". Vầng trăng đầu tháng cũng được nhìn qua tâm trạng của nàng Kiều và một linh cảm về một sự chia lìa. Ca dao cũng có câu tương tự:

"Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng?"
Sau này thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng đau đớn thốt lên:​
"Đêm nay còn nửa trăng thôi,
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi.
Ta nhớ người xa thương đứt ruột,
Gió làm nên tội buổi chia phôi."
(Một nửa trăng)

Nỗi đau mất người yêu, xưa nay dường như không khác nhau về tâm trạng. Nỗi đau của Kiều đã thấm vào cảnh, vào thiên nhiên. Vầng trăng ai “xẻ làm đôi” cũng có nghĩa là chia cắt tâm hồn hai kẻ yêu nhau – một thông điệp buồn, một dự cảm không mấy tốt đẹp. Toàn bộ đoạn thơ, thật sự như một bài thi ca cổ điển đầy sắc thái trữ tình, cùng với sắc thái thi ca cổ điển của phong cách đối ngẫu tạo thành bức tranh thiên nhiên đầy biểu cảm, đưa con người vào tận cùng khổ đau.








[FONT=&amp]
[/FONT]
KẾT LUẬN

Truyện Kiều – một ngôi sao khuê trên bầu trời văn học Việt Nam, giá trị của nó để lại cho đời thật lớn lao. Người người mến, yêu thích, thuộc Kiều. Nó giữ một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt. Vì điều gì mà Truyện Kiều có sức cuốn hút như vậy ? Đó chính là ở bản thân của Truyện.

Truyện cuốn hút ta bởi nội dung thật sâu sắc và đầy ý nghĩa nhân văn. Và một trong những điều làm nên thành công ấy, chính là nghệ thuật tả cảnh trong Truyện. Nghệ thuật ấy chẳng khác gì nghệ thuật vẽ một bức tranh thủy mạc, nhiều khi chỉ một mảnh trời, một ánh trăng, một cành liễu, một dòng nước hay một áng mây hoàng hôn ..v..vv. Chỉ thế thôi, nhưng đã lôi cuốn tâm hồn người đọc, như để cùng chung hòa vào cảnh vật.

Một điều thật đặc biệt là Nguyễn Du đã đưa vào cảnh thiên nhiên một “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh của Nguyễn Du mà không khỏi bồi hồi tấc dạ - Đó chính là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Chính bút pháp này, mà truyện đã trở nên hấp dẫn hơn, sâu sắc hơn.

Qua việc tìm hiểu hai đoạn trích trên, ta có thể thấy được với bút pháp nghệ thuật này, Nguyễn Du đã thể hiện nên được tâm trạng của con người thật sâu sắc. Một vẻ đầy ưu tư sầu muộn của nàng Kiều, đó là một sự bẽ bàng, cô đơn lẻ loi trước cảnh vật xung quanh… Cảnh khiến tâm hồn con người càng âu sầu thêm, càng lụy tình thêm. Đứng trước cảnh Kiều đã nghĩ và suy tư rất nhiều về cuộc đời, số phận của mình, về tình yêu, bổn phận…Cảnh vật hùng vĩ, thơ mộng nhưng không thể làm con người khoay khỏa. Cảnh khiến người ta không thể dứt được tình. Cảnh kết hợp với tâm trạng của con người làm cho tâm trạng kéo dài, càng lụy sâu:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Cái lụy, cái sầu ấy đã tạo nên một vẻ đẹp thật đáng trân trọng. Vẻ đẹp ấy vẫn mãi lôi cuốn, cuốn hút biết bao nhiêu thế hệ trẻ. Mọi người, người người điều cảm thông chua xót, điều biết đến Kiều.

Trên đây là bài làm của người viết, mặc dầu có những cố gắng nhất định nhưng không thể không có sai sót. Vì vậy kính mong cô đồng các bạn đọc có những ý kiến nhận xét chủ quan, để giúp cho người viết tự hoàn thiện mình hơn và cố gắng hơn ở những bài làm sau. Và cũng nhân đây, người viết xin chân thành gời lời tri ân đến cô !....




















TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Đặng Thanh Lê (1998), Giảng văn Truyện Kiều, NXB Giáo Dục.
2.Đỗ Đức Hiểu (chủ biên, 2004), Từ điển văn học, NXB Thế giới.
3.Hoài Phương (tuyển chọn, biên soạn, 2005), Truyện Kiều những lời bình, NXB Văn hóa thông tin.
4.Nguyễn Đức Quyền (1999), Bình giảng và bình luận văn học, NXB Giáo dục.
5.Nguyễn Ngọc Thiện (biên soạn, sưu tầm, 2001), Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX – Tập 1, NXB Lao động Hà Nội
6.Nguyễn Đức Hùng, Hương Trà (biên soạn, tuyển chọn, 2003), 150 bài văn hay trung học phổ thông 10, NXB Hải Phòng.
7.Nguyễn Lộc (2005), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ XIX, NXB Giáo dục.
8.Nguyễn Đăng Na (chủ biên, 2007), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam – Tập 2, NXB Đại học Sư phạm.
9.Nguyễn Du (2008), Truyện Kiều, NXB Văn học.
10.Trịnh Bá Đĩnh (2001), Nguyễn Du về tác gia tác phẩm, NXB Giáo Dục.
11.Trần Đình Sử (2007), Thi pháp truyện Kiều,NXB Giáo dục.
12.Vũ Hạnh (1999), Đọc lại Truyện Kiều, NXB Đà Nẵng.









Mục Lục
Trang:
MỞ ĐẦU.............................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu..........................................................................
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:..............................................................
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................
5. Cấu trúc đề tài:...........................................................................................
NỘI DUNG.........................................................................................................
Chương một: Những vấn đề chung......................................................................
1.1. Giải thích thuật ngữ:................................................................................
1.2. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du........................
1.3. Đôi nét về Truyện Kiều và giới thiệu hai đoạn trích.................................
Chương hai: Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (Trong hai đoạn trích tiêu biểu: “Kiều ở lầu Ngưng Bích” và “Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều”).
2.1. Tả cảnh gợi tả hoàn cảnh cô đơn, bẽ bàng của con người (Thúy Kiều).....
2.2. Tả cảnh thể hiện tâm trạng nhớ thương...................................................
2.3. Tả cảnh thể hiện tâm trạng buồn đau, âu lo.............................................
2.4. Tả cảnh thể hiện tình biệt li, chia biệt:.....................................................
KẾT LUẬN.........................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top