Tình huống độc đáo của truyện được bộc lộ ngay trong nhan đề “Vợ nhặt”. Một thứ vợ do nhặt được, nhặt một cách ngẫu nhiên (chứ không phải cưới vợ). Đây là một tình huống vừa kì quặc, vừa oái ăm, vừa vui mừng, vừa bi thảm. Trong lúc mọi người đang đói quay quắt, lo nuôi thân còn chẳng xong mà Tràng lại còn dám “đèo bòng”. Một anh nông dân xấu trai, nghèo xác nghèo xơ, lại là dân ngụ cư (bị khinh bỉ), bỗng nhiên có vợ theo về. Không quen biết, cũng chẳng cần đến ăn hỏi, cheo cưới, chỉ cần có mấy lời tầm phào và vài bát bánh đúc mà có vợ. Cái giá của một con người thật rẻ rúng.
Một trong những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân đó là xây dựng được tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn. Hãy phân tích tình huống của truyện ngắn “Vợ nhặt”.
Bài làm tham khảo
Tình huống độc đáo của truyện được bộc lộ ngay trong nhan đề “Vợ nhặt”. Một thứ vợ do nhặt được, nhặt một cách ngẫu nhiên (chứ không phải cưới vợ). Đây là một tình huống vừa kì quặc, vừa oái ăm, vừa vui mừng, vừa bi thảm. Trong lúc mọi người đang đói quay quắt, lo nuôi thân còn chẳng xong mà Tràng lại còn dám “đèo bòng”. Một anh nông dân xấu trai, nghèo xác nghèo xơ, lại là dân ngụ cư (bị khinh bỉ), bỗng nhiên có vợ theo về. Không quen biết, cũng chẳng cần đến ăn hỏi, cheo cưới, chỉ cần có mấy lời tầm phào và vài bát bánh đúc mà có vợ. Cái giá của một con người thật rẻ rúng.
Tình huống nói trên của truyện đã làm nổi bật một sự thật thê thảm của người nông dân trước Cách mạng. Đó là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Cái sự thực bi thảm đó hắt bóng đen lên từng trang viết, ám ảnh từ đầu đến cuối tác phẩm. Nhà văn Kim Lân, bằng tài năng của mình, đã miêu tả nạn đói có một không hai trong lịch sử dân tộc bằng những chi tiết cụ thể, chân thật, giàu ý nghĩa nghệ thuật.
Cái đói đã tràn vào xóm chợ của những người ngụ cư từ lúc nào, làm đảo lộn cảnh sinh hoạt của xóm nhỏ tồi tàn ấy. Kim Lân đã dựng lên một bức tranh ảm đạm bao trùm lên xóm ngụ cư. Không còn tiếng trẻ con trêu đùa làm cho cái xóm xôn xao lên vào lúc chạng vạng mặt người mỗi buổi chiều khi Tràng đi làm về. Thay vào đó là hình ảnh lũ trẻ con “ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích”. Và trên con đường “khẳng khiu” luồn qua xóm chợ vào trong bến, Tràng cũng không còn vừa đi vừa tủm tỉm cười nữa mà đi “từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tang vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước”. bao quát hơn, nhà văn đã miêu tả những kẻ đói khát, những người hành khất từ những vùng Nam Định, Thái Bình “đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Một không khí chết chóc thê thảm bao trùm lên xóm chợ: “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Kim Lân cứ từ tốn, lặng lẽ miêu tả, vậy mà những dòng chữ của ông có sức tố cáo mãnh liệt. Tội ác tày trời ấy chính là do giặc Pháp, giặc Nhật, một mặt thi nhau vơ vét thóc gạo, mặt khác lại bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh.
Nạn đói khủng khiếp năm 1945, qua ngòi bút Kim Lân, còn ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và số phận của mỗi con người. Cái đó đã đẩy những người dân lao động bình thường, cực chẳng đã, phải từ bỏ lòng tự trọng và danh dự vốn có của mình. Người đàn bà là vợ theo Tràng hiện lên như một con ma đói: “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Chua xót hơn nữa, chuyện tỏ tình giờ đây chỉ còn trơ trọi là một câu chuyện sà vào miếng ăn. Chỉ có bốn bát bánh đúc mà theo không một anh chàng xấu trai, gặp tầm phơ tầm phào ở giữa đường. Chỉ có hai hào dầu thắp tối chuẩn bị cho đêm tân hôn mà đã được gọi là “sang”, là “hoang” phí lắm lắm. Ngay cả đến bữa cơm đầu tiên sau ngay có nàng dâu cũng thật thê thảm: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo”. “Niêu cháo lõng bõng, một người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn”. Cực chẳng đã, bà mẹ chồng đành phải thiết nàng dâu cái món cháo cám mà bà gọi là “chè khoán”. “Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người”.
Người đàn bà đói khát bỗng dưng có nơi nương tựa, và Tràng bỗng nhiên mà có vợ - trong cảnh ngộ cụ thể của họ - là một niềm vui, niềm hạnh phúc. Thế nhưng, cái đói và cái chết vẫn bám riết, đe dọa niềm vui và niềm hạnh phúc quá đỗi mong manh của vợ chồng Tràng. Không khí thê lương, ảm đạm, chết chóc như vẫn bao phủ căn nhà tuềnh toàng của họ: “ Mùi đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng và khét lẹt”. “Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai khóc hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”. Và “trong đêm khuya tiếng hờ tỉ tê nghe càng rõ”.
Miêu tả cảnh nhặt vợ diễn ra âm thầm, buồn tủi, thiên truyện ngắn này đã làm nổi bật số phận bi thảm của người nông dân trước Cách mạng. Lấy vợ, lấy chồng là một sự kiện vui mừng lớn lao trong đời mỗi con người, nhưng trong trường hợp của Tràng, niềm vui đó diễn ra dưới sự rình rập đe dọa của cái nghèo, cái đói.
Song, giá trị nhân bản của “Vợ nhặt” không chỉ nằm ở lời kết tội đanh thép giặc Pháp và Nhật. Qua ngòi bút của Kim Lân, những con người đói khát đến mức gần kề cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, khao khát tổ ấm gia đình, vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau và không bao giờ cạn kiệt niềm tin vào tương lai, hy vọng. Người đàn bà đói rách sở dĩ tự nguyện theo không Tràng, một phần vì tìm thấy ở anh một cử chỉ hào hiệp: sẵn lòng cho một người xa lạ một miếng ăn giữa lúc người chết đói như ngả rạ. Và chính Tràng cũng không ngờ người đàn bà lại theo mình một cách dễ dàng như vậy. “Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị nói thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gọa này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi sau một cái “tặc lưỡi”, Tràng đã đánh đổi tất cả để có được một người vợ, có được hạnh phúc. Cái quyết định có vẻ liều lĩnh ấy nói lên rằng, từ trong sâu thẳm của tiềm thức, con người vẫn khao khát hạnh phúc, bất chấp sự đe dọa của cái đói, cái chết. Niềm khao khát đầy tính nhân bản ấy là trường tồn, là bất diệt, và chính nhờ nó mà con người mãi mãi tồn tại trên cõi đời này.
( Sưu tầm )
Một trong những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân đó là xây dựng được tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn. Hãy phân tích tình huống của truyện ngắn “Vợ nhặt”.
Bài làm tham khảo
Những người cầm bút quan niệm rằng tình huống truyện là hạt nhân của thể loại truyện ngắn. Nó là một lát cắt của đời sống nhưng nhìn vào lát cắt đó, người ta thấy được cả xã hội con người. Hay nói một cách khác, tình huống truyện là một sự kiện, hoàn cảnh đặc biệt mà ở đó tính cách nhân vật, tư tưởng nhà văn được bộc lộ rõ nét.Tình huống độc đáo của truyện được bộc lộ ngay trong nhan đề “Vợ nhặt”. Một thứ vợ do nhặt được, nhặt một cách ngẫu nhiên (chứ không phải cưới vợ). Đây là một tình huống vừa kì quặc, vừa oái ăm, vừa vui mừng, vừa bi thảm. Trong lúc mọi người đang đói quay quắt, lo nuôi thân còn chẳng xong mà Tràng lại còn dám “đèo bòng”. Một anh nông dân xấu trai, nghèo xác nghèo xơ, lại là dân ngụ cư (bị khinh bỉ), bỗng nhiên có vợ theo về. Không quen biết, cũng chẳng cần đến ăn hỏi, cheo cưới, chỉ cần có mấy lời tầm phào và vài bát bánh đúc mà có vợ. Cái giá của một con người thật rẻ rúng.
Tình huống nói trên của truyện đã làm nổi bật một sự thật thê thảm của người nông dân trước Cách mạng. Đó là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Cái sự thực bi thảm đó hắt bóng đen lên từng trang viết, ám ảnh từ đầu đến cuối tác phẩm. Nhà văn Kim Lân, bằng tài năng của mình, đã miêu tả nạn đói có một không hai trong lịch sử dân tộc bằng những chi tiết cụ thể, chân thật, giàu ý nghĩa nghệ thuật.
Cái đói đã tràn vào xóm chợ của những người ngụ cư từ lúc nào, làm đảo lộn cảnh sinh hoạt của xóm nhỏ tồi tàn ấy. Kim Lân đã dựng lên một bức tranh ảm đạm bao trùm lên xóm ngụ cư. Không còn tiếng trẻ con trêu đùa làm cho cái xóm xôn xao lên vào lúc chạng vạng mặt người mỗi buổi chiều khi Tràng đi làm về. Thay vào đó là hình ảnh lũ trẻ con “ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích”. Và trên con đường “khẳng khiu” luồn qua xóm chợ vào trong bến, Tràng cũng không còn vừa đi vừa tủm tỉm cười nữa mà đi “từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tang vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước”. bao quát hơn, nhà văn đã miêu tả những kẻ đói khát, những người hành khất từ những vùng Nam Định, Thái Bình “đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Một không khí chết chóc thê thảm bao trùm lên xóm chợ: “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Kim Lân cứ từ tốn, lặng lẽ miêu tả, vậy mà những dòng chữ của ông có sức tố cáo mãnh liệt. Tội ác tày trời ấy chính là do giặc Pháp, giặc Nhật, một mặt thi nhau vơ vét thóc gạo, mặt khác lại bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh.
Nạn đói khủng khiếp năm 1945, qua ngòi bút Kim Lân, còn ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và số phận của mỗi con người. Cái đó đã đẩy những người dân lao động bình thường, cực chẳng đã, phải từ bỏ lòng tự trọng và danh dự vốn có của mình. Người đàn bà là vợ theo Tràng hiện lên như một con ma đói: “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Chua xót hơn nữa, chuyện tỏ tình giờ đây chỉ còn trơ trọi là một câu chuyện sà vào miếng ăn. Chỉ có bốn bát bánh đúc mà theo không một anh chàng xấu trai, gặp tầm phơ tầm phào ở giữa đường. Chỉ có hai hào dầu thắp tối chuẩn bị cho đêm tân hôn mà đã được gọi là “sang”, là “hoang” phí lắm lắm. Ngay cả đến bữa cơm đầu tiên sau ngay có nàng dâu cũng thật thê thảm: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo”. “Niêu cháo lõng bõng, một người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn”. Cực chẳng đã, bà mẹ chồng đành phải thiết nàng dâu cái món cháo cám mà bà gọi là “chè khoán”. “Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người”.
Người đàn bà đói khát bỗng dưng có nơi nương tựa, và Tràng bỗng nhiên mà có vợ - trong cảnh ngộ cụ thể của họ - là một niềm vui, niềm hạnh phúc. Thế nhưng, cái đói và cái chết vẫn bám riết, đe dọa niềm vui và niềm hạnh phúc quá đỗi mong manh của vợ chồng Tràng. Không khí thê lương, ảm đạm, chết chóc như vẫn bao phủ căn nhà tuềnh toàng của họ: “ Mùi đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng và khét lẹt”. “Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai khóc hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”. Và “trong đêm khuya tiếng hờ tỉ tê nghe càng rõ”.
Miêu tả cảnh nhặt vợ diễn ra âm thầm, buồn tủi, thiên truyện ngắn này đã làm nổi bật số phận bi thảm của người nông dân trước Cách mạng. Lấy vợ, lấy chồng là một sự kiện vui mừng lớn lao trong đời mỗi con người, nhưng trong trường hợp của Tràng, niềm vui đó diễn ra dưới sự rình rập đe dọa của cái nghèo, cái đói.
Song, giá trị nhân bản của “Vợ nhặt” không chỉ nằm ở lời kết tội đanh thép giặc Pháp và Nhật. Qua ngòi bút của Kim Lân, những con người đói khát đến mức gần kề cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, khao khát tổ ấm gia đình, vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau và không bao giờ cạn kiệt niềm tin vào tương lai, hy vọng. Người đàn bà đói rách sở dĩ tự nguyện theo không Tràng, một phần vì tìm thấy ở anh một cử chỉ hào hiệp: sẵn lòng cho một người xa lạ một miếng ăn giữa lúc người chết đói như ngả rạ. Và chính Tràng cũng không ngờ người đàn bà lại theo mình một cách dễ dàng như vậy. “Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị nói thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gọa này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi sau một cái “tặc lưỡi”, Tràng đã đánh đổi tất cả để có được một người vợ, có được hạnh phúc. Cái quyết định có vẻ liều lĩnh ấy nói lên rằng, từ trong sâu thẳm của tiềm thức, con người vẫn khao khát hạnh phúc, bất chấp sự đe dọa của cái đói, cái chết. Niềm khao khát đầy tính nhân bản ấy là trường tồn, là bất diệt, và chính nhờ nó mà con người mãi mãi tồn tại trên cõi đời này.
( Sưu tầm )
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: